LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc và tình cảm chân thành cho phép em gửi lời cảm ơn chân thành
nhất tới:
– Trường Đại học Yersin Đà Lạt, khoa Quản trị kinh doanh – K18 cùng các giảng viên
đã tận tình chỉ dạy và tạo điều kiện giúp đỡ em trong quá trình học tập, nghiên cứu và
hoàn thành đề tài nghiên cứu khoa học.
– Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy/Cô – người hướng dẫn và cũng là
người đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ và động viên em trong suốt quá trình
nghiên cứu và hoàn thành đề tài nghiên cứu này.
– Cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã luôn khích lệ, động viên và giúp đỡ tôi
trong quá trình học tập và nghiên cứu khoa học.
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều, nhưng bài luận không tránh khỏi những thiếu sót; tác giả
rất mong nhận được sự thông cảm, chỉ dẫn, giúp đỡ và đóng góp ý kiến của các nhà khoa
học, của quý thầy cô, các cán bộ quản lý và các bạn đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Đình Thi, tháng 10 năm 2021
Lời nhận xét của giáo viên hướng dẫn
………………………………………………………………………………………
………………………………..
………………………………………………………………………………………
………………………..
………………………………………………………………………………………
………………………………..
………………………………………………………………………………………
………………………………..
………………………………………………………………………………………
………………………………..
………………………………………………………………………………………
………………………………..
………………………………………………………………………………………
………………………………..
………………………………………………………………………………………
………………………..
………………………………………………………………………………………
………………………………..
………………………………………………………………………………………
………………………………..
………………………………………………………………………………………
………………………………..
………………………………………………………………………………………
………………………………..
………………………………………………………………………………………
1
………………………………..
………………………………………………………………………………………
………………………..
………………………………………………………………………………………
………………………………..
………………………………………………………………………………………
………………………………..
………………………………………………………………………………………
………………………………..
………………………………………………………………………………………
…………………………………………………
Tội phạm một hiện tượng tiêu cực nhất trong hội. Tội phạm xuất hiện
cùng với sự ra đời của pháp luật và nhà nước, cũng như khi xã hội phân chia
thành giai cấp đối kháng. Để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị, nhà
nước đã quy định hành vi nào tội phạm và áp dụng các trách nhiệm hình
sự hoặc hình phạt đối với người nào thực hiện các hành vi đó. Do đó, tội
phạm không chỉ mang thuộc tính lịch sử - xã hội mà còn mang bản chất là 1
hiện tượng pháp lý. Nhận thức được tầm quan trọngý nghĩa pháp của
việc xác định khái niệm tội phạm, luật hình sự của Việt Nam cũng như
một số luật hình sự các nước xã hội chủ nghĩa đều có định nghĩa thống nhất
khái niệm tội phạm thể hiện bản chất hội của tội phạm, qua đó phản
ánh quan điểm, đường lối đúng đắn chính sách luật hình sự của nước ta
trong từng giai đoạn của lịch sử cách mạng, bảo vệ các lợi ích của toàn
thể nhân dân. Hơn nữa, khái niệm tội phạm trong luật hình sự còn sở
để phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác và với hành vi trái đạo
2
đức, cũng như các trường hợp không phải là tội phạm, qua đó, bảo vệ, củng
cố duy trì trật tự hội, góp phần đấu tranh phòng ngừa chống tội
phạm, bảo vệ một cách hữu hiệu lợi ích của nhà nước, của xã hội, các quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân. Cùng với đó, đối với nghiên cứu tội phạm
chúng ta không chỉ nghiên cứu khái niệm, bản chất của tội phạm còn
phải nghiên cứu các yếu tố các dấu hiệu cấu thành tội phạm các trường
hợp không phải là tội phạm (loại trừ trách nhiệm hình sự).
