Tiểu luận lịch sử đảng cộng sản Việt Nam | Trường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
Tiểu luận lịch sử đảng cộng sản Việt Nam | Trường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Tài liệu gồm 20 trang giúp bạn tham khảo, củng cố kiến thức và ôn tập đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TIỂU LUẬN CUỐI KÌ
HỌC PHẦN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỀ TÀI
NHỮNG ĐỔI MỚI VỀ GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO CỦA ĐẢNG
ĐƯỢC THÔNG QUA TẠI ĐẠI HỘI LẦN THỨ XIII
SO VỚI ĐẠI HỘI LẦN THỨ XII
Họ và tên: Dương Diệu Ly Mã sinh viên: 20032404 Ngày sinh: 29/04/2002
Mã lớp học phần: HIS1001 4
Hà nội, ngày 24 tháng 7 năm 2021 LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên em xin chân thành cảm ơn cô vì sự tâm huyết, chu đáo trong
suốt quá trình giảng dạy chúng em trong những tuần học vừa qua! Dù thời
gian học ngắn và không thể gặp mặt trực tiếp vì lí do dịch bệnh, nhưng em
cũng như tất cả các bạn trong lớp đều cảm nhận được sự yêu thương, tình cảm
và những hy vọng mà cô muốn gửi gắm qua những bài học dành cho chúng
em. Vì thời gian và lượng kiến thức của em còn hạn chế nên trong bài làm sẽ
có nhiều sai sót, em mong cô đóng góp ý kiến để em rút kinh nghiệm và hoàn
thiện hơn trong những lần làm bài tiếp theo. Em xin chân thành cảm ơn cô ạ! MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................
1. Tính cấp thiết của đề tài.............................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài.................................................................2
3. Đối tượng nghiên cứu................................................................................2
4. Phạm vi nghiên cứu...................................................................................2
5. Phương pháp nghiên cứu...........................................................................2
6. Kết cấu của đề tài.......................................................................................2
PHẦN NỘI DUNG........................................................................................
CHƯƠNG 1. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT TRIỂN
GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO ...............................................................................3
1.1. Khái quát về giáo dục.............................................................................3
1.1.1. Hệ khái niệm........................................................................................3
1.1.2. Tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo.............................................3
1.2. Quan điểm “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” của Đảng qua các kỳ đại
hội..................................................................................................................4
Tiểu kết chương 1..........................................................................................5
CHƯƠNG 2. ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG VỀ GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO
THÔNG QUA ĐẠI HỘI LẦN THỨ XII......................................................5
2.1. Tình hình chung......................................................................................5
2.2. Nội dung cơ bản đường lối của Đảng về giáo dục, đào tạo trong Đại hội
lần thứ XII .....................................................................................................6
2.3. Ý nghĩa đường lối của Đảng...................................................................9
Tiểu kết chương 2..........................................................................................9
CHƯƠNG 3.ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG VỀ GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO
THÔNG QUA ĐẠI HỘI LẦN THỨ XIII.....................................................10
3.1. Tình hình chung......................................................................................10
3.2. Nội dung cơ bản đường lối của Đảng về giáo dục, đào tạo thông qua Đại
hội lần thứ XIII..............................................................................................10
3.3. Ý nghĩa đường lối của Đảng...................................................................11
Tiểu kết chương 3..........................................................................................12
CHƯƠNG 4. NHỮNG ĐỔI MỚI VỀ GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO CỦA ĐẠI
HỘI XIII SO VỚI ĐẠI HỘI XII....................................................................12
4.1. Bài học kinh nghiệm từ Đại hội XII.......................................................12
4.1.1. Những hạn chế trong việc thực hiện đường lối của Đảng...................12
4.1.2. Bài học kinh nghiệm............................................................................13
4.2. Những điểm mới về phát triển giáo dục, đào tạo trong văn kiện Đại hội
XIII của Đảng................................................................................................13
Tiểu kết..........................................................................................................14
KẾT LUẬN....................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................. 1 MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ trước đến nay, giáo dục - đào tạo là một vấn đề hết sức quan trọng
trong đời sống chính trị của mỗi quốc gia, là biểu hiện trình độ của các nước,
liên quan trực tiếp đến nhiều lĩnh vực khác trong xã hội. Phát triển giáo dục
chính là cơ sở để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, cùng cố
quốc phòng - an ninh, vì vậy Đảng và nhà nước ta từ trước đến nay đều rất coi
trọng, tập trung mọi nỗ lực để phát triển giáo dục, dựa vào giáo dục và lấy
giáo dục làm động lực.
