TIỂU LUẬN LUẬT TÀI CHÍNH | Trường Đại học Kinh Tế - Luật
Tổng quan về Bội chi ngân sách nhà nước. Điều kiện, trách nhiệm của các cơ quan liên quan và các nguồn bù đắp bội chi ngân sách nhà nước. Nguyên nhân, cách khắc phục xử lý bội chi ngân sách nhà nước. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Lý thuyết tài chính tiền tệ
Trường: Trường Đại học Kinh Tế - Luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45650915
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT KHOA LUẬT KINH TẾ TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: LUẬT TÀI CHÍNH
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Giảng viên hướng dẫn: Th.S Phan Phương Nam
Nhóm sinh viên thực hiện: 1. Hoàng Kim Ngân K215011012 2. Ngô Thị Thanh Nhàn K215011015 3. Bá Thị Tuyền K215011036 4. Phan Thị Hoàng Anh K215012161 5. Lê Thị Thu Huệ K215012171
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 06 tháng 4 năm 2023 MỤC LỤC lOMoAR cPSD| 45650915 MỞ ĐẦU
NSNN là công cụ quan trọng được nhà nước sử dụng để khắc phục những tồn
tại của kinh tế thị trường, huy động các nguồn lực kinh tế vĩ mô, cũng như điều tiết
thu nhập để đảm bảo công bằng xã hội. Những việc đó được thực hiện thông qua hoạt
động thu chi NSNN. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam vẫn còn đang
phải đối diện với nhiều nguy cơ và thách thức đan xen như kinh tế chậm phục hồi sau
đại dịch; suy giảm tăng trưởng, việc sử dụng NSNN chưa đúng cách, đúng lúc; tình
trạng bao cấp tràn lan; sự yếu kém trong việc quản lý thu chi ngân sách vẫn còn tiềm
ẩn thì việc thâm hụt, bội chi ngân sách luôn là một vấn đề cần được chú trọng nhiều
hơn. Việc bội chi NSNN quá lớn cũng như kéo dài sẽ có ảnh hưởng như thế nào đến
nền kinh tế? Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, nhóm chúng em xin được phân tích đề
tài: “Quy định của pháp luật về bội chi NSNN” 2 lOMoAR cPSD| 45650915 I.
Tổng quan về Bội chi ngân sách nhà nước: 1. Khái niệm
Khoản 1 Điều 4 Luật NSNN 2015 quy định nghĩa như sau: “Bội chi NSNN
bao gồm bội chi ngân sách trung ương và bội chi ngân sách địa phương cấp tỉnh.
Bội chi ngân sách trung ương được xác định bằng chênh lệch lớn hơn giữa tổng chi
ngân sách trung ương không bao gồm chi trả nợ gốc và tổng thu ngân sách trung
ương. Bội chi ngân sách địa phương cấp tỉnh là tổng hợp bội chi ngân sách cấp tỉnh
của từng địa phương, được xác định bằng chênh lệch lớn hơn giữa tổng chi ngân
sách cấp tỉnh không bao gồm chi trả nợ gốc và tổng thu ngân sách cấp tỉnh của từng địa phương.”
Tóm lại, bội chi ngân sách (thâm hụt ngân sách) là tình trạng khi tổng nguồn
thu không đủ trang trải tổng các nhiệm chi của một Chính phủ, một địa phương, một
đơn vị trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). 2. Phân loại:
Tại Khoản 1 Điều 4 Nghị định 163/2016/NĐ-CP quy định:
1. Bội chi NSNN bao gồm bội chi ngân sách trung ương và bội chi ngân sách địa phương cấp tỉnh: a)
Bội chi ngân sách trung ương được xác định bằng chênh lệch lớn hơn giữa
tổngchi ngân sách trung ương và tổng thu ngân sách trung ương trong một năm ngân sách; b)
Bội chi ngân sách địa phương cấp tỉnh là tổng hợp bội chi ngân sách cấp
tỉnhcủa từng địa phương, được xác định bằng chênh lệch lớn hơn giữa tổng chi ngân
sách cấp tỉnh và tổng thu ngân sách cấp tỉnh của từng địa phương trong một năm ngân sách.
II. Điều kiện, trách nhiệm của các cơ quan liên quan và các nguồn bù đắp bội
chi ngân sách nhà nước 1. Điều kiện được phép bội chi ngân sách nhà nước
Vấn đề thiếu hụt NSNN xảy ra ở tất cả các nước trên thế giới và việc lựa chọn
cách thức xử lý bội chi NSNN sao cho phù hợp với yêu cầu phát triển thực tế và sự 3 lOMoAR cPSD| 45650915
phát triển trong tương lai cho một đất nước luôn là bài toán khó cho các chính trị gia.
Có nhiều cách để chính phủ bù đắp thiếu hụt ngân sách như tăng thu từ thuế, phí, lệ
phí; giảm chi ngân sách, vay nợ trong nước, vay nợ nước ngoài hoặc phát hành tiền
để bù đắp chi tiêu… Sử dụng phương pháp nào, nguồn nào tùy thuộc vào điều kiện
kinh tế và chính sách kinh tế tài chính trong từng thời kỳ của mỗi quốc gia. Vì vậy,
ngân sách ngân sách cấp tỉnh từng địa phương chỉ được phép bội chi khi đáp ứng đủ
các quy định và điều kiện sau: Theo điểm a, c khoản 5 Điều 7 Luật NSNN 2015
a) Chi ngân sách địa phương cấp tỉnh được bội chi; bội chi ngân sách địa phương
chỉ được sử dụng để đầu tư các dự án thuộc kế hoạch đầu tư công trung hạn đã được
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định;
c) Bội chi ngân sách địa phương được tổng hợp vào bội chi NSNN và do Quốc hội
quyết định. Chính phủ quy định cụ thể điều kiện được phép bội chi ngân sách địa
phương để bảo đảm phù hợp với khả năng trả nợ của địa phương và tổng mức bội chi chung của NSNN.
Trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày kết thúc năm ngân sách trước năm xây
dựng dự toán, không phát sinh nợ quá hạn đối với các khoản nợ vay phải thanh toán
trong năm ngân sách trước năm xây dựng dự toán. Trường hợp đặc biệt, Bộ Tài chính trình Chính phủ
Vay bù đắp bội chi ngân sách địa phương được huy động chủ yếu từ các khoản
vay trung và dài hạn. Hằng năm, căn cứ diễn biến thị trường vốn, Bộ Tài chính trình
Chính phủ tỷ lệ tối thiểu các khoản vay bù đắp bội chi ngân sách địa phương có thời
hạn vay trung và dài hạn
Số dư nợ vay của ngân sách địa phương, bao gồm cả số vay bù đắp bội chi
ngân sách theo dự toán, không vượt mức dư nợ vay quy định tại khoản 6 Điều này.
Về mức dư nợ vay của ngân sách địa phương căn cứ theo khoản 6 Điều 7 Luật NSNN: a)
Đối với thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh không vượt quá 60% số
thu ngân sách địa phương được hưởng theo phân cấp 4 lOMoAR cPSD| 45650915 b)
Đối với các địa phương có số thu ngân sách địa phương được hưởng theo
phâncấp lớn hơn chi thường xuyên của ngân sách địa phương không vượt quá 30%
số thu ngân sách được hưởng theo phân cấp; c)
Đối với các địa phương có số thu ngân sách địa phương được hưởng theo
phâncấp nhỏ hơn hoặc bằng chi thường xuyên của ngân sách địa phương không vượt
quá 20% số thu ngân sách được hưởng theo phân cấp.
2. Trách nhiệm của các cơ quan liên quan
Nhiệm vụ quyền hạn của Quốc hội đó là quyết định dự toán NSNN chi tiết
từng địa phương; nguồn bù đắp bội chi NSNN và tổng mức vay của NSNN, bao gồm
vay để bù đắp bội chi NSNN và vay để trả nợ gốc của NSNN.
Ngân hàng nhà nước Việt Nam có nhiệm vụ hối hợp với Bộ Tài chính xây
dựng và triển khai thực hiện phương án vay để bù đắp bội chi NSNN.
Hội đồng nhân dân các cấp có nhiệm vụ:
Căn cứ vào nhiệm vụ thu, chi ngân sách được cấp trên giao và tình hình
thực tế tại địa phương, quyết định: Tổng mức vay của ngân sách địa phương,
bao gồm vay để bù đắp bội chi ngân sách địa phương và vay để trả nợ gốc của ngân sách địa phương;
Ngoài ra, Hội đồng nhân dân các cấp còn quyết định kế hoạch tài chính
05 năm gồm các nội dung: mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể của kế hoạch
tài chính 05 năm; khả năng thu NSNN trên địa bàn; thu, chi ngân sách địa
phương, bội chi ngân sách địa phương và giới hạn mức vay của ngân sách địa
phương; giải pháp chủ yếu để thực hiện kế hoạch;
Quyết định thu chi ngân sách địa phương, nguồn bù đắp bội chi ngân
sách địa phương hằng năm.
3. Phân biệt tạm thời thiếu hụt ngân sách và bội chi ngân sách nhà nước: 5 lOMoAR cPSD| 45650915 Tiêu chí
Tạm thời thiếu hụt ngân sách Bội chi NSNN
Chỉ diễn ra tại một thời điểm
Khoản 1, Điều 4, Luật NSNN
trong năm ngân sách mà tại thời 2015:“Bội chi NSNN bao gồm bội
điểm đó nhà nước cần tiền chi
chi ngân sách trung ương và bội
nhưng không có tiền để chi.
chi ngân sách địa phương cấp
tỉnh. Bội chi ngân sách trung
ương được xác định bằng chênh
lệch lớn hơn giữa tổng chi ngân
sách trung ương không bao gồm
chi trả nợ gốc và tổng thu ngân
sách trung ương. Bội chi ngân Khái niệm
sách địa phương cấp tỉnh là tổng
hợp bội chi ngân sách cấp tỉnh
của từng địa phương, được xác
định bằng chênh lệch lớn hơn
giữa tổng chi ngân sách cấp tỉnh
không bao gồm chi trả nợ gốc và
tổng thu ngân sách cấp tỉnh của
từng địa phương”
Khoản 1, Điều 4, NĐ 163/2016/ NĐ-CP
Có ở ngân sách trung ương và
Có ở ngân sách trung ương và địa
Nơi cấp địa phương là: ngân sách cấp phương là: Ngân sách cấp tỉnh, ngân sách
tỉnh, ngân sách cấp huyện và Không có bội chi ở ngân sách cấp diễn ra ngân sách
cấp xã. huyện và ngân sách cấp xã. Việc dự
Nhà nước không biết trước việc
toán vay bù đắp bội chi ngân sách. liệu của này. nhà nước
Hay Khoản 2 Điều 43 LNSNN
Theo điểm g Khoản 2 Điều 42 Luật NSNN
2015 Điều 58, Luật NSNN 2015
2015 thì thấy được rằng Nhà nước có thể dự
1. Trường hợp quỹ ngân sách
trung ương thiếu hụt tạm thời thì 6 lOMoAR cPSD| 45650915
được tạm ứng từ quỹ dự trữ tài chính trung
Ngân sách Nhà nư 2015 “4. Bội chi
ương và các nguồn tài chính hợp pháp khác
ngân sách trung ương được bù đắp
để xử lý và phải hoàn trả trong năm ngân từ các nguồn sau:
sách; nếu quỹ dự trữ tài chính và các nguồn a)
Vay trong nước từ phát
tài chính hợp pháp khác không đáp ứng
hànhtrái phiếu chính phủ, công
Cách thức được thì Ngân hàng Nhà nước xử trái xây dựng Tổ quốc và các
lý Việt Nam tạm ứng cho ngân sách trung khoản vay trong nước khác theo
ương theo quyết định của Thủ tướng Chính quy định của pháp luật;
phủ. Việc tạm ứng từ Ngân hàng Nhà nước b)
Vay ngoài nước từ các
Việt Nam phải được hoàn trả trong năm khoảnvay của Chính phủ các
ngân sách, trừ trường hợp đặc biệt do Ủy nước, các tổ chức quốc tế và phát
ban thường vụ Quốc hội quyết định.
hành trái phiếu chính phủ ra thị
2. Trường hợp quỹ ngân sách trường quốc tế, không bao gồm
cấp tỉnh thiếu hụt tạm thời thì các khoản vay về cho vay lại.
