Tiểu luận khái luận - Tư tưởng Hồ Chí Minh | Trường Đại học Khánh Hòa

Tiểu luận khái luận - Tư tưởng Hồ Chí Minh | Trường Đại học Khánh Hòa được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Trường:

Đại học Khánh Hòa 399 tài liệu

Thông tin:
181 trang 5 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Tiểu luận khái luận - Tư tưởng Hồ Chí Minh | Trường Đại học Khánh Hòa

Tiểu luận khái luận - Tư tưởng Hồ Chí Minh | Trường Đại học Khánh Hòa được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

26 13 lượt tải Tải xuống
CHƯƠNG 1
KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC
--------
1. TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
1.1. Triết học và đối tượng nghiên cứu của triết học
1.1.1. Quan niệm về triết học
Triết học ra đời vào khoảng thời gian từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI (Tr.CN), phát
triển rực rỡ ở các nền triết học Hi Lạp, Trung Quốc, Ấn Độ cổ đại.
Theo tiếng Hán, thuật ngữ “triết” ( ) nghĩa “trí”, “có trí tuệ” (kết hợp gồm
chữ thủ, đao, khẩu) với ý nghĩa: Triết học không phải sự tả bngoài sự truy
tìm bản chất của đối tượng, giống như bàn tay của con người dùng búa phanh phui sự
vật ra để miệng nói về những cái đang ẩn náu bên trong sự vật ấy, “trí” dùng để chỉ s
hiểu biết, nhận thức sâu rộng về vũ trụ và nhân sinh.
Theo tiếng Ấn Độ, thuật ngữ “triết” (Darshana) có nghĩa là “chiêm ngưỡng”, mang
hàm ý tri thức phải dựa trên trí, con đường suy ngẫm dẫn dắt con người đến với lẽ
phải, thấu đạt được chân lý về vũ trụ và nhân sinh.
phương Tây, theo gốc tiếng Hy Lạp cổ đại, triết học “philosophia”, từ này
được ghép bởi “philos” (yêu thích) “sophia” (sự thông thái). Triết học được hiểu với
nghĩa là “yêu mến sự thông thái”, nhà triết học được coi là những nhà thông thái, nhà tư
tưởng khả năng nhận thức làm sáng tỏ bản chất của sự vật hiện tượng. Triết
học được xem hình thức cao nhất của tri thức, vừa mang tính định hướng vừa nhấn
mạnh đến đến khát vọng tìm kiếm chân lý của con người
Như vậy, trước triết học Mác - Lênin, phương Đông hay phương Tây đều
chung quan niệm coi triết học đỉnh cao của trí tuệ, sự nhận thức sâu sắc về thế giới,
nắm bắt được chân lý, hiểu biết được bản chất của sự vật và hiện tượng. Triết học được
hiểu , một hình thái ý thức hội, một bộ phận của kiến trúc thượng tầng hội
trình độ khái quát và tư duy trừu tượng cao.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: Triết học một hình thái ý thức
hội đặc thù, là học thuyết chung nhất về tồn tại và nhận thức, là khoa học về những quy
luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, hội duy. Hiểu khái
quát nhất thì Triết học hệ thống tri thức luận chung nhất của con người thế
giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy.
1
1.1.2. Nguồn gốc ra đời của triết học
Triết học ra đời từ thực tiễn, do nhu cầu của thực tiễn bắt nguồn từ nguồn gốc
nhận thức và nguồn gốc xã hội.
- Nguồn gốc nhận thức: Con người do hoạt động thực tiễn đòi hỏi phải tìm hiểu về
thế giới xung quanh mình, về chính suy nghĩ hành động của mình. Sự tích lũy tri
thức trên nhiều lĩnh vực đòi hỏi phải sự tổng kết, thống nhất chúng thành một hệ
thống. Điều đó đòi hỏi phải sự phát triển nhất định của năng lực duy trừu tượng
hóa và khái quát hóa để đáp ứng nhu cầu phát triển tri thức nói trên.
- Nguồn gốc hội: Trong xã hội sự phân chia thành giai cấp, từ đó xuất hiện
sự sự phân công lao động, giữa lao động trí óc lao động chân tay. Chỉ khi đó trong
hội mới xuất hiện một lớp người chuyên hoạt động trên lĩnh vực tinh thần để tạo ra
hệ thống tri thức này hay hệ thống tri thức khác thì triết học mới ra đời. Triết học ra đời
trong xã hội có giai cấp, vì vậy, triết học luôn mang tính giai cấp.
Giữa nguồn gốc nhận thứcnguồn gốchội có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
đối với sự ra đời của triết học, sự phân chia thành nguồn gốc nhận thức nguồn gốc
xã hội chỉ mang tính tương đối.
1.1.3. Đối tượng của triết học: Đối tượng nghiên cứu của triết học thay đổi theo
quá trình phát triển của nó, cụ thể:
- Thời kỳ cổ đại phương Tây: triết học được gọi “triết học của tự nhiên”, bao
gồm toàn bộ tri thức của nhân loại. Giai đoạn này coi triết học “khoa học của mọi
khoa học”, là “khoa học đứng trên mọi khoa học”. Bởi thời kỳ này tất cả các khoa học
khác đều gộp chung vào triết học, chưa tách ra thành các khoa học chuyên ngành. Do
đó, triết học vẫn chưa có đối tượng nghiên cứu cụ thể đối tượng nghiên cứu của
vẫn nằm trong các khoa học khác.
- Thời kỳ trung cổ: do sự thống trị của nhà thờ và tôn giáo nên quyền lực của giáo
hội bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, triết học là một bộ phận của thần học, là
“nô lệ” của thần học. Thời kỳ này cũng vẫn chưa xác định được đối tượng nghiên cứu
của triết học, triết học chỉ nhiệm vụ chứng minh sự đúng đắn của Kinh Thánh,
luận giải thuyết phục người ta tin vào Chúa trời, triết học tự nhiên được thay thế
bằng triết học kinh viện.
- Thế kỷ XV - XVI: cùng với sự phát triển của các môn khoa học tự nhiên sự
phục hồi tưởng triết học duy vật cổ đại. Triết học dần dần thoát khỏi tôn giáo, thần
2
học các khoa học cụ thể, phát triển thành các bộ phận riêng biệt với các học thuyết
về bản thể luận, trụ luận, tri thức luận, nhận thức luận, logic học, mỹ học, đạo đức
học...
- Thế kỷ XVII - XVIII: triết học duy vật dựa trên sở tri thức của khoa học tự
nhiên thực nghiệm đã phát triển nhanh chóng đóng vai trò tích cực trong cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo.
- sự phát triển của các khoa học cụ thể và thành tựuThế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX:
đạt được đã làm phá sản tham vọng của các nhà triết học muốn biến triết học
thành “khoa học của mọi khoa học”, Hêghen nhà triết học cuối cùng mang tham
vọng triết học là “khoa học của mọi khoa học”.
- Thời kỳ triết học Mác - Lênin: triết học Mác - Lênin đã đoạn tuyệt với quan niệm
sai lầm khi coi triết học “khoa học của mọi khoa học”; triết học Mác - Lênin đã xác
định đúng đắn đối tượng, chức năng, nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu của mình; đặt
sở khoa học cho các môn khoa học cụ thể phát triển. Với cách một khoa học,
đối tượng nghiên cứu của triết học Mác - Lênin nghiên cứu những quy luật chung nhất
của tự nhiên, xã hội và tư duy.
1.2. Vấn đề cơ bản của triết học
1.2.1. Vấn đề cơ bản của triết học
Tất cả các học thuyết triết học trong sự phát triển của mình đều phải luận giải
những câu hỏi đặt ra là: thế giới tồn tại bên ngoài đầu óc con người có quan hệ thế nào
với thế giới tinh thần tồn tại bên trong đầu óc con người? Tư duy của con người có khả
năng hiểu biết tồn tại thực của thế giới hay không?
vậy, theo Ph. Ănghen: Vấn đề bản lớn của mọi triết học, nhất triết học
hiện đại, vấn đề quan hệ giữa duy tồn tại hay giữa vật chất ý thức, giữa
giới tự nhiên tinh thần. Đây vấn đề sở, nền tảng, xuyên suốt mọi học thuyết
triết học trong lịch sử, quyết định sự tồn tại phát triển của triết học. Kết quả và thái
độ giải quyết vấn đề bản của triết học quyết định sự hình thành thế giới quan
phương pháp luận của các triết gia, xác định bản chất của các trường phái triết học. Giải
quyết vấn đề cơ bản của triết học còn sởđiểm xuất phát đgiải quyết các vấn
đề khác của triết học, đồng thời quyết định cách xem xét các vấn đề khác trong đời
sống xã hội.
3
Vấn đề bản gồm hai mặt: trả lời câu hỏi: giữa vật chất ý thức,mặt thứ nhất
(tồn tại duy, giới tự nhiên tinh thần) cái nào trước, cái nào sau, cái nào
quyết định cái nào? trả lời câu hỏi: con người có khả năng nhận thức đượcMặt thứ hai
thế giới hay không?
Tùy theo cách trả lời khác nhau triết học phân chia thành nhiều trường phái
(trào lưu, học thuyết, hệ thống...) khác nhau, trong đó hai khuynh hướng cơ bản của
triết học là . chủ nghĩa duy vật chủ nghĩa duy tâm
1.2.2. Chủ nghĩa duy vật và các hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật
Đặc điểm của chủ nghĩa duy vật: khẳng định vật chất trước, ý thức sau; thế
giới vật chất tồn tại một cách khách quan, độc lập với ý thức con người và không do ai
sáng tạo ra; ý thứcsự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người; không thể
có tinh thần, ý thức nếu không có vật chất.
Các hình thức bản của chủ nghĩa duy vật: chủ nghĩa duy vật phát triển qua ba
giai đoạn, thời kỳ khác nhau, nên ba hình thức khác nhau: Chủ nghĩa duy vật chất
phác thời cổ đại; chủ nghĩa duy vật máy móc, siêu hình thế kỷ XVII - XVIII chủ
nghĩa duy vật biện chứng (chủ nghĩa Mác - Lênin).
Nguồn gốc xã hộinhận thức của chủ nghĩa duy vật: thường có mối liên hệ chặt
chẽ với các lực lượng hội, các giai cấp tiến bộ, cách mạng luôn gắn với sự
phát triển của khoa học và bám sát thực tiễn xã hội.
1.2.3. Chủ nghĩa duy tâm và các hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy tâm
Đặc điểm của chủ nghĩa duy tâm: khẳng định ý thức, tinh thần có trước và là cơ sở
cho sự tồn tại của giới tự nhiên, vật chất.
Các hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy tâm: chủ nghĩa duy tâm xuất hiện ngay từ
thời cổ đại và tồn tại dưới hai hình thức chủ yếu chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ
nghĩa duy tâm khách quan.
Chủ nghĩa khách quan: cho rằng có một thực thể tinh thần (“lý tính thế giới”, “tinh
thần tuyệt đối”, “ý niệm tuyệt đối”...) cái trước thế giới vật chất, tồn tại bên
ngoài con người và độc lập với con người, sản sinh ra và quyết định tất cả quá trình vật
chất của thế giới. Đại biểu tiêu biểu của chủ nghĩa duy tâm khách quan là: Platôn,
Hêghen...
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: cho rằng cảm giác, ý thức của con người cái
trước quyết định sự tồn tại của mọi sự vật, hiện tượng bên ngoài. Các svật, hiện
4
tượng chỉ là “phức hợp của cảm giác”. Do phủ nhận sự tồn tại của thế giới khách quan,
chủ nghĩa duy tâm chủ quan phủ nhận luôn cả tính quy luật của các sự vật, hiện tượng,
tất yếu họ rơi vào chủ nghĩa duy ngã. Đại biểu tiêu biểu của chủ nghĩa duy tâm chủ
quan là: G. Bécơli, D. Hium, G. Phíchtơ...
Nguồn gốchội và nhận thức của chủ nghĩa duy tâm: thường có mối liên hệ với
các lực lượng hội, các giai cấp phản tiến bộ, bảo thủ gắn với thần học, tôn giáo.
Nguồn gốc nhận thức của tuyệt đối hóa một mặt của quá trình nhận thức, tách ý
thức ra khỏi thế giới vật chất.
1.2.4. Con đường thứ ba của triết học
Giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề bản của triết học các quan điểm khác
nhau: (thừa nhận một thực thể, hoặc vật chất hoặc ý thức); nhất nguyên luận nhị
nguyên luận (thừa nhận cả hai thực thể là vật chất và ý thức cùng tồn tại song song); đa
nguyên luận (cho rằng vạn vật do số thực thể độc lập cấu thành). Xét cho cùng
quan điểm nhị nguyên luận, đa nguyên luận đều không triệt để giải quyết mặt thứ nhất
vấn đề cơ bản của triết học. Do đó, thường rơi vào chủ nghĩa duy tâm.
Giải quyết mặt thứ hai của vấn đ bản của triết học, đa số các nhà triết học
trong đó bao gồm cả chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm đều khẳng định con người
khả năng nhận thức được thế giới (thuộc trường phái thể biết - ).khả tri luận”
Các nhà triết học duy vật tìm sở của sự đồng nhất vật chất, còn các nhà triết học
duy tâm tìm cơ sở ở ý thức, tinh thần. Một số ít nhà triết học cho rằng con người không
thể hiểu biết thế giới (thuộc trường phái không thể biết - ). Thuyết“bất khả tri luận”
không thể biết bị phê phán gay gắt bởi chính thực tiễn đời sống hội và sự phát triển
của khoa học đã bác bỏ học thuyết này một cách triệt để nhất.
1.3. Chức năng cơ bản của triết học
1.3.1. Chức năng thế giới quan
Khái niệm thế giới quan: Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm về thế giới và
về vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó.
Nội dung của thế giới quan: con người đứng trước thế giới thường phải giải
những câu hỏi như: Bản chất thế giới là gì? Thế giới tồn tại thực hay không hay chỉ
là ảo ảnh của con người? Con người là gì? Con người có vai trò như thế nào đối với thế
giới? Ý nghĩa cuộc sống của con người là ở chỗ nào?...
5
Trả lời những câu hỏi trên sẽ hình thành mỗi nhân những quan điểm những
quan điểm riêng về thế giới cũng như vai trò của con người với thế giới, đó chức
năng thế giới quan của triết học.
Vai trò của triết học đối với việc hình thành thế giới quan:
Triết học ra đời làm cho quan niệm của con người về thế giới có cơ sở lý luận.
vậy, thể nói triết học sở cho thế giới quan, chỗ dựa về mặt luận cho việc
giải thích thế giới. Thế giới quan khoa học là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực,
trình độ phát triển của thế giới quan là tiêu chí quan trọng trong việc đánh giá sự trưởng
thành của cá nhân cũng như một cộng đồng xã hội.
