

















Preview text:
MỤC LỤC I PHẦN MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của vấn đề cơ cấu tổ chức Bộ, các cơ quan ngang Bộ.
2 Mục tiêu nghiên cứu của cơ cấu tổ chức Bộ, các cơ quan ngang Bộ.
3 Đối tượng nghiên cứu của cơ cấu tổ chức Bộ, các cơ quan ngang Bộ.
4 Phạm vi nghiên cứu của cơ cấu tổ chức Bộ, các cơ quan ngang Bộ.
5 Phương pháp nghiên cứu của cơ cấu tổ chức Bộ, các cơ quan ngang Bộ. II PHẦN NỘI DUNG
1 Cơ sở lý luận về cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ.
2 Thực trạng của cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang Bộ hiện nay.
3 Đề xuất kiến nghị, giải pháp hoàn thiện cơ cấu tổ chức Bộ, cơ quan ngang Bộ.
III PHẦN KẾT LUẬN
1 Tổng kết những kết quả nghiên cứu được.
2 Một số định hướng nghiên cứu tiếp theo. I PHẦN MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của vấn đề của cơ cấu tổ chức Bộ, các cơ quan ngang Bộ.
Cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ giữ vai trò đặc biệt
quan trọng trong bộ máy hành chính nhà nước. Đây là các thiết
chế trực tiếp tham mưu, tổ chức thực hiện chức năng quản lý
nhà nước trên các lĩnh vực rộng lớn như kinh tế, giáo dục, y tế,
quốc phòng, an ninh, nội vụ, tư pháp… Vì vậy, việc tổ chức hợp
lý, khoa học và hiệu quả các Bộ, cơ quan ngang Bộ có ảnh
hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của Chính phủ và chất
lượng điều hành quốc gia.
Tuy nhiên, thực tiễn tổ chức và hoạt động của các Bộ, cơ quan
ngang Bộ ở Việt Nam thời gian qua đã và đang bộc lộ nhiều hạn
chế. Cơ cấu tổ chức còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc trung gian;
chức năng, nhiệm vụ giữa một số đơn vị còn chồng chéo, thiếu
rõ ràng; việc phối hợp giữa các đơn vị trong cùng một Bộ và
giữa các Bộ với nhau chưa thật sự hiệu quả. Tình trạng “phình
to” về tổ chức nhưng lại “thiếu hiệu lực” trong thực thi nhiệm
vụ đang diễn ra ở nhiều nơi, gây lãng phí nguồn lực và làm
giảm hiệu quả quản lý nhà nước.
Mặt khác, trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, yêu
cầu chuyển đổi số, chính phủ điện tử và cải cách hành chính
đặt ra những đòi hỏi mới về mô hình tổ chức quản lý. Các Bộ và
cơ quan ngang Bộ cần được tổ chức theo hướng tinh gọn, minh
bạch, có tính phản ứng linh hoạt, đủ năng lực hoạch định chính
sách và tổ chức thực thi hiệu quả. Đặc biệt, Luật Tổ chức Chính
phủ và các nghị định hướng dẫn về tổ chức Bộ, cơ quan ngang
Bộ đã ban hành nhưng vẫn cần tiếp tục được rà soát, sửa đổi để
phù hợp hơn với thực tiễn vận hành.
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ
quan ngang Bộ, phân tích thực trạng, chỉ ra những bất cập,
nguyên nhân và đề xuất các giải pháp hoàn thiện là một yêu
cầu khách quan và cấp bách. Đề tài không chỉ có giá trị về mặt
lý luận trong việc bổ sung, làm rõ các vấn đề tổ chức bộ máy
hành chính nhà nước, mà còn có ý nghĩa lớn về mặt thực tiễn
trong quá trình đổi mới, sắp xếp và nâng cao hiệu quả hoạt động của Chính phủ.
2 Mục tiêu nghiên cứu của cơ cấu tổ chức Bộ, các cơ quan ngang Bộ. 2.1. Mục tiêu chung
-Mục tiêu tổng quát của đề tài là phân tích, đánh giá thực trạng
cơ cấu tổ chức của các Bộ và cơ quan ngang Bộ trong hệ thống
hành chính nhà nước Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất các giải
pháp nhằm hoàn thiện cơ cấu tổ chức theo hướng tinh gọn,
hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính và
xây dựng Chính phủ hiện đại.
- Nghiên cứu nhằm góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận và thực
tiễn trong tổ chức bộ máy hành chính nhà nước cấp Trung
ương, bảo đảm sự thống nhất, rõ ràng, tránh chồng chéo chức
năng, đồng thời nâng cao năng lực điều hành và quản lý của Chính phủ.