được tạm ứng từ quỹ dự trữ tài 5. Bội chi ngân sách địa phương:
chính địa phương, quỹ dự trữ tài a)
Chi ngân sách địa phương
chính trung ương và các nguồn cấptỉnh được bội chi; bội chi ngân
tài chính hợp pháp khác để xử lý sách địa phương chỉ được sử dụng
và phải hoàn trả trong năm nội để đầu tư các dự án thuộc kế hoạch
dung của kế hoạch tài chính, đầu tư công trung hạn đã được Hội
NSNN 03 năm có dự báo về số đồng nhân dân cấp tỉnh quyết
bội chi ngân sách. Như vậy có định;
thể thấy nhà nước có thể dự b)
Bội chi ngân sách địa
đoán trước việc bội chi ngân phươngđược bù đắp bằng các
sách. Khoản 4, Khoản 5, Điều 7 nguồn vay trong nước từ phát hành Luật trái ngân sách.
phiếu chính quyền địa phương,
3. Trường hợp quỹ ngân sách vay lại từ nguồn Chính phủ vay về cấp
huyện và cấp xã thiếu hụt cho vay lại và các khoản vay tạm thời thì
được tạm ứng từ quỹ trong nước khác theo quy định dự trữ tài chính 7 lOMoAR cPSD| 45650915
địa phương và của pháp luật; các nguồn tài chính hợp pháp c) Bội chi
ngân sách địa phương khác để xử lý và phải hoàn trả được tổng hợp
vào bội chi NSNN trong năm ngân sách. và do Quốc hội quyết định.
Chính Khoản 1 Điều 36 NĐ 163/2016/ phủ quy định cụ thể điều kiện
NĐ-CP và Khoản 1 Điều 8 NĐ được phép bội chi ngân sách địa
24/2016/NĐ-CP quy định: phương để bảo đảm phù hợp với “Ngân quỹ
nhà nước tạm thời khả năng trả nợ của địa phương thiếu hụt được bù
đắp từ các và tổng mức bội chi chung của
Cách thức nguồn sau: NSNN. xử lý
a. Phát hành tín phiếu kho bạc
và Khoản 2, Khoản 3, Điều 4 NĐ
để bù đắp ngân quỹ nhà nước 163/2016/NĐ-CP tạm
thời thiếu hụt theo quy định tại Khoản 2 Điều này.
b. Thu hồi trước hạn các Khoản
đang gửi có kỳ hạn tại các ngân
hàng thương mại.”
Mối quan Khoản 2 Điều 8 NĐ 24/2016/ hệ giữa NĐ-CP
tạm thời “Số tiền vay bù đắp ngân quỹ thiếu
hụt nhà nước tạm thời thiếu hụt ngân sách
được hạch toán riêng và không và bội chi tính
vào bội chi NSNN. Chi trả ngân sách lãi vay
bù đắp ngân quỹ nhà nước tạm thời thiếu hụt
được tính trong chi nghiệp vụ quản lý ngân quỹ
nhà nước; không thực
hiện cấp phát từ NSNN đối với nước Việt Nam
Khoản chi trả lãi này.” Chính phủ.”
Khoản 2, Điều 28 Luật NSNN
Khoản 1, Điều 28 Luật NSNN
Nhiệm vụ, quyền hạn 2015 2015
“Tạm ứng cho NSNN để xử lý
của Ngân thiếu hụt tạm thời quỹ NSNN
hàng Nhà theo quyết định của Thủ tướng 8 lOMoAR cPSD| 45650915
“Phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng và triển NSNN.”
khai thực hiện phương án vay để bù đắp bội chi
III. Nguyên nhân, cách khắc phục xử lý bội chi ngân sách nhà nước 1. Nguyên nhân
Bội chi NSNN, hay thậm hụt ngân sách là do Nhà nước đã chi quá mức tổng
thu ngân sách. Việc này có thể đến từ nhiều nguyên nhân, tuy nhiên, ta có thể nhìn
nhận chúng ở hai khía cạnh:
Thứ nhất, khi đứng dưới góc nhìn khách quan, bội chi NSNN là do chu kỳ
kinh tế, tình hình an ninh thế giới hay thiên tai, đại dịch. Đây là những nguyên nhân
mà bất kỳ ai cũng không thể lường trước được, mà Nhà nước phải tăng mức chi để
đảm bảo an ninh quốc phòng, an toàn quốc gia hay sự an toàn của người dân nước
mình trong khi đó, mức thu ngân sách có thể sụt giảm do những yếu tố mang tính bất
ngờ, khó kiểm soát và tiêu cực.