Thế giới quan duy vật biện chứng vai trò đặc biệt quan trọng, nhân tố định
hướng cho con người nhận thức đúng đắn về thế giới hiện thực. Là “thấu kính” triết học
để con người xem xét, nhận dạng thế giới, xét đoán mọi sự vật, hiện tượng và xem xét
chính mình. Thế giới quan duy vật biện chứng còn giúp con người hình thành quan
điểm khoa học định hướng mọi hoạt động. Từ đó, giúp con người xác định thái độ
và cách thức hoạt động của mình.
Giữa thế giới quan và phương pháp luận trong triết học có sự thống nhất hữu cơ. Ở
mức độ nào đó, thế giới quan cũng chính là phương pháp luận.
Thế giới quan duy vật biện chứng nâng cao vai trò tích cực, sáng tạo của con
người. Thế giới quan đúng đắn chính là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực, trình
độ phát triển về thế giới quan tiêu chí quan trọng của sự trưởng thành nhân cũng
như cộng đồng xã hội nhất định.
1.3.2. Chức năng phương pháp luận
Khái niệm phương pháp luận: Phương pháp luận hệ thống những quan điểm,
những nguyên tắc xuất phát, những cách thức chung để thực hiện hoạt động nhận thức
thực tiễn. Phương pháp luận còn được hiểu “lý luận về hệ thống phương pháp,
hệ thống các quan điểm chỉ đạo việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn vận dụng các
phương pháp”.
Vai trò của phương pháp luận:
Phương pháp luận một bộ phận không thể thiếu trong nghiên cứu khoa học.
Theo phạm vi, phương pháp luận được chia thành ba cấp độ: phương pháp luận ngành
(phương pháp luận bộ môn - phương pháp luận của một ngành khoa học cụ thể),
phương pháp luận chung (phương pháp luận dùng chung cho một số ngành khoa học)
6
. Phương pháp luận chung nhất phương pháp luậnphương pháp luận chung nhất
được dùng làm điểm xuất phát cho việc xác định phương pháp luận chung, các phương
pháp luận ngành và các phương pháp hoạt động khác của con người.
Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế giới và vai trò của
con người trong thế giới đó, với đối tượng nghiên cứu là những quy luật chung nhất của
tự nhiên, xã hội và tư duy, triết học thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất.
Trong hoạt động nhận thức thực tiễn, không được tuyệt đối hóa hoặc xem
thường phương pháp luận triết học. Bởi lẽ, nếu tuyệt đối hóa vai tcủa phương pháp
luận triết học sẽ rơi vào chủ nghĩa giáo điều dễ bị vấp váp, thất bại. Ngược lại, nếu
xem thường phương pháp luận triết học sẽ rơi vào tình trạng mẫm, dễ mất phương
hướng, thiếu tính chủ động và sáng tạo.
2. SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN TƯỞNG TRIẾT HỌC TRONG
LỊCH SỬ
2.1. Những vấn đề tính quy luật của sự hình thành, phát triển tưởng
triết học trong lịch sử
Một là, lịch sử triết học có hai đặc điểm về tính quy luật: tính quy luật phản ánh và
tính quy luật giao lưu. Tính quy luật phản ánh của lịch sử triết học được khái quát từ các
điều kiện kinh tế - xã hội, sự phát triển của văn hóa và khoa học trong các giai đoạn lịch
sử khác nhau. Tính quy luật giao lưu bao gồm giao lưu đồng loại (giao lưu theo lịch đại
và giao lưu theo đồng đại) và giao lưu khác loại (giao lưu giữa triết học và các hình thái
ý thức xã hội khác).
Hai là, sự hình thành, phát triển của các tưởng, trào lưu triết học phụ thuộc vào
điều kiện kinh tế - xã hộivà nhu cầu phát triển của thực tiễn xã hội. Sự phát triển của tư
tưởng triết học trong lịch sử nhân loại phụ thuộc vào tồn tại xã hội, mà trước hết là phụ
thuộc vào sự phát triển của nền sản xuất vật chất. tưởng, quan điểm triết học phản
ánh nhu cầu phát triển của chính thực tiễn xã hội, do đó nó phụ thuộc vào thực tiễn cuộc
đấu tranh giai cấp, đấu tranh chính trị - hội trong lịch sử. Triết học chỉ xuất hiện khi
điều kiện kinh tế - hộiphát triển, khi xã hộisự phân công thành lao động trí óc
lao động chân tay, có sự phân chia và đối kháng giai cấp.
Ba là, sự hình thành, phát triển của các tưởng, trào lưu triết học phụ thuộc vào
sự phát triển của khoa học tự nhiên khoa họchội. Sự phát triển của khoa học vừa
sở, vừa điều kiện cho triết học phát triển. Ngược lại, sự phát triển của triết học
7
vừa kết quả, vừa sở cho sự phát triển của các khoa học. Với tính cách một
khoa học, sự phát triển của triết học tất yếu phải dựa vào sự phát triển của khoa học.
Mặt khác, triết học lại có vai trò không thể thiếu đối với sự phát triển của các khoa học
cụ thể. Thực tiễn cho thấy, điều kiện kinh tế - hộivà trình độ phát triển khoa học
yếu tố xét đến cùng quyết định nội dung các học thuyết triết học trong chừng mực
nào đó quyết định cả hình thức thể hiện tư tưởng triết học.
Bốn là, sự hình thành, phát triển của các tư tưởng, trào lưu triết học phụ thuộc vào
cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng triết học cơ bản - chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật chủ nghĩa duy tâm vấn đề mang
tính quy luật nội tại, xuyên suốt, quyết định trực tiếp đến sự phát triển của triết học
trong lịch sử. Nói cách khác, quá trình phát triển của triết học trong lịch sử đồng thời
quá trình đấu tranh liên tục giữa chủ nghĩa duy vật chủ nghĩa duy tâm, giữa khoa học
tôn giáo. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử
đồng thời một cuộc giao lưu, tác động giữa các trường phái, môn phái triết học với
nhau. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật chủ nghĩa duy tâm cuộc đấu tranh
giữa hai mặt đối lập bản trong nội dung tưởng triết học nhân loại, thông qua đó,
triết học của mỗi thời đại sự phát triển mang tính độc lập tương đối so với sự phát
triển của điều kiện kinh tế - xã hội, chính trị, văn hóakhoa học. Cuộc đấu tranh giữa
chủ nghĩa duy vật chủ nghĩa duy tâm làm cho mỗi hệ thống triết học thể “vượt
trước” hoặc “thụt lùi” so với điều kiện vật chất của thời đại đó.
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật chủ nghĩa duy tâm tạo thành động lực
bên trong lớn nhất, là bản chất,“sợi chỉ đỏ” xuyên suốt toàn bộ lịch sử tư tưởng triết
học.
Năm là, sự hình thành, phát triển của các tư tưởng, trào lưu triết học phụ thuộc vào
cuộc đấu tranh giữa hai phương pháp nhận thức trong lịch sử phương pháp biện
chứng phương pháp siêu hình. Sự phát triển của lịch s triết học chính sự phát
triển của trình độ nhận thức, của phương pháp duy nhân loại, thông qua cuộc đấu
tranh giữa phương pháp biện chứng phương pháp siêu hình. Đây cũng chính sự
đấu tranh giữa các mặt đối lập, tạo ra động lực bên trong trong sự phát triển tưởng
triết học của nhân loại. Cuộc đấu tranh giữa phương pháp biện chứng siêu hình gắn
liền với cuộc đấu tranh giữa thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm trong lịch sử
triết học.
8
Sáu là, sự hình thành, phát triển của các tư tưởng, trào lưu triết học nhân loại phụ
thuộc vào sự kế thừa các tưởng triết học trong tiến trình lịch sử. Trong sự phát triển
của tư tưởng, trào lưu triết học của nhân loại luôn mang tính kế thừa. Đây quy luật
giao lưu tư tưởng triết học theo chiều dọc của tiến trình lịch sử, là phương thức tái tạo tư
tưởng để qua đó triết học không ngừng phát triển.
Triết học của mỗi thời đại vừa dựa vào tài liệu lịch sử của triết học các thời đại
trước, lấy đó làm tiền đề, điểm xuất phát cho hệ thống triết học của mình. Mặt khác, tư
tưởng triết học của thời đại trước sẽ được chọn lọc, bổ sung phát triển phù hợp với
điều kiện lịch sử hiện tại. Đây chính là sự phủ định biện chứng, bao gồm kế thừacải
tạo phê phán, nói cách khác, quá trình phát triển của các trường phái, hệ thống triết
học trong lịch sử luôn có sự kế thừa biện chứng.
Bảy là, sự hình thành, phát triển của các tưởng, trào lưu triết học phụ thuộc
vào sự liên hệ, ảnh hưởng, kế thừa, kết hợp giữa các học thuyết triết học của các dân
tộc, quốc gia trên thế giới. tưởng triết học của nhân loại không phải đơn thuần
tổng số các hệ thống triết học hình thành trong lịch sử. Các trường phái và hệ thống triết
học từng quốc gia, từng khu vực không phải độc lập tách rời nhau chịu
ảnh hưởng và tác động qua lại lẫn nhau. Đây chính là quy luật về sự giao lưu cùng loại,
cùng thời đại lịch sử của các tư tưởng triết học trong lịch sử.
Tám là, sự hình thành, phát triển của các tưởng, trào lưu triết học phụ thuộc
vào mối quan hệ với các hình thái tưởng chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo,
nghệ thuật... Đây quy luật về sự giao lưu khác loại, giao lưu giữa hình thái ý thức
triết học với các hình thái ý thức xã hội khác, đồng thời cũng chính là biểu hiện tính độc
lập tương đối của ý thức hội, trong đó các hình thái ý thức hội mối liên hệ
tác động qua lại lẫn nhau.
Các hình thái ý thức hội như chính trị, pháp quyền, đạo đức, khoa học, tôn
giáo, nghệ thuật...luôn ảnh hưởng đến nội dung của tưởng triết học; mặt khác,
tưởng triết học lại là cơ sởluận của ý thức chính trị, pháp quyền, đạo đức, khoa học,
tôn giáo, nghệ thuật...Nhờ sự giao lưu đồng loại và khác loại mà một dân tộc có trình độ
phát triển không cao nhưng vẫn thể trình độ phát triển của triết học vượt xa dân
tộc khác.
2.2. Sự ra đời và phát triển của triết học phương Đông
2.2.1. Quan niệm về triết học phương Đông
9
“Triết học phương Đông” là khái niệm dùng để chỉ nền triết học của các quốc gia-
khu vực ngoài phương Tây, chủ yếu các quốc gia châu Á, kế thừa các truyền thống
lớn bắt nguồn từ Ấn Độ và Trung Quốc thời kỳ cổ đại.
quan niệm cho rằng, triết học phương Đông không các học thuyết lớn
nghiên cứu về bản thể luận, trụ luận, tri thức luận nhận thức luận. vậy,
phương Đông không có triết học, hoặc nếu có thì cũng chỉ là những triết lý không có hệ
thống sở khoa học. Quan niệm này những hạn chế lịch sử của nó, nghiên cứu
lịch sử triết học phương Đông sẽ hiểu rõ vấn đề này.
2.2.2. Đặc điểm của triết học phương Đông
Một là, triết học phương Đông xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử, khi xuất hiện đều
lấy con người . Triếtcác vấn đề liên quan đến con người làm đối tượng nghiên cứu
học Trung Quốc nghiên cứu sâu các vấn đề chính trị, hội, đạo đức luân lý; triết
học Ấn Độ lại đi sâu nghiên cứu các vấn đề tôn giáo và tâm linh.
Hai là thế giới quan duy tâm, thế giới quan bao trùm của triết học phương Đông là .
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật chủ nghĩa duy tâm diễn ra nhưng không
phổ biến. Trong cuộc đấu tranh này, chủ nghĩa duy vật chỉ những yếu tố chống lại cả
một hệ thống là chủ nghĩa duy tâm.
Ba , sự phân chia niên đại, thời kỳ của triết học phương Đông không theo hình
thái kinh tế - hộimà chủ yếu theo các triều đại phong kiến gắn liền với sự tồn tại,
phát triển và suy tàn của các triều đại phong kiến.
Bốn là, khuynh hướng chung của triết học phương Đông là hướng nội, các nhà triết
học thường xuất phát từ nhân sinh quan để giải thích thế giới quan, xuất phát từ thực
tiễn hội để giải thích các hiện tượng tự nhiên, sự biến đổi của trụ thế giới bên
ngoài.
Năm , nét nổi bật của triết học phương Đông mang tính đại chúng tính nhân
dân. Triết học phương Đông thường gắn với văn hóa dân gian, sản phẩm mang tính
tập thể hơn nhân. Triết lý nhân sinh duy triết học đều rất cụ thể, không cầu
kỳ, dài dòng, không lý luận nhiều nhưng lại bền vững, thiết thực, có giá trị chỉ đạo hành
động cao.
Sáu là, triết học Ấn Độ hướng trọng tâm vào nghiên cứu, luận giải các vấn đề nhân
sinh dưới giác độ tôn giáo tâm linh, xu hướng chung của triết học Ấn Độ “hướng
10
nội”; tư duy triết học Ấn Độ có tính khái quát và trừu tượng cao; tính giai cấp, chiến đấu
và phê phán trong triết học Ấn Độ là khá rõ ràng nhưng không triệt để.
Bảy là, triết học Trung Quốc thuộc loại hình triết học chính trị -hội, mang đậm
tính nhân văn, nhân đạo; trong quá trình phát triển, triết học Trung Quốc đều hướng vào
giải quyết các vấn đề chính trị - xã hội, đạo đức và luân lí, lấy con người, lợi ích của con
người hội loài người làm trung tâm; duy của hầu hết các trường phái triết học
Trung Quốc đều rất cụ thể, có nhiều yếu tố dân sinh, trực quan tâm linh, luôn hướng vào
giải quyết các vấn đề thường nhật bức thiết đang xảy ra; cuộc đấu tranh giữa chủ
nghĩa duy vật chủ nghĩa duy tâm trong triết học Trung Quốc không thực sự nổi bật,
thế giới quan duy tâm, tôn giáo bao trùm triết học Trung Quốc cổ, trung đại.
2.2.3. Triết học Ấn Độ cổ, trung đại
2.2.3.1. Hoàn cảnh ra đời của triết học Ấn Độ cổ, trung đại
* Điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - hộivà tiền đề khoa học - văn hóa đối
với sự ra đời của triết học Ấn Độ cổ, trung đại
Ấn Độ một bán đảo lớn, một “tiểu lục địa” nằm miền nam châu Á, phía Tây
Nam và Đông Nam giáp Ấn Độ Dương, phía Bắc là dãy Hymalaya hùng vĩ án ngữ theo
một vòng cung dài 2.600km. Điều kiện thiên nhiên khí hậu của Ấn Độ rất phức tạp.