Chính sách giáo dục được thể hiện ngay trong Điều 35 của Hiến pháp
1992: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”, đến năm 2001 được sửa
đổi thành: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Như vậy, ngay trong
quy định của Hiến pháp, Đảng và Nhà nước ta đã xác định được tầm quan
trọng của giáo dục. Theo quan điểm của nhà nước ta, không có sự đầu tư nào
mang lại nhiều lợi ích như đầu tư cho giáo dục, bởi giáo dục là hoạt động mà
qua đó hình thành nên nhân cách của công dân, đào tạo nên những người lao
động có nghề, năng động và sáng tạo, là tiền đề cho sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Đặc biệt trong thế kỉ 21, sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng
khoa học công nghệ, nổi bật là công nghệ thông tin, truyền thông, kinh tế tri
thức có vai trò ngày càng quan trọng trong quá trình phát triển lực lượng sản
xuất, tính cạnh tranh cao của các quốc gia khiến Việt Nam vừa có nhiều cơ
hội nhưng cũng có không ít thách thức. Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế, Đảng, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam xác định giáo dục và
đào tạo như một lợi thế, nhân tố, chìa khóa, động lực mới cho sự thúc đẩy nền
kinh tế - xã hội phát triển. Nắm bắt kịp thời những xu thế chung của thế giới,
Đảng ta đã đề ra các chủ trương, đường lối mới đúng đắn, chính xác để phát
triển giáo dục, đào tạo, được thể hiện rõ ràng thông qua kỳ họp Đại hội Đảng
lần thứ XIII. Đại hội lần này đã đưa ra nhiều điểm đổi mới và sáng tạo so với
Đại hội lần thứ XII năm 2016, phù hợp với bối cảnh đất nước và toàn thế giới 2
hiện nay. Từ đó làm cơ sở xác định phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp đẩy
mạnh đổi mới căn bản, toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, đưa
Việt Nam trở thành một quốc gia giàu mạnh, tiến bộ.
Xuất phát từ lý do trên, tôi quyết định lựa chọn đề tài: “Những đổi mới
về giáo dục, đào tạo của Đảng được thông qua tại Đại hội lần thứ XIII so
với Đại hội lần thứ XII”.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển
giáo dục, đào tạo được thông qua tại Đại hội lần thứ XII và Đại hội lần thứ
XIII, từ đó chỉ ra những điểm đổi mới, sáng tạo trong đường lối của Đảng trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu
Chủ trương, đường lối của Đảng và những đổi mới về phát triển giáo dục, đào tạo.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu không gian: trên phạm vi nước Việt Nam
- Phạm vi nghiên cứu thời gian: Đại hội Đảng lần thứ XII (năm 2016) và
Đại hội Đảng lần thứ XIII (năm 2021)
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích tài liệu: Gồm các nghị quyết, bài tham luận, bài
báo và một số đề tài nghiên cứu liên quan. Việc phân tích tài liệu thông qua
nội dung, các kết luận chính của tài liệu giúp tôi có được cái nhìn tổng quan
về vấn đề đang tìm hiểu, từ đó điều chỉnh hướng nghiên cứu cho phù hợp.
- Ngoài ra còn có các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp
lịch sử và logic, tổng hợp và phân tích đánh giá, so sánh đối chiếu, khái quát
hóa,… để làm rõ vấn đề.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
tiểu luận gồm 4 chương:
- Chương 1: Quan điểm của Đảng về phát triển giáo dục, đào tạo 3
- Chương 2: Đường lối của Đảng về giáo dục, đào tạo thông qua Đại hội lần thứ XII
- Chương 3: Đường lối của Đảng về giáo dục, đào tạo thông qua Đại hội lần thứ XIII
- Chương 4: Những đổi mới về giáo dục, đào tạo trong Đại hội XIII PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT TRIỂN
GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO
1.1. Khái quát về giáo dục
1.1.1. Hệ khái niệm
Giáo dục là một hiện tượng xã hội, diễn ra quá trình trao truyền tri thức,
kinh nghiệm giữa con người với con người thông qua ngôn ngữ và các hệ
thống ký hiệu khác nhằm kế thừa và duy trì sự tồn tại, tiến hóa và phát triển của nhân loại.