Bội chi NSNN do tác động của chu kỳ kinh tế được giải thích như sau: Nền
kinh tế phát triển theo chu kỳ, có tăng, có giảm, tức là sẽ có khoảng thời gian nền
kinh tế phồn thịnh và cũng sẽ xuất hiện khủng hoảng kinh tế. Mức bội chi NSNN sẽ
bị ảnh hưởng bởi chu kỳ kinh tế theo tỷ lệ thuận. Tức là, khi nền kinh tế ở giai đoạn
phát triển tốt đẹp thì mức bội chi sẽ giảm do nguồn thu ngân sách tăng lên, trong khi
các khoản chi có thể giữ nguyên hoặc giảm và ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào tình
trạng khó khăn, các khoản chi phải tăng lên để đảm bảo nhu cầu của người dân, các
chính sách để phục hồi nền kinh tế trong khi nguồn thu giảm đi do không có khả năng
nộp thuế, chi trả phí hoặc lệ phí,… 9 lOMoAR cPSD| 45650915
Đối với nguyên nhân là thiên tai, đại dịch, an ninh quốc phòng cũng tương tự,
khi xảy ra các trường hợp trên, để có thể ổn định tình hình xã hội, bảo đảm an toàn
cho người dân thì Nhà nước buộc phải chi một khoản lớn có thể vượt quá mức dự
tính khiến ngân sách có khả năng bị bội chi.
Đại dịch COVID-19 là một trong những nguyên nhân tác động đến chi ngân
sách, khiến mức bội chi ngân sách không chỉ tại Việt Nam mà còn hầu hết các nước
trên thế giới tăng lên. Trước tác động nặng nề mà đại dịch gây ra, các nước đã phải
có các chính sách an sinh xã hội, hỗ trợ người dân chống dịch. Tại Việt Nam, tổng
các gói cứu trợ từ ngân sách khoảng 307.580 tỷ đồng cũng là những gói kích thích
lớn chưa từng có như: gói hỗ trợ an sinh, xã hội 61.580 tỷ đồng; gói hỗ trợ gia hạn
thuế và tiền thuê đất 180.000 tỷ đồng; gói hỗ trợ phí và lệ phí tối thiểu 40.000 tỷ
đồng; gói giảm giá điện 11.000 tỷ đồng; Gói hỗ trợ cước internet, viễn thông 15.000
tỷ đồng; gói hỗ trợ 26.000 tỷ đồng hỗ trợ cho người lao động và người sử dụng lao
động gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch COVID-19. Và việc tung ra nhiều gói cứu
trợ như vậy, đã làm tăng áp lực chi và khiến mức bội chi ngân sách tăng theo. Áp lực
chi ngân sách tăng khiến mức bội chi năm 2020 tăng lên 265.000 tỷ đồng.
Với góc nhìn chủ quan, bội chi NSNN đến từ các chính sách cơ cấu thu - chi
ngân sách bất hợp lý, tức là kế hoạch thực hiện các nhiệm vụ thu - chi ngân sách của
Nhà nước chưa phù hợp với tình hình thực tế hoặc chưa được thực hiện hiệu quả. Ví
như việc tiêu tốn quá nhiều ngân sách cho chuẩn bị vũ trang, quân đội trong thời bình
là một khoản chi không cần thiết và phù hợp với thực tế. Việc thực hiện thu - chi chưa
hiệu quả, không đúng tiến độ, kế hoạch đã đề ra, mục tiêu đến từ những vấn đề nhức
nhối trong xã hội và pháp luật như những hành vi vi phạm pháp luật NSNN, chẳng
hạn như trốn thuế, tham nhũng, lãng phí nguồn lực tài chính; hoặc khả năng dự tính
thu - chi và phân bổ nguồn lực tài chính chưa tốt, còn nhiều bất cập. Ngoài ra, khi
Nhà nước với chủ trương, chính sách đẩy mạnh đầu tư, kích cầu thì mức bội chi ngân
sách sẽ tăng; và ngược lại, khi giảm vốn đầu tư và tiêu dùng thì mức bội chi ngân
sách sẽ giảm. Đây được gọi là bội chi cơ cấu. 10 lOMoAR cPSD| 45650915
Trong điều kiện đất nước bình thường, không gặp bất kỳ thiên tai, đại dịch thì
nguyên nhân của bội chi sẽ gồm bội chi cơ cấu và bội chi chu kỳ (bội chi theo chu kỳ kinh tế).
2. Cách khắc phục và xử lý
Thiếu hụt ngân sách là vấn đề mà hầu như quốc gia nào cũng đối mặt và cần
tìm giải pháp để khắc phục, xử lý. Việc áp dụng biện pháp nào sẽ tùy thuộc vào tình
hình kinh tế, thực trạng của quốc gia đó. Các biện pháp được đề xuất như sau:
Đầu tiên, Nhà nước có thể phát hành thêm tiền. Trên thực tế, đây là giải pháp
dễ dàng triển khai nhất tuy nhiên, đi kèm với nó là rủi ro cực kỳ cao khi việc phát
hành thêm tiền để bù đắp khoản thiếu hụt ngân sách sẽ đi kèm với việc lạm phát kinh
tế. Việc này sẽ gây nhiễu loạn nền kinh tế, khiến đồng nội tệ mất giá nhanh hơn, gây
ra khủng hoảng về cả kinh tế, chính trị và xã hội. Thậm chí, việc này còn có thể khiến
cho các khoản nợ nước ngoài trở nên trầm trọng hơn do đồng nội tệ đã mất giá so với
đồng ngoại tệ. Tuy nhiên, rủi ro này sẽ giảm đi, nghĩa là mức lạm phát sẽ có thể thấp
đi nếu Nhà nước phát hành thêm một lượng tiền vừa đủ và tại thời điểm thích hợp để
giảm áp lực về bội chi ngân sách và kích thích nền kinh tế phát triển.
Vay nợ trong và ngoài nước cũng là một giải pháp dành cho bội chi NSNN.
Trong đó, việc phát hành trái phiếu là một hình thức vay trong nước. Ngoài ra, vay
trong nước còn có thể thông qua công trái xây dựng hoặc các khoản vay trong nước
khác theo quy định của pháp luật. Vay nợ trong nước dành cho bội chi ngân sách ở
cả địa phương và trung ương. Mặt trái của việc vay nợ trong nước chính là nó sẽ
khiến lãi suất tăng, vòng nợ - trả lãi - bội chi sẽ làm tăng mạnh các khoản nợ của công
chúng và kéo theo đó là áp lực chi của NSNN những năm tiếp theo.
