-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Tiểu luận môn Lịch sử mỹ thuật | Đại học Mỹ thuật Công nghiệp
Tiểu luận môn Lịch sử mỹ thuật | Đại học Mỹ thuật Công nghiệp. Tài liệu được biên soạn dưới dạng file PDF gồm 55 trang, giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!
Lịch sử mỹ thuật (MT) 3 tài liệu
Đại học Mỹ thuật Công nghiệp 42 tài liệu
Tiểu luận môn Lịch sử mỹ thuật | Đại học Mỹ thuật Công nghiệp
Tiểu luận môn Lịch sử mỹ thuật | Đại học Mỹ thuật Công nghiệp. Tài liệu được biên soạn dưới dạng file PDF gồm 55 trang, giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Lịch sử mỹ thuật (MT) 3 tài liệu
Trường: Đại học Mỹ thuật Công nghiệp 42 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN…………………………………………………… 3
MỞ ĐẦU.……………………………………………………………. 5
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ………………. 7
1.1. Một số khái niệm………………………………………….……. . 7
1.2. Bối cảnh lịch sử mỹ thuật thời Lê……………………………..... 7
1.3. Khái quát về mỹ thuật thời Lê…………………………………... 9
1.4. Tiểu kết.…………………………………………..……………… 10
CHƯƠNG II: ĐẶC ĐIỂM TẠO HÌNH THỜI LÊ TRONG TRANH DÂN
GIAN ĐÔNG HỒ VÀ HÀNG TRỐNG……………..…………….. 11
2.1. Tranh dân gian Đông Hồ……..………………………………... 13
2.1.1. Khái quát chung về tranh dân gian Đông Hồ…………..….... 13
2.1.2. Về thể loại…………..…...…………..…...…………..…........ 14
2.1.3. Về quy trình sản xuất…...…………..…...…………..…......... 14
2.1.4. Về đặc điểm tạo hình………………..…...…………..…........ 15
2.1.4.1. Chất liệu và màu sắc……...……..…...…………..…........ 15
2.1.4.2. Bố cục……...……..…...…………..….............………….. 16
2.1.4.3. Đường nét và tạo hình……...……..….…………..…........ 18
2.1.5. Về nội dung………………..…...…………..…......................... 19
2.2. Tranh dân gian Hàng Trống……..……………………………… 22
2.2.1. Khái quát chung về tranh dân gian Hàng Trống…...…..…..... 22 1
2.2.2. Về thể loại…………..…...…………..…...…………..…........ 23
2.2.3. Về quy trình sản xuất…...…………..…...…………..…......... 24
2.2.4. Về đặc điểm tạo hình………………..…...…………..…........ 25
2.2.4.1. Chất liệu và màu sắc……...……..…...…………..…........ 25
2.2.4.2. Bố cục……...……..…...…………..….............………….. 26
2.2.4.3. Đường nét và tạo hình……...……..….…………..…........ 27
2.2.5. Về nội dung………………..…...…………..….......................... 31
2.3. Tranh Đông Hồ và tranh Hàng Trống đặt trong tạo hình mỹ thuật thời
Lê…………………………………………………………………....... 35
2.4. Sự khác biệt giữa tranh Hàng Trống và tranh Đông Hồ…………. 37
2.4.1. Tính chất trang trí và đồ họa của từng dòng tranh…………… 37
2.4.2. Kĩ thuật in……………………………………………………. 38
2.4.3. Giấy in và màu sắc…………………………………………… 39
2.4.4. Đề tài…………………………………………………………. 39
2.4.5. Kích thước……………………………………………………. 40
2.5. Tiểu kết…………………………………………………………… 40
CHƯƠNG III: TÌNH TRẠNG TỒN TẠI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HAI
DÒNG TRANH DÂN GIAN ĐÔNG HỒ VÀ HÀNG TRỐNG….. 42
3.1. Sự mai một trong văn hóa vẽ tranh và thú chơi tranh Đông Hồ… 42
3.2. Sự mai một trong văn hóa vẽ tranh và thú chơi tranh Hàng Trống 43 2
3.3. Tiểu kết……………………………………………………....... 44
CHƯƠNG IV: TÍNH ỨNG DỤNG VÀO SẢN PHẨM MỸ THUẬT CÔNG
NGHIỆP HIỆN NAY………………………………..…………….. 45
4.1. Ứng dụng trong thiết kế bao bì sản phẩm……………………… 45
4.1.1. Họa tiết tranh Hàng Trống sử dụng trong dự án nghệ thuật “Họa sắc Việt –
sang tạo từ truyền thống”…………………………………………… 45
4.1.2. Họa tiết tranh Đông Hồ trong dự án “ĐƯƠNG ĐẠI HÓA TRANH
ĐÔNG HỒ” của Highland Coffee…………………………………. 47
4.2. Ứng dụng trong lĩnh vưc thời trang……………………………. 51
4.3. Ứng dụng trong nghệ thuật trang trí gốm……………………… 53
4.4. Tiểu kết………………………………………………………… 54
KẾT LUẬN………………………………………………………… 55
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................ 56 3 MỞ ĐẦU
1. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
1.1. Mục đích nghiên cứu:
- Giúp cho người nghiên cứu, học tập lịch sử mỹ thuật Việt Nam hiệu quả và hiểu
rõ hơn về giá trị vốn cổ dân tộc.
- Góp phần nâng cao hiểu biết và bảo tồn di sản văn hóa dòng tranh dân gian.
- Thấu hiểu và biết cách vận dụng những chi tiết đắt giá vào trong thiết kế mỹ thuật ứng dụng hiện đại.
1.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu các lý luận liên quan đến đề tài
- Tìm hiểu vẻ đẹp và tính ứng dụng của hai dòng tranh dân gian Đông Hồ và Hàng
Trống trong mỹ thuật ngày nay.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu: Tranh dân gian Đông Hồ và Hàng Trống
2.2. Phạm vi nghiên cứu: Đặc điểm của từng loại tranh, của tạo hình thời Lê và
tính ứng dụng của những đặc điểm đó lên mỹ thuật công nghiệp hiện đại.
3. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp phân tích tổng hợp: Thu thập tài liệu, thông tin nghiên cứu liên quan đến đề tài 4
4. Bố cục: Tên các chương và dự kiến kết quả đạt được
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn bao gồm 03 chương:
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM TẠO HÌNH THỜI LÊ TRONG TRANH DÂN GIAN
ĐÔNG HỒ VÀ HÀNG TRỐNG
Chương 3: TÌNH TRẠNG TỒN TẠI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HAI DÒNG
TRANH DÂN GIAN ĐÔNG ĐỒ VÀ HÀNG TRỐNG
Chương 4: TÍNH ỨNG DỤNG VÀO SẢN PHẨM MỸ THUẬT CÔNG NGHIỆP HIỆN NAY 5 Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Một số khái niệm 1.1.1. Tạo hình
Tạo hình là thủ pháp sáng tạo nghệ thuật bằng ngôn ngữ hình khối, màu sắc, chất
cảm, không gian, bố cục. Theo nghĩa rộng, tạo hình bao gồm hoạt động hội họa và
điêu khắc, mỹ thuật ứng dụng, kiến trúc, nhiếp ảnh. Theo nghĩa hẹp tạo hình là hoạt
động thuộc hội họa giá vẽ và điêu khắc. Hội họa là nghệ thuật tạo hình trên mặt
phẳng, các yếu tố đường nét, màu sắc, hình diện. Điêu khắc là nghệ thuật tạo hình
trong không gian ba chiều, bằng các khối thể tích. Mĩ thuật ứng dụng và kiến trúc sử dụng các ph ơ
ƣ ng diện tạo hình vào việc tạo dáng sản phẩm, sáng tạo môi tr ờ
ƣ ng không gian mang giá trị thẩm mỹ và công năng
1.2. Bối cảnh lịch sử mỹ thuật thời Lê:
Năm 1400, Hồ Quý Ly truất ngôi nhà Trần, tự xưng vua, lấy hiệu là Thánh Nguyên,
đổi tên nước là Đại Ngu. Như vậy là sau triều Trần một triều đại mới bắt đầu: đó là triều đại nhà Hồ
Đến ngày 19 tháng 11 năm 1406, nhà Minh vượt qua biên giới đánh về Thăng
Long. Đến ngày 10 tháng 01 năm 1407, thành Đa Bang thất thủ, tuyến phòng ngự
chống quân Minh của nhà Hồ bị phá vỡ. Tháng 6 năm 1407 cuộc kháng chiến của
quân nhà Hồ bị thất bại, nước ta rơi vào tay quân xâm lược nhà Minh. Tháng
9/1907 nước ta bắt đầu thời kì đô hộ của nhà Minh. Trong 20 năm đầu thế kỉ XV,
quân Minh đã tàn phá nhiều công trình kiến trúc và điêu khắc của dân tộc ta, hòng 6
hủy diệt nền văn hoá dân tộc của ta và âm mưu đồng hoá dân tộc. Khi sang xâm
lược chúng đã được lệnh: "khi tiến quân vào An Nam chỉ trừ những bản kinh và
sách về thích, đạo không huỷ còn tất cả các bản in sách các giấy tờ cho đến sách học của trẻ em.
Những người thợ tài giỏi, trong đó có Nguyễn An bị chúng bắt đem về nước. Sau
khi lên ngôi vua, Lê Lợi đã ra nhiều chính sách để phục hồi nền kinh tế nhất là
những chính sách về nông nghiệp như khai khẩn ruộng hoang, những người đi
phiêu bạt các nơi nay được lệnh trở về quê quán làm ăn, hệ thống đê điều được tu
bổ, sửa sang...Tất cả những điều đó làm cho nền kinh tế nông nghiệp thời lê phát
triển, cải thiện một phần đời sống của nhân dân.