Chính sách giáo dục là các chính sách do Đảng đặt ra nhằm điều chỉnh
lĩnh vực giáo dục và thực hiện những mục tiêu yêu cầu của giáo dục.
Quốc sách hàng đầu là những chính sách trọng tâm có vai trò chính yếu
của đất nước, luôn dành được sự ưu tiên hàng đầu, quan tâm đặc biệt của
Đảng, của nhà nước, được thể hiện qua một loạt các chính sách, các biện
pháp, phạm vi thực hiện và nguồn ngân sách chi cho chính sách đó.
1.1.2. Tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo
Giáo dục và đào tạo là cơ sở thiết yếu để đào tạo nguồn nhân lực, đặc
biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó không chỉ là nhân tố có ý nghĩa quyết định đến
đào tạo nguồn nhân lực cho nền sản xuất xã hội mà còn là trung tâm đào tạo
nhân tài cho đất nước. Trong quá trình phát triển nền kinh tế tri thức hiện nay,
vai trò của nhân tài nói riêng, của đội ngũ tri thức nói chung ngày càng chiếm
vị trí đặc biệt quan trọng không chỉ đối với sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội
mà cả trong lĩnh vực an ninh quốc phòng, trong đối nội và đối ngoại. 4
Phát triển giáo dục và đào tạo sẽ nâng cao về mặt bằng dân trí, yếu tố
thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội của môi trường quốc gia, góp phần ổn
định chính trị xã hội. Từ đó xây dựng nền móng văn hóa dân tộc, phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.
1.2. Quan điểm “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” của Đảng qua các kỳ đại hội
Bắt đầu từ Đại hội lần thứ IV của Đảng, Bộ Chính trị Ban chấp hành
Trung ướng khóa IV đã ra Nghị quyết số 14 ngày 11/01/1979 về cải cách giáo
dục, trong đó xem giáo dục là bộ phận quan trọng của cuộc cách mạng tư
tưởng; thực thi nhiệm vụ chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ từ nhỏ đến lúc
trưởng thành; thực hiện tốt nguyên lý giáo dục “học đi đôi với hành, giáo dục
kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội”.
Đại hội Đảng lần thứ VIII một lần nữa khẳng định vai trò quan trọng của
giáo dục đào tạo: “Giáo dục và đào tạo phải thực sự trở thành quốc sách hàng
đầu”. Coi trọng cả ba mặt của giáo dục: mở rộng quy mô, nâng cao chất
lượng và phát huy hiệu quả để đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhấn mạnh quan điểm hợp tác đào tạo với
các nước trên thế giới.
Đại hội Đảng lần thứ IX nêu rõ: “Phát triển giáo dục đào tạo là một
trong những động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là
điều kiện để phát huy nguồn lực con người – yếu tố cơ bản để phát triển xã
hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Tiếp tục nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống
trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục, thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa”.
Đại hội lần thứ X đã xác định mục tiêu giáo dục là nhằm bồi dưỡng thế
hệ trẻ tinh thần yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, lý tưởng chủ nghĩa xã hội, lòng
nhân ái, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học, ý chí tiến thủ lập
nghiệp, không cam chịu nghèo nàn, đào tạo lớp người lao động có kiến thức
cơ bản, làm chủ năng lực nghề nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực, nhạy 5
cảm với chính trị, có ý chí vươn lên về khoa học công nghệ, đồng thời, tiếp
tục khẳng định: “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc
sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta khẳng định “Phát triển
giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách
hàng đầu, đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển”. Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 8, khóa XI cũng đề ra mục tiêu tổng quát trong đổi mới giáo
dục và đào tạo: “Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt,
học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây
dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa,
hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục
và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc”. Tiểu kết chương 1
Nội dung chủ yếu của chương 1 là làm rõ các khái niệm, nhấn mạnh đến
vị trí, tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo, từ đó lý giải cho quan điểm
“Giáo dục là quốc sách hàng đầu” của Đảng ta. Tiếp đó hệ thống lại vấn đề
giáo dục qua các kỳ họp Đại hội luôn gắn với quan điểm nêu trên, thể hiện
tính nhất quán trong chủ trương, đường lối của Đảng và nhà nước, từ đó làm
cơ sở cho việc tiếp tục thực hiện và đổi mới căn bản đường lối trong bối cảnh
đất nước hiện nay, đặc biệt là trong Đại hội lần thứ XII năm 2016 và Đại hội lần thứ XII năm 2021. CHƯƠNG 2
ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG VỀ GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO
THÔNG QUA ĐẠI HỘI LẦN THỨ XII 2.1. Tình hình chung
Đổi mới giáo dục đạt được một số kết quả bước đầu. Tập trung ngân
sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo; việc huy động các nguồn lực xã hội cho
phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn được quan
tâm; quy mô giáo dục tiếp tục được mở rộng phát triển. Quản lý khoa học, 6
công nghệ có đổi mới, thực hiện cơ chế tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp khoa
học, công nghệ. Thị trường khoa học, công nghệ bước đầu hình thành. Đầu tư
cho khoa học, công nghệ được nâng lên.
Tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém như: việc đào tạo nguồn
nhân lực trình độ cao vẫn còn hạn chế; chưa chuyển mạnh sang đào tạo theo
nhu cầu của xã hội. Chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học lạc hậu,
đổi mới chậm; chất lượng giáo dục toàn diện giảm sút, chưa đáp ứng được
yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quản lý nhà nước về giáo dục còn bất cập.
2.2. Nội dung cơ bản đường lối của Đảng về giáo dục, đào tạo trong
Đại hội lần thứ XII
Đại hội XII của Đảng diễn ra từ ngày 20-1-2016 đến ngày 28-1-2016 đã
xác định đổi mới căn bản toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân
lực là một trong những định hướng lớn đề hiện thực hóa mục tiêu phấn đấu
sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Quan điểm về giáo dục đào tạo trong văn kiện Đại hội XII của Đảng là bước
phát triển mới trong tư duy lý luận của Đảng, được thể hiện ở một số nội dung như sau:
Một là, đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực.
Đại hội XI của Đảng đề ra 12 nhiệm vụ tổng quát trong đó có nhiệm vụ
“Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực”.
Đây là quan điểm tổng quát, bao trùm của Đảng về giáo dục, đào tạo. Đổi mới
căn bản toàn diện giáo dục, đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp
thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ
chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện và sự lãnh đạo của Đảng, sự
quản lý nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục đào tạo; đổi
mới ở tất cả các bậc học, ngành học nhằm hướng đến phát triển phẩm chất,
năng lực của người học. 7
Hai là, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao.
Lần đầu tiên Đảng đưa ra quan điểm đổi mới căn bản toàn diện giáo dục,
đào tạo gắn với chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Nguồn
nhân lực chất lượng cao là bộ phận quan trọng của nguồn nhân lực quốc gia,
là nguồn nhân lực đáp ứng các tiêu chí về chất lượng cao và trình độ cao;
đồng thời là nguồn lực con người được đào tạo và sử dụng có chất lượng, hiệu
quả cao với tổng hợp các phẩm chất và nhân cách, năng lực và thể lực con
người. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra
mạnh mẽ, cần đặc biệt coi trọng việc xây dựng, phát triển nguồn nhân lực cao,
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cộng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của nước ta.
Ba là, giáo dục là quốc sách hàng đầu.
Kế thừa tư tưởng của các Đại hội Đảng và các nghị quyết về giáo dục
đào tạo trước, Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Giáo dục đào tạo là
quốc sách hàng đầu”. Giáo dục đào tạo là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và
toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, được ưu tiên đi trước
trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển giáo
dục đào tạo là phát triển nguồn nhân lực là một bộ phận quan trọng của phát
triển kinh tế - xã hội phải được ưu tiên và quan tâm thật sự.
Bốn là, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo
dục đào tạo theo hướng coi trọng phẩm chất, năng lực của người học.
Đây là sự tiếp tục khẳng định quan điểm của Nghị quyết Trung ương 8
khóa XI. Mục tiêu này thể hiện sự chuyển biến căn bản về chất lượng, hiệu
quả về giáo dục đào tạo, hướng đến xây dựng một nền giáo dục hiện đại, nhân
văn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo về tổ quốc thời kỳ mở cửa hội nhập quốc tế.