Đối với việc vay nước ngoài, thông thường Nhà nước sẽ vay từ vốn vay ODA
(Official development assistance) hay còn gọi là khoản vay hỗ trợ phát triển chính
thức. Vốn vay ODA thường là các khoản vay dài hạn không lãi suất hoặc lãi suất
thấp. Bên cạnh đó, Nhà nước còn có thể vay từ các khoản vay ưu đãi đến từ Chính
phủ các nước, các định chế tài chính các nước, các tổ chức quốc tế hoặc phát hành
trái phiếu Chính phủ ra thị trường quốc tế,… Tuy nhiên, việc vay nợ nước ngoài cũng
kéo theo nhiều rủi ro như bị các nước chủ nợ can thiệp vào nền kinh tế, chính trị, văn 11 lOMoAR cPSD| 45650915
hoá của nước nhà. Vì vậy, vay nước ngoài chỉ áp dụng đối với bội chi ngân sách ở
cấp trung ương. Đồng thời, khi trả nợ nước ngoài hoặc phát hành trái phiếu ngoại tệ,
Nhà nước sẽ phải sử dụng những đồng ngoại tệ (thường là những ngoại tệ mạnh có
cầu lớn), mà có thể Nhà nước không đáp ứng đủ để thanh toán và cũng có khả năng
làm khủng hoảng tỷ giá.
Trên thực tế, Việt Nam thường sẽ phát hành trái phiếu chính phủ và vay nợ
nước ngoài để bù đắp bội chi để kiềm chế lạm phát. Theo dự toán NSNN năm 2023,
nhu cầu bù đắp bội chi của ngân sách trung ương là 430.500 tỷ đồng; cho trả nợ gốc
là 190.515 tỷ đồng. Vì thế, nguồn bù đắp chủ yếu từ vay trong nước là thông qua phát
hành Trái phiếu Chính phủ.
Thứ ba, Nhà nước có thể tăng các khoản thu để tổng thu có thể đáp ứng nhu
cầu chi và giảm áp lực phần nào bội chi ngân sách. Các khoản thu khi được tăng lên,
đặc biệt là thuế (mang tính bắt buộc) sẽ khiến tổng thu của ngân sách tăng lên đáng
kể. Nhưng đây không phải là một giải pháp tối ưu vì việc tăng thuế cần phải có thời
gian và mức tăng cũng phải hợp lý nếu không sẽ gây phản tác dụng vì cốt lõi của việc
tăng nguồn thu nên đến từ sự tăng trưởng kinh tế. Khi tăng nguồn thu bất hợp lý sẽ
ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người dân như sản xuất, kinh doanh, chất lượng
cuộc sống và thậm chí hậu quả sẽ nặng nề hơn nếu việc tăng thu gây áp lực khiến các
doanh nghiệp bị mất đi động lực tham gia sản xuất, kinh doanh dẫn đến việc mất cân
bằng trong thị trường và mất đi sự cạnh tranh phát triển kinh tế giữa các quốc gia.
Bên cạnh việc tăng thu, để giảm bội chi ngân sách thì Nhà nước còn có thể
thắt chặt các khoản chi ngân sách. Tiết kiệm tối đa các khoản đầu tư công, tức là chỉ
chi đầu tư cho các dự án trọng điểm, mang tính chủ đạo và chi thường xuyên của
ngân sách sẽ giúp giảm đáng kể mức bội chi ngân sách. Lý do cho việc tiết kiệm các
khoản đầu tư công và chi thường xuyên là vì các khoản chi dành để trả nợ công là
không thể bị trì hoãn và các khoản chi tích lũy cho đầu tư và phát triển sẽ gây mâu
thuẫn và khó khăn nếu bị cắt giảm do ảnh hưởng đến yêu cầu tăng trưởng phát triển
kinh tế - xã hội. Vì vậy, giải pháp này nên áp dụng đối với các khoản chi đầu tư chưa
thực sự cần thiết, với các dự án chưa có khả năng thực hiện, chưa có triển vọng; với
các khoản chi thường xuyên không phù hợp và không hiệu quả. Biện pháp này tuy 12 lOMoAR cPSD| 45650915
mang tính tình thế, nhưng lại là biện pháp quan trọng khi Nhà nước đối diện với tình
trạng thậm hụt ngân sách và lạm phát.
Cuối cùng, thậm hụt ngân sách có thể được giải quyết bằng cách tăng cường
vai trò quản lý của Nhà nước trong việc bình ổn giá cả, ổn định nền kinh tế thông qua
ban hành các chính sách vĩ mô, nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý trong các khâu
chấp hành NSNN. Vai trò của Nhà nước trong xử lý các tình huống, vấn đề và quyết
định để đạt được hiệu quả cao trong quá trình thu - chi ngân sách là vô cùng quan
trọng. Nhà nước cần có những phương án và hành động thiết thực để giải quyết tình
trạng của ngân sách nước mình. Có thể cho rằng, chính sách hợp lý được nhắc đến ở
đây chính là tăng thu, giảm chi và sử dụng ngân sách có hiệu quả. Bên cạnh đó, Nhà
nước cần phải quan tâm hơn đến các vấn đề phức tạp trong khâu thực hiện ngân sách,
tránh làm lãng phí, thất thoát nguồn tài chính.