Cùng với việc phát triển chế độ quân chủ chuyên chế, nhà Lê củng cố chế độ đẳng
cấp phong kiến và truyền bá ý thức hệ nho giáo. Do đó mặc dù cuối thời Trần các
nho sĩ đã đấu tranh mạnh với phật giáo thì sang thời Lê Sơ, nho giáo đã phát triển
mạnh, được nhà nước ủng hộ và nhanh chóng dành được địa vị thống trị . Về mặt
tư tưởng thì nhà nước ra nhiều sắc lệnh để hạn chế phật giáo. Nho sĩ được đề cao,
việc đào tạo nhân tài chủ yếu qua con đường thi cử.
Tất cả tình hình trên đã góp phần tác động đến sự phát triển của nghệ thuật tạo hình
thời Lê Sơ. Nếu như ở thời Lý, Trần nghệ thuật nho giáo phát triển mạnh thì đến
nay bị hạn chế. Đến thời vua Lê Thánh Tông, phật giáo và cả đạo giáo bị hạn chế
chặt chẽ hơn, nghiêm ngặt hơn. Vì vậy có thể nói vào thời Lê Sơ, mĩ thuật phục vụ
tư tưởng nho giáo của giai cấp thống trị phát triển mạnh hơn nghệ thuật phật giáo
và nghệ thuật dân gian. Bên cạnh việc thừa kế những tinh hoa của mỹ thuật thời
Lý, thời Trần thì mỹ thuật thời Lê Sơ phát triển với nhiều nguồn ảnh hưởng khác
nhau. Nho giáo được phát triển, nhà nước phong kiến lấy nho giáo làm mẫu mực
cho việc dựng nước trị dân. Lúc này vai trò của vua được thần thánh hoá, sự phân 7
biệt đẳng cấp trên dưới và các trật tự phong kiến được củng cố. Điều này khiến cho
mỹ thuật thời Lê phần nào bị ảnh hưởng văn hoá phương bắc, nhất là ở khu vực mỹ
thuật cung đình. Tuy vậy sau khi kháng chiến chống quân Minh thắng lợi, ý thức
độc lập dân tộc càng được khẳng định. Bởi vậy khi xây dựng các công trình kiến
trúc hoặc sáng tạo nghệ thuật tạo hình. Mặc dù công trình thuộc về những người
thợ vẫn đưa vào tác phẩm các biểu hiện của mỹ thuật dân gian.
Sau đó cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo đã thu hút nhiều sĩ phu yêu
nước mà nhân dân kéo dài trong 10 năm (1417-1427) đã thắng lợi vẻ vang .Quân
Minh bị đánh đuổi, Lê Lợi lên ngôi vua, lập ra triều đại nhà Lê. Thời kì này còn
được gọi là nhà Lê Sơ hay hậu Lê để phân biệt với thời tiền Lê của vua Lê Đại Hành.
1.3. Khái quát về hội họa thời Lê:
Cũng giống như các thời kỳ trước, tranh của thời kỳ Lê Sơ hầu như không còn giữ
được đến ngày nay. Việc tìm hiểu nghệ thuật qua thơ, qua sử sách lưu truyền đã trở
nên quen thuộc khi nghiên cứu về hội hoạ thời phong kiến. Hội Tao Đàn do vua Lê
Thánh Tông đứng đầu đã tập hợp nhiều văn sĩ của thời Lê Sơ. Qua những bài thơ
của họ trong "Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập" có thể chứng minh cho sự có mặt của
nghệ thuật hội hoạ thời Lê Sơ bên cạnh các loại hình nghệ thuật khác. Nhiều bức
tranh được "xem" qua như tranh vẽ hoa mai, hoa sen....cùng với thể loại tranh
phong cảnh, thời Lê còn có nhiều tranh vẽ theo đề tài ca ngợi tình bạn ,tình người
tri kỷ.đó là các tranh vẽ "Bá Nha Gảy Đàn", "Chim Núi Gọi Người"....
Đặc biệt thể loại tranh chân dung đã phát triển từ các thế kỉ trước nay vẫn được chú
trọng. Đó là tranh chân dung của những người nổi tiếng trung quân ái quốc. Đồng
thời cũng là hình thức ban thưởng của vua đối với người mình yêu quý, mến mộ tài 8
năng, đức độ. Bức tranh được nhắc đến nhiều hơn cả là tranh chân dung Nguyễn
Trãi.Sau vụ án "Lệ Chi Viên"với hình thức "chu di tam tộc" Nguyễn Trãi được
minh oan ở thời Hồng Đức. Vua Lê Thánh Tông sau khi minh oan cho ông, đã cho
vẽ chân dung ông để lưu truyền lại đời sau, đây có lẽ là một bức chân dung vẽ theo
lối tượng trưng, lí tưởng hoá và dựa trên cơ sở mô tả của những người biết về Nguyễn Trãi .
Các nhà nghiên cứu mỹ thuật còn đưa ra một chứng minh về hình vẽ của thời Lê
Sơ. Đó là những hình vẽ trên đồ gốm của thời kỳ này. Có thể nói các hình vẽ này
khá phong phú về thể loại và có bút pháp rất đặc biệt. Hình vẽ ở đây có thể là một
hình đơn lẻ, cũng có thể là một đồ án trang trí được bố cục chặt chẽ, đậm nhạt
phong phú, đường nét sinh động. Thường là các dải hoa văn ngang, vòng quanh
thân gốm. Thỉnh thoảng cũng có những tác phẩm gốm được trang trí chia thành các ô dọc.
1.4. Tiểu kết:
Trải qua 100 năm tồn tại lịch sử và mĩ thuật thời Lê Sơ có sự chuyển biến và phát
triển theo một chiều hướng khác .Một mặt nó kế thừa những tinh hoa truyền thống
trong mỹ thuật thời Lý – thời Trần .Mặt khác do sự thay đổi của hoàn cảnh XH nên
mỹ thuật Lê Sơ mang một phong cách riêng biệt .Trong một số tác phẩm từ thời Lê
Thánh Tông về sau có nhiều ảnh hưởng của tinh thần nho giáo .Tuy vậy phong
cách nghệ thuật Lê Sơ vẫn không xa rời với truyền thống dân tộc .Có thể vì tính
chất chính thống Nho Giáo thể hiện ở nội dung ,đề tài những hình thức thể hiện vẫn
mang nét chân thực ,đơn giản ,giàu chất sống động ,hồn nhiên.
Chúng ta có thể nói mỹ thuật Lê Sơ là một dấu gạch nối giữa nguồn mỹ cảm dân
gian thời Trần với những thế kỷ sau ,là tiền đề cho một thời đại huy hoàng của nghệ
thuật dân gian Việt Nam với những sáng tạo kì diệu. 9 Chương 2
ĐẶC ĐIỂM TẠO HÌNH THỜI LÊ TRONG TRANH
DÂN GIAN ĐÔNG HỒ VÀ HÀNG TRỐNG
2.1. Tranh dân gian Đông Hồ:
2.1.1. Khái quát chung về tranh Đông Hồ:
Tranh Đông Hồ, hay tên đầy đủ là tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ, đây là một
dòng tranh dân gian Việt Nam với xuất xứ từ làng Đông Hồ thuộc xã Song Hồ,
huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Theo tìm hiểu, trước kia tranh được bán ra chủ
yếu phục vụ cho dịp Tết Nguyên Đán, người dân nông thôn mua tranh về dán trên
tường, hết năm lại lột bỏ, dùng tranh mới.
Tranh Đông Hồ mang tính thẩm mỹ của người nông dân nguyên chất gắn với một
số cá nhân có tài vẽ, mầu in trước lên giấy quét điện nét đen in sau cùng. Với
những nét tinh túy riêng và mang đậm những giá trị văn hóa to lớn, tranh tết Đông
Hồ bằng những hình ảnh biểu tượng dân dã, gần gũi nhưng lại chứa đựng những
thông điệp ẩn ngữ đầy tính nhân văn. Sự phong phú và đa dạng cả về mẫu mã, thể
loại, chủ đề, tranh dân gian Đông Hồ phản ánh hầu như tất cả những gì diễn ra
trong đời sống bình dị của người lao động như: Chăn trâu thổi sáo, Hứng dừa, Đấu
vật, Đánh ghen… cho tới những ước mơ, khát vọng cuộc sống tốt đẹp hơn như Lễ
trí, Nhân nghĩa, Vinh hoa, Phú quý, Lợn đàn, Gà đàn… Nét hấp dẫn của tranh dân 10
gian Đông Hồ không chỉ đề cập đến cuộc sống: thóc đầy bồ, gà đầy sân, mong ước
vinh hoa phú quý… mà còn đề cập đến cuộc sống lứa đôi, vợ chồng với cái nhìn hóm hỉnh mà sâu sắc.
2.1.2. Về thể loại
Theo nội dung chủ đề, tranh Đông Hồ có thể chia thành 7 loại chính: tranh thờ,
tranh chúc tụng, tranh lịch sử, tranh truyện, tranh phương ngôn, tranh cảnh vật và tranh phản ánh sinh hoạt.
2.1.3. Về quy trình sản xuất
Có nhiều công đoạn, trong đó có 2 khâu chính gồm: sáng tác mẫu (khắc ván) và in
(vẽ tranh). Ở đây có thể thấy mỗi nghệ nhân đòi hỏi có ít nhiều năng khiếu bẩm
sinh cũng như kỹ năng lao động cao.
Ván khắc in tranh có 2 loại: ván in nét và ván in màu. Ván in nét được làm từ gỗ thị
hoặc gỗ thừng mực. Dụng cụ khắc ván là những mũi đục hay còn gọi là bộ ve làm
bằng thép cứng (khoảng 30 - 40 chiếc/bộ).