2.2. Mục tiêu cụ thể
*Để đạt được mục tiêu chung, đề tài tập trung giải quyết các mục tiêu cụ thể sau:
- Hệ thống cơ sở lý luận và pháp lý liên quan đến tổ chức bộ,
các cơ quan ngang bộ; làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò và
nguyên tắc tổ chức.- Phân tích các quy định pháp luật hiện
hành về tổ chức, chứ năng, nhiệm vụ và cơ cấu bên trong của
các Bộ, cơ quang ngang Bộ; đánh giá tính hợp lý và hiệu quả của các quy định đó
- Khảo sát, đánh giá thực trạng áp dụng các quy định pháp luật
về tổ chức Bộ, các cơ quan ngang Bộ trên thực tế; mức độ tuân
thủ, hiệu quả vận hành, những bất cập và hạn chế đang tồn tại
- Chỉ ra các nguyên nhân dẫn đến những bất cập trong cơ cấu
tổ chức hiện nay bao gồm cả nguyên nhân khách quan và
nguyên nhân chủ quan( thể chế, con người, cơ chế phối hợp, ...... )
- Đề xuất hệ thống giải pháp cụ thể và khả thi nhằm hoàn thiện
cơ cấu tổ chức Bộ, cơ quan ngang Bộ trong thời gian tới, bao
gồm cả giải pháp về mặt thể chế, tổ chức bộ máy, nhân sự và sự phối hợp thực thi.
3 Đối tượng nghiên cứu của cơ cấu tổ chức Bộ, các cơ quan ngang Bộ.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cơ cấu tổ chức của các Bộ và
cơ quan ngang Bộ trong hệ thống hành chính nhà nước Việt
Nam, xét cả dưới góc độ lý luận, pháp lý và thực tiễn vận hành.
Nói cụ thể hơn, đề tài tập trung nghiên cứu những nội dung sau:
– Cơ sở lý luận về cơ cấu tổ chức Bộ, cơ quan ngang Bộ:
Làm rõ các khái niệm, nguyên tắc tổ chức bộ máy hành chính
nhà nước; vai trò, vị trí của Bộ và cơ quan ngang Bộ trong bộ
máy Chính phủ; những lý thuyết liên quan đến việc phân chia
chức năng, nhiệm vụ và mô hình tổ chức trong quản trị nhà nước.
– Các quy định pháp lý hiện hành điều chỉnh cơ cấu tổ
chức Bộ, cơ quan ngang Bộ:
Gồm Luật Tổ chức Chính phủ, các nghị định về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của từng Bộ, cơ quan
ngang Bộ; các văn bản hướng dẫn liên quan đến phân cấp,
phân quyền, tổ chức bộ máy hành chính nhà nước.
– Thực tiễn tổ chức và hoạt động của các Bộ, cơ quan ngang Bộ:
Nghiên cứu cách thức tổ chức bên trong của các Bộ (gồm Vụ,
Cục, Văn phòng, Thanh tra, Tổng cục...), mô hình quản lý, quan
hệ phối hợp giữa các đơn vị chức năng; đánh giá tính hiệu lực,
hiệu quả của mô hình hiện tại; nhận diện những bất cập như
chồng chéo chức năng, cơ cấu cồng kềnh, trùng lặp nhiệm vụ
hoặc thiếu rõ ràng trong phân công.
4 Phạm vi nghiên cứu của cơ cấu tổ chức Bộ, các cơ quan ngang Bộ.
Để đảm bảo tính tập trung và khả thi trong nghiên cứu, đề tài
giới hạn phạm vi nghiên cứu trên ba phương diện chính: nội
dung, không gian và thời gian, cụ thể như sau: 4.1. Về nội dung
Phạm vi nội dung của đề tài chỉ tập trung nghiên cứu khía cạnh
cơ cấu tổ chức của Bộ và cơ quan ngang Bộ, bao gồm:
-Cách tổ chức bộ máy nội bộ bên trong các Bộ, cơ quan ngang
Bộ (gồm Vụ, Cục, Tổng cục, Văn phòng, Thanh tra…);
-Chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ giữa các đơn vị trong cơ cấu tổ chức;
-Các nguyên tắc tổ chức hành chính trong thiết kế cơ cấu tổ
chức (phân cấp, phân quyền, tinh gọn, hiệu quả…);
-Những bất cập, chồng chéo, cồng kềnh trong mô hình tổ chức
hiện tại;Các giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ cấu tổ
chức các Bộ, cơ quan ngang Bộ.
Lưu ý: Đề tài không đi sâu vào nội dung hoạt động chuyên
môn cụ thể của từng Bộ (như chính sách giáo dục, y tế, tài
chính…), mà chỉ xem xét các khía cạnh tổ chức bộ máy. 4.2. Về không gian
Phạm vi không gian của nghiên cứu giới hạn trong phạm vi cả
nước, cụ thể là hệ thống các Bộ và cơ quan ngang Bộ cấp Trung
ương trong cơ cấu tổ chức của Chính phủ Việt Nam, bao gồm:
-Các Bộ (như Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Giáo dục và Đào tạo…);
-Các cơ quan ngang Bộ (như Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ủy ban Dân tộc…).
