Tiểu luận môn Kinh tế chính trị Mác - Lenin đề tài "Tác động của quy luật giá trị đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay"
Tiểu luận môn Kinh tế chính trị Mác - Lenin đề tài "Tác động của quy luật giá trị đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay" của Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Kinh tế chính trị Mác _ Lenin (LLCT120205)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoARcPSD|36991220
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ MÔN HỌC:
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MAC LENIN TIỂU LUẬN
TÁC ĐỘNG CỦA QUY LUẬT GIÁ TRỊ ĐỐI VỚI NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
GVHD: TS. Hồ Ngọc Khương SVTH:
1.Nguyễn Trần Nhựt Trường 22158041 2.Nguyễn Duy Lân 22158013 3.Lê Thị Thanh Nhàn 22158020 4.Đinh Ngọc Như Thảo 22158029 5.Lê Đức Hùng 22158008
Mã lớp học: LLCT120205 – 14CLC lOMoARcPSD|36991220 MỤC LỤC
PHẦN 1: MỞ ĐẦU, MỤC TIÊU, NGHIÊN CỨU. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 1
1. Mở đầu. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 1
2. Mục tiêu nghiên cứu. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 1
3. Phương pháp nghiên cứu. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 2
PHẦN 2: NỘI DUNG. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .3
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUY LUẬT GIÁ TRỊ ĐỐI3
VỚI NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
ỞVIỆT NAM HIỆN NAY. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 3
1.1. Lý thuyết về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt. . . . . 3
Nam hiện nay. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 3
1.2. Khái quát về quy luật giá trị. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 5
1.3. Tác động của quy luật giá trị. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 6
CHƯƠNG 2: TÁC ĐỘNG CỦA QUY LUẬT GIÁ TRỊ ĐỐI VỚI NỀN
KINHTẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT
NAM HIỆNNAY. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 8
2.1. Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 8
2.2. Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng xuất lao động, thúc
đẩy lực lượng sản xuất xu hướng phát triển. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .9
2.3. Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hóa người sản xuất hàng hóa. . . . . . 11
thành người giàu, người nghèo. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .11
PHẦN 3: KẾT LUẬN. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .14
TÀI LIỆU THAM KHẢO. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 16 lOMoARcPSD|36991220
PHẦN 1: MỞ ĐẦU, MỤC TIÊU, NGHIÊN CỨU 1. Mở đầu
Đất nước ta đang trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội, phải xây dựng một nền
kinh tế phát triển cao, dựa trên những quan hệ sản xuất phù hợp và lực lượng sản xuất hiện đại.
Nền kinh tế của loài người từ trước đến nay đã và đang trải qua rất nhiều hình thái
kinh tế xã hội. Bao gồm các hình thái: công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, xã hội
phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Trong tất cả các hình thái kinh tế
trên, chưa có một hình thái kinh tế nào có một cơ chế quản lý và điều hành kinh tế một
cách phù hợp và hợp lý nhất. Từ việc phát triển kinh tế chỉ dựa vào nền kinh tế thị
trường để giải quyết những vấn đề cơ bản của nền kinh tế, cho đến việc chỉ dựa vào tổ
chức quản lý của Nhà nước, để phát triển kinh tế cho phù hợp. Đặc biệt là đối với nền
kinh tế Việt Nam hiện nay. Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn đặc biệt của sự
phát triển. Đây là bước ngoặt lớn trong quá trình chuyển từ nền kinh tế quan liêu bao
cấp sang nền kinh tế thị trường với sự quản lý của Nhà nước. Bên cạnh nhiều mặt mặt
tích cực như: năng suất lao động tăng nhanh, công nghệ sản xuất không ngừng được
cải tiến, hàng hóa được sản xuất ra nhiều, thu nhập quốc dân từ đó cũng tăng…. thì cơ
chế thị trường đồng thời cũng nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực. Ngày càng nhiều vấn đề
cần giải quyết như: lạm phát, khủng hoảng, thất nghiệp, tệ nạn xã hội,… Do vậy, Nhà
nước phải can thiệp vào kinh tế để có thể đảm bảo cho sự phát triển kinh tế hiệu quả,
ổn định và công bằng. Đặc biệt, nền kinh tế nước ta đang định hướng theo xã hội chủ
nghĩa nên càng không thể thiếu sự quản lý của Nhà nước. Tiếp đến quy luật giá trị là
quy luật kinh tế quan trọng nhất của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Đó là lý do mà ở
đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá, thì ở đó có sự xuất hiện của quy luật giá trị. Tất
cả các hoạt động của các chủ thể kinh tế trong sản xuất và lưu thông hàng hóa đều ảnh
hưởng bởi sự tác động của quy luật này. Quy luật giá trị là một trong những nguyên
nhân chính dẫn đến khủng hoảng kinh tế, những cuộc cạnh tranh không lành mạnh và
chu kì phân hoá giàu nghèo. Chính vì thế chúng ta cần nghiên cứu về quy luật giá trị,
để tìm ra vai trò và tác động của nó tới nền kinh tế, đặc biệt là trong thời kì phát triển
nền kinh tế thị trưởng của nước ta hiện nay. Do đó, chúng em đã chọn đề tài: “Vai trò
kinh tế và quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Vai trò kinh tế và quy luật giá trị góp phần quan trọng nhất của sản xuẩt và trao đổi
hàng hoá. Do đó mà ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự xuất hiện
của các yếu tố này. Mọi hoạt động cuả các chủ thể kinh tể trong sản xuất và lưu thông
hàng hoá đều chịu sự tác động của chúng . 2 yếu tố này là nguyên nhân chính dẫn đến
khủng hoảng kinh tế chu kì, phân hoá giàu nghèo, những cuộc cạnh tranh không lành
mạnh. .Chính vì thế chúng ta cần nghiên cứu về quy luật giá trị và vai trò kinh tế, tìm
hiếu vai trò và tác động của nó tới nền kinh tế, đặc biệt là trong thời kì phát triển nền
kinh tế thị trường của nước ta hiện nay. lOMoARcPSD|36991220
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích và tổng hợp: được sử dụng trong phần viết nêu ra tổng quan
về đề tài nghiên và sử dụng kết quả của một vài nghiên cứu trước để giải quyết các giả thuyết nghiên cứu.