Đối với tình hình tại Việt Nam vào năm 2023, Bộ Tài chính cần quyết liệt thực
hiện thu NSNN, phấn đấu hoàn thành dự toán thu được giao ở mức cao nhất, trên cơ
sở tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật về thu NSNN, tăng cường quản
lý thu; tích cực hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và phát triển kinh tế, nuôi dưỡng nguồn
thu. Bộ điều hành chi NSNN chặt chẽ, tiết kiệm, hiệu quả, trong phạm vi dự toán
Quốc hội quyết định; tiếp tục cơ cấu lại chi NSNN, ưu tiên chi đầu tư phát triển các
công trình hạ tầng kinh tế - xã hội quan trọng, thiết yếu... Bộ kiểm soát chặt chẽ bội
chi, nợ công, các nghĩa vụ nợ dự phòng của NSNN, nợ của chính quyền địa phương,
bảo đảm an toàn tài chính quốc gia, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay. IV.
Thực trạng bội chi ngân sách nhà nước
Trong 20 năm đất nước ta tiến hành công cuộc đổi mới tính đến nay, thì năm
1993 là năm ngân sách Việt Nam bội chi cao nhất, lên tới 6,5% GDP chủ yếu Nhà
nước tập trung xây dựng đường dây tải điện 500KV phía Bắc. Các năm tiếp theo, bội
chi được giữ ở mức thấp dưới 5% GDP. Bình quân trong giai đoạn này, bội chi NSNN
đạt khoảng 4% GDP.Năm 1993, nhà nước ta chủ trương chấm dứt việc phát hành tiền
để bù đắp bội chi NSNN.
Những năm gần đây, tình hình NSNN có những bước cải tiến và đạt được một
số thành tựu đáng kể. Thu ngân sách đã có sự tăng trưởng nhanh chóng, cơ cấu tăng 13 lOMoAR cPSD| 45650915
trưởng tích cực, nền tài chính ngày càng nâng cao sự tự chủ. Thu ngân sách đã ngày
càng tăng trong những năm tiếp theo, đến nay thu trong nước ngày càng chiếm tỷ
trọng cao trong tổng thu ngân sách, cụ thể là chiếm khoảng 97% tổng thu, tức điều
đó không những đáp ứng được nhu cầu chi thường xuyên mà còn giành ra một khoản
ngày càng tăng dành cho đầu tư phát triển và chi trả nợ. Thuế đã thực sự trở thành
nguồn thu chủ yếu trong nước chiếm khoảng 90% tổng thu NSNN.
Về chi ngân sách đã từng bước được cơ cấu theo hướng xoá bỏ bao cấp, thực
hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tăng chi đầu tư xã hội cơ sở hạ tầng phát triển
nguồn nhân lực xoá đói giảm nghèo.Chú trọng chi trả nợ theo đúng cam kết, nâng
cao năng lực đảm bảo chi ngân sách ngày càng tiết kiệm và có hiệu quả hơn. Điều
hành NSNN từng bước chủ động và linh hoạt hơn, dự trữ dự phòng của ngân sách đã
góp phần tích cực vào việc ổn định quá trình sản xuất kinh doanh và đời sống khi nền
kinh tế có những biến động bất thường như khủng hoảng tài chính tiền tệ, thiên tai lũ
lụt… Chính vì lẽ đó mà tình hình bội chi ngân sách trong những năm qua đã có những
cải thiện đáng kể góp phần quan trọng vào việc ổn định và phát triển nền kinh tế.
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được đó thì chúng ta cũng đã gặp
phải không ít những sai lầm, còn có những hạn chế cần phải rút kinh nghiệm và khắc
phục.Tiềm lực tài chính tuy đã được tăng lên đáng kể nhưng còn nhỏ bé và vẫn không
theo kịp nhu cầu tăng chi để giải quyết những nhu cầu bức xúc của nền kinh tế.Nền
tảng của nguồn thu ngân sách chưa thực sự vững chắc, cơ cấu thu đã được đổi mới
nhưng chưa thực sự toàn diện.Trong khi nhu cầu về xây dựng cơ sở hạ tầng, phát
triển giáo dục, khoa học công nghệ, xoá đói giảm nghèo, thực hiện quá trình công
nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước đang là áp lực lớn cho NSNN.
Thêm vào đó thì việc phân bổ sử dụng NSNN còn nhiều bất cập, hiệu quả đã
được nâng lên nhưng chưa cao, vẫn còn tình trạng thất thoát trong sử dụng nguồn
ngân sách. Chi cho đầu tư xây dựng cơ bản còn phân tán, công tác quy hoạch, chuẩn
bị đầu tư, lập dự án chưa được chú trọng nên chất lượng công trình không cao. Chế
độ tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách vừa thiếu vừa lạc hậu so với thực tế gây khó
khăn cho việc cấp kinh phí, kiểm tra, kiểm soát trong chi ngân sách. Trong chi thường
xuyên của chi NSNN thì chi cho lương còn chiếm tỷ trọng lớn (chiếm 50% tổng chi 14 lOMoAR cPSD| 45650915
thường xuyên), điều đó là do việc tinh giảm biên chế trong khu vực hành chính sự
nghiệp hiệu quả còn thấp. Việc thực hành chống lãng phí, tiết kiệm chưa được các
cấp quan tâm đầy đủ; vẫn còn có nhiều hoạt động mang tính phô trương, hội họp,
chiêu đãi không cần thiết vẫn diễn ra ở nhiều nơi; công tác kiểm tra còn mang tính
hình thức, chưa thực sự phát huy hiệu quả. Chính điều này đã góp phần làm cho ngân
sách không đủ để chi, tình trạng bội chi ngân sách vẫn còn diễn ra ở nhiều địa phương,
nhiều lĩnh vực trong đời sống kinh tế - xã hội. IV. Hạn chế của quy định pháp luât
về bộ i chi ngân sách nhà nước:̣ 1. Hạn chế
Pháp luật bội chi NSNN ở Việt nam hiện nay, bên cạnh những ưu điểm của
như đã nêu trên, nó còn nhiều những hạn chế, bất cập cần phải sửa đổi, hoàn thiện, cụ thể:
Thứ nhất, về bội chi và phương pháp tính bội chi NSNN
Luật NSNN 2002 và văn bản hướng dẫn quy định bội chi NSNN là bội chi
ngân sách trung ương (NSTW) và được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và ngoài
nước. Bảo đảm bố trí ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn. Chi NSTW bao
gồm chi trả nợ gốc và lãi các khoản tiền do Chính phủ vay. Như vậy, khoản chi ngân
sách này được phản ánh 2 lần trong ngân sách: lần thứ nhất, sử dụng nguồn vay để
thực chi cho các nhiệm vụ như chi đầu tư, dự trữ,… lần thứ hai, được phản ánh trong
chi trả nợ gốc khi đến hạn trả nợ vay. Do đó, mức bội chi NSNN của Việt Nam thường
cao hơn so với phương pháp tính bội chi ngân sách theo thông lệ quốc tế.