Đề tài không nghiên cứu đến các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh, huyện hay các tổ chức sự nghiệp công lập địa phương. 4.3. Về thời gian
-Thời điểm khảo sát, đánh giá thực trạng chủ yếu tập trung từ
năm 2015 đến nay (đặc biệt từ khi Luật Tổ chức Chính phủ
2015 có hiệu lực và được sửa đổi năm 2019).
-Một số tài liệu, nghị quyết, chủ trương có thể được tham chiếu
từ trước giai đoạn này để đối chiếu quá trình thay đổi, cải cách.
-Giải pháp đề xuất hướng đến giai đoạn hiện tại và định hướng
những năm tới trong tiến trình xây dựng bộ máy hành chính tinh gọn, hiện đại.
5 Phương pháp nghiên cứu của cơ cấu tổ chức Bộ, các cơ quan ngang Bộ.
Để đảm bảo tính khoa học, khách quan và toàn diện trong quá
trình nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng tổng hợp nhiều phương
pháp nghiên cứu truyền thống của khoa học xã hội – nhân văn,
đặc biệt trong lĩnh vực pháp luật và hành chính công. Cụ thể như sau:
5.1. Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
-Đây là phương pháp luận chung chi phối toàn bộ quá trình nghiên cứu.
-Giúp người nghiên cứu nhìn nhận cơ cấu tổ chức Bộ, cơ quan
ngang Bộ trong mối liên hệ tổng thể, vận động và biến đổi
không ngừng của hệ thống hành chính nhà nước.
-Phương pháp này giúp phân tích quá trình hình thành, thay đổi
tổ chức bộ máy nhà nước Việt Nam từ trước đến nay, gắn với
bối cảnh chính trị, xã hội, pháp lý cụ thể của từng giai đoạn.
5.2. Phương pháp phân tích và tổng hợp
-Phân tích: Tập trung làm rõ các khái niệm như “cơ cấu tổ
chức”, “Bộ”, “cơ quan ngang Bộ”, vai trò – vị trí của các đơn vị trong bộ máy.
-Tổng hợp: Thu thập thông tin từ nhiều văn bản pháp luật và
thực tiễn tổ chức của các Bộ để rút ra đặc điểm chung, nhận
diện vấn đề, đưa ra hệ thống giải pháp.
=> Phương pháp này đặc biệt hữu ích khi xem xét các văn bản
quy phạm pháp luật như: Hiến pháp, Luật Tổ chức Chính phủ,
các nghị định tổ chức bộ máy…
5.3. Phương pháp hệ thống hóa
-Giúp người nghiên cứu sắp xếp các thông tin, tài liệu, quy định
pháp luật liên quan thành hệ thống mạch lạc, dễ phân tích.
-Qua đó chỉ ra sự thống nhất hoặc mâu thuẫn giữa các quy định
pháp luật về cơ cấu tổ chức Bộ, cơ quan ngang Bộ.
5.4. Phương pháp so sánh pháp luật
-Dùng để so sánh quy định pháp luật của các Bộ với nhau (ví
dụ: so sánh tổ chức của Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính), hoặc so
sánh giữa quy định với thực tiễn vận hành.
-Có thể mở rộng so sánh với mô hình tổ chức Bộ, cơ quan tương
đương ở một số nước (nếu có dữ liệu), nhằm rút ra bài học phù hợp.
5.5. Phương pháp điều tra, khảo sát (nếu áp dụng)
Nếu đề tài có phần khảo sát thực tế (phiếu hỏi, phỏng vấn
chuyên gia, công chức...), phương pháp điều tra xã hội học sẽ
giúp thu thập dữ liệu thực tiễn về hiệu quả tổ chức, những bất
cập và đề xuất từ cơ sở.
5.6. Phương pháp thống kê – xử lý dữ liệu
-Dùng để tổng hợp các số liệu về số lượng đơn vị trong mỗi Bộ,
tỷ lệ Tổng cục – Cục – Vụ, số lượng biên chế, tỉ lệ chồng chéo chức năng...
-Các dữ liệu thống kê giúp minh chứng cho lập luận về bất cập
trong cơ cấu tổ chức hiện nay. II PHẦN NỘI DUNG
1 Cơ sở lý luận về cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ.
1.1 Khái niệm cơ cấu tổ chức
-Cơ cấu tổ chức là hệ thống các bộ phận có mối liên hệ và phụ
thuộc lẫn nhau, được phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và trách nhiệm để thực hiện mục tiêu chung của một tổ chức.
-Trong lĩnh vực hành chính nhà nước, cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ
quan ngang Bộ chính là mô hình tổ chức nội bộ bao gồm các
đơn vị: Vụ, Cục, Tổng cục, Văn phòng, Thanh tra, đơn vị sự
nghiệp... dưới quyền điều hành của Bộ trưởng hoặc Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ.