Nghiên cứu về tội phạm vấn đề cơ bản quan trọng nhất của luật
Hình sự Việt Nam. Bởi lẽ, tội phạm đối tượng đấu tranh phòng ngừa
chống của chính sách hình sự của Nhà nước, vì thế có nhiều quan điểm khác
nhau về khái niệm tội phạm. Một số quan điểm cho rằng “Tội phạm là hành:
vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, được quy định trong bộ luật hình sự và phải
chịu hình phạt”; hay: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái
pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt”,…
Khái niệm tôi phạm đã được ghi nhận định nghĩa lập pháp trong
khoản 1, điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung 2009): “Tội
phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự,
do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc
ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc,
xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an
ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích
hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa”.
Từ đóthể đưa ra định nghĩa khoa học của khái niệm tội phạm như
sau: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật
hình sự do người năng lực trách nhiệm hình sự đủ tuổi chịu trách
3
nhiệm hình sự thực hiện 1 cách lỗi (Cố ý hoặc ý) xâm phạm đến các
quan hệ xã hội được Bộ luật hình sự xác lập và bảo vệ.”
Tính nguy hiểm cho hội của tội phạm là một đặc điểm đầu tiên
quan trọng của tội phạm. Tội phạm hay bất cứ vi phạm pháp luật nào đều có
tính nguy hiểm cho xã hội. Nên tính nguy hiểm cho xã hội là 1 trong những
căn cứ để phân biệt hành vi phạm tội với các hành vi vi phạm pháp luật
khác. Những hành vi tuy dấu hiệu của tội phạm nhưng tính nguy hiểm
không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp
khác. Việc đánh giá hành vi nàohành vi nguy hiểm cho xã hội phụ thuộc
vào tình hình phát triển của hội yêu cầu đấu tranh phòng ngừa tội
phạm. Nếu trước đây, hành vi trộm cắp dưới 2 triệu đồng dược coi là hành vi
nguy hiểm
cho hội người thực hiện hành vi này thể bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội trộm cắp tài sản, thì hiện nay, hành vi này không bị coi là hành
vi nguy hiểm cho xã hội nữa. Ngược lại có hành vi trước đây chưa được coi
là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhưng nay lại coi là nguy hiểm chohội
được coi tội phạm. dụ: hành vi xâm phạm quyền ứng cử của công
dân, trước đây chưa được coi hành vi nguy hiểm cho xã hội, nay hành vi
này được coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Tính nguy hiểm cho hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau:
hình thức lỗi, hậu quả, công cụ, phương tiện pham tội, phương thức thủ đoạn
phạm tội, thời gian, không gian phạm tội, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội,
động cơ mục đích phạm tội, nhân thân người phạm tội cũng như tình hình an
ninh trật tự, an toàn xã hội nơi sảy ra sự việc,…
Đặc điểm thứ hai của tội phạm một đặc điểm thể hiện nguyên tắc
pháp chế hội chủ nghĩa theo Luật hình sự Việt Nam. Bất kỳ hành vi nào
được cơi là tội phạm cũng đều được quy định trong Bộ luật hình sự. Do đó
4
không ai bị truy cứu trách nhiệm hình sự phải chịu trách nhiệm hình sự
nếu đã thực hiện 1 hành vi không được bộ luật hình sự quy định tội
phạm. Tức 1 người thực hiện hành vi nguy hiểm đến đâu nhưng hành vi
đó chưa được quy định trong bộ luật hình sự thì hành vi đó không được coi
là tội phạm.
Để khẳng đinh rõ điều này, điều 2 Bộ luật hình sự quy định: “Chỉ người nào
phạm 1 tội đã được bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình
sự”. Đặc điểm này ý nghĩa về phương diện thực tiễn tránh việc xử
tùy tiện của người áp dụng pháp luật: giúp cơ quan lập pháp kịp thời bổ sung
sửa đổi bộ luật hình sự theo sát sự thay đổi của tình hình kinh tế hội để
công tác đấu tranh phòng chống tội phạm đạt hiệu quả.