Địa hình vừa có nhiều núi non trùng điệp, vừa có nhiều sông ngòi với những vùng đồng
bằng trù phú. Có vùng khí hậu nóng, ẩm, mưa nhiều, có vùng lạnh giá, quanh năm tuyết
phủ, lại cũng những vùng sa mạc khô cằn, nóng nực. Tính đa dạng, khắc nghiệt của
điều kiện tự nhiên và khí hậu là những thế lực tự nhiên đè nặng lên đời sống và ghi dấu
ấn đậm nét trong tâm trí người Ấn Độ cổ đại. Sự phát triển của xã hội Ấn Độ cổ, trung
đại được chia thành ba thời kỳ: thời kỳ văn minh sông Ấn (xuất hiện vào khoảng giữa
thiên niên kỷ III - II tr.CN); thời kỳ Vêda (khoảng từ thế kỷ XV - VII tr.CN) thời kỳ
từ thế kỷ VI - I trc.CN.
Tiền đề khoa học văn hóa, ngay tthời Vêda, thiên văn học Ấn Độ đã bắt đầu
xuất hiện. Người Ấn Độ cổ đã biết sáng tạo ra lịch pháp, phỏng đoán trái đất hình cầu
và tự quay quanh trục của nó. Cuối thế kỷ V tr.CN, người Ấn Độ đã giải thích được hiện
tượng nhật thực và nguyệt thực. Về toán học, họ đã phát minh ra chữ số thập phân, tính
được trị số pi, biết được những định luật bản về quan hệ giữa cạnh đường huyền
của một tam giác vuông, biết giải phương trình bậc 2, 3...Nền y học Ấn Độ từ rất
sớm. Ngay trong kinh Vêda, người ta đã tìm thấy nhiều tên cây làm thuốc nhiều
11
phương pháp trị bệnh đơn giản. Vào thế kỷ V tr.CN, Shursada đã viết sách trình bày
thuật chữa bệnh ngoại khoa, bảo trợ thai, vệ sinh hài nhi, phương pháp dưỡng sinh, tiêu
độc...Trong nghệ thuật kiến trúc, người Ấn Độ đã có một phong cách kiến trúc độc đáo,
tinh tế, đặc biệt là lối xây dựng chùa chiền, tháp Phật theo kiểu hình tháp vừa có ý nghĩa
triết học, tôn giáo, vừa biểu hiện ý chí, vương quyền.
* Đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ, trung đại
Thứ nhất, triết học Ấn Độ cổ, trung đại phát triển rất phong phú nhưng không
mang tính cách mạng; các nhà triết học thường kế tục không gạt bỏ hệ thống triết
học có trước, không đặt cho mình nhiệm vụ phải sáng tạo ra một hệ thống triết học mới.
Điều đó phản ánh sự trì trệ của xã hội Ấn Độ cổ, trung đại.
Thứ hai, triết học Ấn Độ cổ, trung đại gắnchặt chẽ với tôn giáo, trên sở tín
ngưỡng tôn giáo hình thành nên các hệ thống triết học - tôn giáo.
Thứ ba, các hệ thống triết học - tôn giáo Ấn Độ cổ, trung đại đều quan tâm tới
vấn đề nhân sinh quan, đặc biệt là vấn đề luân hồi, nghiệp báo.
2.2.3.2. Sự hình thành và phát triển của tư tưởng triết học Ấn Độ cổ, trung đại
Lịch sử phát sinh phát triển của triết học Ấn Độ cổ, trung đại được chia thành
hai thời kỳ: thời kỳ Véda (khoảng cuối thiên niên kỷ II - VII tr.CN) và thời kỳ Phật giáo,
Bàlamôn giáo (từ thế kỷ VI - I tr.CN).
* Triết học thời kỳ Véda
Kinh Véđa là những bộ kinh cổ nhất của ấn độ và của nhân loại. Đó là một bộ sách
thu lượm tất cả những câu ca dao, vịnh phú, những tư tưởng, quan điểm, những tập tục,
lễ nghi...của nhiều bộ lạc người Arya.
Chữ Véđa bắt nguồn từ căn tự “vid”, nghĩa đen “tri thức”, “hiểu biết”. cũng
được dùng chung với nghĩa là “thánh kinh”, là “sự sáng suốt cao nhất”. Có thể nói Véda
là một tác phẩm tổng hợp, có tính hỗn hợp và có nhiều cách phân chia.
* Giai đoạn từ khoảng 2000 năm tr.CN đến thế kỷ VIII tr.CN
Rig - Véda: Rig có nghĩa là “tán ca”, tán tụng Véda. Đây là bộ kinh cổ nhất của nền
văn hoá Ấn Độ, bao gồm 1.017 bài, sau được bổ sung thêm 11 bài dùng để cầu nguyện,
chúc tụng công đức của các vị thánh thần.
Sama - Véda: Tri thức về các giai điệu ca chầu khi hành lễ, gồm 1.549 bài.
Yajur - Véda: Tri thức về các lời khấn tế, những công thức, nghi lễ khấn bái trong
hiến tế.
12
Atharva - Véda: Tách riêng với bộ ba trên, gồm 731 bài văn vầnnhững lời khấn
bái mang tính bùa chú, ma thuật, pphép nhằm đem lại những điều tốt lành cho bản
thân và người thân, gây tai họa cho kẻ thù.
Nhìn chung trong các tập Véda thời kỳ này tập trung phản ánh ước vọng của người
dân thường như mong mưa thuận gió hòa, mong thức ăn, gia súc...; đồng thời
phản ánh một tín ngưỡng ma thuật đa thần giáo, chưa những khái quát triết học.
Tuy nhiên qua các tập Véda đã thể hiện sự phát triển của duy trừu tượng trong đó
người ta đã thừa nhận một nguyên trụ với sức mạnh hạn, biểu hiện ra trong
thiên nhiên, trong tinh thần và các nghi lễ.
* Giai đoạn từ thế kỷ VIII tr. CN đến thế kỷ V tr.CN
Brahmana (gọi Phạn chí hay kinh Bàlamôn): gồm những bài cầu nguyện, giải
thích các nghi lễ của Véđa.
Aranyaka: Nghĩa suy tưởng trong rừng - kinh rừng, giải thích ý nghĩa huyền
của những nghi lễ Véđa và phát hiện những ý nghĩa tượng trưng cao siêu của Véđa.
Kinh Upanishad: những kinh sách bình chú tôn giáo - triết học, gồm 200 bài
kinh giải thích ý nghĩa triếtsâu xa của nhữngtưởng thần thoại, tôn giáo Véđa.
thể hiện một tinh thần mới giải phóng ý thức khỏi sự ràng buộc của nghi lễ bàn
đến những vấn đề có ý nghĩa triết học thực sự.
* Tư tưởng triết học trong kinh Upanishad
Đây một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh Véđa, được biên soạn
qua nhiều thế kỷ (khoảng từ thế kỷ X đến thế kỷ V tr.CN) bởi các tông phái, các đạo
trong những hoàn cảnh và địa phương khác nhau.
Khái niệm Upanishad nghĩa ngồi trang nghiêm cùng giảng giải thuyết cao
siêu, huyền với thầy (“shad” nghĩa “ngồi”; “upa” nghĩa “gần”; “ni” nghĩa
“trang nghiêm”). Upanishad không phải là một tác phẩm trình bày có hệ thống, chặt chẽ
những quan điểm của một trường phái triết học, được viết dưới hình thức hội thoại
giữa thầy và trò. Sự xuất hiện của Upanishad được coi “bước nhảy” hoàn toàn từ thế
giới quan thần thoại, tôn giáo sang duy triết học. tưởng triết học bản của
Upanishad có thể khái quát như sau:
Thế giới quan: Upanishad đã đưa ra cách giải thích duy tâm về nguồn gốc của thế
giới, coi Brahman - “Tinh thần trụ tối cao” - thực thể duy nhất, trước nhất, tồn
tại vĩnh viễn, bất diệt, cái từ đó tất cả thế giới này đều nảy sinh ra nhập về với
13
sau khi chết. Atman - Linh hồn con người chỉsự biểu hiện, là một bộ phận của “Tinh
thần vũ trụ tối cao”. Cơ thể con người chỉ là vỏ bọc của linh hồn, là nơi trú ngụ của linh
hồn, là hiện thân của “Tinh thần vũ trụ tối cao” tuyệt đối, bất tử Brahman. Vì toàn bộ vũ
trụ là Brahman nên về bản chất linh hồn là đồng nhất với “Linh hồn tối cao”.
Nhận thức luận: Upanishad phân sự nhận thức của con người thành hai trình độ
khác nhau hạ trí (aparâ - vidây) thượng trí (parâ - vidây). Hạ trí tri thức phản
ánh những sự vật, hiện tượng riêng lẻ, hình tướng, danh sắc đa dạng của hiện thực
gồm các tri thức khoa học thực nghiệm, các ngành nghệ thuật. Thượng trí trình độ
vượt qua tất cả thế giới hiện tượng hữu hình, hữu hạn, thường xuyên biến đổi để nhận
thức một thực tại tuyệt đối, duy nhất, bất diệt (aksara), thường hằng, hình bản
chất của tất cả những cái đang tồn tại (Brahman). Tuy nhiên, hạ trí cũng vai trò
công dụng của nó đối với nhận thức,phương tiện cần thiết để đưa con người tới hiểu
biết thượng trí.
Nhân sinh quan: Upanishad bàn tới vấn đề “luân hồi”, “nghiệp báo”. Atman
“linh hồn” tồn tại trong thể xác con người trần tục nên ý thức con người lầm tưởng rằng
“linh hồn” đó khác với “linh hồn trụ” bất tử. Những cảm giác, ham muốn dục vọng
hành động của con người nhằm thỏa mãn những ham muốn đó trong đời sống trần
tục đã gây ra những hậu quả, gieo đau khổ kiếp này cả kiếp sau, gọi “nghiệp
báo” (Karma). Do vậy, linh hồn bất tcứ bị giam hãm vào hết thể xác này đến thể xác
khác, b che lấp, ràng buộc bởi thế giới hiện tượng như ảo ảnh, gọi sự “luân hồi”
(Samsara), không nhận ra và không trở về đồng nhất với chân bản của mình là Brahman
được.
Muốn giải thoát linh hồn bất tử khỏi vòng vây hãm của luân hồi, nghiệp báo để đạt
tới đồng nhất với “Tinh thần trụ tối cao” tuyệt đối thì con người phải dốc lòng toàn
tâm tu luyện hành động và tu luyện tri thức. Bằng nhận thức trực giác, thực nghiệm tâm
linh, con người mới nhận ra chân bản của mình, khi đó linh hồn bất tử mới đồng nhất
được với “linh hồn vũ trụ tối cao” và bắt đầu “siêu thoát” (moksa).
2.2.3.3.Các trường phái triết học (chính thống không chính thống) trong triết
học Ấn Độ cổ, trung đại:
* Các trường phái chính thống
- Trường phái Samkhya (Số luận)
14
Trường phái Samkhya bắt nguồn từ tư tưởng triết học ở nhiều tác phẩm rất cổ xưa.
luận về bản nguyên trụ tưởng triết học trung tâm của trường phái này.
Những nhà tư tưởng của phái Samkhya kỳ đã bộc lộ những tư tưởng có tính duy vật
ít nhiều biện chứng về bản nguyên hiện hữu. Họ đưa ra học thuyết về sự tồn tại của
kết quả trong nguyên nhân trước khi xuất hiện học thuyết về sự chuyển hóa thực
tế của nguyên nhân trong kết quả. Họ cho rằng loại nào nguyên nhân của loại ấy:
“Trồng Sali được Sali, trồng Vrihi được Vrihi”.
Quan niệm về sự hình thành sự vật: họ cho rằng nếu vạn vật của thế giới này là vật
chất thì yếu tố tạo nên vạn vật với tính cách là nguyên nhân cũng phải là vật chất; đó là
“vật chất đầu tiên” (Prakriti - một dạng vật chất không thể dùng cảm giác mà có thể biết
được). Thế giới vật chất thể thống nhất của ba yếu tố: Sattva (nhẹ, sáng, vui tươi);
Rajas (kích thích, động); Tamas (nặng, ỳ). Khi ba yếu tố trên trạng thái cân bằng thì
Prakriti ở trạng thái chưa biểu hiện - tức là trạng thái không thể trực quan được. Nhưng
khi sự cân bằng bị phá vỡ thì đó là điểm khởi đầu của sự sinh thành vạn vật của trụ.
Các nhà tưởng của phái Samkhya hậu kỳ lại khuynh hướng nhị nguyên luận khi
thừa nhận sự tồn tại song song của hai yếu tố đầu tiên là vật chất (Prakriti) tinh thần
(Purusa). Yếu tố tinh thần (Purusa) mang tính phổ quát vĩnh hằng và bất biến, nó truyền
sinh khí, năng lượng biến hóa vào yếu tố vật chất. con người, khi tinh thần chiếu
rọi vào Sattva thì sinh ra trí tuệ; khi tinh thần chiếu rọi vào Rajas thì sinh ra vận động;
khi tinh thần chiếu rọi vào Tamas thì sinh ra hình thể.
Về bản chất con người: Samkhya cho rằng con ngườisự ý thức về mình. Chính
vậy họ nảy sinh ra những lo lắng, ham muốn hành động để đạt đến cái “tôi”.
Do đó tinh thần con người không thoát ra được, luôn bị chìm đắm trong vòng luân hồi,
khổ não. Muốn giải thoát, con người phải dùng phương pháp Yoga.
- Trường phái Mimansa
Kinh điển của triết học Mimansa “Mimansa - Sutra”, một đại biểu lớn của
trường phái này là Sabara, người viết chú giải cho “Mimansa - Sutra”. Các nhà triết học
Mimansa dựa vào tưởng triết học tôn giáo của Véda, nhưng coi Véda như các tập
công thức hay thần chú về nghi lễ. Mimansa sơ kỳ không thừa nhận sự tồn tại của thần.
Theo Sabara thì chúng ta thiếu chứng cứ về sự tồn tại của thần và cảm giác không nhận
thức được thần. Nhưng cảm giác lại được coi nguồn gốc của mọi tri thức khác. Phái
Mimansa không phản đối việc coi thần linh như cái tên hay âm thanh cần thiết cho các
15
câu thần chú của nghi lễ. Nghi lễ không phải là hành động khẩn cầu, sùng bái thần linh,
nghi lễ tự sức mạnh, thể đưa lại hiệu quả. Họ hiểu nghi lễ như một hành
động ma thuật. Tuy nhiên, tinh thần duy vật thần của phái Mimansa không được
tiếp tục phát triển. Những nhà triết học Mimansa hậu kỳ đã thừa nhận sự tồn tại của
thần.