Vật liệu và dụng cụ dùng để in tranh gồm: giấy dó, các loại màu, ván in, co ván, bìa
và thét (chổi làm bằng lá thông). Cách thức in tranh như sau: trước khi in tranh,
phải chuẩn bị sẵn giấy in để thành 1 tập (khoảng từ 100 đến 200 tờ ở trước mặt).
Khi in, người ta nhúng thét lá thông vào chậu màu để lấy màu, rồi quét đều trên
mặt bìa. Phương pháp lấy mực để in tranh dân gian Đông Hồ theo cách xếp ván,
tức là cầm "co" ván dập đi, dập lại tấm ván xuống mặt bìa đã được phết màu, để
màu thấm đều trên bề mặt ván, sau đó đặt ván in lên tờ giấy định in sao cho cân
đối, chính xác, ấn mạnh ván in vào tờ giấy, để có sự liên kết nhất định, rồi lật ngửa
ván in có dính cả tờ giấy in tranh lên; lấy xơ mướp xoa đều lên mặt sau tờ giấy, để
cho phẩm mầu trên mặt ván tiếp tục thấm đều trên mặt giấy. Tiếp đó, gỡ tờ tranh ra 11
khỏi ván in, rồi mang tranh ra phơi ở những nơi thoáng mát. Tranh khô rồi mới tiếp
tục lần lượt in các màu khác. Bản nét đen bao giờ cũng được in cuối cùng.
Trước kia, chỉ có nghê ̣ nhân làng Hồ sáng tác mẫu mới vẽ tranh bằng tay. Các công
đoạn khác trong sản xuất tranh dân gian Đông Hồ đều dùng ván in. Ngày nay,
người ta còn vẽ tranh theo cách thức khác (ngoài in), đó là tô màu, vờn màu trên
tranh đã được in ván nét trước (theo lối vẽ tranh Hàng Trống) và vẽ tranh trên giấy
trắng hoặc giấy màu bồi. Khi vẽ tranh trên giấy đã in ván nét, người nghệ nhân chỉ
việc phân bố màu sắc sao cho hài hoà, hợp lý, thể hiện rõ nội dung của bức tranh,
mà vẫn biểu đạt được giá trị thẩm mỹ.
2.1.4. Về đặc điểm tạo hình:
2.1.4.1. Chất liệu và màu sắc:
Nét độc đáo đầu tiên thu hút cảm quan người xem của tranh chính là ở màu sắc và
chất liệu giấy in. Giấy dùng in tranh là giấy dó được làm từ vỏ cây dó, với đặc tính
xốp, mềm, mỏng, dai, dễ hút màu mà khi in không bị nhòe. Trên giấy được quét lên
một lớp hồ điệp có nét sáng óng ánh rất đặc thù bằng cách: người ta nghiền nát vỏ
con điệp (một loại sò vỏ mỏng ở biển) trộn với hồ (loại bột gạo tẻ, hoặc gạo nếp, có
khi là bột sắn), dùng chổi lá thông quét lên mặt giấy dó. Với chổi lá thông sẽ tạo
thành những đường ganh chạy theo đường quét và vỏ điệp tự nhiên cho màu trắng
có ánh lấp lánh của những mảnh điệp nhỏ dưới ánh sáng, trong quá trình làm giấy
điệp có thể pha thêm màu khác vào hồ. Màu sắc được sử dụng trong tranh là màu
tự nhiên từ cây cỏ như màu đen từ than cây xoan hay than lá tre, màu xanh từ gỉ
đồng, lá chàm, màu vàng từ hoa hòe, màu đỏ từ sỏi son, gỗ vang… Đây là những
màu cơ bản, không pha trộn. Điều này phản ánh cuộc sống và tâm hồn gần gũi với
thiên nhiên của con người Việt Nam. Cách pha chế màu cũng tùy thuộc vào điều
kiện thời tiết, chất giấy... Đây là kinh nghiệm, sự sáng tạo, thậm chí còn là bí quyết 12
gia truyền của mỗi nghệ nhân. Chính nhờ sự cầu kỳ, cẩn thận trong cách chế màu
mà tranh Đông Hồ luôn tươi sáng, rực rỡ và không bị bay màu. 2.1.4.2. Bố cục:
Tranh Đông Hồ sử dụng đa dạng các loại bố cục khác nhau, rất chặt chẽ nhưng lại
hoàn toàn tự do. Ví dụ như dạng bố cục tròn, e-líp được thể hiện trong rất nhiều
bức tranh thuộc đề tài chúc tụng như Vinh hoa, Phú quý, Bé ôm tôm, Bé ôm cá…
Các nhân vật thường được thể hiện đan xen thành một khối thống nhất cả về hình
mảng, đường nét tạo thành một mảng lớn có xu hướng của hình e-líp trên nền giấy
điệp. Với bố cục trên rất thuận lợi cho việc liên tưởng đến các yếu tố về sự thống
nhất, khăng khít hay tròn trịa, đầy đặn… làm toát lên tư tưởng ẩn sau đề tài. 13 tranh “Vinh hoa”
Ngoài ra còn có bố cục dạng hình vuông hình chữ nhật phù hợp với các đề tài thể
hiện tính quy củ, có tổ chức hoặc tạo sự cân bằng có trên dưới, có trật tự trước sau.
Tranh dân gian Đông Hồ có nhiều tác phẩm thể hiện theo lối bố cục dạng hình
vuông, chữ nhật. Các mảng hình trong tranh thường được kết hợp sinh động liên
kết tạo thành một kết cấu chặt chẽ trong các khuôn hình chữ nhật lúc ngang, lúc
dọc theo đặc điểm của khổ tranh và theo từng nội dung cụ thể. Điều này được thấy
trong các tranh như: Hạnh phúc, Lợn đàn, Gà đàn, Bé ôm phật thủ… Tranh “Lợn đàn”
Không chỉ vậy, tranh Đông Hồ còn sử dụng bố cục hình thang và dạng đồ thị hình
sin, thể hiện rõ trong tranh Đấu mộc. Toàn bộ các nhân vật trong tranh hiện lên theo
hình sin chuyển động từ trái sang phải như nhịp của sóng nước tạo nên yếu tố động
để phản ánh một phần nội dung cần diễn giải. Bức tranh vẽ về hoạt động đấu mộc,
một trong những môn võ để rèn sức khỏe cho trai tráng trong các hoạt động luyện
quân và được duy trì trong các làng xóm xưa kia. Hình ảnh các nhân vật, người 14
ngồi nghỉ đợi đến lượt, người vung dao, người co chân… tạo ra một nhịp liên hoàn
có tính thống nhất. Màu sắc tối giản, đậm nhạt được xử lý cô đọng, hình ảnh các
đấu sĩ với tay cầm mác, tay cầm lá chắn, cởi trần đóng khố được lặp lại trên mặt
tranh mà chỉ thay đổi tư thế, động tác và một vài chi tiết càng làm cho tính nhịp điệu được tăng lên. Tranh “Đấu mộc”
2.1.4.3. Đường nét và tạo hình:
Tranh dân gian Ðông Hồ không áp dụng chặt chẽ về hình dạng cơ thể học, các
nguyên tắc về ánh sáng hay luật xa gần của tranh hiện đại. Những nghệ sĩ sáng tác
tranh dân gian mang nhiều tính ước lệ trong bố cục, trong cách miêu tả hình tượng
nghệ thuật khái quát, chắt lọc về đường nét, về màu sắc. Tất cả đều sử dụng lối vẽ
đơn tuyến bình đồ để thể hiện, do đó xem tranh dân gian ta thường bắt gặp cái thú
vị ở những nét ngây ngô đơn giản nhưng hợp lý hợp tình. 15
Tranh dân gian Đông Hồ được khắc họa một cách chắt lọc về đường nét; tỉ lệ hình
ước lệ theo một sự hợp lý của bản năng nghệ thuật và cảm thức trong sáng, hồn
hậu, dí dỏm…Những quan niệm, mĩ cảm của người nghệ sĩ- nghệ nhân được thoát
thai từ hiện thực cuộc sống được đưa vào tranh một cách tài tình và sâu sắc qua bố
cục, đường nét của hình thể được khái quát và điển hình hóa nên cái không gian hiện thực trên tranh. 2.1.5. Về nội dung
Tranh dân gian Đông Hồ phản ánh sâu sắc đời sống tinh thần, vật chất của con
người, xã hội theo quan điểm mỹ học dân gian của người dân vùng này. Những bức
tranh nói lên ước mơ ngàn đời của người lao động về một cuộc sống gia đình thuận
hòa, ấm no, hạnh phúc và một xã hội công bằng, tốt đẹp.
Ý nghĩa của một số bức tranh dân gian Đông Hồ:
Tranh “Gà mẹ và đàn con”: nói về tình mẫu tử, tình yêu thương, đùm bọc nhau
giữa các thành viên trong gia đình, trách nhiệm của cha mẹ với con cái. 16
Tranh “Đàn lợn âm dương”: gắn bó với cuộc sống sinh hoạt bình dân, mong
muốn cuộc sống sung túc, an nhàn. Đây chính là chiều sâu của sự cảm nhận về
yêu thương, chở che của tình mẫu tử.
Tranh “Vinh Quy bái tổ”: Vinh quy bái tổ không chỉ là vinh dự cho vị tân khoa,
cho cha mẹ họ hàng, làng xóm mà còn là dịp để tân khoa bày tỏ lòng biết ơn đối
với tổ tiên, cha mẹ và người thầy dạy theo đúng đạo lý Việt Nam “Công cha,
nghĩa mẹ, ơn thầy”. Đây là một truyền thống văn hóa rất đáng quý, đáng trân trọng. 17
Tranh “Đấu vật”: đề cao tinh thần thượng võ. Đấu vật là môn võ cổ truyền của
Việ Nam xuất hiện từ khi lập quốc và tồn tại gắn liền với hoạt động bảo vệ tổ
quốc và lễ hội xuân. Bức tranh nổi tiếng của làng Đông Hồ.