Phương pháp phân tích lý thuyết: là phương pháp phân tích lý thuyết thành những
mặt, những bộ phận, những mối quan hệ theo lịch sử thời gian để nhận thức, phát hiện
và khai thác các khía cạnh khác nhau của lý thuyết để từ đó có chọn lọc những thông
tin cần thiết phục vụ cho đề tài nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu : được sử dụng để trích dẫn lấy thêm thông tin từ
giáo trình , các tài liệu có sẵn qua việc đọc hiểu và tham khảo lOMoARcPSD|36991220 PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUY LUẬT GIÁ TRỊ ĐỐI
VỚI NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Lý thuyết về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
1.1.1. Khái niệm về nền kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận hành theo các
quy luật của thị trường,đồng thời góp phần hướng tới từng bước xác lập một xã hội mà
ở đó “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”( Nxb Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội, 2022), có sự điều tiết của Nhà nước do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
1.1.2. Đặc trưng nền kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa (XHCN) đã trở thành một hướng
phát triển quan trọng và đặc trưng của Việt Nam trong những năm qua. Đây là một hệ
thống kinh tế kết hợp giữa nguyên tắc thị trường và vai trò quyết định của nhà nước,
nhằm đảm bảo sự phát triển kinh tế cùng với sự công bằng xã hội và sự tiến bộ văn minh.
Mục tiêu của phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là xây
dựng một xã hội với dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh. Mục tiêu
này không chỉ tập trung vào việc phát triển kinh tế và gia tăng sản xuất, mà còn chú
trọng đến việc tạo ra sự công bằng và phát triển bền vững, đảm bảo lợi ích chung cho
toàn bộ cộng đồng. “Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”( Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2001)
Một đặc điểm quan trọng của kinh tế thị trường định hướng XHCN là sự đa dạng
về hình thức sở hữu và thành phần kinh tế. Việt Nam đã tạo điều kiện cho sự tham gia
và đóng góp của nhiều thành phần kinh tế, bao gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân
và đầu tư nước ngoài. Mặc dù kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo, nhưng sự phát
triển các hình thức sở hữu khác đã tạo điều kiện cho sự đa dạng và đa dạng hóa nền kinh tế.
Hệ thống quản lý kinh tế trong kinh tế thị trường định hướng XHCN được lãnh đạo
bởi Đảng Cộng sản Việt Nam và quản lý bằng pháp luật. Điều này đảm bảo sự ổn định
và định hướng của quyết định kinh tế, đồng thời tạo ra một môi trường công bằng và
minh bạch cho hoạt động kinh doanh. Sự lãnh đạo của Đảng và sự áp dụng pháp luật
cũng đảm bảo tính liên tục và sự ổn định trong phát triển kinh tế. lOMoARcPSD|36991220
Hình thức phân phối trong kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam cũng
đa dạng và linh hoạt. Phân phối có thể dựa trên lao động, hiệu quả kinh tế, kết hợp với
phân phối theo mức góp vốn và phân phối theo phúc lợi. Mục tiêu là tạo ra một hệ
thống phân phối công bằng, đáp ứng nhu cầu của toàn bộ xã hội.
Gắn kết tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội là một yếu tố quan trọng trong
phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Tăng trưởng kinh tế
không chỉ nhằm mục tiêu tăng cường sản xuất và gia tăng thu nhập, mà còn để đảm
bảo rằng lợi ích từ tăng trưởng kinh tế được phân phối công bằng, giúp giảm bớt
khoảng cách giàu nghèo và tạo ra sự tiến bộ và cải thiện chất lượng cuộc sống cho toàn bộ xã hội.
Tổng kết, việc phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam có
những đặc trưng đặc biệt như mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và
văn minh; đa dạng về hình thức sở hữu và thành phần kinh tế; quản lý bằng pháp luật
và lãnh đạo của Đảng; phân phối công bằng và gắn kết tăng trưởng kinh tế với công
bằng xã hội. Những đặc trưng này đóng vai trò quan trọng trong việc định hình và phát
triển bền vững của nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ hiện nay.
1.1.3. Tính tất yếu của nền kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ
quá độ lên CNXH (Chủ nghĩa Xã hội) ở nước ta. Về bản chất, đó là “khâu trung gian”
trong sự phát triển kinh tế. Diễn đạt về tính chất “khâu trung gian” của nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Đây không
phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta đang trong thời kỳ quá độ)”( Tạp chí Cộng
sản, số 966 tháng 5-2021). Với tư cách là “khâu trung gian”, KTTT (Kinh tế thị trường)
định hướng XHCN ở nước ta có những đặc trưng cơ bản sau đây
Phù hợp với tính quy luật phát triển khách quan: Kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam được xây dựng dựa trên những quy luật kinh tế và xã hội khách
quan. Việc áp dụng những quy luật này giúp quản lý và điều hành kinh tế một cách có
hiệu quả, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bền vững.
Ưu việt của kinh tế thị trường trong thúc đẩy phát triển: Kinh tế thị trường định
hướng XHCN tạo ra một môi trường kinh doanh cạnh tranh và khuyến khích sự sáng
tạo và đổi mới. Các doanh nghiệp có thể tự do tham gia thị trường, đầu tư và sản xuất
theo quy định của pháp luật, từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế và tăng trưởng tài
nguyên, công nghệ và đầu tư.
Là mô hình phù hợp với nguyện vọng của nhân dân để tiến tới dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh: Bản chất XHCN trong nền KTTT là “phải gắn kinh tế
với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi
đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách
và trong suốt quá trình phát triển”( Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022). Kinh tế lOMoARcPSD|36991220
thị trường định hướng XHCN tạo điều kiện cho sự phát triển của các ngành kinh tế và
các tầng lớp trong xã hội. Điều này đồng nghĩa với việc tạo ra cơ hội việc làm, tăng
thu nhập và cải thiện cuộc sống của người dân. Nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN cũng thể hiện cam kết của Việt Nam trong việc xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng và văn minh.
Tóm lại, tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam bao gồm việc tuân thủ quy luật phát triển khách quan, sử dụng lợi
thế của kinh tế thị trường và đáp ứng nguyện vọng của nhân dân để tiến tới mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh.
1.2. Khái quát về quy luật giá trị
Ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị.