Đặc điểm thứ ba tội phạm phải hành vi nguy hiểm cho hội do con
người thực hiện 1 cách có lỗi cố ý hoặc vô ý. Khisự kiện tội phạm được
thực hiện 1 cách có lỗi thì tính chất lỗi là phạm trù liên quan đến hành vi còn
lỗi là phạm trù liên quan đến ng phạm tội. Khi hành vi khách quan gây nguy
hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm, được con người thực hiện 1 cách có lỗi
dưới hình thức cố ý hoặc ý thì hành vi đó mang tính chất lỗi hành vi
đó trở thành hành vi phạm tội, người có lỗi trong hành vi thực hiện tội phạm
phải chịu trách nhiệm hình sự. Nếu hành vi gây nguy hiểm cho xã hội bị luật
hình sự cấm mà được thực hiện trong thực tế nhưng người thực hiện hành vi
đó không lỗi thì không bị coi hành vi phạm tội, người không lỗi
trong việc thực hiện hành vi đó không phải chịu trách nhiệm hình sự theo
quy định của Bộ luật hình sự.
Đặc điểm thứ của tội phạm người năng lực trách nhiệm hình sự
người tại thời điểm thực hiện hành vi nguy hiểm chohội bị luật hình
sự cấm trong trạng thái bình thường hoàn toàn khả năng nhận thức
5
được đầy đủ hành vi, tính chất thực tế tính chất pháp của hành vi do
mình thực hiện, cũng như khả năng điều khiển được đầy đủ hành vi đó.
Năng lực trách nhiệm hình sự mối liên quan chặt chẽ trực tiếp với
lỗi, năng lực trách nhiệm hình sự sở cần đủ đểlỗi trong việc
thực hiện tội phạm, vì để có lỗi trong việc thực hiện tội phạm thì chủ thể của
hành vi đó nhất thiết phải người năng lực trách nhiệm hình sự. Người
đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự người tại thời điểm phạm tội đã đạt
đến độ tuổi do luật hình sự quy định để thể có khả năng nhận thức được
đầy đủ tính chất thực tế và tính chất pháp của hành vi do mình thực hiện
cũng như có khả năng điều khiển hành vi đó.
Điều 12 Bộ luật hình sự quy định Tuổi chịu trách nhiệm hình sự: “1.
Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng”.
Người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nhưng không năng lực
trách nhiệm hình sự thì hành vi phạm tội của người đó không được coi là tội
phạm. Ví dụ: Một người 20 tuổi (đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự) nhưng do
bị tâm thần (không năng lực trách nhiệm hình sự) thực hiện hành vi giết
người, thì người này không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Mối quan hệ giữa 4 đặc điểm của tội phạm: chỉ khi nào sự
tổng hợp của cả 4 đặc điểm thì một hành vi mới bị coi là tội phạm, còn như
thiếu chỉ 1 trong 4 đặc điểm đó thì hvi nhất thiết không thể bị coi tội
phạm.
Việc phân loại tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quy định
các nguyên tắc xử lý, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thời hiệu thi
hành bản án và các quy định khác về điều kiện áp dụng một số loại hình phạt
6
hoặc biện pháp pháp, v.v.. Phân loại tội phạm còn sở để cụ thể hóa
trách nhiệm hình sự, quy định khung hình phạt, bảo đảm nguyên tắc thể
hóa TNHS hình phạt. Ngoài ra, việc phân loại tội phạm còn ý nghĩa
đối với việc quy định một số chế định tạm giam, tạm giữ trong Bộ luật hình
sự.
Phân loại tội phạm trong luật hình sự là chia những hành vi nguy hiểm
trong hội bị luật hình sự cấm thành từng loại nhất định theo những tiêu
chí này hay những tiêu chí khác để làm tiền đề cho thể hóa trách nhiệm
hình sự và hình phạt hoặc tha miễn trách nhiệm hình sự và hình phạt.