Quan điểm này của Đảng thể hiện mục tiêu giáo dục theo tinh thần đổi
mới: Chuyển quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển
toàn diện năng lực và phẩm chất người học, chú trọng dạy chữ, dạy người, 8
dạy nghề. Tập trung dạy cách học khuyến khích tự học, tạo cơ sở đề người
học tự cập nhật tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Giáo dục đào tạo phải
thấm nhuần phương châm học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn.
Năm là, hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống
giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập.
Đây là một chủ trương lớn của Đảng, có vai trò quan trọng nhằm phát
huy nguồn lực con người. Bản chất xã hội học tập là môi trường giáo dục
trong đó mọi người đều có điều kiện, cơ hội học tập, với thiết chế giáo dục
mở, mềm dẻo, linh hoạt, thích ứng với điều kiện học của từng người, từng tổ
chức. Xã hội học tập là một môi trường trong đó mọi lực lượng xã hội, mọi
tầng lớp xã hội đều tự giác học tập, cả xã hội trở thành một trường học lớn.
Học tập suốt đời là quá trình học tập diễn ra trong suốt cuộc đời, dựa
trên 4 trụ cột: học để biết, học để làm việc, học để làm người, học để cùng nhau chung sống.
Sáu là, đổi mới căn bản công tác giáo dục, đào tạo.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Đổi mới căn bản công tác
giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng cường quyền tự chủ và
trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo; coi trọng quản lý chất lượng”.
Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, đào tạo trên tinh thần tăng
cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục, đào tạo; phát
huy vai trò của hội đồng nhà trường. Thực hiện giám sát của các chủ thể trong
nhà trường và xã hội; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra của cơ quan
quản lý các cấp; bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch.
Bảy là, phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu
đổi mới giáo dục và đào tạo.
Đảng khẳng định: “Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộp quản lý, đáp
ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà
giáo theo cấp học và trình độ đào tạo”. Có cơ chế tuyển sinh để tuyển chọn
những người thực sự có phẩm chất, năng lực vào ngành sư phạm. Thực hiện 9
chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học và trình độ đào tạo. Khuyến
khích đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Tám là, đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia
đóng góp của toàn xã hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục, đào tạo.
Giáo dục, đào tạo có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế- xã hội,
an ninh, quốc phòng, là nguồn lực trí tuệ trong nguồn lực phát tiển của đất
nước. Phát triển giáo dục, đào tạo góp phần quan trọng vào việc nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
tổ quốc, hội nhập quốc tế, những nội dung, quan điểm, mục tiêu, phương
hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển giáo dục, đào tạo cần được tuyên
truyền, tổ chức thực hiện để nhanh chóng đưa Nghị quyết Đại hội XII của
Đảng đi vào cuộc sống.
2.3. Ý nghĩa đường lối của Đảng
Sau 30 năm đổi mới đất nước, có thể thấy rằng Đảng ta luôn kiên định
định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào tạo, coi phát
triển giáo dục là ưu tiên hàng đầu, gắn liền phát triển giáo dục với phát triển
các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng đã nêu lên những quan điểm cơ
bản về giáo dục, đào tạo. Có thể xem đây như là những triết lý giáo dục ở tầm
cỡ quốc gia - dân tộc trong thời kỳ Việt Nam đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế. Tiểu kết chương 2
Chương 2 tập trung nêu lên các nội dung cơ bản về đường lối phát triển
giáo dục và đào tạo được Đảng và nhà nước thông qua trong kỳ họp Đại hội
lần thứ XII, xác định tình hình chung còn nhiều bất cập, hạn chế từ đó nhấn
mạnh hơn vai trò của giáo dục, đào tạo, tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ,
phương hướng để “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, phát triển con người”. 10 CHƯƠNG 3
ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG VỀ GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO
THÔNG QUA ĐẠI HỘI LẦN THỨ XIII 3.1. Tình hình chung
Sau 5 năm, với sự chỉ đạo và theo dõi sát sao của Đảng và Nhà nước,
ngành giáo dục đã có nhiều đổi mới quan trọng, từng bước đổi mới phù hợp
với thời đại tiến bộ, phát triển của khoa học, công nghệ. Năm 2019-2020 là
một năm học đặc biệt vì sự xuất hiện của dịch bệnh Covid-19 khiến giáo dục,
đào tạo nước ta gặp nhiều khó khăn, chịu ảnh hưởng nặng nề. Tuy nhiên với
sự chỉ đạo của Đảng, ngành giáo dục vẫn hoàn thành các nhiệm vụ và đạt được kết quả tốt.