Về nội dung, quy luật giá trị yêu cầu việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải được tiến
hà nh trên cơ sở của hao phí lao động xã hội cần thiết. Theo yêu cầu của quy luật giá
trị, người sản xuất muốn bán được hàng hóa trên thị trường, muốn được xã hội thừa
nhận sản phẩm thì lượng giá trị của một hàng hoá cá biệt phải phù hợp với thời gian
lao động xã hội cần thiết. Vì vậy họ phải luôn luôn tìm cách hạ thấp hao phí lao động
cá biệt xuống nhỏ hơn hoặc bằng hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong lĩnh vực trao
đổi, phải tiến hành theo nguyên tắc ngang giá, lấy giá trị xã hội làm cơ sở, không dựa trên giá trị cá biệt.
Mọi hoạt động cuả các chủ thể kinh tế trong sản xuất và lưu thông hàng hoá đều
chịu sự tác động cuả quy luật này. Quy luật giá trị cũng là nguyên nhân chính dẫn đến
khủng hoảng kinh tế chu kì,phân hoá giàu nghèo,những cuộc cạnh tranh không lành mạnh.
Các luật về giá trị của hàng hóa được gọi đơn giản là quy luật giá trị, một khái niệm
trung tâm trong Karl Marx ‘s phê bình nền kinh tế chính trị đầu tiên trình bày trong
cuộc bút chiến của ông Sự nghèo nàn của Triết học (1847) chống lại Pierre-Joseph
Proudhon liên quan đến kinh tế học của David Ricardo . Nói chung, nó đề cập đến
một nguyên tắc quy định của việc trao đổi kinh tế đối với các sản phẩm lao động của
con người, đó là giá trị trao đổi tương đối của những sản phẩm đó trong thương mại,
thường được biểu thị bằng giá cả, tỷ lệ thuận với lượng thời gian lao động bình quân
mà xã hội cần thiết hiện nay để sản xuất ra chúng trong phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa. Định lý này khá đơn giản để hiểu và trực quan nó có ý nghĩa đối với nhiều người đang làm việc.
Bằng cách thiết lập “quy luật” này, Marx đã tìm cách chứng tỏ rằng chủ nghĩa tư
bản, không kém gì các phương thức sản xuất trước đây, dựa trên sự bóc lột của một
giai cấp trong xã hội, công nhân, bởi một giai cấp khác, giai cấp hợp pháp, bao gồm
các nhà tư bản và địa chủ. Vì xã hội tư bản chủ yếu do các nhà tư bản thống trị và
không còn giai cấp quý tộc phong kiến, nên sự chú ý của ông tập trung vào mối quan
hệ giữa nhà tư bản và công nhân, hay quan hệ tư bản – lao động. lOMoARcPSD|36991220
Ông nhấn mạnh rằng trong xã hội hiện đại, trong đó đời sống kinh tế được tổ chức
thông qua các thị trường phụ thuộc lẫn nhau, tương đương đã được trao đổi. Tuy nhiên,
thực tế này không có nghĩa là không có sự bóc lột. Đó là một ảo tưởng khi nghĩ khác.
Người lao động nhận được những gì họ xứng đáng được hưởng dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa, tức là tiền công trả cho họ bằng giá trị sức lao động của họ mà họ đã bán cho
người sử dụng lao động. Vì vậy, làm thế nào có thể có sự khai thác?
Sự trao đổi những vật tương đương mà Marx định nghĩa về sức lao động cần thiết
trong quá trình sản xuất của chúng hay đúng hơn là tái sản xuất. Ông làm như vậy vì
ông tin rằng lao động là nguồn gốc , chất lượng và thước đo của mọi giá trị. Lao động
tạo ra của cải, nhưng trong chủ nghĩa tư bản, nó cũng tạo ra giá trị. Marx tự hào về
việc đã đưa ra trong kinh tế chính trị sự khác biệt cơ bản giữa “lao động” và “sức lao
động”. Giá trị của sức lao động, hay “tư bản khả biến”, giống như giá trị của từng loại
hàng hóa, bằng tổng lượng lao động cần thiết trong quá trình sản xuất và tái sản xuất nó.
Nghĩa là, nó bằng giá trị của tất cả các hàng hóa tạo thành tỷ lệ tiền lương thực tế
cần thiết để tái sản xuất sức lao động này, đòi hỏi tái sản xuất của người lao động và
gia đình anh ta. Trong phạm vi mà người lao động làm việc nhiều hơn số giờ cần thiết
về mặt xã hội để tái sản xuất tiền lương thực tế của mình, thì “lao động thặng dư” biểu
hiện ở “giá trị thặng dư” và cuối cùng là lợi nhuận (địa tô và lãi suất). Lao động tạo ra
giá trị, nhưng bản thân nó không phải là một phần của cơ chế bóc lột tại nơi làm việc:
Đó là mối quan hệ tư bản – lao động là nguồn gốc của sự thống trị và kiểm soát xã hội.
Khi Marx nói về “mối quan hệ giá trị” hay “tỷ lệ giá trị” ông ấy không có nghĩa là
“tiền” hay “giá cả”. Thay vào đó, ông muốn nói đến tỷ lệ giá trị (hay ‘giá trị’) tồn tại
giữa các sản phẩm lao động của con người. Các mối quan hệ này có thể được thể hiện
bằng chi phí thay thế tương đối của sản phẩm khi thời gian lao động làm việc. Càng
tốn nhiều lao động để làm ra sản phẩm thì giá trị càng cao và ngược lại, càng ít lao
động để làm ra sản phẩm thì giá trị càng thấp.
Giá tiền tốt nhất chỉ là sự thể hiện hoặc phản ánh các mối quan hệ giá trị của Marx
– chính xác hoặc rất không chính xác. Sản phẩm có thể được trao đổi cao hơn hoặc
thấp hơn giá trị của chúng trong thương mại thị trường và một số giá cả không liên
quan gì đến giá trị sản phẩm (theo nghĩa của Marx) bởi vì chúng đề cập đến những vật
thể có thể trao đổi không thường xuyên được sản xuất và tái sản xuất bằng sức lao
động của con người, hoặc vì chúng chỉ đề cập đến các yêu cầu về tài sản tài chính.