1.2 Vị trí, vai trò của Bộ và cơ quan ngang Bộ trong bộ máy nhà nước
-Bộ và cơ quan ngang Bộ là cơ quan của Chính phủ, có chức
năng quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực trên phạm vi cả nước.
-Là đầu mối xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện chính
sách, pháp luật; tham mưu chiến lược phát triển ngành, lĩnh
vực; kiểm tra, thanh tra việc thi hành pháp luật.
-Vì vậy, cơ cấu tổ chức của các cơ quan này phải bảo đảm: rõ
ràng, chuyên môn hóa, hiệu quả và tinh gọn.
1.3 Nguyên tắc tổ chức bộ máy hành chính nhà nước
Cơ cấu tổ chức của Bộ và cơ quan ngang Bộ được xây dựng dựa
trên các nguyên tắc quản lý hành chính công:
-Nguyên tắc tập trung, thống nhất dưới sự lãnh đạo của Chính
phủ và Thủ tướng Chính phủ;
-Nguyên tắc phân công, phân cấp rõ ràng nhiệm vụ, quyền hạn giữa các đơn vị;
-Nguyên tắc chuyên môn hóa và phối hợp linh hoạt giữa các cơ quan;
-Nguyên tắc hiệu quả, tinh gọn, tránh chồng chéo trong hoạt
động quản lý nhà nước.
1.4 Các mô hình tổ chức hành chính
-Trong lý luận tổ chức, có các mô hình như: mô hình theo chức
năng, mô hình theo đối tượng quản lý, mô hình ma trận...
-Ở Việt Nam, tổ chức Bộ chủ yếu theo mô hình chức năng
chuyên môn kết hợp ngành dọc, tức là tổ chức các đơn vị theo
lĩnh vực: quản lý nhà nước, thanh tra, pháp chế, tổ chức cán bộ, tài chính...
1.5 Cơ sở pháp lý điều chỉnh cơ cấu tổ chức Bộ, cơ quan ngang Bộ
-Hiến pháp năm 2013 quy định Chính phủ là cơ quan hành
chính nhà nước cao nhất, các Bộ là cơ quan thuộc Chính phủ.
-Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 (sửa đổi 2019) quy định
chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của các Bộ, cơ quan ngang Bộ.
-Các Nghị định Chính phủ quy định chi tiết cơ cấu tổ chức của
từng Bộ, là cơ sở pháp lý trực tiếp để tổ chức bộ máy bên trong.
2 Thực trạng của cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang Bộ hiện nay.
Thực trạng cơ cấu tổ chức của các Bộ, cơ quan ngang Bộ.
Từ nhiệm kỳ Chính phủ khóa XII đến nay luôn duy trì cơ cấu 22
Bộ, cơ quan ngang Bộ và 08 cơ quan trực thuộc Chính phủ. Về
tổ chức của các bộ, cơ quan ngang bộ, đã từng bước phân định
rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị, bộ
phận thuộc cơ cấu bên trong của các cơ quan này, tách chức
năng quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực với chức năng đại
diện chủ sở hữu nhà nước đối với vốn và tài sản tại doanh
nghiệp, hạn chế dần sự can thiệp trực tiếp vào sản xuất, kinh
doanh và hoạt động sự nghiệp, dịch vụ công. Thực hiện đúng
quy định về tiêu chí thành lập các tổ chức bên trong của các
Bộ, cơ quan ngang Bộ như cục, vụ, tổng cục; cơ cấu tổ chức
bên trong tiếp tục được sắp xếp, kiện toàn phù hợp hơn với
chức năng, nhiệm vụ, phạm vi, đối tượng quản lý và tính chất
hoạt động của từng tổ chức. Đã giảm bớt việc thành lập đơn vị
cấp phòng trong vụ (chỉ thành lập ở những vụ có nhiều mảng
công tác hoặc khối lượng công việc lớn). Vì vậy, đã hạn chế
đáng kể việc thành lập mới các phòng trong vụ, cục, chi cục
thuộc các Bộ, cơ quan ngang Bộ.
Đồng thời, đã và đang tiến hành sắp xếp lại các đơn vị sự
nghiệp công lập thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ theo hướng chỉ giữ
lại các đơn vị sự nghiệp công lập phục vụ công tác quản lý nhà
nước đối với ngành, lĩnh vực thuộc Bộ, như: nghiên cứu chiến
lược, chính sách về ngành, lĩnh vực; báo; tạp chí; tin học, đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức. Các đơn vị sự
nghiệp công lập thuộc Bộ được rà soát, sắp xếp phù hợp với
quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập theo ngành,
lĩnh vực và đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động cung ứng dịch vụ sự
nghiệp công thuộc ngành, lĩnh vực. Tính đến ngày 30/6/2021,
số lượng các vụ và tương đương thuộc bộ giảm 3,1% (năm 2015
có 257 đơn vị, đến năm 2021 còn 249 đơn vị năm 2021) và số
lượng các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc các bộ, ngành giảm
11% (từ 1.123 đơn vị xuống 998 đơn vị)(2). Ví dụ, năm 2018, Bộ
Công an bỏ 06 tổng cục; sắp xếp giảm gần 60 đơn vị cấp cục,
gần 300 đơn vị cấp phòng, sáp nhập 20 sở cảnh sát phòng cháy, chữa cháy.