Cấu thành tội phạm cơ sở pháp để truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người phạm tội, ngoài ra, cấu thành tội phạm còn là yếu tố bảo đảm
các quyền và tự do của công dân, của con người, làm ranh giới để xử lý giữa
trường hợp hành vi đã cấu thành tội phạm hay không cấu thành tội phạm.
Dưới góc độ khoa học có thể hiểu cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu
hiệu được quy định trong luật hình sự đặc trưng cho một loại tội phạm cụ
thể. Cấu thành tội phạm của một loại tội phạm cụ thể tổng hợp các dấu
hiệu (khách quan chủ quan) đặc trưng cho khách thể và mặt khách quan,
chủ thể mặt chủ quan của tội phạm. Các dấu hiệu quan hệ chặt chẽ,
thiếu một dấu hiệu nào sẽ không có cấu thành tội phạm.
Việc phân loại cấu thành tội phạm căn cứ vào mức độ nguy hiểm cho
xã hội của hành vi phạm tội có thể chia cấu thành tội phạm thành: cấu thành
tội phạm bản; cấu thành tội phạm tăng nặng; cấu thành tội phạm giảm
nhẹ. Cấu thành tội phạm cơ bản là tổng hợp các dấu hiệu đặc trưng, bắt buộc
với mọi trường hợp phạm tội của một loại tội, phản ánh bản chất của loại tội
đó và cho phép phân biệt được loại tội phạm này với các loại tội phạm khác.
Nội dung của cấu thành tội phạm bản chỉ bao gồm những dáu hiệu định
tội. Đây là các cấu thành tội phạm được thể hiện ở khoản 1 của đa số các tội
7
phạm. Ví dụ như tội trộm cắp tài sản (khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự), tội
vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ gây hậu
quả nghiêm trọng (khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự).. Cấu thành tội phạm
tăng nặng bao gồm những dấu hiệu định tội và những dấu hiệu thể hiện mức
độ nguy hiểm cho hội của tội phạm tăng lên rệt. Cấu thành tội phạm
giảm nhẹ bao gồm những dấu hiệu định tội nững dấu hiệu thể hiện mức
độ nguy hiểm chohội giảm đi rõ rệt. Ta còn căn cứ vào cấu trúc của cấu
thành tội phạm thể chia cấu thành tội phạm thành: cấu thành tội phạm
hình thức; cấu thành tội phạm vật chất; cấu thành tội phạm hỗn hợp. Trong
đó: Cấu thành tội phạm hình thức thức cấu thành tội phạm duy nhất
một yếu tố bắt buộc về mặt khách quan của tội phạm hành vi nguy hiểm
cho hội. Tội phạm cấu thành tội phạm hình thức được coi hoàn
thành từ thời điểm thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được mô tả trong
điều luật phần các tội phạm Bộ luật hình sự. Cấu thành tội phạm vật chất
cấu thành tội phạm các dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan của tội
phạm bao gồm: hành vi phạm tội, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra;
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi hậu quả do hành vi phạm tội gây ra.
Tội phạm cấu thành tội phạm vật chất được coi hoàn thành từ thời
điểm thiệt hại xảy ra. Cấu thành tội phạm hỗn hợp loại cấu thành tội
phạm mà các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm vừa
yếu tố của cấu thành tội phạm hình thức, vừa yếu tố của cấu thành tội
phạm vật chất.
Các bộ phận cấu thành tội phạm được coi các yếu tố cấu thành tội
phạm.Các yếu tố cấu thành tội phạm bao gồm: Khách thể, mặt khách quan,
chủ thể mặt chủ quan của tội phạm. Khách thể của tội phạm các quan
hệ xã hội được Bộ luật hình sự xác lập bảo vệ bị tội phạm xâm hại bằng
cách gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại trong một chừng mực nhất định.
8
Ta thể phân khách thể của tội phạm thành 3 loại: Khách thể chung:
tổng thể các quan hệ xã hội do luật hình sự bảo vệ bị các tội phạm xâm hại.