1.3. Tác động của quy luật giá trị
Nhìn chung,quy luật giá trị có 3 tác động chính: điều tiết sản xuất và lưu thông
hàng hóa; kích thích lực lượng sản xuất phát triển cũng như năng suất lao động tăng
lên; phân hóa giàu - nghèo xảy ra giữa những người sản xuất hàng hóa
Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá. Điều tiết sản xuất tức là
điều hoà, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. lOMoARcPSD|36991220
Tác lộng này của quy luật giá trị thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá trên thị
trường dưới tác động của quy luật cung - cầu:
Nếu cung nhỏ hơn cầu, thì giá cả lớn hơn giá trị, nghĩa là hàng hóa sản xuất ra có
lãi, bán chạy. Giá cả cao hơn giá trị sẽ kích thích mở rộng và đẩy mạnh sản xuất để
tăng cung; ngược lại cầu giảm vì giá tăng.
Nếu cung lớn hơn cầu, sản phẩm sản xuất ra quá nhiều so với nhu cầu, giá cả thấp
hơn giá trị, hàng hóa khó bán, sản xuất không có lãi. Thực tế đó, tự người sản xuất ra
quyết định ngừng hoặc giảm sản xuất; ngược lại, giá giảm sẽ kích thích tăng cầu, tự nó
là nhân tố làm cho cung tăng.
Cung cầu tạm thời cân bằng; giá cả trùng hợp với giá trị. Bề mặt nền kinh tế người
ta thường gọi là “bão hòa”.
Tuy nhiên nền kinh tế luôn luôn vận động, do đó quan hệ giá cả và cung cầu cũng
thường xuyên biến động liên tục.
Như vậy, sự tác động trên của quy luật giá trị đã dẫn đến sự di chuyển sức lao động
và tư liệu sản xuất giữa các ngành sản xuất khác nhau. Đây là vai trò điều tiết sản xuất của quy luật giá trị.
Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cũng thông qua diễn biến giá cả trên thị
trường. Sự biến động của giá cả thị trường cũng có tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi
giá cả thấp đến nơi giá cả cao, do đó làm cho lưu thông hàng hoá thông suốt.
Như vậy, sự biến động của giả cả trên thị trường không những chỉ rõ sự biến động
về kinh tế, mà còn có tác động điều tiết nền kinh tế hàng hoá.
Thứ hai, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao
động, thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển. Trong nền kinh tế hàng hoá,
mỗi người sản xuất hàng hoá là một chủ thể kinh tế độc lập, tự quyết định hoạt động
sản xuất kinh doanh của mình. Nhưng do điều kiện sản xuất khác nhau nên hao phí lao
động cá biệt của mỗi người khác nhau, người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt
nhỏ hơn hao phí lao động xã hội của hàng hoá ở thế có lợi sẽ thu được lãi cao. Người
sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ ở
thế bất lợi, lỗ vốn. Để giành lợi thế trong cạnh tranh, và tránh nguy cơ vỡ nợ, phá sản,
họ phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt của mình sao cho bằng hao phí lao động xã
hội cần thiết. Muốn vậy, họ phải luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản
lý, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ, tăng năng suất lao động. Sự cạnh tranh quyết liệt càng
thúc đẩy quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn, mang tính xã hội. Kết quả là lực lượng
sản xuất xã hội được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ.
Thứ ba, thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá người sản xuất hàng hoá
thành người giàu, người nghèo. Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến
kết quả là: những người có điều kiện sản xuất thuận lợi, có trình độ, kiến thức cao,
trang bị kỹ thuật tốt nên có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội lOMoARcPSD|36991220
cần thiết, nhờ đó phát tài, giàu lên nhanh chóng. Họ mua sắm thêm tư liệu sản xuất,
mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngược lại những người không có điều kiện thuận lợi,
làm ăn kém cỏi, hoặc gặp rủi ro trong kinh doanh nên bị thua lỗ dẫn đến phá sản trở thành nghèo khó.
CHƯƠNG 2: TÁC ĐỘNG CỦA QUY LUẬT GIÁ TRỊ ĐỐI VỚI NỀN KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa
Quy luật giá trị tác động đến điều tiết và lưu thông hàng hóa thông qua giá cả trên
thị trường, đối với một hàng hóa, giá cả của một hàng hóa có thể bán cao hoặc thấp so
với giá trị của nó nhưng bao giờ cũng phải xoay quanh trục giá trị hàng hóa.
Điều tiết sản xuất của quy luật giá trị là điều chỉnh, phân bổ các yếu tố như: tư liệu
sản xuất, sức lao động và tiền vốn từ ngành này sang ngành khác, từnơi này sang nơi
khác. Nó làm cho sản xuất hàng hóa của ngành này, nơi này được phát triển mở rộng,
ngành khác nơi khác bị thu hẹp, thông qua sự biếnđộng giá cả thị trường. Từ đó, tạo ra
những tỉ lệ cân đối tạm thời giữa các ngành, các vùng của một nền kinh tế hàng hóa
nhất định. Quy luật thể hiện ở chỗ: cung và cầu đều cần khớp với nhau, nhưng từ trước
đến nay có chưa hề ăn khớp nhau mà chúng đối lập nhau, cung luôn bám sát cầu.
Chính vì thế thị trường xảy ra các trường hợp sau đây:
- Khi cung bằng cầu thì giá cả bằng giá trị hàng hóa, trường hợp này xảy ra
một cách ngẫu nhiên và rất hiếm.
- Khi cung nhỏ hơn cầu thì giá cả cao hơn giá trị, hàng hóa bán chạy, lãi cao.
Những người đang sản xuất những loại hàng hóa này sẽ mở rộng quy môsản
xuất, những người đang sản xuất hàng hóa khác thu hẹp quy mơ sản xuất
của mình để chuyển sang loại hàng hóa bán chạy này. Như vậy, tư liệu sản
xuất,sức lao động, tiền vốn được chuyển vào ngành tăng lên, cung về loại
hàng hóa này trên thị trường tăng lên.
- Khi cung lớn hơn cầu thì giá cả nhỏ hơn giá trị, hàng hóa ế thừa, khơng tiêu
thụ được, có thể lỗ vốn.