Một số Bộ đã sắp xếp lại cơ cấu tổ chức bên trong theo hướng
tách đơn vị tham mưu xây dựng chính sách (vụ) với đơn vị thực
thi chính sách (cục, tổng cục). Tại Bộ Tài chính, đã sáp nhập Vụ
Chính sách thuế (đơn vị thuộc Bộ) với Tổng cục Thuế và Tổng
cục Hải quan, giúp cơ cấu tổ chức cho hợp lý hơn. Việc tách
bạch chức năng tham mưu xây dựng chính sách với chức năng
thực thi chính sách trong tổ chức của Bộ là phù hợp với tinh
thần cải cách hành chính nhà nước, khắc phục được tình trạng
trùng lắp chức năng, nhiệm vụ trong hoạt động của tổng cục
trực thuộc Bộ, đồng thời đảm bảo được vai trò quản lý, điều
hành trực tiếp của Bộ trưởng đối với các lĩnh vực thuộc phạm vi
quản lý của Bộ. Có thể nói, trong thời gian qua các Bộ, cơ quan
ngang Bộ đã tiến hành rà soát, điều chỉnh mối quan hệ phối
hợp giữa các tổ chức, đơn vị trong nội bộ, khắc phục dần tình
trạng chồng chéo hoặc bỏ sót công việc; đã hoàn thiện quy chế
hoạt động của cơ quan, tăng cường sự hợp tác, phối hợp giữa
các tổ chức, đơn vị, làm cho bộ máy vận hành được thông suốt, suôn sẻ hơn.
Tuy nhiên, sau quá trình sắp xếp, điều chỉnh, cơ cấu bộ máy
bên trong của các Bộ, cơ quan ngang Bộ vẫn còn cồng kềnh,
nhiều tầng nấc trung gian; chức năng, nhiệm vụ và thẩm
quyền, trách nhiệm giữa một số lĩnh vực vẫn còn giao thoa, đan
xen hoặc phân công chưa thực sự phù hợp hoặc chưa đủ rõ, dẫn
đến khó xác định trách nhiệm khi có vấn đề xảy ra. Cơ cấu tổ
chức bộ máy của một số Bộ vẫn tiếp tục tăng thêm một số tổng
cục, cục, vụ trong Bộ và phòng, ban trong cục, vụ; trong đó có
một số tổ chức mới ra đời chưa thực sự cần thiết và làm tăng
thêm đáng kể biên chế hành chính tại các cơ quan này trong
những năm gần đây. Việc điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của
các Bộ, cơ quan ngang Bộ còn chậm, chưa phù hợp với yêu cầu
quản lý nhà nước và dịch vụ công trong điều kiện phát triển nền
kinh tế thị trường và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Các bộ, ngành vẫn can thiệp khá nhiều vào hoạt động
dịch vụ công của các đơn vị sự nghiệp công lập và hoạt động
của doanh nghiệp; trực tiếp thực hiện nhiều công việc của
chính quyền địa phương; việc phân cấp, phân quyền trong quản
lý nhà nước và dịch vụ công giữa Trung ương và địa phương còn
hạn chế, bất hợp lý; chậm trễ, thiếu kiên quyết trong điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ.
Mặt khác, cơ cấu bộ máy bên trong của các Bộ, cơ quan ngang
Bộ vẫn chưa thực sự tinh gọn, thậm chí tiếp tục tăng về số
lượng và quy mô của các tổ chức. Việc thành lập mới các tổng
cục trên cơ sở hợp nhất hoặc nâng cấp các cục, vụ ở một số Bộ
trong những năm gần đây có phần không thật sự cần thiết, bởi
vì hai chức năng tham mưu xây dựng chính sách, pháp luật và
thực thi chính sách, pháp luật đều tập trung vào tổng cục (hoặc
tổ chức tương đương) làm cho mỗi tổng cục này vô hình trung
giống như một bộ quản lý chuyên ngành (còn được ví như là
“bộ trong bộ”), dẫn đến Bộ trưởng khó nắm bắt được công việc
cụ thể của từng ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý mà chỉ
như là cấp trung gian giữa Tổng cục trưởng và Thủ tướng Chính
phủ, do đó không thể hoàn thành tốt được vai trò của người
đứng đầu Bộ, cơ quan ngang Bộ.