Về nguồn gốc thế giới: Mimansa có quan điểm duy vật cho rằng thế giới được sinh
ra từ các nguyên tử (Anu).
Nhân sinh quan: Mimansa coi đời ngườikhổ vấn đề đặt raphải thoát khỏi
nỗi khổ ấy. Họ chủ trương thoát khổ bằng cách duy trì các nghi lễ, đặc biệt lễ “hiến
sinh”. Họ cho rằng cần phải biết kết hợp lòng tin kiến thức để đạt đến giải thoát.
hai con đường để tạo kiến thức bằng giác quan bằng suy luận. Khi giải quyết mối
quan hệ giữa tinh thần với thể xác, họ lại đứng trên lập trường duy tâm khi coi tinh thần
tồn tại mãi mãi, còn thể xác thì mất đi.
- Trường phái Vêdanta
Các nhà tưởng Vêdanta hệ thống các tưởng của Upanishad - tác phẩm được
coi là kết thúc của Véda (Vêdanta nghĩa là “kết thúc Véda”). Tác phẩm Brahman- Sutra
được coi kinh điển của Vêdanta, nhưng nội dung không ràng, khá hồ nên
nhiều cách giải thích khác nhau. Cách luận giải ảnh hưởng lớn nhất “thuyết
Vêdanta nhất nguyên”. Đó triết học nhất nguyên luận duy tâm chủ quan cho rằng chỉ
Brahman (ý thức thuần túy tồn tại duy nhất), Brahman lại được đồng nhất với
cái “tôi” (Atman). Thế giới vật chất không tồn tại hiện thực, hình ảnh của chỉ ảo
ảnh do “Vô minh” sinh ra. Đại biểu cho thuyết nàySankara, người viết chú giải cho
Brahman - Sutra.
Các phái Vêdanta sau này lại giải thích Brahman - Sutra theo quan điểm hữu thần,
hay duy tâm khách quan. Họ coi Brahman là linh hồn trụ, vĩnh hằng; còn Atman
linh hồn cá thể, một bộ phận của linh hồn tối cao, tưc Thượng đế Brahman.
- Trường phái Yoga
Yoga xuất hiện rất sớm (khoảng thế kỷ II tr.CN). Tư tưởng cốt lõi của họ là sự thừa
nhận nguyên hợp nhất trụ. Trường phái Yoga đã kết hợp tưởng triết học của
phái Samkhya với sự thừa nhận sự tồn tại của thần (Yoga = Samkhya + Thượng đế).
Nhưng sự thừa nhận Thượng đế của phái Yoga không có ý nghĩa nhiều về mặt triết học.
tưởng về Thượng đế không ăn nhập với hệ thống Yoga. Thượng đế hay thần chỉ
16
một loại linh hồn không khác mấy với linh hồn thể. vậy, bằng phương pháp
luyện tập tu luyện nhất định, con người thể điều khiển tự làm chủ được bản
thân mình, tiến đến làm chủ được vạn vật cao hơn nữa đạt tới sự “giải thoát”, “tự
do tuyệt đối”.
Yoga còn phương pháp dưỡng sinh được xây dựng trên sở nhận thức về thế
giới và con người. Nó cho rằng cuộc đời con người chỉ là ảo ảnh, không có thực và luôn
thay đổi. Hình thể con người được coi là cái vỏ và không tồn tại vĩnh hằng. Nó sẽ bị mất
đi chỉ còn lại linh hồn (Atman) tồn tại. Linh hồn con người một bộ phận của
Brahman nên nó phải thoát ra khỏi cái vỏ của mình (tức hình thể) để nhập với Brahman,
làm cho con người siêu thoát. Yoga đưa ra 8 phương pháp đthoát ra khỏi thể xác là:
cấm chế (Yama - giữ các điều cấm kị, bao gồm ngũ giới: sát sinh, đạo, vọng ngữ,
dâm, của riêng); (Niyama - thanh tịnh trong học tập kinh điển); khuyến chế tọa pháp
(Anasa - giữ vị trí thân thể đúng đắn); c (Pranayama - giữ hơi thở đều, sâu, nhịpđiều tứ
nhàng); (Pratyahara - điều khiển cảm giác sao cho lúc ngồi thiền giác quanchế cảm
được thoải mái); (Dharana - tập trung tưởng); (Dhyana - giữ tâmchấp trì thiền định
thống nhất); (Samadhi- đưa tâm đến hư không, chứng được cảnhđẳng trì hay tam muội
giới sán lạn). Phương pháp tu luyện này sẽ sản sinh ra những năng lượng lớn mà những
người bình thường không đạt được. Nhiều phái cho rằng, nếu thực hiện các phương
pháp Yoga thì sẽ có sức mạnh siêu nhiên.
- Trường phái Nyaya - Vaisesika
Đây là hai trường phái khác nhau nhưng có những quan điểm triết học tương đồng,
nhất vào giai đoạn hậu kỳ. Đại biểu cho phái NyayaGantana, tác giả của “Nyaya-
sutra”. Đại biểu cho phái Vaisesika là Kananda, tác giả của “Vaisesika- Sutra”. Tư tưởng
triết học bản của hai phái này học thuyết nguyên tử, luận nhận thức logic
học.
Thuyết nguyên tử: bên cạnh việc thừa nhận sự tồn tại của nguyên tử, phái này còn
cho rằng sự tồn tại của những linh hồn những trạng thái phụ thuộc hoặc ngoài
những nguyên tử vật chất, gọi là Ya mà đặc tính của nó được thể hiện ra như ước vọng,
ý chí, vui, buồn, giận hờn...Để thấu triệt nguyên thống nhất của những cái hiện hữu,
hai phái này đã tìm đến lực lượng thứ ba mang tính chất siêu nhiên, giữ vai trò phối
hợp, điều phối sự tác động của các linh hồn giải thoát ra khỏi các nguyên tử.
17
Nhận thức luận lôgic học: Hai phái này đã những tư tưởng duy vật đã
những đóng góp vào luận nhận thức như: thừa nhận sự tồn tại khách quan của đối
tượng nhận thức; đề cao vai trò của kinh nghiệm trong nhận thức...Theo họ nhận thức
thể tin cậy, cũng thể không đáng tin cậy. Nhận thức tin cậy sự phản ánh
không nghi ngờ và trung thành với hình ảnh của đối tượng. Có bốn hình thức nhận thức
không đáp ứng được yêu cầu đó được coi không đáng tin cậy, ức, nghi ngờ,
sai lầm mới giả thiết, chưa chứng cứ chắc chắn. Vì vậy, cần phải kiểm tra tính
đúng sai của nhận thức một cách thực tế. Nhận thức là đúng đắn khi nó phù hợp với bản
chất của đối tượng và ngược lại. Họ cho rằng thực tiễn là thước đo duy nhất để kiểm tra
nhận thức. Ví dụ: Nước do ảo ảnh giả không giải khát được, còn nước trong hồ
thật vì có thể giải khát được.
Thuyết biện luận của phái Nyaya đóng góp quan trọng về lôgic hình thức. Họ
đưa ra hình thức biện luận gọi “Ngũ đoạn luận” gồm năm mệnh đề: : Đồiluận đề
lửa cháy - : Vì đồi bốc khói - : khói thì lửa, giống ntrongnguyên nhân dụ
bếp - : Đồi bốc khói thì không thể không lửa cháy - : Do đó đồisuy đoán kết luận
có lửa cháy.
Các phái này ban đầu tưởng thần đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm
triết học. Song giai đoạn cuối, họ lại thừa nhận thần cho rằng thần đã dùng
nguyên tử để tạo nên thế giới. hai phái này quy toàn bộ tính đa dạng của tồn tại vào
bốn yếu tố vật chất: đất, nước, lửa, gió (hay không khí). Những yếu tố này lại được quy
vào bản nguyên duy nhất, đầu tiên những hạt nhỏ vật chất không đồng nhất, bất biến
vĩnh hằng, được phân biệt chất lượng, khối lượng hình dạng, tồn tại trong một
môi trường đặc biệt, trong không gian và thời gian, được gọi là nguyên tử (Anu).
* Các trường phái triết học không chính thống
- Trường phái triết học Lokayata
Học thuyết về tồn tại: Lokayata cho rằng tất cả mọi sự vật hiện tượng trong
trụ đều do bốn nguyên tố đất, nước, lửa không khí cấu thành. Chúng có khả năng tự
tồn tại, tự vận động trong không gian để tạo thành vạn vật, kể cả con người. Tương ứng
với bốn nguyên t bốn nguyên tử đất, nước, lửa không khí tồn tại ngay t đầu,
không thay đổi và không thể tiêu diệt được. Mọi đặc tính của các vật thể đều phụ thuộc
vào chỗ chúng là kết hợp của các nguyên tử nào, vào số lượng tỷ lệ kết hợp của các
18
nguyên tử. Ý thức, tính các giác quan cũng xuất hiện do sự kết hợp của các
nguyên tử và sẽ mất đi khi sự kết hợp đó bị tan rã.
Về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức: Lokayata giải thích trên quan điểm duy vật
thô sơ, mộc mạc. Theo họ, ý thức thuộc tính cố hữu của cơ thể; rời khỏi nhục thể thì
người ta không thể ý thức. Khi con người chết đi, thể xác tan ra thì ý thức về “cái
tôi” cũng hết.
Về nhận thức luận và lôgic học: Lokayata mang tính chất duy cảm, thừa nhận cảm
giác là nguồn gốc duy nhất xác thực của nhận thức. Chỉ có cái gì cảm giác biết được thì
mới tồn tại. Các giác quan có thể tri giác được sự vật bởi vì bản thân các giác quan cũng
gồm các nguyên tố giống như các sự vật. Theo họ, suy lý, kết luận hay những chứng
minh của kinh Véđa đều những phương pháp sai lầm của nhận thức. Từ đó, họ phủ
nhận sự tồn tại của Thượng đế, linh hồn.
Về đạo đức học: Lokayata phê phán những thuyết tuyên truyền cho sự chấm dứt
khổ đau bằng cách kiềm chế mọi ham muốn, dục vọng hy vọng cuộc sống tốt đẹp
thế giới bên kia sau khi chết. Họ chủ trương hãy để cho mọi người sống, hoạt động,
hưởng thụ tất cả mọi thứ trong cuộc đời nên đạo đức học của họ được gọi là “chủ nghĩa
khoái lạc”.
- Triết học Phật giáo
Phật giáo một trường phái triết học - tôn giáo xuất hiện vào khoảng cuối thế k
VI tr.CN ở miền bắc Ấn Độ, vùng biên giới giữa Ấn Độ và Nêpan hiện nay. Đạo Phật ra
đời trong làn sóng phản đối sự ngự trị của đạo Bàlamôn và chế độ đẳng cấp, lý giải căn
nguyên nỗi khổ và tìm con đường giải thoát con người khỏi nỗi khổ.
Người sáng lập Đạo Phật Thích Ca Mâu Ni (8 tháng 4 năm 563 tr.CN mất
năm 483 tr. CN) có tên thật là Siddharha (Tất Đạt Đa) họ Gautama (Cù Đàm), là con
trai đầu của vua Suddhodana (Tịnh Phạn) dòng họ Sakya, kinh đô thành
Kapilavatthu (Ca - tỳ - la - vệ). Năm 29 tuổi, ông từ bỏ cuộc sống vương giả đi tu luyện
tìm con đường diệt trừ nỗi đau khổ của chúng sinh. Sau 6 năm khổ luyện, ông đã “ngộ
đạo”, tìm ra chân lý về “tứ diệu đế” và “thập nhị nhân duyên”.
tưởng triết Phật giáo ban đầu chỉ truyền miệng, sau đó viết thành văn thể
hiện trong kinh “Tam tạng” (Tripitaka) gồm (Sutra - pitaka) ghi lời Phật dạy;Tạng kinh
Tạng luật (Vinaya - pitaka) gồm các giới luật của đạo Phật; (Abhidarma-Tạng luận
19
pitaka) gồm các bài kinh, các tác phẩm luận giải, bình chú về giáo pháp của cao tăng,
học giả về sau.
Thế giới quan Phật giáo
Thế giới quan Phật giáo nguyên thủy chứa đựng những yếu tố duy vật biện
chứng chất phác, phủ nhận tưởng về đấng sáng tạo Brahman, cũng như phủ nhận
“Cái tôi” (Atman) và đưa ra quan niệm “vô ngã” và “vô thường”.
“Vô ngã” bao hàm tưởng cho rằng, vạn vật trong trụ chỉ sự “giả hợp” do
hội đủ nhân duyên nên thành ra “có” (tồn tại). Ngay bản thân sự tồn tại của thực thể con
người cũng do nhân duyên kết hợp được tạo thành bởi hai thành phần thể xác
(Rupa - sắc) tinh thần (Nâma - danh), do sự hợp tan của ngũ uẩn (sắc - thụ - tưởng-
hành - thức). Duyên hợp ngũ uẩn thì là ta, duyên tan ngũ uẩn thì không còn là ta, là diệt,
nhưng không phải là mất đi mà là trở lại với ngũ uẩn. Ngay các yếu tố của ngũ uẩn cũng
luôn biến hóa theo luật nhân quả không ngừng nên vạn vật, con người cứ biến hóa vụt
mất, vụt còn, không sự vật riêng biệt tồn tại mãi mãi, không cái tôi thường định
(An - Atman).
“Vô thường” gắn liền với phạm trù “vô ngã”, “vô thường” nghĩa trụ
thủy, vô chung; vạn vật trong thế giới chỉ là dòng biến hóa vô thường, vô định không do
ai sáng tạo nên; tất cả đều biến đổi theo luật nhân quả, theo quá trình sinh - trụ - dị - diệt
(thành - trụ - hoại - không) chỉ sự biến hóa ấy thường hữu. Tất cả mọi sự vật,
hiện tượng tồn tại trong vũ trụ đều bị chi phối bởi luật nhân duyên. Cái nhân (hetu) nhờ
cái duyên (pratitya) mới sinh ra được thành quả (phla). Quả lại do cái duyên
thành ra nhân khác, nhân khác lại nhờ duyên thành quả mới...và cứ biến đổi mãi
mãi.
Vì không nhận thức được sự biến ảothường đó nên người ta nhầm tưởng là cái
tôi tồn tại mãi, cái cũng của ta nên con người cứ khát ái, tham dục, hành động
chiếm đoạt nhằm thỏa mãn những ham muốn, dục vọng đó tạo ra những kết quả, gây
nên nghiệp báo (karma), mắc vào bể khổ triền miên (sam - sara) tức mắc vào kiếp
luân hồi.
Nhân sinh quan Phật giáo
Thừa nhận quan niệm “luân hồi” “nghiệp” trong Upanishad, Phật giáo đặc biệt
chú trọng triết nhân sinh, đặt mục tiêu tìm kiếm s giải thoát cho chúng sinh khỏi
vòng luân hồi, nghiệp báo để đạt tới trạng thái tồn tại Niết bàn (nirvana).