Thực chất của điều tiết lưu thông trong quy luật giá trị là điều chỉnh một cách tự
phát khối lượng hàng hóa từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao, tạo ramặt bằng giá cả
xã hội. Giá trị của hàng hóa thay đổi, thì những điều kiện làm cho tổng khối lượng
hàng hóa có thể tiêu thụ được cũng sẽ thay đổi.“… Khi thực hiện quy luật giá trị của
sản xuất hàng hóa trong xã hội gồm những người sản xuất trao đổi hàng hóa cho nhau,
sự cạnh tranh lập ra bằngcách đó và trong điều kiện nào đó một trật tự duy nhất và một
tổ chức duy nhất có thể có của nền sản xuất xã hội. Chỉ có do sự tăng hay giảm giá
hàng hóa mànhững người sản xuất hàng hóa riêng lẻ1biết được rõ ràng là xã hội cần
vật phẩm vào và với số lượng bao nhiêu”. lOMoARcPSD|36991220
Trong sản xuất: quy luật giá trị yêu cầu người sản xuất phải đảm bảo sao cho thời
gian lao động cá biệt để sản xuất hàng hóa đó phải phù hợp với thời gian lao động xã
hội cần thiết. ( Phù hợp: Thấp hơn hoặc bằng)
Trong lưu thông: việc trao đổi hàng hóa phải dựa theo nguyên tắc ngang giá
Đối với một hàng hóa, giá cả của một hàng hóa có thể bán cao hoặc thấp so với giá
trị của nó nhưng bao giờ ũng phải xoay quanh trục giá trị hàng hóa.Đối với tổng hàng
hóa trên toàn xã hội, quy luật giá trị yêu cầu: Tổng giá cả hàng hóa sau khi bán phải
bằng tổng giá trị hàng hóa được tạo ra trong quá trình sản xuất.
Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa: Là sự phân phối lại các yếu tố tư liệu sản
xuất và sức lao động từ ngành sản xuất này sang ngành sản xuất khác theo hướng từ
nơi có lãi ít hoặc không lãi sang nơi lãi nhiều.
Kích thích lực lượng sản xuất phát triển và năng suất lao động tăng lên.
Người sản xuất, kinh doanh muốn thu nhiều lợi nhuận phải tìm cách cải tiến kĩ
thuật, tăng năng suất lao động, nâng cao tay nghề của người lao động, hợp lí hóa sản
xuất, thực hành tiết kiệm…làm cho giá trị hàng hóa cá biệt của họ thấp hơn giá trị xã hội của hàng hóa.
Việc làm này của các nhà sản xuất sẽ kích thích lực lượng sản xuất của xã hội phát triển.
2.2. Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng xuất lao động, thúc đẩy
lực lượng sản xuất xu hướng phát triển
Những năm qua, việc ứng dụng khoa học - kỹ thuật (KHKT) vào sản xuất nông
nghiệp đã mang lại những thay đổi tích cực trong nhận thức của người dân. Từ phương
thức sản xuất truyền thống, người dân đã mạnh dạn chuyển đổi sang sản xuất theo
hướng tập trung, quy mô lớn; đưa các giống cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế vào
sản xuất,. . góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế trên từng đơn vị diện tích canh tác,
tăng thu nhập cho người dân .Để tạo điều kiện cho người dân tiếp cận với các tiến bộ
KHKT mới, hàng năm, huyện Hoằng Hóa đã triển khai nhiều hoạt động hỗ trợ, như: tổ
chức các buổi hội thảo, tập huấn chia sẻ kinh nghiệm nhằm chuyển giao, ứng dụng tiến
bộ KHKT vào sản xuất. Bên cạnh đó, huyện đã chỉ đạo Phòng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn phối hợp với Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện và các HTX dịch
vụ nông nghiệp tổ chức nhiều lớp tập huấn cho người dân về những mô hình sản xuất
nông nghiệp phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng và tập quán sản xuất. Do đó,
việc ứng dụng KHKT vào sản xuất nông nghiệp của huyện đã có nhiều bước tiến quan
trọng, đạt hiệu quả kinh tế cao ở hầu hết các lĩnh vực, làm thay đổi tư duy và phương
pháp tổ chức sản xuất của người dân. Ông Lê Trọng Hòa, Phó trưởng Phòng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, UBND huyện, cho biết: Trong lĩnh vực trồng trọt,
người dân đã sử dụng giống lúa có chất lượng cao, thực hiện đồng bộ các biện pháp kỹ
thuật thâm canh tổng hợp; có 25% diện tích sản xuất lúa được cơ giới hóa đồng bộ từ lOMoARcPSD|36991220
làm đất, sử dụng mạ khay, cấy và thu hoạch bằng máy. . Bên cạnh đó, sử dụng chế
phẩm sinh học trong xử lý đất; ủ phân hữu cơ; thuốc bảo vệ thực vật sinh học; sản xuất
rau quả trong nhà màng, nhà lưới áp dụng biện pháp tưới và cung cấp dinh dưỡng tự
động. . Trong chăn nuôi, toàn huyện có 9 trang trại chăn nuôi gia súc, gia cầm đã áp
dụng KHKT, như: đầu tư xây dựng hệ thống chuồng khép kín; ứng dụng hệ thống làm
mát chuồng trại; sử dụng máng ăn, uống nước tự động; sử dụng đệm lót sinh học để xử
lý chất thải; nhất là các loại máy móc hiện đại để phối trộn thức ăn với men vi sinh. .
Các trang trại chăn nuôi áp dụng KHKT đã giảm được chi phí sản xuất, hạn chế dịch
bệnh, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, hiệu quả kinh tế tăng từ 15 đến 20% so với
phương pháp chăn nuôi truyền thống. Đi đôi với đó, KHKT còn được ứng dụng trong
lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, như: nuôi tôm trong bể xi măng, ao lót bạt, sử dụng chế
phẩm sinh học để xử lý nước, hệ thống quạt khí, nuôi tôm trong nhà màng. .