Bất kỳ tội phạm nào cũng xâm hại đến khách thể chung của tội phạm. Khách
thể chung của tội phạm được liệt kê tại Điều 8 Bộ luật hình sự và trên cơ sở
đó các nhà làm luật phân chia các loại tội phạm có cùng tính chất trong cùng
một chương tương ứng tại phần các tội phạm của Bộ luật hình sự. Khách thể
loại: Là nhóm các quan hệ xã hội có cùng tính chất liên hệ qua lại với nhau,
được 1 nhóm các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ bị 1 nhóm các tội
phạm xâm hại. Khách thể loại là cơ sở để phân loại các tội phậm trong phần
các tội phạm của luật hình sự thành các chương. Khách thể trực tiếp:
quan hệ xã hội cụ thể được 1 quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ và bị 1 loại
tội phạm trực tiếp xâm hại. Khách thể trực tiếp căn cứ để quy định các
loại tội phạm vào các chương mục nhất định của Bộ luật hình sự.
Yếu tố thứ hai của cấu thành tội phạm mặt khách quan của tội
phạm mặt bên ngoài của tội phạm hay những dấu hiệu của tội phạm
biểu hiện ra ngoài thế giới khách quan.
Yếu tố thứ ba của cấu thành tội phạm chủ thể của tội phạm con
người cụ thể đang sống đã thực hiện tội phạm đạt độ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự năng lực trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên đối với một số tội
phạm yêu cầu người thực hiện tội phạm phải thêm một số dấu hiệu bổ
sung như: giới tính, nghề nghiệp, độ tuổi, chức vụ, quyền hạn,… gọi chủ
thể đặc biệt của tội phạm.
Yếu tố thứ tư của cấu thành tội phạm là mặt chủ quan của tội phạm là
mặt bên trong của tội phạm, thái độ tâm của người phạm tội đối với
hành vi nguy hiểm chohội và với hậu quả do hành vi đó gây ra. Các dấu
hiệu của mặt chủ quan bao gồm: Lỗi: là thái độ tâm lý của tội phạm đối với
hành vi phạm tội hậu quả hành vi đó gây ra thể hiện dưới dạng cố ý
9
hoặc ý. Các hình thức của lỗi là: Lỗi cố ý là lỗi trong đó chủ thể lựa
chọn hành vi phạm tộithực hiện hành vi đó, lỗi cố ý gồm cố ý trực tiếp:
lỗi của một người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho hội nhận thức
được hành vi của mình tính chất nguy hiểm, thấy trước được hậu quả
nguy hiểm cho xã hội và mong muốn điều đó xảy ra, lỗi cố ý gián tiếp: là lỗi
của một người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, tuy không mong
muốn nhưng ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra, lỗi ý: lỗi của một
người trong đó chủ thể k lựa chọn hành vi phạm tội nhưng trên thực tế đã
gây hậu quả nguy hiểm cho hội. Lỗi ý gồm ý do quá tự tin lỗi
của 1 người tuy thấy trước hành vi của mình thể gây hậu quả nguy hiểm
cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa
được. Lỗiý do cẩu thả là lỗi của 1 người không thấy trước được hành vi
của mình có thể gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội mặc dù có thể thấy trước
được hoặc buộc phải thấy trước.
Động phạm tội nhân tố bên trong thúc đẩy người phạm tội thực
hiện tội phạm. Cơ sở để trở thành động cơ phạm tội là những nhu cầu về vật
chất, tinh thần, các lợi ích sai lệch của cá nhân được chủ thể nhận thức cũng
có thể là nhu cầu bình thường nhưng chủ thể đã chọn cách thoản mãn chúng
trái với chuẩn mực hội. Mục đích phạm tội hình được hình thành
trong ý thức người phạm tội và người phạm tội mong muốn đạt được điều đó
trên thực thế bằng cách thực hiện tội phạm.