Việc thành lập tổng cục chỉ phù hợp với các tổ chức thực thi
chính sách, pháp luật được tổ chức theo ngành dọc từ Trung
ương đến địa phương, trong khi phần lớn các tổng cục chỉ giới
hạn nhiệm vụ ở cấp Trung ương (là một đơn vị thuộc Bộ), không
có hệ thống ngành dọc từ Trung ương đến địa phương. Do vậy,
các tổng cục này về tính chất hoạt động cũng giống như cục,
nhưng lại làm tăng thêm một cấp trung gian trong cơ cấu tổ
chức bộ máy của Bộ. Mặt khác, còn làm tăng thêm một số đơn
vị tham mưu cho lãnh đạo tổng cục trong công tác quản lý, điều
hành… làm cho bộ máy của Bộ cồng kềnh, nhiều đầu mối trung
gian và tăng thêm biên chế. Bên cạnh đó, một số cơ quan trực
thuộc Chính phủ trước đây, nay sáp nhập vào Bộ, nhưng chưa
hoặc chậm được sắp xếp lại cơ cấu bộ máy mà về cơ bản vẫn
giữ như cũ, không phát huy được ưu thế của việc tổ chức Bộ đa
ngành, đa lĩnh vực. Tại một số Bộ, cơ quan ngang Bộ vẫn thành
lập thêm một số vụ và tương đương chưa thực sự xuất phát từ
yêu cầu nhiệm vụ cả về khối lượng và tính chất công việc,
không phù hợp với yêu cầu cải cách tổ chức bộ máy hiện nay.
3 Đề xuất kiến nghị, giải pháp hoàn thiện cơ cấu tổ chức Bộ, cơ quan ngang Bộ.
Giải pháp tiếp tục hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy bên
trong của các Bộ, cơ quan ngang Bộ
Một là, tiếp tục điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của các Bộ, cơ
quan ngang Bộ theo hướng tập trung thực hiện các nhiệm vụ
quản lý nhà nước ở cấp vĩ mô, loại bỏ những nhiệm vụ về quản
lý doanh nghiệp và giảm các nhiệm vụ hoạt động sự nghiệp công.
Việc sắp xếp, hoàn thiện cơ cấu bộ máy phải trên cơ sở điều
chỉnh lại chức năng, nhiệm vụ theo tinh thần cải cách hành
chính nhà nước. Theo đó, các Bộ, cơ quan ngang Bộ chỉ tập
trung thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở tầm vĩ mô (xây
dựng và hướng dẫn thực hiện thể chế, chính sách, cơ chế;
thanh tra, kiểm tra); cơ cấu lại, đảm bảo phù hợp với quy hoạch
mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập, chỉ giữ lại các đơn vị
phục vụ nhiệm vụ chính trị và các đơn vị đầu ngành gắn với
chức năng, nhiệm vụ của Bộ đáp ứng đầy đủ các tiêu chí, điều
kiện thành lập theo quy định; đảm bảo quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm của các tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công theo quy
định. Tiếp tục đẩy mạnh phân cấp, phân quyền giữa Trung
ương và địa phương, chuyển giao cho chính quyền địa phương
đảm nhiệm các công việc của quản lý nhà nước và cung ứng
dịch vụ công mà họ thực hiện có hiệu quả. Đồng thời, cần đẩy
mạnh xã hội hóa các dịch vụ công, chuyển giao cho các chủ thể
ngoài nhà nước tham gia cung ứng dịch vụ công.
Hai là, tách bạch về mặt tổ chức giữa các đơn vị tham mưu xây
dựng chính sách, pháp luật với các đơn vị thực thi chính sách,
pháp luật trong cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ.
Sắp xếp lại các tổ chức bên trong của một số tổng cục và tương
đương (ban) đã được sáp nhập vào Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh
vực theo hướng tách riêng các đơn vị tham mưu (vụ) với đơn vị
thực thi chính sách, pháp luật (cục) và bỏ cấp tổng cục và
tương đương trong Bộ. Rà soát lại chức năng, nhiệm vụ của một
số cục trong Bộ chuyển nhiệm vụ tham mưu xây dựng chính
sách về các vụ phù hợp (có thể hình thành vụ đa ngành mà
không cần thành lập thêm vụ mới).
Ba là, giảm thiểu tổ chức tổng cục trực thuộc Bộ, cơ quan
ngang Bộ, chỉ nên có tổng cục đối với các ngành, lĩnh vực được
tổ chức theo ngành dọc, không phân cấp cho địa phương quản lý.
Công tác quản lý nhà nước đối với các ngành, lĩnh vực kinh tế -
xã hội đều được phân cấp, phân quyền cho địa phương và có tổ
chức bộ máy thực hiện quản lý theo chuyên ngành, lĩnh vực tại
các sở, ngành của UBND cấp tỉnh (chi cục, phòng, trung tâm…).