20
| 1/181

Preview text:

CHƯƠNG 1
KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC --------
1. TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
1.1. Triết học và đối tượng nghiên cứu của triết học
1.1.1. Quan niệm về triết học
Triết học ra đời vào khoảng thời gian từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI (Tr.CN), phát
triển rực rỡ ở các nền triết học Hi Lạp, Trung Quốc, Ấn Độ cổ đại.
Theo tiếng Hán, thuật ngữ “triết” (哲) có nghĩa là “trí”, “có trí tuệ” (kết hợp gồm
chữ thủ, đao, khẩu) với ý nghĩa: Triết học không phải là sự mô tả bề ngoài mà sự truy
tìm bản chất của đối tượng, giống như bàn tay của con người dùng búa phanh phui sự
vật ra để miệng nói về những cái đang ẩn náu bên trong sự vật ấy, “trí” dùng để chỉ sự
hiểu biết, nhận thức sâu rộng về vũ trụ và nhân sinh.
Theo tiếng Ấn Độ, thuật ngữ “triết” (Darshana) có nghĩa là “chiêm ngưỡng”, mang
hàm ý tri thức phải dựa trên lí trí, con đường suy ngẫm dẫn dắt con người đến với lẽ
phải, thấu đạt được chân lý về vũ trụ và nhân sinh.
Ở phương Tây, theo gốc tiếng Hy Lạp cổ đại, triết học là “philosophia”, từ này
được ghép bởi “philos” (yêu thích) và “sophia” (sự thông thái). Triết học được hiểu với
nghĩa là “yêu mến sự thông thái”, nhà triết học được coi là những nhà thông thái, nhà tư
tưởng có khả năng nhận thức và làm sáng tỏ bản chất của sự vật và hiện tượng. Triết
học được xem là hình thức cao nhất của tri thức, vừa mang tính định hướng vừa nhấn
mạnh đến đến khát vọng tìm kiếm chân lý của con người
Như vậy, trước triết học Mác - Lênin, dù ở phương Đông hay phương Tây đều
chung quan niệm coi triết học là đỉnh cao của trí tuệ, sự nhận thức sâu sắc về thế giới,
nắm bắt được chân lý, hiểu biết được bản chất của sự vật và hiện tượng. Triết học được
hiểu là một hình thái ý thức xã hội, một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã hội, có
trình độ khái quát và tư duy trừu tượng cao.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: Triết học là một hình thái ý thức xã
hội đặc thù, là học thuyết chung nhất về tồn tại và nhận thức, là khoa học về những quy
luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Hiểu khái
quát nhất thì Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người và thế
giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy. 1
1.1.2. Nguồn gốc ra đời của triết học
Triết học ra đời từ thực tiễn, do nhu cầu của thực tiễn và bắt nguồn từ nguồn gốc
nhận thức và nguồn gốc xã hội.
- Nguồn gốc nhận thức: Con người do hoạt động thực tiễn đòi hỏi phải tìm hiểu về
thế giới xung quanh mình, về chính suy nghĩ và hành động của mình. Sự tích lũy tri
thức trên nhiều lĩnh vực đòi hỏi phải có sự tổng kết, thống nhất chúng thành một hệ
thống. Điều đó đòi hỏi phải có sự phát triển nhất định của năng lực tư duy trừu tượng
hóa và khái quát hóa để đáp ứng nhu cầu phát triển tri thức nói trên.
- Nguồn gốc xã hội: Trong xã hội có sự phân chia thành giai cấp, từ đó xuất hiện
sự sự phân công lao động, giữa lao động trí óc và lao động chân tay. Chỉ khi đó trong
xã hội mới xuất hiện một lớp người chuyên hoạt động trên lĩnh vực tinh thần để tạo ra
hệ thống tri thức này hay hệ thống tri thức khác thì triết học mới ra đời. Triết học ra đời
trong xã hội có giai cấp, vì vậy, triết học luôn mang tính giai cấp.
Giữa nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
đối với sự ra đời của triết học, sự phân chia thành nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc
xã hội chỉ mang tính tương đối.
1.1.3. Đối tượng của triết học: Đối tượng nghiên cứu của triết học thay đổi theo
quá trình phát triển của nó, cụ thể:
- Thời kỳ cổ đại ở phương Tây: triết học được gọi là “triết học của tự nhiên”, bao
gồm toàn bộ tri thức của nhân loại. Giai đoạn này coi triết học là “khoa học của mọi
khoa học”, là “khoa học đứng trên mọi khoa học”. Bởi thời kỳ này tất cả các khoa học
khác đều gộp chung vào triết học, chưa tách ra thành các khoa học chuyên ngành. Do
đó, triết học vẫn chưa có đối tượng nghiên cứu cụ thể mà đối tượng nghiên cứu của nó
vẫn nằm trong các khoa học khác.
- Thời kỳ trung cổ: do sự thống trị của nhà thờ và tôn giáo nên quyền lực của giáo
hội bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, triết học là một bộ phận của thần học, là
“nô lệ” của thần học. Thời kỳ này cũng vẫn chưa xác định được đối tượng nghiên cứu
của triết học, triết học chỉ có nhiệm vụ là chứng minh sự đúng đắn của Kinh Thánh,
luận giải và thuyết phục người ta tin vào Chúa trời, triết học tự nhiên được thay thế
bằng triết học kinh viện.
- Thế kỷ XV - XVI: cùng với sự phát triển của các môn khoa học tự nhiên là sự
phục hồi tư tưởng triết học duy vật cổ đại. Triết học dần dần thoát khỏi tôn giáo, thần 2
học và các khoa học cụ thể, phát triển thành các bộ phận riêng biệt với các học thuyết
về bản thể luận, vũ trụ luận, tri thức luận, nhận thức luận, logic học, mỹ học, đạo đức học...
- Thế kỷ XVII - XVIII: triết học duy vật dựa trên cơ sở tri thức của khoa học tự
nhiên thực nghiệm đã phát triển nhanh chóng và đóng vai trò tích cực trong cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo.
- Thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX: sự phát triển của các khoa học cụ thể và thành tựu
mà nó đạt được đã làm phá sản tham vọng của các nhà triết học muốn biến triết học
thành “khoa học của mọi khoa học”, Hêghen là nhà triết học cuối cùng mang tham
vọng triết học là “khoa học của mọi khoa học”.
- Thời kỳ triết học Mác - Lênin: triết học Mác - Lênin đã đoạn tuyệt với quan niệm
sai lầm khi coi triết học là “khoa học của mọi khoa học”; triết học Mác - Lênin đã xác
định đúng đắn đối tượng, chức năng, nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu của mình; đặt
cơ sở khoa học cho các môn khoa học cụ thể phát triển. Với tư cách là một khoa học,
đối tượng nghiên cứu của triết học Mác - Lênin nghiên cứu những quy luật chung nhất
của tự nhiên, xã hội và tư duy.
1.2. Vấn đề cơ bản của triết học
1.2.1. Vấn đề cơ bản của triết học
Tất cả các học thuyết triết học trong sự phát triển của mình đều phải luận giải
những câu hỏi đặt ra là: thế giới tồn tại bên ngoài đầu óc con người có quan hệ thế nào
với thế giới tinh thần tồn tại bên trong đầu óc con người? Tư duy của con người có khả
năng hiểu biết tồn tại thực của thế giới hay không?
Vì vậy, theo Ph. Ănghen: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, nhất là triết học
hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại” hay giữa vật chất và ý thức, giữa
giới tự nhiên và tinh thần. Đây là vấn đề cơ sở, nền tảng, xuyên suốt mọi học thuyết
triết học trong lịch sử, quyết định sự tồn tại và phát triển của triết học. Kết quả và thái
độ giải quyết vấn đề cơ bản của triết học quyết định sự hình thành thế giới quan và
phương pháp luận của các triết gia, xác định bản chất của các trường phái triết học. Giải
quyết vấn đề cơ bản của triết học còn là cơ sở và điểm xuất phát để giải quyết các vấn
đề khác của triết học, đồng thời quyết định cách xem xét các vấn đề khác trong đời sống xã hội. 3
Vấn đề cơ bản gồm hai mặt: mặt thứ nhất trả lời câu hỏi: giữa vật chất và ý thức,
(tồn tại và tư duy, giới tự nhiên và tinh thần) cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào
quyết định cái nào? Mặt thứ hai trả lời câu hỏi: con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
Tùy theo cách trả lời khác nhau mà triết học phân chia thành nhiều trường phái
(trào lưu, học thuyết, hệ thống...) khác nhau, trong đó có hai khuynh hướng cơ bản của
triết học là chủ nghĩa duy vậtchủ nghĩa duy tâm.
1.2.2. Chủ nghĩa duy vật và các hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật
Đặc điểm của chủ nghĩa duy vật: khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau; thế
giới vật chất tồn tại một cách khách quan, độc lập với ý thức con người và không do ai
sáng tạo ra; ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người; không thể
có tinh thần, ý thức nếu không có vật chất.
Các hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật: chủ nghĩa duy vật phát triển qua ba
giai đoạn, thời kỳ khác nhau, nên có ba hình thức khác nhau: Chủ nghĩa duy vật chất
phác thời cổ đại; chủ nghĩa duy vật máy móc, siêu hình thế kỷ XVII - XVIII và chủ
nghĩa duy vật biện chứng (chủ nghĩa Mác - Lênin).
Nguồn gốc xã hội và nhận thức của chủ nghĩa duy vật: thường có mối liên hệ chặt
chẽ với các lực lượng xã hội, các giai cấp tiến bộ, cách mạng và luôn gắn bó với sự
phát triển của khoa học và bám sát thực tiễn xã hội.
1.2.3. Chủ nghĩa duy tâm và các hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy tâm
Đặc điểm của chủ nghĩa duy tâm: khẳng định ý thức, tinh thần có trước và là cơ sở
cho sự tồn tại của giới tự nhiên, vật chất.
Các hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy tâm: chủ nghĩa duy tâm xuất hiện ngay từ
thời cổ đại và tồn tại dưới hai hình thức chủ yếu là chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan.
Chủ nghĩa khách quan: cho rằng có một thực thể tinh thần (“lý tính thế giới”, “tinh
thần tuyệt đối”, “ý niệm tuyệt đối”...) là cái có trước thế giới vật chất, tồn tại ở bên
ngoài con người và độc lập với con người, sản sinh ra và quyết định tất cả quá trình vật
chất của thế giới. Đại biểu tiêu biểu của chủ nghĩa duy tâm khách quan là: Platôn, Hêghen...
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: cho rằng cảm giác, ý thức của con người là cái có
trước và quyết định sự tồn tại của mọi sự vật, hiện tượng bên ngoài. Các sự vật, hiện 4
tượng chỉ là “phức hợp của cảm giác”. Do phủ nhận sự tồn tại của thế giới khách quan,
chủ nghĩa duy tâm chủ quan phủ nhận luôn cả tính quy luật của các sự vật, hiện tượng,
tất yếu họ rơi vào chủ nghĩa duy ngã. Đại biểu tiêu biểu của chủ nghĩa duy tâm chủ
quan là: G. Bécơli, D. Hium, G. Phíchtơ...
Nguồn gốc xã hội và nhận thức của chủ nghĩa duy tâm: thường có mối liên hệ với
các lực lượng xã hội, các giai cấp phản tiến bộ, bảo thủ gắn với thần học, tôn giáo.
Nguồn gốc nhận thức của nó là tuyệt đối hóa một mặt của quá trình nhận thức, tách ý
thức ra khỏi thế giới vật chất.
1.2.4. Con đường thứ ba của triết học
Giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học có các quan điểm khác
nhau: nhất nguyên luận (thừa nhận một thực thể, hoặc vật chất hoặc ý thức); nhị
nguyên luận (thừa nhận cả hai thực thể là vật chất và ý thức cùng tồn tại song song); đa
nguyên luận (cho rằng vạn vật là do vô số thực thể độc lập cấu thành). Xét cho cùng
quan điểm nhị nguyên luận, đa nguyên luận đều không triệt để giải quyết mặt thứ nhất
vấn đề cơ bản của triết học. Do đó, thường rơi vào chủ nghĩa duy tâm.
Giải quyết mặt thứ hai của vấn đề cơ bản của triết học, đa số các nhà triết học
trong đó bao gồm cả chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm đều khẳng định con người
có khả năng nhận thức được thế giới (thuộc trường phái có thể biết - “khả tri luận”).
Các nhà triết học duy vật tìm cơ sở của sự đồng nhất ở vật chất, còn các nhà triết học
duy tâm tìm cơ sở ở ý thức, tinh thần. Một số ít nhà triết học cho rằng con người không
thể hiểu biết thế giới (thuộc trường phái không thể biết - “bất khả tri luận”). Thuyết
không thể biết bị phê phán gay gắt bởi chính thực tiễn đời sống xã hội và sự phát triển
của khoa học đã bác bỏ học thuyết này một cách triệt để nhất.
1.3. Chức năng cơ bản của triết học
1.3.1. Chức năng thế giới quan
Khái niệm thế giới quan: Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm về thế giới và
về vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó.
Nội dung của thế giới quan: con người đứng trước thế giới thường phải lý giải
những câu hỏi như: Bản chất thế giới là gì? Thế giới có tồn tại thực hay không hay chỉ
là ảo ảnh của con người? Con người là gì? Con người có vai trò như thế nào đối với thế
giới? Ý nghĩa cuộc sống của con người là ở chỗ nào?... 5
Trả lời những câu hỏi trên sẽ hình thành ở mỗi cá nhân những quan điểm những
quan điểm riêng về thế giới cũng như vai trò của con người với thế giới, đó là chức
năng thế giới quan của triết học.
Vai trò của triết học đối với việc hình thành thế giới quan:
Triết học ra đời làm cho quan niệm của con người về thế giới có cơ sở lý luận. Vì
vậy, có thể nói triết học là cơ sở cho thế giới quan, là chỗ dựa về mặt lý luận cho việc
giải thích thế giới. Thế giới quan khoa học là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực,
trình độ phát triển của thế giới quan là tiêu chí quan trọng trong việc đánh giá sự trưởng
thành của cá nhân cũng như một cộng đồng xã hội.
Thế giới quan duy vật biện chứng có vai trò đặc biệt quan trọng, là nhân tố định
hướng cho con người nhận thức đúng đắn về thế giới hiện thực. Là “thấu kính” triết học
để con người xem xét, nhận dạng thế giới, xét đoán mọi sự vật, hiện tượng và xem xét
chính mình. Thế giới quan duy vật biện chứng còn giúp con người hình thành quan
điểm khoa học định hướng mọi hoạt động. Từ đó, nó giúp con người xác định thái độ
và cách thức hoạt động của mình.
Giữa thế giới quan và phương pháp luận trong triết học có sự thống nhất hữu cơ. Ở
mức độ nào đó, thế giới quan cũng chính là phương pháp luận.