Tranh “Đám cưới chuột” (Chuột vinh qui): thể hiện đậm đà tâm hồn, tính cách
thuần hậu, chất phác của người bình dân và cũng giàu chất triết lý dân gian,
mang tính nhân văn sâu sắc, ý nhị. Đám cưới chuột bề ngoài là một đám cưới vui
vẻ thế phải có cống vật dâng lên mèo. Bức tranh khoác lên vẻ đẹp duyên dáng 18
của tầng lớp xã hội phong kiến thông qua hình tượng các con vật một cách dí dỏm và sâu sắc…
Ngoài những bức tranh dân gian Đông Hồ mang nội dung bình dân với cuộc
sống giản dị mà đầy ý nghĩa, còn có những màu sắc tôn quý hơn với những bức
tranh tứ quý thể hiện sự sang trọng, cao quý chỉ dùng cho vua chúa, quan lại thời
xưa. Ví dụ: Tứ quý, Tứ bình, Tứ quý hạc, Tứ quý tố nữ… mang đậm chất vương
giả bởi những hình ảnh tượng trưng cho sự sang trọng, quyền quý, mong ước
mọi sự như ý trong một năm mới.
Thông thường, người ta đề thơ lên tranh bằng chữ Hán. Những câu thơ ngắn
gọn, súc tích, hàm chứa chủ đề của bức tranh. Nhờ vậy, người xem dễ dàng nắm
bắt được ý nghĩa của bức tranh và tư tưởng mà người nghệ nhân muốn truyền đạt.
Nói tóm lại, tranh dân gian Đông Hồ với ngôn ngữ tạo hình đơn giản, dễ hiểu,
hình tượng rõ ràng, nói lên tư tưởng, tình cảm và mong ước, khát vọng sống của
con người về một cuộc sống no đủ, hạnh phúc. Từ những bức tranh dân gian
mộc mạc, tươi sáng, các nghệ nhân Đông Hồ đã đưa vào trong tranh những lời 19
hay, ý đẹp, những kinh nghiệm đúc rút qua cuộc sống mà bao đời nay để lại bằng
cách thể hiện rất riêng, độc đáo, tinh tế, đầy chất biểu cảm mà sâu sắc.
Được tôn vinh và công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia, mong
rằngNghề làm tranh dân gian Đông Hồ sẽ tồn tại và phát triển mãi với thời gian,
là một phần không thể thiếu trong đời sống người dân lao động Việt Nam.
2.2. Tranh dân gian Hàng Trống:
2.2.1. Khái quát chung về tranh Hàng Trống:
Tranh Hàng Trống từ lâu đã được biết đến là một trong những dòng tranh dân gian
nổi tiếng của dân tộc Việt Nam. Loại tranh này chủ yếu được làm tại phố Hàng
Nón, Hàng Trống – Hà Nội. Phố Hàng Trống nằm kề các phố Hàng Nón, Hàng
Hòm, Hàng Quạt. Đây là nơi chuyên sản xuất cả đồ thủ công mỹ nghệ nhất là đồ
thờ như: tranh thờ, trống, quạt, lọng, cờ…
Hiện không có tài liệu nào chứng minh về thời điểm ra đời của dòng tranh này,
nhưng nhìn chung nhiều thông tin cho thấy dòng tranh này ra đời vào khoảng thế
kỷ 16. Và chịu ảnh hưởng rõ rệt của các luồng tư tưởng, văn hoá, tôn giáo, của
vùng miền, các dân. Là kết quả của sự giao thoa tinh hoa giữa Phật giáo, Nho giáo;
giữa loại hình tượng thờ, điêu khắc ở đình, chùa với những nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa hằng ngày.
Từ xa xưa, tranh được bày bán do các họa sĩ tài hoa của bản địa vẽ. Sau đó, một số
những họa sĩ từ nhiều nơi khác nhau đến vẽ và sản xuất tranh. Do đó, loại tranh này
còn được biết đến với những tên hiệu nổi tiếng như Phúc Bình, Vĩnh Lợi và Thanh An.
Phát triển trong một thời gian khá dài nhưng tới thế kỷ 20 dòng tranh này bắt đầu
suy tàn, nhất là kể từ sau kết thúc chiến tranh Việt Nam hầu như các nhà làm tranh 20
đều bỏ nghề. Nhiều nhà còn đốt bỏ hết những dụng cụ làm tranh như ván, bản khắc.
2.2.2. Về thể loại:
Dòng tranh này cũng như các dòng tranh phổ biến khác đều có hai dòng tranh
chính là tranh thờ và tranh Tết. Tranh Hàng Trống được chia thành nhiều loại như
tranh thờ, sinh hoạt, thiên nhiên, tranh truyện, tranh Tết. Tuy nhiên, tranh thờ là loại
tranh nổi tiếng và phát triển nhất. Đó là những bức tranh được dùng trong sinh hoạt
tín ngưỡng dân gian. Đặc biệt là tranh thờ của Đạo Mẫu – Phủ Giày, Nam Định;
Tranh Tứ phủ công đồng; Bà chúa thượng ngàn; Ông Hoàng cưỡi cá, cưỡi lốt; Ngũ Hổ…
Thể loại tranh chúc Tết cũng không kém phần đặc sắc. Tranh chúc Tết Hàng Trống
thể hiện ước nguyện của đầu năm của người dân. Mong muốn sự may mắn, phát
đạt và những hình ảnh tiêu biểu cho mùa xuân như chim muông, hoa cỏ với màu
sắc vô cùng rực rỡ, sinh động. Những chi tiết được sử dụng trong tranh Hàng Trống
mang đậm ảnh hưởng thẩm mỹ của giới quý tộc và sĩ phu kinh thành.
2.2.3. Về quy trình sản xuất:
Điều đặc biệt của tranh Hàng Trống là sử dụng kỹ thuật nửa in, nửa vẽ. Mỗi bức
tranh chỉ có duy nhất một ván khắc, tạo thành xương cốt của bức tranh. Sau khi đã
có được bản in nét đen hoàn chỉnh thì người vẽ dùng bút lông chấm màu để tô lên
từng mảng màu đậm nhạt, tùy theo bố cục và đường nét.
Cách tô màu của tranh Hàng Trống cũng hết sức đặc biệt. Một nửa ngọn bút chấm
màu, còn nửa ngọn bút kia chấm nước, khiến cho nét bút khi đặt xuống mặt giấy đã
có hai sắc độ đậm nhạt khác nhau. Đó chính là kỹ thuật “vờn màu” (thuật nữa dân 21
gian còn gọi là “cản màu”). Trong nghệ thuật dân gian của chúng ta, tranh Hàng
Trống và nghệ thuật điêu khắc đình làng có một điểm chung rất rõ nét. Nếu như
điêu khắc dùng chạm nổi và xoáy chìm để tạo chiều sâu, thì tranh Hàng Trống bằng
kỹ thuật “vờn màu” đã gợi được độ nông sâu của hình khối. Điều đó khiến cho
tranh Hàng Trống kiêu hãnh mang trong mình sự khác biệt khó có thể sao chép.
Tranh chỉ có một bản đen đầu tiên, sau khi in thì tranh được tô màu lại bằng tay. Từ
các bản khắc gốc, những bức tranh đã được in ra, bằng mực Tàu mài nguyên chất.
Sau đó là công đoạn bồi giấy. Tùy thuộc từng tranh cụ thể mà có tranh chỉ bồi một
lớp, có tranh lại phải bồi đến 2 hay 3 lớp giấy. Khi hồ đã khô thì mới có thể vẽ màu
lại. Có khi phải mất đến 3, 4 ngày mới hoàn thành một bức tranh.
Tranh được in trên giấy dó bồi dầy hay giấy báo khổ rộng. Có những tranh bộ khổ
to và dài, thường bồi dầy. Khi đã xong xuôi, nghệ nhân sẽ lồng trục vào hai phần
trên dưới của tranh để tiện cho việc treo, phù hợp với không gian kiến trúc nhà cao,
cửa rộng, sập gụ tủ chè nơi thành thị. Tranh Hàng Trống chịu ảnh hưởng của lối
tranh trục cuốn cổ điển treo tường của giới nho sĩ, khác với loại tranh khổ nhỏ có
thể dán thẳng lên vách nhà của Đông Hồ và Kim Hoàng.
Ván khắc được làm bằng gỗ mực hoặc gỗ thị. Mực in truyền thống dùng bằng
những chất liệu dân dã nhưng cầu kỳ và tinh xảo trong chế tác.
2.2.4. Về đặc điểm tạo hình:
2.2.4.1. Chất liệu, màu sắc và cách tạo màu
Tranh Hàng Trống thường được vẽ trên giấy dó và giấy xuyến chỉ. Giấy dó là loại
giấy được sản xuất từ vỏ những cây dó (như dó giấy, dó liệt…) theo quy trình thủ
công của một số làng nghề ở Việt Nam. Giấy dó được dùng cho vẽ tranh trong mỹ
thuật dân gian Việt Nam, hay lưu giữ các tài liệu, có ưu điểm nổi bật nhất là độ bền 22
theo thời gian. Xuyến là loại lụa mỏng, mịn màng, chỉ là giấy. Xuyến chỉ là loại
giấy mỏng, mịn trắng như lụa của Trung Quốc sản xuất.