Tại huyện Như Xuân, việc ứng dụng KHKT đã góp phần thay đổi tư duy sản xuất
cho người dân. Nhiều giống lúa mới có năng suất, chất lượng cao, đã được đưa vào sản
xuất, như: TBR279, Bắc Thịnh, TBR225, TBR45, Nhị Ưu 986, GS9, GS55. . Thực
hiện có hiệu quả việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, huyện Như Xuân đã khuyến khích
người dân chuyển đổi các cây trồng hiệu quả kinh tế thấp sang trồng các loại cây ăn
quả có hiệu quả kinh tế cao, như: cam Xã Đoài, cam Đường Canh, cam V2, bưởi Diễn,
bưởi da xanh. . Áp dụng công nghệ tưới nước nhỏ giọt, tưới phun mưa, kết hợp bón
phân qua nước theo công nghệ NETTAFIM, cải tạo vườn vải, nhãn kém hiệu quả bằng
phương pháp cắt ghép. . Trong chăn nuôi, huyện đã thực hiện có hiệu quả các chương
trình cải tạo đàn bò bằng thụ tinh nhân tạo, sử dụng tinh bò đực giống Zebu, thụ tinh
nhân tạo với bò cái vàng địa phương, đưa giống mới thuần ngoại Landrace. .; ứng
dụng công nghệ sinh học, như: làm hầm biogas, đệm lót sinh học, chế phẩm balasa. .
Đồng thời, đã chuyển giao và ứng dụng có hiệu quả nhiều giống gia cầm có năng suất,
chất lượng cao, như: gà Lương Phượng, gà lai chọi, gà mía, gà Lạc Thủy, khôi phục
vịt bầu Thanh Quân, vịt Cổ Lũng. . Các mô hình này góp phần thay đổi phương thức
chăn nuôi nhỏ lẻ sang chăn nuôi tập trung theo hướng sản xuất hàng hóa; nhất là, chủ
động được nguồn giống có chất lượng cho các hộ chăn nuôi.
Có thể nói, ứng dụng KHKT không những mang lại hiệu quả kinh tế cao mà còn
mở ra hướng đi mới trong chuyển đổi từ sản xuất nông nghiệp thuần túy sang sản xuất
hàng hóa; không chỉ nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường mà còn tiết
giảm nhân công lao động, chi phí sản xuất. Các mô hình chuyển giao tiến bộ KHKT
được triển khai, nhân rộng cũng đã và đang góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế từ 15
đến 20% so với diện tích sản xuất nông nghiệp truyền thống. Phát huy những kết quả
đạt được, để đẩy mạnh ứng dụng KHKT vào sản xuất nông nghiệp, thời gian tới, các
sở, ngành, địa phương, đơn vị có liên quan cần tăng cường khảo nghiệm, thử nghiệm
các giống mới trong trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản. Nhân rộng các mô
hình sản xuất ứng dụng tiến bộ KHKT đạt hiệu quả kinh tế cao; các mô hình an toàn
theo tiêu chuẩn VietGAP, Global GAP,. . đáp ứng yêu cầu của thị trường. Tiếp tục lOMoARcPSD|36991220
tăng cường nguồn lực đầu tư cho các chương trình khuyến nông, chuyển giao, ứng
dụng tiến bộ KHKT; khuyến khích, tạo điều kiện gắn kết giữa nông dân và doanh
nghiệp, đảm bảo đầu ra cho sản phẩm. .; đồng thời, cần quan tâm đào tạo, nâng cao
trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ khuyến nông nhằm hỗ trợ nông dân trong
việc chuyển giao, ứng dụng KHKT vào sản xuất nông nghiệp. Thường xuyên rà soát,
bổ sung, ban hành các cơ chế, chính sách thu hút, kêu gọi doanh nghiệp đầu tư vào
nông nghiệp, nông thôn, tạo việc làm, tăng thu nhập cho lao động nông thôn
2.3. Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hóa người sản xuất hàng hóa
thành người giàu, người nghèo
Hiện nay, điều kiện kinh tế thị trường cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học
kỹ thuật và công nghệ, là yếu tố quyết định cho sự phát triển trí tuệ, sáng tạo và đổi
mới. Đảng và Nhà nước ta đã xác định “đi vào kinh tế thị trường, mở rộng và giao lưu
quốc tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tiếp thu những tinh hoa nhân loại,
song phải luôn luôn coi trọng những giá trị truyền thống của và bản sắc dân tộc, quyết
không để tự đánh mất mình, trở thành bóng mờ hoặc bản sao chép của người khác”
(Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, 1996) quá trình kinh tế
mở này dẫn đến những thay đổi rõ rệt trên tất cả các mặt. Sự thay đổi đó có cả sự tự
nguyện và gượng ép, nó đã xảy ra ở cả trên hai mặt văn hóa tinh thần và văn hóa vật
chất. Chính từ đó, khoảng cách giàu nghèo giữa các nhóm giai tầng trong xã hội đang
có dấu hiệu ngày một rõ hơn.
Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những trung tâm kinh tế lớn trong cả nước,
không những thế nó còn là một trong những thành phố có vai trò điều phối sự phát
triển kinh tế, văn hóa trong cả nước. Thành phố Hồ Chí Minh hiện là địa phương có
tốc độ phát triển kinh tế nhanh nhất trong cả nước với kết quả tăng trưởng kinh tế 5
năm (2001-2005) đạt mức bình quân 11%/năm, cao hơn tốc độ tăng 10,3%/năm của
giai đoạn 1996-2000. Thu nhập bình quân đầu người của thành phố cũng tăng nhanh.
Năm 2000 thu nhập bình quân đầu người đạt 1.365 USD/người/năm, đến năm 2005
ước đạt 1.920 USD/người/năm. Trong 5 năm qua (2001-2005), giá trị sản xuất công
nghiệp trên địa bàn thành phố tăng bình quân trên
15%/năm, chiếm tỷ trọng gần 30% giá trị sản xuất công nghiệp cả nước. Từ năm
2000 đến nay, thành phố cũng đã thu hút được 200.000 tỷ đồng (khoảng 13 tỷ USD)
vốn đầu tư, trong đó tỷ trọng đầu tư vào dịch vụ tăng từ 50,1% năm 2000 lên 65,9%
năm 2004, tỷ trọng đầu tư vào công nghiệp và xây dựng giảm từ 49,2% năm 2000
xuống còn 33,5% năm 2004. Tỷ trọng đầu tư vào các ngành nông nghiệp không thay
đổi đáng kể, chiếm 0,7% (Thông Tấn xã Việt Nam) . Trên đây là những thành tựu về
kinh tế mà thành phố đã đạt được trong thời gian qua.