Thế giới quan duy vật biện chứng nâng cao vai trò tích cực, sáng tạo của con
người. Thế giới quan đúng đắn chính là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực, trình
độ phát triển về thế giới quan là tiêu chí quan trọng của sự trưởng thành cá nhân cũng
như cộng đồng xã hội nhất định.
1.3.2. Chức năng phương pháp luận
Khái niệm phương pháp luận: Phương pháp luận là hệ thống những quan điểm,
những nguyên tắc xuất phát, những cách thức chung để thực hiện hoạt động nhận thức
và thực tiễn. Phương pháp luận còn được hiểu là “lý luận về hệ thống phương pháp, là
hệ thống các quan điểm chỉ đạo việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp”.
Vai trò của phương pháp luận:
Phương pháp luận là một bộ phận không thể thiếu trong nghiên cứu khoa học.
Theo phạm vi, phương pháp luận được chia thành ba cấp độ: phương pháp luận ngành
(phương pháp luận bộ môn - phương pháp luận của một ngành khoa học cụ thể),
phương pháp luận chung (phương pháp luận dùng chung cho một số ngành khoa học) 6
phương pháp luận chung nhất. Phương pháp luận chung nhất là phương pháp luận
được dùng làm điểm xuất phát cho việc xác định phương pháp luận chung, các phương
pháp luận ngành và các phương pháp hoạt động khác của con người.
Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế giới và vai trò của
con người trong thế giới đó, với đối tượng nghiên cứu là những quy luật chung nhất của
tự nhiên, xã hội và tư duy, triết học thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất.
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, không được tuyệt đối hóa hoặc xem
thường phương pháp luận triết học. Bởi lẽ, nếu tuyệt đối hóa vai trò của phương pháp
luận triết học sẽ rơi vào chủ nghĩa giáo điều và dễ bị vấp váp, thất bại. Ngược lại, nếu
xem thường phương pháp luận triết học sẽ rơi vào tình trạng mò mẫm, dễ mất phương
hướng, thiếu tính chủ động và sáng tạo.
2. SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TRONG LỊCH SỬ
2.1. Những vấn đề có tính quy luật của sự hình thành, phát triển tư tưởng
triết học trong lịch sử
Một là, lịch sử triết học có hai đặc điểm về tính quy luật: tính quy luật phản ánh và
tính quy luật giao lưu. Tính quy luật phản ánh của lịch sử triết học được khái quát từ các
điều kiện kinh tế - xã hội, sự phát triển của văn hóa và khoa học trong các giai đoạn lịch
sử khác nhau. Tính quy luật giao lưu bao gồm giao lưu đồng loại (giao lưu theo lịch đại
và giao lưu theo đồng đại) và giao lưu khác loại (giao lưu giữa triết học và các hình thái ý thức xã hội khác).
Hai là, sự hình thành, phát triển của các tư tưởng, trào lưu triết học phụ thuộc vào
điều kiện kinh tế - xã hộivà nhu cầu phát triển của thực tiễn xã hội. Sự phát triển của tư
tưởng triết học trong lịch sử nhân loại phụ thuộc vào tồn tại xã hội, mà trước hết là phụ
thuộc vào sự phát triển của nền sản xuất vật chất. Tư tưởng, quan điểm triết học phản
ánh nhu cầu phát triển của chính thực tiễn xã hội, do đó nó phụ thuộc vào thực tiễn cuộc
đấu tranh giai cấp, đấu tranh chính trị - xã hội trong lịch sử. Triết học chỉ xuất hiện khi
điều kiện kinh tế - xã hộiphát triển, khi xã hội có sự phân công thành lao động trí óc và
lao động chân tay, có sự phân chia và đối kháng giai cấp.
Ba là, sự hình thành, phát triển của các tư tưởng, trào lưu triết học phụ thuộc vào
sự phát triển của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Sự phát triển của khoa học vừa
là cơ sở, vừa là điều kiện cho triết học phát triển. Ngược lại, sự phát triển của triết học 7
vừa là kết quả, vừa là cơ sở cho sự phát triển của các khoa học. Với tính cách là một
khoa học, sự phát triển của triết học tất yếu phải dựa vào sự phát triển của khoa học.
Mặt khác, triết học lại có vai trò không thể thiếu đối với sự phát triển của các khoa học
cụ thể. Thực tiễn cho thấy, điều kiện kinh tế - xã hộivà trình độ phát triển khoa học là
yếu tố xét đến cùng quyết định nội dung các học thuyết triết học và trong chừng mực
nào đó quyết định cả hình thức thể hiện tư tưởng triết học.
Bốn là, sự hình thành, phát triển của các tư tưởng, trào lưu triết học phụ thuộc vào
cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng triết học cơ bản - chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là vấn đề mang
tính quy luật nội tại, xuyên suốt, quyết định trực tiếp đến sự phát triển của triết học
trong lịch sử. Nói cách khác, quá trình phát triển của triết học trong lịch sử đồng thời là
quá trình đấu tranh liên tục giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa khoa học
và tôn giáo. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử
đồng thời là một cuộc giao lưu, tác động giữa các trường phái, môn phái triết học với
nhau. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là cuộc đấu tranh
giữa hai mặt đối lập cơ bản trong nội dung tư tưởng triết học nhân loại, thông qua đó,
triết học của mỗi thời đại có sự phát triển mang tính độc lập tương đối so với sự phát
triển của điều kiện kinh tế - xã hội, chính trị, văn hóa và khoa học. Cuộc đấu tranh giữa
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm làm cho mỗi hệ thống triết học có thể “vượt
trước” hoặc “thụt lùi” so với điều kiện vật chất của thời đại đó.
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm tạo thành động lực
bên trong lớn nhất, là bản chất, là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt toàn bộ lịch sử tư tưởng triết học.
Năm là, sự hình thành, phát triển của các tư tưởng, trào lưu triết học phụ thuộc vào
cuộc đấu tranh giữa hai phương pháp nhận thức trong lịch sử là phương pháp biện
chứng và phương pháp siêu hình. Sự phát triển của lịch sử triết học chính là sự phát
triển của trình độ nhận thức, của phương pháp tư duy nhân loại, thông qua cuộc đấu
tranh giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình. Đây cũng chính là sự
đấu tranh giữa các mặt đối lập, tạo ra động lực bên trong trong sự phát triển tư tưởng
triết học của nhân loại. Cuộc đấu tranh giữa phương pháp biện chứng và siêu hình gắn
liền với cuộc đấu tranh giữa thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm trong lịch sử triết học. 8
Sáu là, sự hình thành, phát triển của các tư tưởng, trào lưu triết học nhân loại phụ
thuộc vào sự kế thừa các tư tưởng triết học trong tiến trình lịch sử. Trong sự phát triển
của tư tưởng, trào lưu triết học của nhân loại luôn mang tính kế thừa. Đây là quy luật
giao lưu tư tưởng triết học theo chiều dọc của tiến trình lịch sử, là phương thức tái tạo tư
tưởng để qua đó triết học không ngừng phát triển.
Triết học của mỗi thời đại vừa dựa vào tài liệu lịch sử của triết học các thời đại
trước, lấy đó làm tiền đề, điểm xuất phát cho hệ thống triết học của mình. Mặt khác, tư
tưởng triết học của thời đại trước sẽ được chọn lọc, bổ sung và phát triển phù hợp với
điều kiện lịch sử hiện tại. Đây chính là sự phủ định biện chứng, bao gồm kế thừa và cải
tạo có phê phán, nói cách khác, quá trình phát triển của các trường phái, hệ thống triết
học trong lịch sử luôn có sự kế thừa biện chứng.
Bảy là, sự hình thành, phát triển của các tư tưởng, trào lưu triết học phụ thuộc
vào sự liên hệ, ảnh hưởng, kế thừa, kết hợp giữa các học thuyết triết học của các dân
tộc, quốc gia trên thế giới. Tư tưởng triết học của nhân loại không phải đơn thuần là
tổng số các hệ thống triết học hình thành trong lịch sử. Các trường phái và hệ thống triết
học ở từng quốc gia, từng khu vực không phải là độc lập và tách rời nhau mà có chịu
ảnh hưởng và tác động qua lại lẫn nhau. Đây chính là quy luật về sự giao lưu cùng loại,
cùng thời đại lịch sử của các tư tưởng triết học trong lịch sử.
Tám là, sự hình thành, phát triển của các tư tưởng, trào lưu triết học phụ thuộc
vào mối quan hệ với các hình thái tư tưởng chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo,
nghệ thuật... Đây là quy luật về sự giao lưu khác loại, giao lưu giữa hình thái ý thức
triết học với các hình thái ý thức xã hội khác, đồng thời cũng chính là biểu hiện tính độc
lập tương đối của ý thức xã hội, trong đó các hình thái ý thức xã hội có mối liên hệ và
tác động qua lại lẫn nhau.
Các hình thái ý thức xã hội như chính trị, pháp quyền, đạo đức, khoa học, tôn
giáo, nghệ thuật...luôn ảnh hưởng đến nội dung của tư tưởng triết học; mặt khác, tư
tưởng triết học lại là cơ sở lý luận của ý thức chính trị, pháp quyền, đạo đức, khoa học,
tôn giáo, nghệ thuật...Nhờ sự giao lưu đồng loại và khác loại mà một dân tộc có trình độ
phát triển không cao nhưng vẫn có thể có trình độ phát triển của triết học vượt xa dân tộc khác.
2.2. Sự ra đời và phát triển của triết học phương Đông
2.2.1. Quan niệm về triết học phương Đông 9
“Triết học phương Đông” là khái niệm dùng để chỉ nền triết học của các quốc gia-
khu vực ngoài phương Tây, chủ yếu là các quốc gia châu Á, kế thừa các truyền thống
lớn bắt nguồn từ Ấn Độ và Trung Quốc thời kỳ cổ đại.
Có quan niệm cho rằng, triết học phương Đông không có các học thuyết lớn
nghiên cứu về bản thể luận, vũ trụ luận, tri thức luận và nhận thức luận. Vì vậy, ở
phương Đông không có triết học, hoặc nếu có thì cũng chỉ là những triết lý không có hệ
thống và cơ sở khoa học. Quan niệm này có những hạn chế lịch sử của nó, nghiên cứu
lịch sử triết học phương Đông sẽ hiểu rõ vấn đề này.
2.2.2. Đặc điểm của triết học phương Đông
Một là, triết học phương Đông xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử, khi xuất hiện đều
lấy con người và các vấn đề liên quan đến con người làm đối tượng nghiên cứu. Triết
học Trung Quốc nghiên cứu sâu các vấn đề chính trị, xã hội, đạo đức và luân lý; triết
học Ấn Độ lại đi sâu nghiên cứu các vấn đề tôn giáo và tâm linh.
Hai là, thế giới quan bao trùm của triết học phương Đông là thế giới quan duy tâm.
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm có diễn ra nhưng không
phổ biến. Trong cuộc đấu tranh này, chủ nghĩa duy vật chỉ là những yếu tố chống lại cả
một hệ thống là chủ nghĩa duy tâm.
Ba là, sự phân chia niên đại, thời kỳ của triết học phương Đông không theo hình
thái kinh tế - xã hộimà chủ yếu là theo các triều đại phong kiến gắn liền với sự tồn tại,
phát triển và suy tàn của các triều đại phong kiến.
Bốn là, khuynh hướng chung của triết học phương Đông là hướng nội, các nhà triết
học thường xuất phát từ nhân sinh quan để giải thích thế giới quan, xuất phát từ thực
tiễn xã hội để giải thích các hiện tượng tự nhiên, sự biến đổi của vũ trụ và thế giới bên ngoài.
Năm là, nét nổi bật của triết học phương Đông mang tính đại chúng và tính nhân
dân. Triết học phương Đông thường gắn với văn hóa dân gian, là sản phẩm mang tính
tập thể hơn là cá nhân. Triết lý nhân sinh và tư duy triết học đều rất cụ thể, không cầu
kỳ, dài dòng, không lý luận nhiều nhưng lại bền vững, thiết thực, có giá trị chỉ đạo hành động cao.
Sáu là, triết học Ấn Độ hướng trọng tâm vào nghiên cứu, luận giải các vấn đề nhân
sinh dưới giác độ tôn giáo và tâm linh, xu hướng chung của triết học Ấn Độ là “hướng 10
nội”; tư duy triết học Ấn Độ có tính khái quát và trừu tượng cao; tính giai cấp, chiến đấu
và phê phán trong triết học Ấn Độ là khá rõ ràng nhưng không triệt để.
Bảy là, triết học Trung Quốc thuộc loại hình triết học chính trị - xã hội, mang đậm
tính nhân văn, nhân đạo; trong quá trình phát triển, triết học Trung Quốc đều hướng vào
giải quyết các vấn đề chính trị - xã hội, đạo đức và luân lí, lấy con người, lợi ích của con
người và xã hội loài người làm trung tâm; tư duy của hầu hết các trường phái triết học
Trung Quốc đều rất cụ thể, có nhiều yếu tố dân sinh, trực quan tâm linh, luôn hướng vào
giải quyết các vấn đề thường nhật và bức thiết đang xảy ra; cuộc đấu tranh giữa chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Trung Quốc không thực sự nổi bật,
thế giới quan duy tâm, tôn giáo bao trùm triết học Trung Quốc cổ, trung đại.
2.2.3. Triết học Ấn Độ cổ, trung đại
2.2.3.1. Hoàn cảnh ra đời của triết học Ấn Độ cổ, trung đại
* Điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hộivà tiền đề khoa học - văn hóa đối
với sự ra đời của triết học Ấn Độ cổ, trung đại
Ấn Độ là một bán đảo lớn, một “tiểu lục địa” nằm ở miền nam châu Á, phía Tây
Nam và Đông Nam giáp Ấn Độ Dương, phía Bắc là dãy Hymalaya hùng vĩ án ngữ theo
một vòng cung dài 2.600km. Điều kiện thiên nhiên và khí hậu của Ấn Độ rất phức tạp.
Địa hình vừa có nhiều núi non trùng điệp, vừa có nhiều sông ngòi với những vùng đồng
bằng trù phú. Có vùng khí hậu nóng, ẩm, mưa nhiều, có vùng lạnh giá, quanh năm tuyết
phủ, lại cũng có những vùng sa mạc khô cằn, nóng nực. Tính đa dạng, khắc nghiệt của
điều kiện tự nhiên và khí hậu là những thế lực tự nhiên đè nặng lên đời sống và ghi dấu
ấn đậm nét trong tâm trí người Ấn Độ cổ đại. Sự phát triển của xã hội Ấn Độ cổ, trung
đại được chia thành ba thời kỳ: thời kỳ văn minh sông Ấn (xuất hiện vào khoảng giữa
thiên niên kỷ III - II tr.CN); thời kỳ Vêda (khoảng từ thế kỷ XV - VII tr.CN) và thời kỳ từ thế kỷ VI - I trc.CN.