Màu sắc sử dụng trong tranh Hàng Trống là phẩm màu tự nhiên. Màu sắc của tranh
tạo được ấn tượng vô cùng phong phú và rực rỡ khi sử dụng 6 màu chính: xanh da
trời, hồng, đỏ điều, cam, vàng, xanh lá cây với các sắc độ khác nhau. Các màu này
được vận dụng, kết hợp tài tình với hệ thống nét đen vẽ từ mực Tàu khiến cho các
tác phẩm tranh Hàng Trống vô cùng rực rỡ, cuốn hút nhưng cũng không kém phần
tao nhã, tinh tế. Ngoài ra, những chi tiết cần được nhấn mạnh trong tranh thờ còn
được điểm thêm bằng ngân nhũ (bạc), kim nhũ (vàng) và phấn trắng (được tán mịn
từ thạch cao). Màu đen của tranh được làm từ tro rơm nếp hay tro lá tre được đốt và
ủ kỹ, màu vàng từ hoa hoè, màu chàm của các loại nguyên liệu từ núi rừng, màu
son của sỏi đồi tán nhuyễn. Những màu sắc đó được pha với dung dịch hồ nếp cổ
truyền tạo cho tranh một vẻ óng ả và trong trẻo.
2.2.4.2. Về bố cục:
Một bức tranh Hàng Trống đôi khi gồm hai phần: phần hình ảnh và phần chữ. Phần
chữ thường là các câu chúc, câu thơ để góp phần làm rõ them nội dung của tranh.
Bố cục trong tranh Hàng Trống không theo luật xa gần mà theo lối thuận mắt, các
hình và mảng hình to nhỏ khác nhau tùy theo vị trí xã hội, điều này thể hiện rõ nhất
qua tranh thờ “Tam phủ tứ phủ”, “Thổ công”, “Táo quân… 23
Tranh “Tam phủ tứ phủ”
Tranh Hàng Trống thường có bố cục chia làm 3 lớp: lớp trên cùng là mây, lớp ở
giữa – vị trí trung tâm là các vị Thánh, Phật, xung quanh là tùy tùng và lớp dưới
cùng thường là những thứ mà vị Phật, Thánh đó cai quản như: nước đối với Thủy
Thần (Ông Hoàng cưỡi lốt); các con vật, phiến đá, dòng sông, con suối đối với
Thánh cai quản rừng (Thánh Mẫu Thượng Ngàn); quân lính đối với Thánh cai quản
quân đội (Ông Hoàng cầm quân)… Theo đó, các họa tiết sẽ được sử dụng linh hoạt,
tương ứng với bố cục của tranh. 24
2.2.4.3. Về đường nét và tạo hình:
Không gian trong tranh thường rộng, lớn, đường nét trong tranh thưởng uyển
chuyển, mềm mại, mảnh mai, trau chuốt và tinh tế mang đặc trưng thành thị.
Tranh Hàng Trống có những họa tiết rất đặc trưng, trong đó có thể kể đến:
- Họa tiết xoáy: thường xuất hiện trên áo các vị Thánh hoặc nhân vật chính trong
tranh. Đây là họa tiết rất cổ trong trang trí dân gian Việt Nam, biểu hiện cho một
đơn vị âm hoặc dương. Trong trang trí, các họa tiết xoáy thường được đặt đối xứng
tuyệt đối hoặc đối xứng liên hoàn, thể hiện triết lý âm dương của người Việt xưa:
Vũ trụ được tạo nên từ những thực thể đối lập: đất và trời, cha và mẹ, nam và nữ,
ngày và đêm, tối và sáng… liên tục vận động và chuyển hóa lẫn nhau. Vì vậy họa
tiết xoáy thường được sử dụng theo cặp để thể hiện triết lý này.
Tuy nhiên, trong nhiều bức tranh Hàng Trống, để đảm bảo tính thẩm mỹ, các nghệ
nhân thường sử dụng họa tiết xoáy một cách linh hoạt, ngẫu hứng. Số lượng họa
tiết xoáy có thể là 3, 5, 7… tùy vào cách phân bổ các hoạt tiết của nghệ nhân trên tổng thể bức tranh. 25 26
Họa tiết mây: thường xuất hiện ở phần trên cùng của tranh. Mây là một -
trong những họa tiết đặc sắc nhất về tạo hình của tranh Hàng Trống bởi nó
thể hiện kỹ thuật “vờn màu” điêu luyện của nghệ nhân. Nhóm họa tiết này
bao gồm: mây ngũ sắc, mây có sắc xám, mây màu xanh sứ (trong
bức Hương chủ). Họa tiết mây thể hiện bằng những mảng khối rõ ràng,
mang tính ước lệ mộc mạc. 27
Họa tiết sóng: thường nằm ở phần dưới của tranh, tượng trưng cho sức mạnh của
nước. Không giống sóng lớn của biển như trong tranh khắc của Nhật Bản, sóng
trong tranh Hàng Trống lúc dập dờn, lúc tung bọt. Màu sắc của sóng đa dạng và
nổi bật: xanh, đỏ, cam, vàng. 28
2.2.5. Về nội dung:
Đề tài của tranh rất phong phú nhưng chủ yếu là tranh thờ như: Hương chủ, Ngũ
hổ, Độc hổ,... Ngoài ra cũng có những bức tranh chơi như: Tố nữ, Bốn mùa (mỗi
bản bốn vế), Tranh Kiều, Nhị độ mai; hoặc những bức phỏng theo các vở tuồng.
Có những bức dùng để chơi Tết như tranh Gà, Cá chép trông trăng.... Tranh
Hàng Trống chủ yếu có các đề tài sinh hoạt xã hội ca ngợi thuần phong mỹ tục
của dân tộc như “Múa rồng”, “Múa lân”,… và các đề tài sinh hoạt xã hội trong
thời kỳ Hà Nội thuộc Pháp như “Duyệt binh”, “Hội Tây”… 29
Ý nghĩa một số tranh Hàng Trống: Tranh Ngũ Hổ
Tranh Ngũ Hổ là bức tranh vẽ năm con Hổ với bố cục cân đối trên mặt
giấy. Mỗi con Hổ có một dáng vẻ khác nhau: Con đứng, con ngồi, có con thì
cưỡi may lướt gió…Những dáng đó đều toát lên sức sống mãnh liệt của loài
chúa sơn lâm. Màu sắc, thế và dáng của Hổ mang ý nghĩa tượng trưng cho ngũ hành. 30
Năm con Hổ trong tranh Hàng Trống được bố trí theo quy luật tương sinh
các hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Tam Tòa Thánh Mẫu
Tranh thờ Đạo Mẫu Hàng Trống là một di sản văn hóa cổ truyền của dân
tộc. Tranh Tam Toà Thánh Mẫu gồm: Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thuợng Ngàn,
Mẫu Thoải, Địa Tiên Thánh Mẫu. Họ là biểu trưng cho quyền năng sáng tạo vũ
trụ duy nhất, nhưng lại hoá thân thành Tam vị, Tứ vị Thánh Mẫu cai quản các
miền khác nhau của vũ trụ – trời, đất, nuớc và thượng ngàn. 31
Tranh dân gian Tam Tòa Thánh Mẫu với vị trí và màu áo tượng trưng, đại
điện cho từng cõi trời. Mẫu Đệ Nhất Thượng Thiên trong màu áo đỏ, mẫu Đệ
Nhị Nhạc Phủ trong màu áo xanh, mẫu Đệ Tam Thoải Phủ trong màu áo trắng.
Tranh truyện: “Truyện Kiều”
Bức thứ nhất là cảnh miêu tả cuộc gặp gỡ giữa Thúy Kiều và Kim Trọng, Kim
Trọng mời Thúy Kiều chơi đàn. Bức thứ 2 tái hiện khung cảnh Thúy Kiều theo
Mã Giám Sinh về Lâm Tri, sau đó lánh nạn tại chùa Quan Âm. Bức thứ ba thể
hiện cảnh Từ Hải ngỏ lời cầu hôn với Thúy Kiều, cảnh Thúy Kiều và Từ Hải
trừng trị kẻ ác. Cuối cùng là cảnh Kim Trong gặp lại Kiều và cưới nàng làm vợ tại bức tranh thứ tư. 32
Múa lân: Đoàn múa lân theo tiếng trống thôi thúc, vui nhộn, xung quanh là
người lớn, trẻ nhỏ, tay cầm đèn lồng, đèn ông sao, đèn cá chép… Tất cả gợi nên
được không khí rộn ràng, vui tươi của Tết Trung thu cổ truyền.