Bội chi được tính bằng số vay mới trong năm, chi NSNN bao gồm toàn bộ chi
trả nợ; không trừ đi trả nợ gốc. Phạm vi tính bội chi NSNN còn chưa phản ánh đầy
đủ các khoản vay của Chính phủ như: vay bằng trái phiếu Chính phủ cho lĩnh vực
giáo dục, y tế, giao thông, thuỷ lợi,…
Thứ hai, về phạm vi tính bội chi ngân sách:
Theo quy định của pháp luật hiện hành: Bội chi NSNN không phản ánh khoản
vay bằng phát hành trái phiếu Chính phủ cho lĩnh vực giáo dục, y tế, giao thông, thuỷ
lợi; khoản vay về cho vay lại,… Tuy nhiên, những khoản vay này được tính vào nghĩa
vụ nợ của Chính phủ, nợ công và được bố trí để trả nợ. Nhiều nước trên thế giới đều 15 lOMoAR cPSD| 45650915
thực hiện nguyên tắc phản ánh đầy đủ các khoản vay thuộc nghĩa vụ nợ của Chính phủ vào cân đối NSNN.
Hiện nay, Chính phủ thực hiện vay ngoài nước với 2 mục tiêu được xác định
là: (1) vay ưu đãi từ ODA cho bù đắp bội chi NSNN để đầu tư các chương trình, dự
án thuộc kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội không có khả năng hoàn vốn trực tiếp; (2)
vay ưu đãi, vay thương mại của các nước và các tổ chức quốc tế để thực hiện cho vay
lại đối với các dự án đầu tư phát triển có khả năng thu hồi vốn (bao gồm cả các dự án
cơ sở hạ tầng). Khoản vay về cho vay lại này không tính vào bội chi NSNN. Về lâu
dài, nên bỏ cơ chế Chính phủ vay về cho vay lại, các doanh nghiệp tự vay trên thị
trường vốn và tự bố trí nguồn trả nợ; trường hợp thật cần thiết thì Nhà nước bảo lãnh.
Trước mắt, khi còn tiếp tục thực hiện cơ chế vay về cho vay lại thì thực hiện theo dõi
và quản lý thông qua Quỹ tích lũy trả nợ, không phản ánh vào cân đối NSNN (không
tính vào bội chi NSNN) vì đây là khoản vay đã xác định được nguồn để trả nợ, mặt
khác đối tượng nhận vay chủ yếu là các doanh nghiệp, không phải là đối tượng của NSNN.
Thứ ba, về giới hạn mức huy động vốn của ngân sách cấp tỉnh.
Quy định hiện hành có quy định giới hạn mức dư nợ từ nguồn vốn huy động
không quá 30% (100% đối với Thủ đô Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh) đối với khoản
vay của chính quyền địa phương để đầu tư dự án có khả năng thu hồi vốn thì không
tính vào giới hạn dư nợ trên theo đúng quy định.
Thực hiện chính sách này đã tạo điều kiện cho các địa phương chủ động huy
động thêm nguồn vốn cho đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế – xã hội ở địa phương,
nhất là những thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, tỉnh Khánh Hoà,
… đã thực hiện khá tốt cơ chế này để phát triển cơ sở hạ tầng mà vẫn đảm bảo nguồn trả nợ.
Thứ tư, chưa có quy định cụ thể về quản lý vốn đầu tư phát triển từ nguồn NSNN.
Quản lý vốn đầu tư phát triển là một nội dung quan trọng trong quản lý chi
NSNN. Hiện nay, chưa có quy định đầy đủ về quản lý vốn đầu tư phát triển (lập dự
toán, phân bổ vốn, thanh toán và quyết toán vốn, dự án đầu tư), mà chỉ được quy định 16 lOMoAR cPSD| 45650915
ở các văn bản dưới Luật (Nghị định của Chính phủ, Thông tư của các Bộ), dẫn đến
tính pháp lý không cao, trong tổ chức thực hiện còn tình trạng bố trí vốn cho nhiều
dự án chưa đúng với quy hoạch, kế hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt, chưa
đủ thủ tục, chưa căn cứ vào nguồn lực và còn dàn trải, làm cho dự án đầu tư triển
khai chậm, kéo dài thời gian thực hiện, giảm hiệu quả vốn đầu tư NSNN.
Thứ năm, về các quy định khác có liên quan đến quản lý NSNN có tác động
đến tình trạng bội chi NSNN.
Đất nước ta đang trong quá trình phát triển, quy mô nền kinh tế vẫn còn nhỏ,
trình độ lao động chưa cao, hiệu quả trong sản xuất kinh doanh còn hạn chế… Chính
vì vậy nguồn thu NSNN chưa lớn và không thưc sự vững chắc, một số nguồn thu lớn
vẫn phụ thuộc vào giá cả thị trường thế giới (thu từ dầu thô, thuế xuất nhập khẩu …)
điều đó đã gây khó khăn cho công tác tăng thu, giảm chi và kiềm chế bội chi NSNN ở nước ta.