Tuy nhiên vẫn còn điểm hạn chế, giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng
sống chưa được chú trọng đúng mức; quản lý nhà nước về giáo dục còn bất
cập; chất lượng đội ngũ không đồng đều, một bộ phận vẫn chưa đáp ứng được
nhu cầu đổi mới. Chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế, thiếu nhân lực
trong các ngành kinh tế mũi nhọn, các ngành phục vụ kinh tế số.
3.2. Nội dung cơ bản đường lối của Đảng về giáo dục, đào tạo thông
qua Đại hội lần thứ XIII
Thứ nhất, tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của giáo dục và
đào tạo, yêu cầu phải xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để thực hiện có
hiệu quả chủ trương giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là
quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước.
Thứ hai, nhấn mạnh giáo dục và đào tạo thích ứng với Cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế, do vậy phải đẩy mạnh phát triển
nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao. Đồng thời, đổi mới và nâng
cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt; bảo đảm
thống nhất với chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
Thứ ba, cụ thể hóa yêu cầu hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân, sắp
xếp lại hệ thống trường học, phát triển hài hoà giữa giáo dục công lập và
ngoài công lập, giữa các vùng, miền,... Đa dạng hóa các loại hình đào tạo. 11
Thúc đẩy xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời. Củng cố và nâng cao chất
lượng phổ cập giáo dục.
Thứ tư, tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ phát triển giáo dục và đào tạo.
Đào tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách
nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công
nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế.
Thứ năm, xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển giáo dục
Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, lấy chất
lượng và hiệu quả đầu ra làm thước đo. Xây dựng và triển khai thực hiện lộ
trình tiến tới miễn học phí đối với học sinh phổ thông, trước hết là đối với học
sinh tiểu học và trung học cơ sở.
Thứ sáu, đặt ra mục tiêu Việt Nam tham gia thị trường đào tạo nhân lực
quốc tế, vì vậy cần hoàn thiện cơ chế, chính sách để đẩy mạnh và nâng cao
chất lượng, hiệu quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ của các
cơ sở giáo dục và đào tạo. Gắn kết chặt chẽ giáo dục và đào tạo với nghiên
cứu, triển khai, ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ mới; hình
thành các trung tâm nghiên cứu xuất sắc, các nhóm đổi mới sáng tạo mạnh.
Thứ bảy, tiếp tục hoàn thiện các khâu, các yếu tố của quá trình đào tạo
theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế. Đẩy mạnh đổi mới
đồng bộ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý và quản trị
nghiệp vụ chuyên môn trong giáo dục và đào tạo, từng bước thực hiện có hiệu
quả cơ chế tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình của các cơ sở giáo dục và
đào tạo. Xây dựng và thực hiện có hiệu quả chiến lược hợp tác và hội nhập
quốc tế về giáo dục và đào tạo.
3.3. Ý nghĩa đường lối của Đảng
Những chủ trương, đường lối của Đảng trong văn kiện Đại hội lần thứ
XIII có ý nghĩa hết sức quan trọng, thể hiện vai trò to lớn trong định hướng phát triển đất nước: 12
Khẳng định tính kế thừa, sự nhất quán trong quan điểm của Đảng ta coi
giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu để Việt Nam phát triển nhanh và
bền vững, thực hiện khát vọng phát triển đất nước trong thời gian tới.
Thể hiện sự nhanh nhạy của Đảng, Nhà nước Việt Nam, thích ứng với
xu thế thời đại, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, thành tựu của giáo dục
và đào tạo trên thế giới, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Tiếp tục làm sáng tỏ hệ thống lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, có lộ trình và bước đi phù hợp, lấy con người là trung tâm, trên nền
tảng của sự phát triển giáo dục và đào tạo. Tiểu kết chương 3
Trong văn kiện của Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục ưu tiên đẩy mạnh thực
hiện chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; nhấn mạnh
giáo dục và đào tạo thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và
hội nhập quốc tế. Vì vậy, đường lối của Đảng trong Đại hội XIII có ý nghĩa
quan trọng, thể hiện vai trò to lớn trong việc định hướng phát triển dất nước
phù hợp với bối cảnh hiện nay. CHƯƠNG 4
NHỮNG ĐỔI MỚI VỀ GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO
CỦA ĐẠI HỘI XIII SO VỚI ĐẠI HỘI XII
4.1. Bài học kinh nghiệm từ Đại hội XII
4.1.1. Những hạn chế trong việc thực hiện đường lối của Đảng
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII nhận
định: “Đổi mới giáo dục và đào tạo khoa học, công nghệ chưa thực sự trở
thành động lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Đổi mới tư duy,
hoạt động giáo dục và đào tạo còn chậm, chưa quyết liệt, chưa đáp ứng yêu
cầu đặt ra; một số nhiệm vụ, giải pháp đổi mới còn thiếu hệ thống, chưa ổn định”.