2.3. Tranh Đông Hồ và tranh Hàng Trống đặt trong
tạo hình mỹ thuật thời Lê:
Mỗi dòng tranh có một phong cách riêng, song tất cả đều được dựng hình theo
kiểu "đơn tuyến bình đồ" dùng nét khoanh lấy các mảng màu và bao lại toàn
hình. Với lối dựng hình "thuận tay hay mắt", tranh dân gian không phụ thuộc vào
viễn cận một điểm nhìn mà được diễn tả theo lối quan sát di động với nhiều góc
độ khác nhau. Thần thánh luôn được vẽ to ở giữa, phía trên, còn người bình
thường thì sàn sàn nhau, con vật và cảnh sắc thì tuỳ tương quan mà vẽ to hay
nhỏ để bức tranh gây ấn tượng sâu sắc. Ngoài ra luật xa gần vẫn chưa được chú
trọng, chưa tạo được ra cảm giác không gian trong tranh dân gian. Hầu hết tranh
dân gian được vẽ theo quan niệm "sống" hơn "giống". Đường nét của mỗi bức
tranh hết sức gạn lọc, thuần khiết, cốt sao rung cảm thẩm mỹ cho người xem hơn
là vẽ đúng luật. Đây là đặc điểm chung của cả hai dòng tranh dân gian Đông Hồ
và Hàng Trống. Ví dụ tranh “Đấu vật” hay “Đám cưới chuột” đều chưa tỏ rõ luật 33
xa gần, các nhân vật trong tranh đồng hiện ngang bằng nhau, không có chính phụ: Tranh “Đấu vật”
Do ra đời để đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của người dân, gắn bó chặt chẽ
với đời sống thường nhật của người dân nơi thôn dã cho nên đề tài của tranh hết
sức phong phú. Tranh phản ánh từ những gì gần gũi, thân thiết nhất với người
dân cho đến những điều thiêng liêng cao quý trong các tranh thờ. Những
truyện Nôm như Truyện Kiều và Nhị Độ Mai cũng được dùng làm đề tài
tranh. Truyện Kiều thì có cảnh ba chị em đi tảo mộ gặp Kim trọng. Nhị Đọ
Mai thì vẽ cảnh Hạnh Nguyên đi cống Hồ. Những đề tài dân dã như: cóc, chuột,
đàn gà, hái dừa, đánh ghen, khiêng trống, đánh vật... Cùng tồn tại với những đề
tài như: Phú Quý, Tố Nữ,... Bởi gắn liền với đời sống của nhân dân đương thời
mà hai dòng tranh Đông Hồ và Hàng Trống đã phản ánh chân thực và rõ nét đời
sống và hoàn cảnh xã hội thời Lê.
Ví dụ tranh "Đám cưới chuột" lại là một minh chứng sống động và hóm hỉnh cho
quan hệ mạnh hiếp yếu trong xã hội. Chuột làm đám cưới phải lo lễ vật cống
cho mèo, cầu xin mèo để yên cho đám cưới được tiến hành. 34
Hoặc tranh “Chợ quê” là một bức tranh thuộc đề tài sinh hoạt và thiên nhiên,
miêu tả cảnh họp chợ của một vùng nông thôn sầm uất, nhộn nhịp có đầy đủ các
tầng lớp xã hội với những hàng, quán xá, ngành nghề đa dạng.
Tuy nhiên nhìn chung, cả hai dòng tranh này đều có những nét đa dạng về bố cục
cũng như màu sắc. Có lẽ chính những đặc điểm độc đáo này đã khiến tranh Đông 35
Hồ và Hàng Trống mang nhiều giá trị đặc biệt, còn tồn tại và được lưu giữ cho tới ngày nay.
2.4. Sự khác biệt giữa tranh Hàng Trống và tranh Đông Hồ:
2.3.1. Tính chất trang trí và đồ họa của từng dòng tranh.
Tranh Hàng Trống vừa có tính chất trang trí vừa có tính chất hội họa, khác rất nhiều
với tranh Đông Hồ nói riêng và các dòng tranh dân gian của các làng khác nói
chung. Trong nghệ thuật dân gian của chúng ta, tranh Hàng Trống và nghệ thuật
điêu khắc đình làng có một điểm chung rất rõ nét. Nếu như điêu khắc dân gian (có
thể nói là nghệ thuật cổ truyền nhất của Việt Nam) có những chạm nổi và xoáy
xuống dưới để tạo chiều sâu, thì tranh Hàng Trống, ngay trên mặt phẳng đã gợi
được độ nông sâu của điêu khắc, của hình khối. Thưởng thức một bức tranh Hàng
Trống đem lại cảm giác gần giống với thưởng thức nghệ thuật điêu khắc dân tộc,
trên mặt phẳng người ta thấy có chiều sâu, mà cái chiều sâu lại uyển chuyển, làm
cho khối điêu khắc càng trở nên mềm mại. Điều ấy chỉ duy nhất tranh Hàng Trống
làm được, khác biệt hoàn toàn với tranh dân gian Đông Hồ và các dòng tranh khác.
Tranh Đông Hồ và tranh của các làng khác thì chất đồ họa nhiều hơn, chủ yếu là
nét, màu là màu bẹt và không gợi khối.
Nói bằng ngôn ngữ hiện đại, có thể hình dung tranh Đông Hồ là hình ảnh 2D,
không có các hiệu ứng về tạo hình trong khi tranh Hàng Trống đã tiến gần tới cái
3D, gợi được khối ba chiều và có chiều sâu. 36 2.3.2. Kĩ thuật in
Tranh Đông Hồ in hoàn toàn bằng ván khắc, không dùng bút để vẽ hay tô màu. Đầu
tiên người ta tải màu lên mâm màu, sau đó ấn ván khắc vào mâm màu để màu
“ngậm” lên trên nét vẽ và bản khắc gỗ. Khi in, người ta dùng ván in đã ngậm màu
ấn lên giấy điệp. Mỗi lần in một màu, các màu phải khít với nhau. Tranh Đông Hồ
là nghệ thuật in tranh thủ công, bức tranh hoàn thành là do sự ghép lại của các
mảng màu in theo đúng trình tự nhất định. Khác với tranh Đông Hồ, tranh Hàng
Trống sử dụng kỹ thuật nửa in, nửa vẽ. Chỉ có duy nhất một ván khắc, tạo thành
xương cốt cho bức tranh, còn lại màu sắc hay các chi tiết trong tranh lại do bàn tay
tài hoa của người nghệ nhân làm nên. Sau khi đã có được bản in hoàn chỉnh thì
người vẽ tranh dùng bút lông chấm màu để tô lên từng mảng màu đậm nhạt, tùy
theo nội dung và đường nét. Cách tô màu của tranh Hàng Trống cũng hết sức đặc
biệt. Một nửa ngọn bút chấm màu, còn nửa ngọn bút kia chấm nước, khiến cho nét
bút khi đặt xuống mặt giấy đã có hai sắc độ đậm nhạt khác nhau. Đó chính là kỹ
thuật cản màu để tạo nông sâu hiệu quả cho bức tranh.
2.3.3. Giấy in và màu sắc
Giấy in tranh Đông Hồ được gọi là giấy điệp: người ta nghiền nát vỏ con điệp, trộn
với hồ rồi dùng chổi lá thông quét lên mặt giấy dó. Màu sắc sử dụng trong tranh là
màu tự nhiên từ cây cỏ như đen (than xoan hay than lá tre), xanh (gỉ đồng, lá
chàm), vàng (hoa hòe), đỏ (sỏi son, gỗ vang),… Đây là những màu cơ bản, không
pha trộn và vì số lượng màu tương ứng với số bản khắc gỗ, nên thông thường tranh
Đông Hồ chỉ dùng tới 4 màu. Với những chất liệu hoàn toàn tự nhiên, tranh Đông
Hồ có màu sắc gần gũi, chân quê (màu lá, màu đất), thể hiện những nét mộc mạc
mà có lẽ chỉ riêng Việt Nam mới có.Tranh Hàng Trống thì được vẽ trên giấy dó,
giấy xuyến chỉ hoặc giấy báo. Màu sắc trong tranh Hàng Trống cũng có những nét 37
riêng so với các dòng tranh. Do được vẽ tay nên màu sắc trong tranh Hàng Trống
phong phú và rực rỡ hơn. Các màu được sử dụng không hoàn toàn là màu tự nhiên,
mà còn có thêm màu phẩm. Hai màu đặc trưng riêng cho nghệ thuật tranh Hàng
Trống chính là màu xanh da trời và hồng điều. Màu phẩm đó đã làm nên một thần
thái riêng. Các màu tươi khác như đỏ, cam, vàng thư, xanh lá cây… cũng được vận
dụng. Tuy nhiên tất cả các màu đó được sử dụng một cách tài tình với hệ thống nét
đen của màu tự nhiên lấy từ than lá tre ủ kỹ, khiến cho các tác phẩm tranh Hàng
Trống vô cùng rực rỡ cuốn hút nhưng cũng không kém phần tao nhã, tinh tế. 2.3.4. Đề tài:
Các dòng tranh dân gian nói chung trước hết ra đời là để phục vụ nhu cầu về tôn
giáo, do đó tranh Thờ là đề tài chung mà cả tranh Hàng Trống và tranh Đông Hồ
đều khai thác. Sau khi nhu cầu về tín ngưỡng được đáp ứng đầy đủ thì tùy theo sinh
hoạt của từng vùng mà nghệ nhân vẽ các đề tài về sinh hoạt xã hội có tính chất địa
phương. Và trên cơ sở những sinh hoạt xã hội ấy mà có những đề tài đặc biệt chỉ
dòng tranh ấy sáng tác. Như tranh Đông Hồ có “Đánh ghen”, “Hứng dừa”, “Đánh
vật”, “Rước trống”… là những đề tài phản ánh đời sống sinh hoạt của người dân
quê. Trong khi đó tranh Hàng Trống có các đề tài sinh hoạt xã hội ca ngợi thuần
phong mỹ tục của dân tộc như “Múa rồng”, “Múa lân”… và các đề tài sinh hoạt xã
hội trong thời kỳ Hà Nội thuộc Pháp như “Duyệt binh”, “Hội Tây”… 2.3.5. Kích thước
Để đáp ứng được nhu cầu chơi tranh của giới thị thành, bên cạnh kỹ thuật khắc gỗ
đạt đến trình độ tuyệt xảo, sử dụng màu sắc phong phú và họa tiết tinh tế, tỉ mỉ, thì
kích thước tranh Hàng Trống cũng thường rất lớn so với tranh Đông Hồ (do tư gia
rộng rãi hơn so với người dân vùng quê). Ví dụ như tranh “Cá chép trông trăng”
của Hàng Trống kích thước 60×145 cm, còn Đông Hồ chỉ là 25×37 cm. 38
2.4. Tiểu kết:
Mỗi dòng tranh dân gian đều có những đặc trưng riêng, tạo nên nét độc đáo của
dòng tranh đó, đồng thời tạo nên sự phong phú cho hội họa thời Lê. Nhìn chung
cách in tranh chủ yếu là sử dụng ván khắc. Các bản ván khắc chủ yếu làm từ gỗ.