Các bộ, ngành ở Trung ương chủ yếu thực hiện xây dựng, ban
hành thể chế, chính sách; hướng dẫn triển khai thực hiện và
thanh tra, kiểm tra tình hình, kết quả thực hiện. Do đó, không
cần thiết có bộ máy quản lý chuyên ngành quy mô lớn là tổng
cục đảm nhiệm cả chức năng tham mưu và chức năng thực thi
chính sách, giống như một Bộ chuyên ngành trong Bộ đa
ngành. Tổ chức tổng cục chỉ cần thiết đối với một số chuyên
ngành, lĩnh vực được tổ chức theo ngành dọc, không phân cấp
phân quyền cho địa phương (như thuế, hải quan, thống kê, thi
hành án dân sự…) vì các ngành, lĩnh vực này phải có bộ máy đủ
lớn để quản lý xuyên suốt từ Trung ương đến địa phương đối với
các hoạt động của ngành, lĩnh vực từ thực hiện nhiệm vụ
chuyên môn, nghiệp vụ đến tổ chức, nhân lực, tài chính cơ sở vật chất kỹ thuật...
Không tổ chức cấp tổng cục trong Bộ sẽ giảm bớt được một cấp
trung gian giữa Bộ trưởng và các đơn vị (cục, vụ), tạo thuận lợi
để lãnh đạo Bộ nắm vững được lĩnh vực xây dựng chính sách và
thực thi chính sách thuộc phạm vi quản lý, góp phần nâng cao
tính nhanh nhạy, thông suốt, kịp thời trong quản lý, điều hành,
đúng vai trò người đứng đầu ngành, lĩnh vực. Đồng thời, khắc
phục được tình trạng khép kín các nhiệm vụ quản lý nhà nước
(từ xây dựng chính sách đến thực thi và thanh tra, kiểm tra)
vào một tổ chức nội bộ của bộ (tổng cục), đảm bảo được tính
độc lập, khách quan giữa hoạt động xây dựng chính sách với
hoạt động thực thi chính sách, tạo điều kiện nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước của Bộ, cơ quan ngang Bộ.
Bốn là, thực hiện nghiêm chủ trương không tổ chức phòng trong vụ.
Cần phát huy đầy đủ chế độ chuyên viên trong các đơn vị tham
mưu xây dựng chính sách, hạn chế tình trạng sản phẩm của
chuyên viên phải thông qua nhiều cấp lãnh đạo khác nhau
(Trưởng phòng, Vụ trưởng, Thứ trưởng, Bộ trưởng), vì công tác
tham mưu xây dựng chính sách thường do các chuyên viên cao
cấp, với kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm khá phong phú thực
hiện hoặc chủ trì thực hiện, không nhất thiết phải đặt dưới sự
chỉ đạo, kiểm tra của cấp phòng trong vụ.
III PHẦN KẾT LUẬN
1 Tổng kết những kết quả nghiên cứu được.
Qua quá trình nghiên cứu đề tài “Cơ cấu tổ chức Bộ, cơ quan
ngang Bộ – Thực trạng và giải pháp”, luận văn đã đạt được
những kết quả nổi bật sau:
1.1 Hệ thống hóa cơ sở lý luận.
- Đề tài đã làm rõ các khái niệm cơ bản về Bộ, cơ quan ngang
Bộ và cơ cấu tổ chức bên trong;
- Phân tích vai trò, vị trí pháp lý của Bộ, cơ quan ngang Bộ trong bộ máy nhà nước;
- Xác định các nguyên tắc tổ chức bộ máy hành chính và cơ sở pháp lý điều chỉnh.
1.2 Khái quát thực trạng tổ chức.
- Tổng hợp được thực trạng cơ cấu tổ chức Bộ, cơ quan ngang Bộ hiện nay;
- Chỉ rõ những bất cập, hạn chế về tổ chức bộ máy (cồng kềnh,
chồng chéo, phân công chưa rõ ràng, thiếu tính thống nhất và linh hoạt);
- Phân tích nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến những bất cập này.
1.3 Đề xuất hệ thống giải pháp
- Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã phân tích, đề tài đã đề
xuất các giải pháp cụ thể và khả thi để kiện toàn cơ cấu tổ chức Bộ và cơ quan ngang Bộ;
- Các giải pháp hướng tới tinh gọn đầu mối, tăng cường phân
cấp, minh bạch hóa chức năng nhiệm vụ, nâng cao chất lượng
nhân sự và hoàn thiện khung pháp lý.
1.4 Khẳng định ý nghĩa thực tiễn
- Các kiến nghị, giải pháp được đề xuất có thể vận dụng vào
quá trình cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước Việt Nam;
- Góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các Bộ,
cơ quan ngang Bộ trong giai đoạn phát triển mới.
2 Một số định hướng nghiên cứu tiếp theo.
Sau khi hoàn thành đề tài, vẫn còn những khoảng trống và vấn
đề thực tiễn cần được đào sâu hơn trong các nghiên cứu tương lai, cụ thể:
1 Nghiên cứu so sánh quốc tế về cơ cấu tổ chức Bộ và cơ quan ngang Bộ
- Có thể mở rộng phạm vi nghiên cứu để phân tích kinh nghiệm
của các quốc gia có nền hành chính phát triển (ví dụ: Nhật Bản,
Hàn Quốc, Singapore, Pháp, Đức…) trong việc tổ chức bộ máy Chính phủ.