Tiền đề khoa học và văn hóa, ngay từ thời Vêda, thiên văn học Ấn Độ đã bắt đầu
xuất hiện. Người Ấn Độ cổ đã biết sáng tạo ra lịch pháp, phỏng đoán trái đất hình cầu
và tự quay quanh trục của nó. Cuối thế kỷ V tr.CN, người Ấn Độ đã giải thích được hiện
tượng nhật thực và nguyệt thực. Về toán học, họ đã phát minh ra chữ số thập phân, tính
được trị số pi, biết được những định luật cơ bản về quan hệ giữa cạnh và đường huyền
của một tam giác vuông, biết giải phương trình bậc 2, 3...Nền y học Ấn Độ có từ rất
sớm. Ngay trong kinh Vêda, người ta đã tìm thấy nhiều tên cây làm thuốc và nhiều 11
phương pháp trị bệnh đơn giản. Vào thế kỷ V tr.CN, Shursada đã viết sách trình bày
thuật chữa bệnh ngoại khoa, bảo trợ thai, vệ sinh hài nhi, phương pháp dưỡng sinh, tiêu
độc...Trong nghệ thuật kiến trúc, người Ấn Độ đã có một phong cách kiến trúc độc đáo,
tinh tế, đặc biệt là lối xây dựng chùa chiền, tháp Phật theo kiểu hình tháp vừa có ý nghĩa
triết học, tôn giáo, vừa biểu hiện ý chí, vương quyền.
* Đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ, trung đại
Thứ nhất, triết học Ấn Độ cổ, trung đại phát triển rất phong phú nhưng không
mang tính cách mạng; các nhà triết học thường kế tục mà không gạt bỏ hệ thống triết
học có trước, không đặt cho mình nhiệm vụ phải sáng tạo ra một hệ thống triết học mới.
Điều đó phản ánh sự trì trệ của xã hội Ấn Độ cổ, trung đại.
Thứ hai, triết học Ấn Độ cổ, trung đại gắn bó chặt chẽ với tôn giáo, trên cơ sở tín
ngưỡng tôn giáo hình thành nên các hệ thống triết học - tôn giáo.
Thứ ba, các hệ thống triết học - tôn giáo ở Ấn Độ cổ, trung đại đều quan tâm tới
vấn đề nhân sinh quan, đặc biệt là vấn đề luân hồi, nghiệp báo.
2.2.3.2. Sự hình thành và phát triển của tư tưởng triết học Ấn Độ cổ, trung đại
Lịch sử phát sinh và phát triển của triết học Ấn Độ cổ, trung đại được chia thành
hai thời kỳ: thời kỳ Véda (khoảng cuối thiên niên kỷ II - VII tr.CN) và thời kỳ Phật giáo,
Bàlamôn giáo (từ thế kỷ VI - I tr.CN).
* Triết học thời kỳ Véda
Kinh Véđa là những bộ kinh cổ nhất của ấn độ và của nhân loại. Đó là một bộ sách
thu lượm tất cả những câu ca dao, vịnh phú, những tư tưởng, quan điểm, những tập tục,
lễ nghi...của nhiều bộ lạc người Arya.
Chữ Véđa bắt nguồn từ căn tự “vid”, nghĩa đen là “tri thức”, “hiểu biết”. Nó cũng
được dùng chung với nghĩa là “thánh kinh”, là “sự sáng suốt cao nhất”. Có thể nói Véda
là một tác phẩm tổng hợp, có tính hỗn hợp và có nhiều cách phân chia.
* Giai đoạn từ khoảng 2000 năm tr.CN đến thế kỷ VIII tr.CN
Rig - Véda: Rig có nghĩa là “tán ca”, tán tụng Véda. Đây là bộ kinh cổ nhất của nền
văn hoá Ấn Độ, bao gồm 1.017 bài, sau được bổ sung thêm 11 bài dùng để cầu nguyện,
chúc tụng công đức của các vị thánh thần.
Sama - Véda: Tri thức về các giai điệu ca chầu khi hành lễ, gồm 1.549 bài.
Yajur - Véda: Tri thức về các lời khấn tế, những công thức, nghi lễ khấn bái trong hiến tế. 12
Atharva - Véda: Tách riêng với bộ ba trên, gồm 731 bài văn vần là những lời khấn
bái mang tính bùa chú, ma thuật, phù phép nhằm đem lại những điều tốt lành cho bản
thân và người thân, gây tai họa cho kẻ thù.
Nhìn chung trong các tập Véda thời kỳ này tập trung phản ánh ước vọng của người
dân thường như mong mưa thuận gió hòa, mong có thức ăn, có gia súc...; đồng thời
phản ánh một tín ngưỡng ma thuật và đa thần giáo, chưa có những khái quát triết học.
Tuy nhiên qua các tập Véda đã thể hiện sự phát triển của tư duy trừu tượng trong đó
người ta đã thừa nhận một nguyên lý vũ trụ với sức mạnh vô hạn, biểu hiện ra trong
thiên nhiên, trong tinh thần và các nghi lễ.
* Giai đoạn từ thế kỷ VIII tr. CN đến thế kỷ V tr.CN
Brahmana (gọi là Phạn chí hay kinh Bàlamôn): gồm những bài cầu nguyện, giải
thích các nghi lễ của Véđa.
Aranyaka: Nghĩa là suy tưởng trong rừng - kinh rừng, giải thích ý nghĩa huyền bí
của những nghi lễ Véđa và phát hiện những ý nghĩa tượng trưng cao siêu của Véđa.
Kinh Upanishad: Là những kinh sách bình chú tôn giáo - triết học, gồm 200 bài
kinh giải thích ý nghĩa triết lý sâu xa của những tư tưởng thần thoại, tôn giáo Véđa. Nó
thể hiện một tinh thần mới là giải phóng ý thức khỏi sự ràng buộc của nghi lễ và bàn
đến những vấn đề có ý nghĩa triết học thực sự.
* Tư tưởng triết học trong kinh Upanishad
Đây là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh Véđa, được biên soạn
qua nhiều thế kỷ (khoảng từ thế kỷ X đến thế kỷ V tr.CN) bởi các tông phái, các đạo sĩ
trong những hoàn cảnh và địa phương khác nhau.
Khái niệm Upanishad có nghĩa là ngồi trang nghiêm cùng giảng giải lý thuyết cao
siêu, huyền bí với thầy (“shad” nghĩa là “ngồi”; “upa” nghĩa là “gần”; “ni” có nghĩa là
“trang nghiêm”). Upanishad không phải là một tác phẩm trình bày có hệ thống, chặt chẽ
những quan điểm của một trường phái triết học, mà được viết dưới hình thức hội thoại
giữa thầy và trò. Sự xuất hiện của Upanishad được coi là “bước nhảy” hoàn toàn từ thế
giới quan thần thoại, tôn giáo sang tư duy triết học. Tư tưởng triết học cơ bản của
Upanishad có thể khái quát như sau:
Thế giới quan: Upanishad đã đưa ra cách giải thích duy tâm về nguồn gốc của thế
giới, coi Brahman - “Tinh thần vũ trụ tối cao” - là thực thể duy nhất, có trước nhất, tồn
tại vĩnh viễn, bất diệt, là cái từ đó tất cả thế giới này đều nảy sinh ra và nhập về với nó 13
sau khi chết. Atman - Linh hồn con người chỉ là sự biểu hiện, là một bộ phận của “Tinh
thần vũ trụ tối cao”. Cơ thể con người chỉ là vỏ bọc của linh hồn, là nơi trú ngụ của linh
hồn, là hiện thân của “Tinh thần vũ trụ tối cao” tuyệt đối, bất tử Brahman. Vì toàn bộ vũ
trụ là Brahman nên về bản chất linh hồn là đồng nhất với “Linh hồn tối cao”.
Nhận thức luận: Upanishad phân sự nhận thức của con người thành hai trình độ
khác nhau là hạ trí (aparâ - vidây) và thượng trí (parâ - vidây). Hạ trí là tri thức phản
ánh những sự vật, hiện tượng riêng lẻ, có hình tướng, danh sắc đa dạng của hiện thực
gồm các tri thức khoa học thực nghiệm, các ngành nghệ thuật. Thượng trí là trình độ
vượt qua tất cả thế giới hiện tượng hữu hình, hữu hạn, thường xuyên biến đổi để nhận
thức một thực tại tuyệt đối, duy nhất, bất diệt (aksara), thường hằng, vô hình và là bản
chất của tất cả những cái đang tồn tại (Brahman). Tuy nhiên, hạ trí cũng có vai trò và
công dụng của nó đối với nhận thức, là phương tiện cần thiết để đưa con người tới hiểu biết thượng trí.
Nhân sinh quan: Upanishad bàn tới vấn đề “luân hồi”, “nghiệp báo”. Vì Atman
“linh hồn” tồn tại trong thể xác con người trần tục nên ý thức con người lầm tưởng rằng
“linh hồn” đó khác với “linh hồn vũ trụ” bất tử. Những cảm giác, ham muốn dục vọng
và hành động của con người nhằm thỏa mãn những ham muốn đó trong đời sống trần
tục đã gây ra những hậu quả, gieo đau khổ ở kiếp này và cả kiếp sau, gọi là “nghiệp
báo” (Karma). Do vậy, linh hồn bất tử cứ bị giam hãm vào hết thể xác này đến thể xác
khác, bị che lấp, ràng buộc bởi thế giới hiện tượng như ảo ảnh, gọi là sự “luân hồi”
(Samsara), không nhận ra và không trở về đồng nhất với chân bản của mình là Brahman được.
Muốn giải thoát linh hồn bất tử khỏi vòng vây hãm của luân hồi, nghiệp báo để đạt
tới đồng nhất với “Tinh thần vũ trụ tối cao” tuyệt đối thì con người phải dốc lòng toàn
tâm tu luyện hành động và tu luyện tri thức. Bằng nhận thức trực giác, thực nghiệm tâm
linh, con người mới nhận ra chân bản của mình, khi đó linh hồn bất tử mới đồng nhất
được với “linh hồn vũ trụ tối cao” và bắt đầu “siêu thoát” (moksa).
2.2.3.3.Các trường phái triết học (chính thống và không chính thống) trong triết
học Ấn Độ cổ, trung đại:
* Các trường phái chính thống
- Trường phái Samkhya (Số luận) 14
Trường phái Samkhya bắt nguồn từ tư tưởng triết học ở nhiều tác phẩm rất cổ xưa.
Lý luận về bản nguyên vũ trụ là tư tưởng triết học trung tâm của trường phái này.
Những nhà tư tưởng của phái Samkhya sơ kỳ đã bộc lộ những tư tưởng có tính duy vật
và ít nhiều biện chứng về bản nguyên hiện hữu. Họ đưa ra học thuyết về sự tồn tại của
kết quả trong nguyên nhân trước khi nó xuất hiện và học thuyết về sự chuyển hóa thực
tế của nguyên nhân trong kết quả. Họ cho rằng loại nào có nguyên nhân của loại ấy:
“Trồng Sali được Sali, trồng Vrihi được Vrihi”.
Quan niệm về sự hình thành sự vật: họ cho rằng nếu vạn vật của thế giới này là vật
chất thì yếu tố tạo nên vạn vật với tính cách là nguyên nhân cũng phải là vật chất; đó là
“vật chất đầu tiên” (Prakriti - một dạng vật chất không thể dùng cảm giác mà có thể biết
được). Thế giới vật chất là thể thống nhất của ba yếu tố: Sattva (nhẹ, sáng, vui tươi);
Rajas (kích thích, động); Tamas (nặng, ỳ). Khi ba yếu tố trên ở trạng thái cân bằng thì
Prakriti ở trạng thái chưa biểu hiện - tức là trạng thái không thể trực quan được. Nhưng
khi sự cân bằng bị phá vỡ thì đó là điểm khởi đầu của sự sinh thành vạn vật của vũ trụ.
Các nhà tư tưởng của phái Samkhya hậu kỳ lại có khuynh hướng nhị nguyên luận khi
thừa nhận sự tồn tại song song của hai yếu tố đầu tiên là vật chất (Prakriti) và tinh thần
(Purusa). Yếu tố tinh thần (Purusa) mang tính phổ quát vĩnh hằng và bất biến, nó truyền
sinh khí, năng lượng và biến hóa vào yếu tố vật chất. ở con người, khi tinh thần chiếu
rọi vào Sattva thì sinh ra trí tuệ; khi tinh thần chiếu rọi vào Rajas thì sinh ra vận động;
khi tinh thần chiếu rọi vào Tamas thì sinh ra hình thể.
Về bản chất con người: Samkhya cho rằng con người có sự ý thức về mình. Chính
vì vậy mà họ nảy sinh ra những lo lắng, ham muốn và hành động để đạt đến cái “tôi”.
Do đó tinh thần con người không thoát ra được, luôn bị chìm đắm trong vòng luân hồi,
khổ não. Muốn giải thoát, con người phải dùng phương pháp Yoga.
- Trường phái Mimansa
Kinh điển của triết học Mimansa là “Mimansa - Sutra”, một đại biểu lớn của
trường phái này là Sabara, người viết chú giải cho “Mimansa - Sutra”. Các nhà triết học
Mimansa dựa vào tư tưởng triết học tôn giáo của Véda, nhưng coi Véda như các tập
công thức hay thần chú về nghi lễ. Mimansa sơ kỳ không thừa nhận sự tồn tại của thần.
Theo Sabara thì chúng ta thiếu chứng cứ về sự tồn tại của thần và cảm giác không nhận
thức được thần. Nhưng cảm giác lại được coi là nguồn gốc của mọi tri thức khác. Phái
Mimansa không phản đối việc coi thần linh như cái tên hay âm thanh cần thiết cho các 15
câu thần chú của nghi lễ. Nghi lễ không phải là hành động khẩn cầu, sùng bái thần linh,
mà nghi lễ tự nó có sức mạnh, có thể đưa lại hiệu quả. Họ hiểu nghi lễ như một hành
động ma thuật. Tuy nhiên, tinh thần duy vật và vô thần của phái Mimansa không được
tiếp tục phát triển. Những nhà triết học Mimansa hậu kỳ đã thừa nhận sự tồn tại của thần.
Về nguồn gốc thế giới: Mimansa có quan điểm duy vật cho rằng thế giới được sinh
ra từ các nguyên tử (Anu).
Nhân sinh quan: Mimansa coi đời người là khổ và vấn đề đặt ra là phải thoát khỏi
nỗi khổ ấy. Họ chủ trương thoát khổ bằng cách duy trì các nghi lễ, đặc biệt là lễ “hiến
sinh”. Họ cho rằng cần phải biết kết hợp lòng tin và kiến thức để đạt đến giải thoát. Có
hai con đường để tạo kiến thức là bằng giác quan và bằng suy luận. Khi giải quyết mối
quan hệ giữa tinh thần với thể xác, họ lại đứng trên lập trường duy tâm khi coi tinh thần
tồn tại mãi mãi, còn thể xác thì mất đi.