Đầu tiên nghệ nhân sẽ khắc lên bản gỗ đường nổi thể hiện những đường nét
chính của tranh, sau này khi in tranh ra giấy, người làm tranh lại tiếp tục tô vẽ để
hoàn thiện bức tranh đó, còn đối với một số tranh đơn giản thì người thợ không
cần tô vẽ thêm nữa mà tranh được đưa ra khi in xong. Nghệ thuật in tranh qua
các bản gỗ khắc nổi xuất hiện từ xa xưa, được lưu truyền từ đời nay qua đời
khác. Tranh thường được in hoặc vẽ trực tiếp lên giấy. Mỗi dòng tranh thường có
cách tạo màu, pha chế màu sắc riêng, nhưng nhìn chung thì màu sắc cho những
bức tranh thường được tạo nên từ những nguyên liệu đơn giản, dân dã bằng rất
nhiều phương pháp khác nhau. Hầu hết tranh dân gian được vẽ theo quan niệm
"sống" hơn "giống". Đường nét của mỗi bức tranh hết sức gạn lọc, thuần khiết,
cốt sao rung cảm thẩm mỹ cho người xem hơn là vẽ đúng luật. Các thành phần
trong tranh không có một điểm nhìn cố định mà hầu hết được thiết kế để có thể
quan sát di động, từ nhiều góc độ khác nhau. 39 Chương 3
TÌNH TRẠNG TỒN TẠI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
HAI DÒNG TRANH DÂN GIAN ĐÔNG ĐỒ VÀ HÀNG TRỐNG
Là một nguồn tư liệu vô cùng quý giá, là giá trị văn hóa của người Việt, nhưng
tranh dân gian hiện đang rơi vào tình trạng có nguy cơ bị mai một dần, biến mất
dần trong đời sống của người dân Việt do tác động của nền kinh tế thị trường,
nhu cầu thẩm mỹ của con người thay đổi. Treo tranh dân gian trong ngày tết đã
từng là thú vui tao nhã, phong tục đẹp của người Việt Nam, trước đây hầu như
không có nhà nào không treo tranh dân gian trong dịp tết. Tuy nhiên, hiện nay để
có thể mua được tranh Đông Hồ bày bán trên các con phố Hà Nội trở nên rất khó
khăn, hoặc nếu có thì kỹ thuật và thẩm mỹ cũng rất kém do bị thương mại hóa -
Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam Phan Huy Lê cho biết.
3.1. Sự mai một trong văn hóa vẽ tranh và thú chơi tranh Đông Hồ:
Theo các nguồn tư liệu, nghề làm tranh dân gian Đông Hồ có cách đây gần 500
năm, vào thế kỷ 16. Và cho tới tận năm 1945, vẫn có tới 17 dòng họ còn theo
nghề với rất nhiều xưởng làm tranh trong làng. Thế nhưng đến nay cả làng chỉ
còn vài ba gia đình là còn làm tranh.
Ông Nguyễn Đăng Chế, một trong số ít nghệ nhân còn làm tranh ở làng Đông
Hồ cho biết: Hiện ở làng Đông Hồ không còn mấy ai mặn mà với nghề. Không
phải họ bỏ nghề vì không yêu, vì chán mà nghề làm tranh không đủ để nuôi sống
họ và gia đình. Nhu cầu mua tranh không nhiều nên không bán được tranh, vì thế
không đủ nguồn lực để duy trì nghề. 40
Với gia đình ông Nguyễn Đăng Chế và một số người khác còn giữ được nghề
cho đến ngày nay cũng phải trải qua bao nhiêu khó khăn, lăn lộn tìm nguồn tiêu
thụ và làm nhiều cách để tranh dân gian thích ứng với cuộc sống hiện đại. Ông
cho rằng: “Thực tế ngày nay các hộ gia đình trong làng chuyển sang làm hàng
mã là do nhu cầu tâm linh, bán được hàng thì người dân có thu nhập, họ duy trì
được đời sống. Điều ông luôn ao ước hiện nay là làm sao nghề làm tranh dân
gian có thể sống khỏe được như nghề làm hàng mã.”
3.2. Sự mai một trong văn hóa vẽ tranh và thú chơi tranh Hàng Trống:
Theo nhà sưu tập tranh dân gian Nguyễn Thị Thu Hòa, Giám đốc Bảo tàng Gốm
sứ tư nhân Hà Nội: Hiện nay, những người khắc được bản mộc tranh dân gian và
người bồi tranh dân gian ở nước ta không còn nhiều.
Đặc biệt, thôn Thanh Liễu, xã Tân Hưng, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương,
ngôi làng trước kia ông Lương Nhữ Học- ông tổ nghề khắc bản gỗ in đã truyền
lại nghề cho dân làng nhưng đến nay người dân cũng hầu hết chuyển nghề,
không còn làm nghề này nữa. Ngày xưa, đây là làng nổi tiếng khắc cả tranh hàng
Trống, cả ván kinh phật. Vì vậy, việc khôi phục các ván in tranh dân gian cổ,
nguyên mẫu phục vụ cho công tác bảo tồn gặp không ít vất vả, gian nan. Đặc
biệt, các bản mộc tranh hiện bị thất lạc nhiều nên các mộc bản còn lưu giữ hiện nay vô cùng quý giá.
Bên cạnh đó, sự thay đổi trong việc sử dụng các vật liệu làm giấy như trộn màu
trắng vào điệp, quét lên giấy để bớt lượng điệp khiến giấy mất độ óng ánh… hay
sử dụng màu vẽ công nghiệp trong những năm gần đây cũng tạo nên những biến 41
đổi về chất đối với các loại tranh dân gian truyền thống. Chính vì vậy việc bảo
tồn các di sản văn hóa này đã, đang và vẫn sẽ là những thách thức không nhỏ. 3.3. Tiểu kết:
Vậy phải làm gì để cứu nguy, để bảo tồn, phát huy di sản văn hóa này là câu hỏi
không dễ trả lời. Theo Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam Phan Huy Lê,
trước hết cần phải tiếp tục sưu tầm các tranh dân gian để bổ sung thêm những bộ
sưu tập mới bên cạnh các bộ sưu tập tranh dân gian hiện có. Cùng với đó cần
phải có giải pháp để bảo tồn nghề đóng tranh dân gian, chính là nghệ nhân và kỹ thuật đóng tranh.
Đặc biệt, để tranh dân gian phát triển thì phải có giải pháp để nuôi sống được
tranh dân gian trong đời sống hôm nay và ngày mai - Chủ tịch Hội Khoa học lịch
sử Việt Nam Phan Huy Lê nhấn mạnh. Tranh dân gian cũng như di sản văn hóa
nói chung, để có thể sống thì chỉ có thể là phát triển cùng với cuộc sống của cộng
đồng, gắn liền với cuộc sống của cộng đồng.
Theo thời gian, cuộc sống và thẩm mỹ của con người thay đổi và tranh dân gian
cũng có những bước phát triển mới, thay đổi để phù hợp với điều kiện lịch sử,
văn hóa, xã hội; tuy nhiên thay đổi nhưng phải trên cơ sở bảo tồn kỹ thuật, nghệ
thuật truyền thống và phong cách của tranh dân gian. Vậy làm thế nào để tạo
được nhu cầu xã hội, thị trường cho tranh dân gian? Đây chính là nền tảng có ý
nghĩa quyết định để nuôi sống và phát triển tranh dân gian Việt Nam, để tranh
dân gian vẫn là một sản phẩm có ý nghĩa trong đời sống người dân Việt. 42 Chương 4:
TÍNH ỨNG DỤNG VÀO SẢN PHẨM MỸ THUẬT
CÔNG NGHIỆP HIỆN NAY
4.1. Ứng dụng trong thiết kế bao bì sản phẩm:
4.1.1. Họa tiết tranh Hàng Trống được sử dụng trong dự án nghệ
thuật “Họa sắc Việt - Sáng tạo từ truyền thống”
Dự án nghệ thuật Họa sắc Việt - Sáng tạo từ truyền thống được nhóm bạn trẻ
thực hiện với mong muốn quảng bá, khai thác, phát triển tiềm năng ứng dụng
của nghệ thuật truyền thống Việt Nam, đưa màu sắc họa tiết truyền thống lên thiết kế hiện đại. 43
Bao bì của sản phẩm mứt Tết này sử dụng họa tiết nụ hoa trong bức Tùng
Lộc của bộ tứ bình Tùng – Cúc – Trúc – Mai (tranh Tết) kết hợp với họa tiết
mây và búp lá non trong bức Hương chủ (tranh thờ). Những họa tiết được lấy
cảm hứng từ mùa xuân với hoa lá đâm chồi nảy lộc để tạo nên một màu sắc, diện
mạo mới mẻ cho hộp mứt Tết truyền thống.
Hình ảnh được trích hình từ tranh gốc và véc tơ hóa để minh họa bao bì bánh gạo Việt: 44
4.1.2. Họa tiết tranh Đông Hồ trong dự án “ĐƯƠNG ĐẠI HÓA
TRANH ĐÔNG HỒ” của Highland Coffee:
Liên hệ với nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế - một trong 2 nghệ nhân Đông Hồ duy
nhất còn lại của Việt Nam, Highlands Coffee kết nối với nhiều hoạ sĩ trẻ và chia
sẻ những nỗi niềm, tâm nguyện của mình đến các bạn. Từ đó, truyền cảm hứng
để các bạn thổi hồn hơi thở người trẻ hiện đại vào nghệ thuật Đông Hồ.