- Qua đó rút ra bài học áp dụng phù hợp với bối cảnh Việt Nam.
2 Nghiên cứu mối quan hệ giữa cải cách tổ chức bộ máy
và nâng cao chất lượng nhân lực
- Tìm hiểu sâu hơn tác động của việc sắp xếp lại bộ máy đến
tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ nhân sự
trong Bộ, cơ quan ngang Bộ.
- Đề xuất các tiêu chí bố trí nhân sự gắn với tiêu chuẩn chức
danh, vị trí việc làm để nâng cao hiệu quả quản lý.
3 Nghiên cứu cơ chế phân cấp và phối hợp liên ngành
- Tiếp tục khảo sát, phân tích cơ chế phối hợp giữa các Bộ, cơ
quan ngang Bộ, giữa trung ương và địa phương trong quá trình thực thi chính sách.
- Đề xuất mô hình phân cấp và phối hợp tối ưu, tránh tình trạng
chồng chéo, mâu thuẫn trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước.
4 Nghiên cứu chuyên sâu về pháp luật tổ chức bộ máy hành chính
- Rà soát, hệ thống hóa và đánh giá toàn diện hệ thống văn bản
pháp luật quy định tổ chức Bộ, cơ quan ngang Bộ;
- Nghiên cứu xây dựng các tiêu chí, nguyên tắc pháp lý chặt
chẽ hơn để tổ chức bộ máy vừa tinh gọn vừa phát huy hiệu lực, hiệu quả.
5 Ứng dụng công nghệ số trong tổ chức và vận hành Bộ, cơ quan ngang Bộ
- Nghiên cứu vai trò của chính phủ điện tử, chuyển đổi số và trí
tuệ nhân tạo (AI) trong tối ưu hóa quy trình làm việc và cơ cấu
tổ chức Bộ, cơ quan ngang Bộ.
- Đề xuất các giải pháp ứng dụng công nghệ nhằm tăng cường
minh bạch, hiệu quả quản lý và cải cách thủ tục hành chính.
Document Outline
- I PHẦN MỞ ĐẦU
- II PHẦN NỘI DUNG
- III PHẦN KẾT LUẬN
- I PHẦN MỞ ĐẦU (1)
- 2.1. Mục tiêu chung
- 2.2. Mục tiêu cụ thể
- – Cơ sở lý luận về cơ cấu tổ chức Bộ, cơ quan ngang Bộ:
- – Các quy định pháp lý hiện hành điều chỉnh cơ cấu tổ chức Bộ, cơ quan ngang Bộ:
- – Thực tiễn tổ chức và hoạt động của các Bộ, cơ quan ngang Bộ:
- 4.1. Về nội dung
- 4.2. Về không gian
- 4.3. Về thời gian
- 5.1. Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
- 5.2. Phương pháp phân tích và tổng hợp
- 5.3. Phương pháp hệ thống hóa
- 5.4. Phương pháp so sánh pháp luật
- 5.5. Phương pháp điều tra, khảo sát (nếu áp dụng)
- 5.6. Phương pháp thống kê – xử lý dữ liệu
- II PHẦN NỘI DUNG (1)
- 1.1 Khái niệm cơ cấu tổ chức
- 1.2 Vị trí, vai trò của Bộ và cơ quan ngang Bộ trong bộ máy nhà nước
- 1.3 Nguyên tắc tổ chức bộ máy hành chính nhà nước
- 1.4 Các mô hình tổ chức hành chính
- 1.5 Cơ sở pháp lý điều chỉnh cơ cấu tổ chức Bộ, cơ quan ngang Bộ
- Thực trạng cơ cấu tổ chức của các Bộ, cơ quan ngang Bộ.
- Giải pháp tiếp tục hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy bên trong của các Bộ, cơ quan ngang Bộ
- III PHẦN KẾT LUẬN (1)
- 1.1 Hệ thống hóa cơ sở lý luận.
- 1.2 Khái quát thực trạng tổ chức.
- 1.3 Đề xuất hệ thống giải pháp
- 1.4 Khẳng định ý nghĩa thực tiễn
- 1 Nghiên cứu so sánh quốc tế về cơ cấu tổ chức Bộ và cơ quan ngang Bộ
- 2 Nghiên cứu mối quan hệ giữa cải cách tổ chức bộ máy và nâng cao chất lượng nhân lực
- 3 Nghiên cứu cơ chế phân cấp và phối hợp liên ngành
- 4 Nghiên cứu chuyên sâu về pháp luật tổ chức bộ máy hành chính
- 5 Ứng dụng công nghệ số trong tổ chức và vận hành Bộ, cơ quan ngang Bộ