Hệ thống giáo dục và đào tạo chưa đảm bảo tính đồng bộ và liên thông
giữa các trình độ, các phương thức đào tạo. Đào tạo vẫn thiếu gắn kết với 13
nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao
động. Nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội.
Ngoài ra, chưa chú trọng đúng mức đến phát triển phẩm chất và kỹ năng
người học, Giáo dục “làm người”, đạo đức, lối sống còn bị xem nhẹ. Đồng
thời, cảnh báo nguy cơ tái mù chữ có xu hướng tăng ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
4.1.2. Bài học kinh nghiệm
Mọi chủ trương, đường lối đều phải xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực
tiễn, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra.
Quá trình thực hiện không được nóng vội, chủ quan, cần phải lựa chọn
cách làm phù hợp, hiệu quả, có hệ thống.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, giáo dục đào tạo phải
luôn đi kèm với việc phát triển kĩ năng mềm, ngoại ngữ ở tất cả các cấp học.
4.2. Những điểm mới về phát triển giáo dục, đào tạo trong văn kiện
Đại hội XIII của Đảng
Thứ nhất, ở văn kiện Đại hội XII, nội dung giáo dục, đào tạo được đề
cập ở mục “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tăng cường tiềm lực khoa
học, công nghệ”, đến Đại hội XIII vấn đề này được để ở một mục riêng với
tiêu đề: “Phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhân
lực chất lượng cao của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập
quốc tế”. Tên đề mục cũng được đổi từ “phát triển” sang “nâng cao”, nếu
trước đây chỉ nhấn mạnh “phát triển nhanh giáo dục và đào tạo” thì đến nay
Đảng ta chú trọng vào việc nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực đáp
ứng nhu cầu cho cuộc cách mạng công nghiệp và hội nhập quốc tế.
Thứ hai, trước đây chỉ đề cập “chú trọng phát triển, bồi dưỡng, phát huy
nhân tài; đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức”, điểm mới lần này
nhấn mạnh đổi mới chế độ tuyển dụng, sử dụng, trọng dụng nhân tài trong
quản lý, quản trị nhà nước, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đặc
biệt, chú ý phát hiện, bồi dưỡng, đãi ngộ, thu hút nhân tài cho phát triển kinh tế - xã hội. 14
Thứ ba, văn kiện Đại hội XII mới chỉ dừng lại ở việc “đẩy mạnh dạy
nghề và gắn kết đào tạo với doanh nghiệp”, đến Đại hội XIII đề cao giáo dục
nghề nghiệp, vẫn trên tinh thần bảo đảm thống nhất chủ trương đổi mới căn
bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, nhưng yêu cầu tập trung nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động, nhất là ở nông thôn…
Thứ tư, Đảng ta ngày càng quan tâm đến việt phát triển việc phát triển
các kĩ năng mềm, kĩ năng ngoại ngữ cũng như công nghệ thông tin, nắm bắt
kịp thời xu hướng toàn cầu hóa: “Đưa vào chương trình giáo dục phổ thông
nội dung kỹ năng số và ngoại ngữ tối thiểu, chú trọng xây dựng nền tảng kỹ
năng nhận thức và hành vi cho học sinh phổ thông”.