Bằng sự kết hợp sáng tạo và sức sống hiện đại của tuổi trẻ vào nét nghệ thuật của
truyền thống văn hóa dân gian trên 13 bức tranh Đông Hồ Kinh Điển chúc tụng
ngày Tết, một bộ tranh “ĐƯƠNG ĐẠI HÓA TRANH ĐÔNG HỒ” đầy ý nghĩa –
thể hiện các thông điệp chúc phúc cho một năm mới tràn đầy “Sức khỏe – Thịnh vượng – Hạnh phúc”. 45
TÁC PHẨM: "TẾT TẾT ĐẾN RỒI - ĐÀN LỢN ÂM DƯƠNG
Hình ảnh nhân vật gia đình lợn được nhân cách hóa mang hình ảnh đương đại
thông qua các hoạt động gia đình ngày nay với lợn mẹ dẫn đầu, theo sau là các
lợn con đang mua đồ chơi mới, áo mới, bánh tét, hoa cúc trưng Tết và những hộp
quà Tết. Qua hình ảnh đàn lợn mẹ con vui tươi đón Tết cũng như những xoáy âm
dương thể hiện sự sinh sôi, phát triển mang đến lời chúc một năm mới thịnh
vượng, sung túc, tài lộc phú quý. Bức tranh được lấy cảm hứng từ tranh Đàn Lợn
Âm Dương – một bức tranh Đông Hồ chúc tụng Tết kinh điển với hình ảnh đàn
lợn xoáy âm dương gửi lời chúc năm mới sung túc, an nhàn. 46
TÁC PHẨM: "THẢ TIM SE DUYÊN"
Bức tranh được đương đại hoá từ tác phẩm “Bà Nguyệt Se Duyên”: nhân vật bà
Nguyệt trong phong tục văn hoá Việt Nam được xem là vị thần tình yêu, là người
kết nối các đôi trai gái trở thành vợ chồng bằng việc se chỉ se duyên, thể hiện
mong muốn hạnh phúc tình duyên thuận lợi vào mùa xuân.
Ngày nay, hành động “ thả thính, thả tim, thả like” của đôi trai gái miền Trung
với hình ảnh Cầu Rồng, Áo dài nón lá Huế được kết nối thông qua bà Nguyệt
“Mạng xã hội” (facebook, Twitter, Instagram..) thể hiện mong muốn hạnh phúc
tìm được người tình trăm năm, nên duyên vợ chồng, gắn kết nhau trọn đời. 47
TÁC PHẨM: "BẮT TRỌN VINH HOA"
Vẫn giữ nguyên những nét đẹp ý nghĩa truyền thống của nguyên tác là hình ảnh
chú gà Trống, cậu bé trai bụ bẫm với màu sắc đặc trưng của tranh Đông Hồ, bản
đương đại trở nên đặc sắc hơn khi kết hợp những hoạt động gần gũi với giới trẻ
ngày nay, là hình ảnh “Selfie Smartphone”, hành động “say hi” của chú Gà. Hình
ảnh chú Gà Trống với chiếc mào đỏ tươi, gà Trống trong tiếng Hán đọc là “Đại
Kê”, đồng âm với “Đại Cát”, ẩn chứa thông điệp lời chúc đại cát đại lợi. Bên
cạnh đó, gà Trống còn là biểu tượng cho 5 đức tính đáng quý của con người “
Nhân – Nghĩa – Lễ - Trí – Tín” . Hình ảnh em bé miền Nam bụ bẫm ôm gà
Trống, thể hiện ước nguyện về việc mong muốn có con cái, không chỉ khoẻ
mạnh mà sẽ thành tài khi lớn lên sở hữu đầy đủ 5 đức tính đáng quý của chú gà Trống. 48
4.2. Họa tiết và tạo hình tranh Hàng Trống ứng dụng trong lĩnh vực thời trang:
Họa tiết tranh “Cá chép trông trăng” trên áo khoác được tái hiện bằng các chất liệu khác nhau. 49
Họa tiết trong tranh Hàng Trống được áp dụng trên các mẫu khăn, túi xách trong lĩnh vực thời trang. 50
4.3. Họa tiết và hình tượng trong tranh Hàng Trống được ứng dụng
trong nghệ thuật trang trí gốm:
Hình ảnh bộ tranh “Tố nữ” trên gốm 51
4.4. Tiểu kết:
Tạo hình và hoa văn trang trí trong tranh dân gian thời Lê mà điển hình là dòng
tranh Đông Hồ và Hàng Trống vẫn còn giữ nguyên giá trị cho đến ngày nay, vẫn
góp mặt trong đời sống sinh hoạt của người Việt. Những chất liệu ấy có thể được
tái hiện y nguyên, ví dụ như sử dụng tạo hình để trở thành hoa vă, họa tiết vải, hình
trang trí gốm sứ, hoặc cũng có thể được đương đại hóa, được vẽ lại theo một lối
khác, nhưng vẫn giữ nguyên những nét đặc trưng của nó. Nhìn chung, Những dự án
thiết kế mỹ thuật sử dụng và cải biên tạo hình đã góp phần bảo vệ tinh hoa văn hóa của dòng tranh dân gian. 52 KẾT LUẬN 1. Ưu điểm:
Với những nét tinh túy riêng và mang đậm những giá trị văn hóa to lớn, tranh dân
gian Đông Hồ và Hàng Trống bằng những hình ảnh biểu tượng dân dã, gần gũi
nhưng lại chứa đựng những thông điệp ẩn ngữ đầy tính nhân văn. Sự phong phú và
đa dạng cả về mẫu mã, thể loại, chủ đề, tranh dân gian phản ánh hầu như tất cả
những gì diễn ra trong đời sống bình dị của người lao cho tới những ước mơ, khát
vọng cuộc sống tốt đẹp hơn. Nét hấp dẫn của tranh dân gian không chỉ đề cập đến
cuộc sống mà còn ở nghệ thuật thể hiện: chất liệu tự nhiên, thân thiện với môi
trường, màu sắc sặc sỡ, tạo hình sinh động, phong phú, cách chế tác tinh xảo, cầu kì, … 2. Nhược điểm:
Tuy nhiên, nếu so sánh với các loại hình tranh thời hiện đại, tranh dân gian thời
Lê mà điển hình là dòng tranh Đông Hồ và Hàng Trống, còn tồn tại những hạn
chế. Thời hiện đại khi cuộc sống của con người khác biệt hoàn toàn so với hoàn
cảnh sống dưới triều đại phong kiến, nội dung của các dòng tranh này không còn
phù hợp để thể hiện đời sống và gắn bó với con người. Không chỉ vậy, số lượng
màu sắc rất bị hạn chế, còn thiếu nhiều yếu tố trong nghệ thuật tạo hình như
chưa đạt được tương quan chính phụ và luật phối cảnh xa gần… Ngoài ra, hạn
chế lớn nhất đối với dòng tranh dân gian là thiếu hụt nhân lực sản xuất. Các làng
nghề truyền thống hiện tại đã không còn nhiều nghệ nhân tiếp tục theo đuổi và
tìm cách lưu giữ những dòng tranh này. 53 TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (2015), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Thế giới, Hà Nội
2. Hồng Bắc, Tranh dân gian: gian nan bảo tồn
https://vov.vn/di-san/tranh-dan-gian-gian-nan-bao-ton-1068467.vov
3. Kim Dung (Theo Hồ sơ di sản, tư liệu Cục Di sản văn hóa)
http://dsvh.gov.vn/tranh-dan-gian-dong-ho-3151
4. Nguyễn Văn Lượng, Màu sắc trong tranh dân gian Đông Hồ
https://mythuatms.com/hoc-ve-mau-sac-trong-tranh-dan-gian-dong-ho- d2364.html
5. Giang Nam, Hiểu thêm về giá trị tranh Hàng Trống
https://nhandan.vn/dong-chay/hieu-them-ve-gia-tri-tranh-hang-trong-627435/
6. Nguyễn Văn Lượng, Màu sắc trong tranh dân gian Đông Hồ
7. Trần Hoàng Ngân, Cảm hững từ tranh Đông Hồ trong thiết kế đương đại
https://vannghethainguyen.vn/2020/05/26/cam-hung-tu-tranh-dong-ho-trong- thiet-ke-duong-dai/
8. Trịnh Thu Trang, Các loại họa tiết trong tranh Hàng Trống
https://mythuatms.com/hoc-ve-cac-loai-hoa-tiet-trong-tranh-hang-trong-phan-1- d2330.html
9. Trịnh Thu Trang, Học về màu sắc trong tranh Hàng Trống
https://mythuatms.com/hoc-ve-mau-sac-trong-tranh-hang-trong-d2335.html
10. Trịnh Thu Trang, Sự khác biệt giữa Tranh Hàng Trống và tranh Đông Hồ
https://mythuatms.com/hoc-ve-su-khac-biet-gi-a-tranh-hang-trong-va-tranh- dong-ho-d1888.html
11. Thùy Trang, Họa sắc Việt từ tranh Hàng Trống
http://baovanhoa.vn/van-hoa/di-san/artmid/488/articleid/21516/hoa-sac-viet
%E2%80%8B%E2%80%8B%E2%80%8B%E2%80%8B%E2%80%8B
%E2%80%8B%E2%80%8B-tu-tranh-hang-trong 54
12. Minh Tú. Tranh Đông Hồ - sắc màu truyền thống
http://www.vtr.org.vn/tranh-dong-ho-sac-mau-truyen-thong.html
13. Bích Vân, Tranh Đông Hồ - hơi thở của làng Việt
https://vietnam.vnanet.vn/vietnamese/tranh-dong-ho---hoi-tho-cua-lang- viet/427969.html 55 Document Outline