Sự tăng trưởng kinh tế và hội nhập quốc tế ngày một sâu rộng và sự cải thiện quan
hệ cung – cầu, đã góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân đô thị. Tỷ
trọng tiêu dùng của người dân ngày càng tăng trong khi tỷ trọng tiêu dùng nhà nước lOMoARcPSD|36991220
chỉ ở dưới 9% và đang ngày càng có xu hướng giảm mạnh. Tuy nhiên, tăng trưởng
kinh tế phải đi đôi với bảo đảm dân sinh, nâng cao chất lượng cuộc sống, công bằng xã
hội. Chuẩn bị tốt nguồn nhân lực; lựa chọn phát triển các công nghệ “mũi nhọn”, đồng
thời mở rộng nghiên cứu ứng dụng đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, tạo nhiều việc làm.
Thực tế, sự tăng trưởng kinh tế, thu nhập cao đã giúp cho cuộc sống của người dân
ở đô thị được nâng cao. Song chính điều này dẫn đến sự phân hoá rõ rệt giữa người
giàu và người nghèo. Nguyên nhân dẫn đến sự chênh lệch giàu nghèo có nhiều nguyên
nhân, nhưng nguyên nhân, hậu quả từ nền kinh tế bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị
trường và toàn cầu hoá về kinh tế là nguyên nhân chính. Tác động từ toàn cầu hoá về
kinh tế có thể nói mang lại hiệu quả kinh tế cao tuy nhiên nó cũng có cả hệ quả xấu.
Theo tổng cục Thống kê điều tra về mức sống dân cư từ năm 1992 đến năm 2002 cho
thấy thu nhập bình quân đầu người của nhóm nghèo nhất tăng lên rất chậm. Năm
2001-2002 so với 1999-1993 tăng khoảng 49,1%. Trong khi đó nhóm giàu nhất, cùng
thời gian trên tăng tới 223,5%. Tuy thu nhập rất quan trọng nhưng chi tiêu mới là cái
phản ánh mức sống thực tế của người dân. Nhờ tăng thu nhập nên quá trình giảm
nghèo tăng lên, nhưng khi nền kinh tế thành phố Hồ Chí Minh chuyển sang cơ chế thị
trường thì khoảng cách giàu nghèo lại có khả năng tăng lên cao gấp nhiều lần so với tỷ lệ giảm nghèo.
Có thể thấy rõ sự thay đổi rất nhiều về thói quen trong việc lựa chọn đơn vị phân
phối bán hàng giữa người giàu và người nghèo khác biệt rất xa nhau. Thật vậy, sự phát
triển, tăng trưởng kinh tế đã làm tăng thêm khoảng cách và làm phân tầng xã hội. Hiện
nay có hai bộ phận người dân theo hai hướng chọn lựa khác nhau. Nếu đa số người
dân đô thị nhất là những người có thu nhập thấp mua ở chợ, vỉa hè, bán hàng rong thì
bộ phận thứ hai là những người có thu nhập cao lại chuyển sang mua ở siêu thị, trung
tâm thương mại lớn, ở các cửa hàng cao cấp… Trong thời gian gần đây giá cả thị
trường ngày một tăng, điều này đã ảnh hưởng đến sự phân hoá trong tiêu dùng của
người dân. Đặc biệt, có sự chênh lêch lớn giữa nông thôn và thành thị. Trên 90% hộ
nghèo của cả nước là sống ở nông thôn; tỷ lệ nghèo ở nông thôn cao gấp 7 lần tỷ lệ hộ
nghèo ở thành thị. Sự phân hoá này cũng có thể thấy ở những lĩnh vực như y tế, giáo
dục, nhà ở… đa số người giàu có thu nhập cao đều lựa chọn những bệnh viện tư, bệnh
viện có vốn nước ngoài kỹ thuật điều trị cao để chăm sóc sức khoẻ, và trong giáo dục
họ cũng chọn những trường quốc tế, đạt chuẩn quốc gia ngay từ mẫu giáo để cho con
em học. Và tất nhiên người giàu cũng ở trong như khu đô thị đắt tiền, đầy đủ tiện nghi,
cao cấp. Trong khi đó, người nghèo lại cho con học ở những trường bình thường, ở
khu chung cư dành cho người thu nhập thấp, chăm sóc y tế lại là thứ xa xỉ. Điều này
dẫn đến hệ quả là sự phân hoá càng sâu sắc hơn, khi xã hội chia thành hai nhóm dân
cư khác nhau. Sự phân hoá này càng dễ xảy ra khi mới đây Cơ quan tư vấn nguồn
nhân lực Mercer khảo sát đánh giá TP. Hồ Chí Minh đứng thứ 37 (năm 2004 đứng thứ
36) trong danh sách 50 thành phố có giá cả sinh hoạt cao nhất thế giới. lOMoARcPSD|36991220
Tiêu chí chính để Mercer đánh giá thành phố đắt nhất thế giới là chi phí của hơn
200 loại dịch vụ. Điều tra này cho thấy, giá bất động sản ở TP. HCM cao hơn nhiều so
với giá trị thực của nó. Việc xếp hạng đã mở ra cơ hội kinh doanh, nhưng bên cạnh đó
mặt trái của nó cũng đáng để lo. Vì sự phân hóa giàu nghèo có thể sẽ tăng thêm. Trong
khi một số người có đủ tiền để mua vài biệt thự trị giá hàng tỷ, thì đại đa số người dân
không đủ tiền mua một căn hộ trung bình. Việc mất cân đối tỷ trọng đầu tư (giữa bất
động sản và các khu vực khác) về lâu dài sẽ dẫn một nền kinh tế kém hiệu quả.
Chi phí sinh sống quá cao có thể làm giảm khả năng cạnh tranh của thành phố Hồ
Chí Minh so với các thành phố khác trên thế giới. Như vậy, nếu giá cả sinh hoạt cao là
hậu quả của việc tăng GDP trên đầu người của người dân, hay do cơ hội kinh doanh
tăng, là điều rất tốt. Song nếu chi phí cao làm tăng khoảng cách giàu nghèo, mất cân
đối đầu tư, giảm khả năng cạnh tranh so với các thành phố khác trong khu vực thì điều này cần phải suy nghĩ.
Phải làm thế nào để tạo thêm cơ hội kinh doanh cho các nhà đầu tư lại vừa hạ được
giá thành bất động sản cũng như giá cả các dịch vụ khác để thành phố Hồ Chí Minh
còn là chỗ sinh sống cho người có thu nhập trung bình, chứ không chỉ là nơi sinh sống
của những người có thu nhập cao. Nếu không tiến hành thực thi các chính sách hiệu
quả, thì sự cách biệt này ngày càng rõ hơn khi hội nhập toàn cầu hoá.