- Trường phái Vêdanta
Các nhà tư tưởng Vêdanta hệ thống các tư tưởng của Upanishad - tác phẩm được
coi là kết thúc của Véda (Vêdanta nghĩa là “kết thúc Véda”). Tác phẩm Brahman- Sutra
được coi là kinh điển của Vêdanta, nhưng nội dung không rõ ràng, khá mơ hồ nên có
nhiều cách giải thích khác nhau. Cách luận giải có ảnh hưởng lớn nhất là “thuyết
Vêdanta nhất nguyên”. Đó là triết học nhất nguyên luận duy tâm chủ quan cho rằng chỉ
có Brahman (ý thức thuần túy là tồn tại duy nhất), mà Brahman lại được đồng nhất với
cái “tôi” (Atman). Thế giới vật chất không tồn tại hiện thực, hình ảnh của nó chỉ là ảo
ảnh do “Vô minh” sinh ra. Đại biểu cho thuyết này là Sankara, người viết chú giải cho Brahman - Sutra.
Các phái Vêdanta sau này lại giải thích Brahman - Sutra theo quan điểm hữu thần,
hay duy tâm khách quan. Họ coi Brahman là linh hồn vũ trụ, vĩnh hằng; còn Atman là
linh hồn cá thể, một bộ phận của linh hồn tối cao, tưc Thượng đế Brahman. - Trường phái Yoga
Yoga xuất hiện rất sớm (khoảng thế kỷ II tr.CN). Tư tưởng cốt lõi của họ là sự thừa
nhận nguyên lý hợp nhất vũ trụ. Trường phái Yoga đã kết hợp tư tưởng triết học của
phái Samkhya với sự thừa nhận sự tồn tại của thần (Yoga = Samkhya + Thượng đế).
Nhưng sự thừa nhận Thượng đế của phái Yoga không có ý nghĩa nhiều về mặt triết học.
Tư tưởng về Thượng đế không ăn nhập với hệ thống Yoga. Thượng đế hay thần chỉ là 16
một loại linh hồn không khác gì mấy với linh hồn cá thể. Vì vậy, bằng phương pháp
luyện tập và tu luyện nhất định, con người có thể điều khiển và tự làm chủ được bản
thân mình, tiến đến làm chủ được vạn vật và cao hơn nữa là đạt tới sự “giải thoát”, “tự do tuyệt đối”.
Yoga còn là phương pháp dưỡng sinh được xây dựng trên cơ sở nhận thức về thế
giới và con người. Nó cho rằng cuộc đời con người chỉ là ảo ảnh, không có thực và luôn
thay đổi. Hình thể con người được coi là cái vỏ và không tồn tại vĩnh hằng. Nó sẽ bị mất
đi và chỉ còn lại linh hồn (Atman) là tồn tại. Linh hồn con người là một bộ phận của
Brahman nên nó phải thoát ra khỏi cái vỏ của mình (tức hình thể) để nhập với Brahman,
làm cho con người siêu thoát. Yoga đưa ra 8 phương pháp để thoát ra khỏi thể xác là:
cấm chế (Yama - giữ các điều cấm kị, bao gồm ngũ giới: sát sinh, đạo, vọng ngữ, tà
dâm, của riêng); khuyến chế (Niyama - thanh tịnh trong học tập kinh điển); tọa pháp
(Anasa - giữ vị trí thân thể đúng đắn); điều tức (Pranayama - giữ hơi thở đều, sâu, nhịp
nhàng); chế cảm (Pratyahara - điều khiển cảm giác sao cho lúc ngồi thiền giác quan
được thoải mái); chấp trì (Dharana - tập trung tư tưởng); thiền định (Dhyana - giữ tâm
thống nhất); đẳng trì hay tam muội (Samadhi- đưa tâm đến hư không, chứng được cảnh
giới sán lạn). Phương pháp tu luyện này sẽ sản sinh ra những năng lượng lớn mà những
người bình thường không đạt được. Nhiều phái cho rằng, nếu thực hiện các phương
pháp Yoga thì sẽ có sức mạnh siêu nhiên.
- Trường phái Nyaya - Vaisesika
Đây là hai trường phái khác nhau nhưng có những quan điểm triết học tương đồng,
nhất là vào giai đoạn hậu kỳ. Đại biểu cho phái Nyaya là Gantana, tác giả của “Nyaya-
sutra”. Đại biểu cho phái Vaisesika là Kananda, tác giả của “Vaisesika- Sutra”. Tư tưởng
triết học cơ bản của hai phái này là học thuyết nguyên tử, lý luận nhận thức và logic học.
Thuyết nguyên tử: bên cạnh việc thừa nhận sự tồn tại của nguyên tử, phái này còn
cho rằng có sự tồn tại của những linh hồn ở những trạng thái phụ thuộc hoặc ở ngoài
những nguyên tử vật chất, gọi là Ya mà đặc tính của nó được thể hiện ra như ước vọng,
ý chí, vui, buồn, giận hờn...Để thấu triệt nguyên lý thống nhất của những cái hiện hữu,
hai phái này đã tìm đến lực lượng thứ ba mang tính chất siêu nhiên, giữ vai trò phối
hợp, điều phối sự tác động của các linh hồn giải thoát ra khỏi các nguyên tử. 17
Nhận thức luận và lôgic học: Hai phái này đã có những tư tưởng duy vật và đã có
những đóng góp vào lý luận nhận thức như: thừa nhận sự tồn tại khách quan của đối
tượng nhận thức; đề cao vai trò của kinh nghiệm trong nhận thức...Theo họ nhận thức
có thể tin cậy, và cũng có thể không đáng tin cậy. Nhận thức tin cậy là sự phản ánh
không nghi ngờ và trung thành với hình ảnh của đối tượng. Có bốn hình thức nhận thức
không đáp ứng được yêu cầu đó và được coi là không đáng tin cậy, là ký ức, nghi ngờ,
sai lầm và mới là giả thiết, chưa có chứng cứ chắc chắn. Vì vậy, cần phải kiểm tra tính
đúng sai của nhận thức một cách thực tế. Nhận thức là đúng đắn khi nó phù hợp với bản
chất của đối tượng và ngược lại. Họ cho rằng thực tiễn là thước đo duy nhất để kiểm tra
nhận thức. Ví dụ: Nước do ảo ảnh là giả vì không giải khát được, còn nước trong hồ là
thật vì có thể giải khát được.
Thuyết biện luận của phái Nyaya có đóng góp quan trọng về lôgic hình thức. Họ
đưa ra hình thức biện luận gọi là “Ngũ đoạn luận” gồm năm mệnh đề: luận đề: Đồi có
lửa cháy - nguyên nhân: Vì đồi bốc khói - :
dụ Có khói thì có lửa, giống như ở trong bếp lò - suy :
đoán Đồi bốc khói thì không thể không có lửa cháy - kết luận: Do đó đồi có lửa cháy.
Các phái này ban đầu có tư tưởng vô thần và đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm
triết học. Song ở giai đoạn cuối, họ lại thừa nhận có thần và cho rằng thần đã dùng
nguyên tử để tạo nên thế giới. hai phái này là quy toàn bộ tính đa dạng của tồn tại vào
bốn yếu tố vật chất: đất, nước, lửa, gió (hay không khí). Những yếu tố này lại được quy
vào bản nguyên duy nhất, đầu tiên là những hạt nhỏ vật chất không đồng nhất, bất biến
và vĩnh hằng, được phân biệt ở chất lượng, khối lượng và hình dạng, tồn tại trong một
môi trường đặc biệt, trong không gian và thời gian, được gọi là nguyên tử (Anu).
* Các trường phái triết học không chính thống
- Trường phái triết học Lokayata
Học thuyết về tồn tại: Lokayata cho rằng tất cả mọi sự vật và hiện tượng trong vũ
trụ đều do bốn nguyên tố đất, nước, lửa và không khí cấu thành. Chúng có khả năng tự
tồn tại, tự vận động trong không gian để tạo thành vạn vật, kể cả con người. Tương ứng
với bốn nguyên tố là bốn nguyên tử đất, nước, lửa và không khí tồn tại ngay từ đầu,
không thay đổi và không thể tiêu diệt được. Mọi đặc tính của các vật thể đều phụ thuộc
vào chỗ chúng là kết hợp của các nguyên tử nào, vào số lượng và tỷ lệ kết hợp của các 18
nguyên tử. Ý thức, lý tính và các giác quan cũng xuất hiện do sự kết hợp của các
nguyên tử và sẽ mất đi khi sự kết hợp đó bị tan rã.
Về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức: Lokayata giải thích trên quan điểm duy vật
thô sơ, mộc mạc. Theo họ, ý thức là thuộc tính cố hữu của cơ thể; rời khỏi nhục thể thì
người ta không thể có ý thức. Khi con người chết đi, thể xác tan ra thì ý thức về “cái tôi” cũng hết.
Về nhận thức luận và lôgic học: Lokayata mang tính chất duy cảm, thừa nhận cảm
giác là nguồn gốc duy nhất xác thực của nhận thức. Chỉ có cái gì cảm giác biết được thì
mới tồn tại. Các giác quan có thể tri giác được sự vật bởi vì bản thân các giác quan cũng
gồm các nguyên tố giống như các sự vật. Theo họ, suy lý, kết luận hay những chứng
minh của kinh Véđa đều là những phương pháp sai lầm của nhận thức. Từ đó, họ phủ
nhận sự tồn tại của Thượng đế, linh hồn.
Về đạo đức học: Lokayata phê phán những thuyết tuyên truyền cho sự chấm dứt
khổ đau bằng cách kiềm chế mọi ham muốn, dục vọng và hy vọng cuộc sống tốt đẹp ở
thế giới bên kia sau khi chết. Họ chủ trương hãy để cho mọi người sống, hoạt động,
hưởng thụ tất cả mọi thứ trong cuộc đời nên đạo đức học của họ được gọi là “chủ nghĩa khoái lạc”.
- Triết học Phật giáo
Phật giáo là một trường phái triết học - tôn giáo xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ
VI tr.CN ở miền bắc Ấn Độ, vùng biên giới giữa Ấn Độ và Nêpan hiện nay. Đạo Phật ra
đời trong làn sóng phản đối sự ngự trị của đạo Bàlamôn và chế độ đẳng cấp, lý giải căn
nguyên nỗi khổ và tìm con đường giải thoát con người khỏi nỗi khổ.
Người sáng lập Đạo Phật là Thích Ca Mâu Ni (8 tháng 4 năm 563 tr.CN và mất
năm 483 tr. CN) có tên thật là Siddharha (Tất Đạt Đa) họ là Gautama (Cù Đàm), là con
trai đầu của vua Suddhodana (Tịnh Phạn) dòng họ Sakya, có kinh đô là thành
Kapilavatthu (Ca - tỳ - la - vệ). Năm 29 tuổi, ông từ bỏ cuộc sống vương giả đi tu luyện
tìm con đường diệt trừ nỗi đau khổ của chúng sinh. Sau 6 năm khổ luyện, ông đã “ngộ
đạo”, tìm ra chân lý về “tứ diệu đế” và “thập nhị nhân duyên”.
Tư tưởng triết lý Phật giáo ban đầu chỉ truyền miệng, sau đó viết thành văn thể
hiện trong kinh “Tam tạng” (Tripitaka) gồm Tạng kinh (Sutra - pitaka) ghi lời Phật dạy;
Tạng luật (Vinaya - pitaka) gồm các giới luật của đạo Phật; Tạng luận (Abhidarma- 19
pitaka) gồm các bài kinh, các tác phẩm luận giải, bình chú về giáo pháp của cao tăng, học giả về sau.
Thế giới quan Phật giáo
Thế giới quan Phật giáo nguyên thủy chứa đựng những yếu tố duy vật và biện
chứng chất phác, phủ nhận tư tưởng về đấng sáng tạo Brahman, cũng như phủ nhận
“Cái tôi” (Atman) và đưa ra quan niệm “vô ngã” và “vô thường”.
“Vô ngã” bao hàm tư tưởng cho rằng, vạn vật trong vũ trụ chỉ là sự “giả hợp” do
hội đủ nhân duyên nên thành ra “có” (tồn tại). Ngay bản thân sự tồn tại của thực thể con
người cũng do nhân duyên kết hợp và được tạo thành bởi hai thành phần là thể xác
(Rupa - sắc) và tinh thần (Nâma - danh), do sự hợp tan của ngũ uẩn (sắc - thụ - tưởng-
hành - thức). Duyên hợp ngũ uẩn thì là ta, duyên tan ngũ uẩn thì không còn là ta, là diệt,
nhưng không phải là mất đi mà là trở lại với ngũ uẩn. Ngay các yếu tố của ngũ uẩn cũng
luôn biến hóa theo luật nhân quả không ngừng nên vạn vật, con người cứ biến hóa vụt
mất, vụt còn, không có sự vật riêng biệt tồn tại mãi mãi, không có cái tôi thường định (An - Atman).
“Vô thường” gắn liền với phạm trù “vô ngã”, “vô thường” nghĩa là vũ trụ là vô
thủy, vô chung; vạn vật trong thế giới chỉ là dòng biến hóa vô thường, vô định không do
ai sáng tạo nên; tất cả đều biến đổi theo luật nhân quả, theo quá trình sinh - trụ - dị - diệt
(thành - trụ - hoại - không) và chỉ có sự biến hóa ấy là thường hữu. Tất cả mọi sự vật,
hiện tượng tồn tại trong vũ trụ đều bị chi phối bởi luật nhân duyên. Cái nhân (hetu) nhờ
có cái duyên (pratitya) mới sinh ra được mà thành quả (phla). Quả lại do cái duyên mà
thành ra nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà thành quả mới...và cứ biến đổi mãi mãi.
Vì không nhận thức được sự biến ảo vô thường đó nên người ta nhầm tưởng là cái
tôi tồn tại mãi, cái gì cũng là của ta nên con người cứ khát ái, tham dục, hành động
chiếm đoạt nhằm thỏa mãn những ham muốn, dục vọng đó tạo ra những kết quả, gây
nên nghiệp báo (karma), mắc vào bể khổ triền miên (sam - sara) tức là mắc vào kiếp luân hồi.
Nhân sinh quan Phật giáo
Thừa nhận quan niệm “luân hồi” và “nghiệp” trong Upanishad, Phật giáo đặc biệt
chú trọng triết lý nhân sinh, đặt mục tiêu tìm kiếm sự giải thoát cho chúng sinh khỏi
vòng luân hồi, nghiệp báo để đạt tới trạng thái tồn tại Niết bàn (nirvana). 20