Thứ năm, trong nội dung sắp xếp lại hệ thống trường học, Đại hội XII
chỉ nêu quan tâm phát triển giáo dục, dạy nghề trong vùng đồng bào dân tộc
thiểu số và các vùng khó khăn, thì Đại hội XIII đã chú ý đầy đủ, toàn diện
hơn bao gồm cả vùng biên giới, hải đảo, các đối tượng chính sách. Đặt ra
nhiệm vụ: "Thí điểm chuyển đổi mô hình trường công lập sang cơ sở giáo dục
do cộng đồng, doanh nghiệp quản lý và đầu tư phát triển", đề xuất chuyển đổi
trường đại học công lập kém hiệu quả sang mô hình hợp tác công - tư. Đây là
bước phát triển về quan điểm giáo dục đào tạo công lập và ngoài công lập.
Thứ sáu, nội dung được xây dựng theo hướng mở cho phát triển giáo
dục phổ thông. Đặc biệt lần đầu tiên, Đảng ta xác định lộ trình phấn đấu đến
năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực. Tiểu kết chương 4
Căn cứ vào tình hình và nội dung về đường lối của Đảng qua hai Đại hội
ở chương 2 và chương 3, chương 4 chỉ ra được những hạn chế, thiếu sót trong
văn kiện và bài học kinh nghiệm rút ra từ kết quả của việc thực hiện đường lối
Đại hội XII, từ đó xác định được điểm mới cơ bản trong chủ trương phát triển
giáo dục và đào tạo của Đảng ta trong bối cảnh hiện nay còn nhiều phức tạp và thách thức. KẾT LUẬN 15
Như vậy, giáo dục và đào tạo có vai trò hết sức quan trọng, ảnh hưởng
trực tiếp đến tiến trình phát triển của xã hội. Sự nghiệp giáo dục và đạo tạo
nước ta đang từng bước phát triển vững chắc, là nền tảng để cho việc nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Đặc biệt khi Việt Nam đang
trên con đường thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế thì
việc đầu tư cho phát triển giáo dục, đào tạo là điều cần thiết và phải được
quan tâm, ưu tiên hàng đầu.
Cũng qua các kỳ họp Đại hội, đặc biệt là Đại hội XII và Đại hội XIII, ta
thấy rằng Đảng và Nhà nước ta vẫn luôn trung thành, giữ vững lập trường
quan điểm “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Đây là quan điểm vô cùng đúng
đắn, thể hiện được tầm nhìn chiến lược sắc bén, tiến bộ của Đảng. Để có thể
đưa nền giáo dục nước nhà phát triển và có chuyển biến tốt đẹp hơn nữa trong
tương lai đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần phải có những chủ trương, đường lối
đúng đắn, hợp lí, được cập nhật đổi mới liên tục, đảm bảo tính thống nhất và hiệu quả.
So với Đại hội XII, văn kiện Đại hội XIII về phát triển giáo dục, đào tạo
có nhiều điểm mới sáng tạo hơn, phù hợp với tình hình đất nước hơn nhưng
vẫn dựa trên nền tảng cơ bản của đại hội XII. Mặc dù có những điểm chỉ thay
đổi rất ít nhưng cũng thể hiện sự đánh giá tỉ mỉ, quan tâm đặc biệt của nhà
nước về phát triển giáo dục, quyết tâm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao, đáp ứng cho nhu cầu của xã hội, khẳng định vị thế của Việt Nam, sánh
vai với các cường quốc trên thế giới. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia sự thật.
2. Đảng cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia sự thật.
3. Hội đồng Lý luận Trung ương (2021), Những điểm mới trong các văn kiện
Đại hội XIII của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia sự thật. 16
4. Học viện Chính trị Công an Nhân dân (2021), Những điểm mới trong văn
kiện Đại hội XIII của Đảng về giáo dục và đào tạo,
http://hvctcand.edu.vn/llct-xdll-cand/nghien-cuu-trao-doi/nhung-diem-moi-
trong-van-kien-dai-hoi-xiii-cua-dang-ve-giao-duc-va-dao-tao-2118, ngày 20/7/2021.
5. Nguyễn Thị Minh Trang (2015), Quan điểm “Giáo dục là quốc sách hàng
đầu” của Đảng cộng sản Việt Nam,
https://caodangcsnd2.edu.vn/Content/ImagesUpload/9/10/2015/22.pdf , ngày 19/7/2021.
6. Phạm Thị Phượng (2015), Đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về giáo
dục - đào tạo trong giai đoạn hiện nay,
https://caodangcsnd2.edu.vn/Content/ImagesUpload/9/10/2015/23.pdf, ngày 19/7/2021.