Những quy định của pháp luật còn chưa chặt chẽ dẫn đến tình trạng thất thu,
trốn thuế, công tác kiểm tra, giám sát việc thu chi ngân sách cũng là nguyên nhân tác
động xấu đến bội chi NSNN.
Lãi suất vay trong thời gian qua còn cao, thời gian vay còn ngắn, ít có những
khoản vay dài hạn, trong khi đó nhiều khoản vay được dùng để xây dựng đầu tư cơ
bản với thời gian thu hồi vốn dài đã gây khó khăn cho công tác thu ngân sách. Mặt
khác nhiều dự án đầu tư không mang lại hiệu quả, nhiều chủ dự án không có khả năng
trả nợ, tình trạng tham ô, tham nhũng ở nhiều cấp, nhiều lĩnh vực còn diễn ra phổ
biến cũng là những nguyên nhân gây thất thoát lãng phí trong việc sử dụng nguồn NSNN.
Đối với những khoản vay nước ngoài, mặc dù được ưu đãi với lãi suất thấp,
thời gian vay dài hạn với khối lượng tương đối lớn, tuy nhiên đây là những khoản
vay theo chương trình, theo những điều khoản đã được định sẵn trong các hợp đồng
vay nợ mà bên đối tác đưa ra, vì vậy mà nếu như ta không có sự chuẩn bị kỹ càng,
xem xét kĩ tính khả thi của từng dự án, thẩm định, duyệt dự án một cách rõ ràng thì
có thể gây ra hiệu quả không được như mong đợi gây thất thoát và thiệt hại cho NSNN 17 lOMoAR cPSD| 45650915
khi phải thực hiện điều kiện của đối tác và lại đè nặng lên NSNN khi phải chi để trả
nợ cho các khoản vay trước đó.
Riêng đối với việc cân đối NSNN hiện nay, thì tình trạng ngân sách trung ương
cân đối hộ ngân sách địa phương bằng những chỉ tiêu, những định mức quy định cho
từng địa phương. Chính những quy định này đã làm mất đi tính sáng tạo chủ động
trong hoạt động thu, chi của các địa phương. Mặt khác chính hệ thống ngân sách lồng
ghép hiện đang áp dụng ở nước ta (nghĩa là ngân sách cấp trên phải “ôm” cả ngân
sách cấp dưới) đang tạo ra sự ỷ lại, thụ động, trông chờ của địa phương vào sự phân
bổ ngân sách của cấp trên. Đây là một nhược điểm rất lớn trong cơ chế quản lý ngân
sách ở nước ta khi đã bỏ “nền kinh tế bao cấp” để phát triển nền kinh tế thị trường.
Hậu quả rõ ràng nhất là việc cân đối ngân sách địa phương như hiện nay, nhất là đối
với các tỉnh điều tiết ngân sách về trung ương đã làm nguồn lực NSNN bị phân tán
khiến ngân sách trung ương luôn trong tình trạng khó khăn, đặc biệt trong lĩnh vực
đầu tư phát triển, trong khi địa phương không có sự chủ động trong quản lý ngân sách.
Ngoài ra hiện vẫn còn những đề mục chi trả nợ gốc trong cân đối thu, chi NSNN,
phản ánh sai bản chất các nghiệp vụ tài chính ngân sách, khiến cho công đoạn thủ tục
còn rườm rà gây chậm trễ trong việc thu, chi ngân sách ảnh hưởng đến công tác quản
lý và hoạch định mức bội chi NSNN của chúng ta.16 2. Giải pháp:
Nhân thấy những hạn chế từ quy định của pháp luậ t về bộ i chi ngân sách
nhà ̣ nước thì cần thiết phải có những giải pháp kịp thời và hiêu quả. Sau đây sẽ là mộ
t sộ́ giải pháp cụ thể do nhóm chúng em đưa ra, nếu có sai sót mong thầy có thể chỉnh sửa và góp ý thêm.
Thứ nhất, cần cải tiến và hoàn thiên các phương pháp tính bộ i chi để phù
hợp ̣ hơn cũng như có thể giảm được mức bôi chi ngân sách nhà nước. ̣
Thứ hai, cơ quan chuyên môn cần có sự thống kê đầy đủ các khoản vay của
Chính phủ như vay bằng trái phiếu cho Chính phủ trong lĩnh vực y tế, giáo dục v.v…
để thể hiên sự rõ ràng, minh bạch trong việ c chi ngân sách nhà nước, tránḥ dẫn đến
sai sót không đáng có cũng như là xảy ra tình trạng tham nhũng. 18 lOMoAR cPSD| 45650915
Thứ ba, cần đưa ra các quyết định cụ thể về quản lý vốn cũng như môt hệ ̣
thống nhữnh quy định cụ thể về đầu tư phát triển ngân sách nhà nước để nâng cao
tính kỷ luât, pháp lý và đảm bảo cho mọi công việ c theo đúng hoạch định từ trước.̣
Tránh trường hợp trốn thuế làm ảnh hưởng đến bôi chi ngân sách nhà nước. ̣
Cuối cùng, cần biết gia giảm cho phù hợp các mức lãi suất vay cũng như thời
hạn vay hợp lý nhằm tạo cơ hôi cho sự đầu tư lâu dài của các doanh nghiêph cũng ̣
như các nhà đầu tư để phục vụ cho sự phát triển của bôi chi ngân sách nhà nước.̣
Trên đây là môt số biệ n pháp khắc phục mà nhóm đề xuất, nhóm nhậ n
thấỵ rằng biên pháp mà chỉ có đề xuất thôi là chưa đủ mà phải đi liền với sự thực
hànḥ áp dụng nếu đề xuất đó hợp lý. Hơn nữa là sự phối hợp chăt chẽ của hệ thống
tự̀ trung ương đến địa phương nhằm khắc phục được hâu quả mộ t cách nhanh chóng ̣ nhất. KẾT LUẬN 19 lOMoAR cPSD| 45650915
TÀI LIỆU THAM KHẢO 20