Thực tế cho thấy tình trạng phân hóa giàu - nghèo, tình trạng gia tăng các tệ nạn xã
hội trong những năm gần đây ngày một tăng. Nếu sự phân hóa giàu - nghèo trở nên
gay gắt thì vấn đề công bằng, bình đẳng xã hội sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Vấn đề
cơ bản để xoá khoảng cách giàu nghèo chính là sự đầu tư cho phát triển cân đối, phải
chú ý hơn nữa và nhất thiết phải quan tâm đến tính hiệu quả. Để phát triển bền vững,
cần tập trung đẩy mạnh hiện đại hoá. Phát triển cơ sở hạ tầng ở ngoại thành, làm tốt
công tác xóa đói, giảm nghèo, không dừng ở các hình thức và biện pháp như hiện nay,
phải thiết thực đưa người nghèo ra khỏi cảnh nghèo đói. Không thể để xảy ra tình
trạng Nhà nước đầu tư phát triển lớn nhưng do buông lỏng kiểm tra, giám sát mà dẫn tới tình trạng thất
thoát, tắc trách, không đạt được mục đích đề ra. lOMoARcPSD|36991220
Biểu đồ phân hóa giàu nghèo năm 2014 ( Nguồn: tinhhoa.net)
Cùng với xu hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, quá trình đô thị hóa đang diễn ra
như một tất yếu của lịch sử. Đặc biệt, trong thời đại ngày nay, quá trình đô thị hóa
đang diễn ra một cách mạnh mẽ hơn lúc nào hết. Đây là một biểu hiện của sự chuyển
đổi xã hội theo hướng văn minh hiện đại. Sự chuyển đổi này tạo đà cho sự phát triển
kinh tế, tuy nhiên cũng không tránh khỏi những tác động xấu do nó mang lại. Đó chính
là sự tăng trưởng kinh tế, với nhiều khu đô thị, khu công nghiệp mới mọc lên ở những
vùng ngọai thành, tạo nhiều công ăn việc làm cho người dân vùng ven. Nhưng đồng
thời nó cũng thu hẹp và dần dần xóa bỏ diện tích nông nghiệp. Điều này dẫn đến một
số hệ quả không tốt, khi mức sống và lối sống công nghiệp ập đến, người dân chưa kịp
thích ứng thì đã bị đào thải. Nhiều vùng đất bị quy hoạch, giải tỏa. Người nông dân
bán đất, nhanh chóng giàu lên và nhanh chóng mất đi sự giàu có. Điều này càng làm
cho sự phân hóa giàu nghèo diễn ra nhanh hơn. Chính vì vậy ưu tiên phát triển kinh tế,
nhưng cũng đồng thời phải đề ra chính sách hỗ trợ, tư vấn giúp cho người dân có cuộc
sống bền vững, ổn định, theo kịp đà phát triển của đất nước. PHẦN 3: KẾT LUẬN
Quy luật giá trị và kinh tế có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển kinh tế
thị trường , nó là quy luật kinh tế căn bản chi phối sự vận động của nền kinh tế thị
trường. Sự tác động của quy luật giá trị một mặt thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế,
mặt khác gây ra các hệ quả tiêu cực …Đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta giai đoạn hiện nay, quy luật giá trị đóng một vai trò cực kỳ quan trọng.
Tuy nhiên có phát huy được các mặt tích cực , đẩy lùi các mặt tiêu cực còn là một
vấn đề phụ thuộc nhiều vào vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước và nhận thức của mỗi lOMoARcPSD|36991220
công dân. Hy vọng trong một tương lai không xa nền kinh tế nước ta sẽ ngày càng
vững mạnh và có một vị thế trong khu vực và trên thế giới.
Đối với thời đại ngày nay việc đi sâu tìm hiểu nghiên cứu về đề tài này đã giúp ích
cho nhóm em rất nhiều trong việc nâng nhận thức và tư duy kinh tế; có quan niệm
đúng đắn về thành phần kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của nó đồng thời xác định
được trách nhiệm của mình đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. lOMoARcPSD|36991220 TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ngọc, L. (2021, 8 4). Đẩy mạnh ứng dụng khoa học - kỹ thuật trong phát triển sản xuất nông nghiệp. Retrieved from Báo Thanh Hóa:
https://baothanhhoa.vn/khoa-hoc-cong-nghe/day-manh-ung-dung-khoa-hoc-
kythuat-trong-phat-trien-san-xuat-nong-nghiep/141346.htm
PGS, T. Đ. (2021, 7 18). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Retrieved from Tạp chí Cộng sản:
https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/823673/mot-so-van-
dely-luan-va-thuc-tien-ve-nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia- oviet-nam.aspx#
PGS, T. T. (2023, 5 18). Về tính tất yếu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Retrieved
from Tạp chí cộng sản: https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/dau-
tranhphan-bac-cac-luan-dieu-sai-trai-thu-dich/chitiet/-
/asset_publisher/YqSB2JpnYto9/content/ve-tinh-tat-yeu-phat-trien-nenkinh-te-
thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-trong-thoi-ky-qua-do-len-chunghia-
thật, C. t. (2021). Kinh tế chính trị Mac-Lenin. Retrieved from Bộ giáo dục và đào tạo.
Document Outline
- PHẦN 1: MỞ ĐẦU, MỤC TIÊU, NGHIÊN CỨU
- 1. Mở đầu
- 2. Mục tiêu nghiên cứu
- 3. Phương pháp nghiên cứu
- PHẦN 2: NỘI DUNG
- CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUY LUẬT GIÁ
- VỚI NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ N
- 1.1. Lý thuyết về nền kinh tế thị trường định hướn
- Nam hiện nay
- 1.2. Khái quát về quy luật giá trị
- 1.3. Tác động của quy luật giá trị
- CHƯƠNG 2: TÁC ĐỘNG CỦA QUY LUẬT GIÁ TRỊ ĐỐI VỚI NỀ
- 2.1. Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa
- 2.2. Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản
- 2.3. Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hóa ng
- thành người giàu, người nghèo
- PHẦN 3: KẾT LUẬN
- TÀI LIỆU THAM KHẢO