Như vậy bốn yếu tố cấu thành tội phạm mối quan hệ hữu
chặt chẽ với nhau, mỗi yếu tố cấu thành tội phạm đều biểu hiện một nội
dung cụ thể tổng hợp 4 yếu tố cấu thành tội phạm phản ánh mối liên hệ
quan hệ tâm lý, thái độ bên trong của 1 người với hành vi do chính họ thực
hiện ra bên ngoài thế giới khách quan gây ra những hậu quả nuy hiểm cho xã
hội. Do đó bất kỳ hành vi phạm tội nào, ít nghiêm trọng hay đặc biệt
10
nghiêm trọng, xâm phạm đến quan hệ hội nào, mức hình phạt
loại hình phạt nghiêm khắc đến thế nào thì tội phạm trong luật hình sự
đều thể hiện mối quan hệ hữu cơ, logic thống nhất giữa mặt khách quan
và mặt chủ quan của tội phạm.
Vậy nghiên cứu về cấu thành tội phạm tội phạm ý nghĩa quan
trọng trong việc hoàn thiện hệ thống luận hệ thống pháp luật hình sự.
Lý luận về cấu thành tội phạm là cơ sở khoa học để xây dựng các cấu thành
tội phạm cụ thể trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự. Theo đó, mỗi
khi cần bổ sung thêm một tội phạm mới, các nhà làm luật nước ta bao giờ
cũng dựa vào luận về cấu thành tội phạm trong khoa học luật hình sự để
xây dựng các quản văn bản cho thống nhất phù hợp với từng tội danh
tương ứng cụ thể, bảo đảm tính chuẩn xác và hợp lý, đồng thời phục vụ cho
hoạt động áp dụng pháp luật hình sự liên quan đến tội phạm, tội danh
định tội danh được chính xác tr thực tiễn, bảo đảm xử đúng ng, đúng tội
đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạmngười phạm tội, tránh làm oan
người vô tội.
11

Preview text:

LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc và tình cảm chân thành cho phép em gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới:
– Trường Đại học Yersin Đà Lạt, khoa Quản trị kinh doanh – K18 cùng các giảng viên
đã tận tình chỉ dạy và tạo điều kiện giúp đỡ em trong quá trình học tập, nghiên cứu và
hoàn thành đề tài nghiên cứu khoa học.
– Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy/Cô – người hướng dẫn và cũng là

người đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ và động viên em trong suốt quá trình
nghiên cứu và hoàn thành đề tài nghiên cứu này.
– Cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã luôn khích lệ, động viên và giúp đỡ tôi
trong quá trình học tập và nghiên cứu khoa học.
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều, nhưng bài luận không tránh khỏi những thiếu sót; tác giả
rất mong nhận được sự thông cảm, chỉ dẫn, giúp đỡ và đóng góp ý kiến của các nhà khoa
học, của quý thầy cô, các cán bộ quản lý và các bạn đồng nghiệp. Xin chân thành cảm ơn!
Đình Thi, tháng 10 năm 2021

Lời nhận xét của giáo viên hướng dẫn
………………………………………………………………………………………
………………………………..
……………………………………………………………………………………… ………………………..
………………………………………………………………………………………
………………………………..
………………………………………………………………………………………
………………………………..
………………………………………………………………………………………
………………………………..
………………………………………………………………………………………
………………………………..
………………………………………………………………………………………
………………………………..
……………………………………………………………………………………… ………………………..
………………………………………………………………………………………
………………………………..
………………………………………………………………………………………
………………………………..
………………………………………………………………………………………
………………………………..
………………………………………………………………………………………
………………………………..
……………………………………………………………………………………… 1
………………………………..
……………………………………………………………………………………… ………………………..
………………………………………………………………………………………
………………………………..
………………………………………………………………………………………
………………………………..
………………………………………………………………………………………
………………………………..
………………………………………………………………………………………
…………………………………………………
Tội phạm là một hiện tượng tiêu cực nhất trong xã hội. Tội phạm xuất hiện
cùng với sự ra đời của pháp luật và nhà nước, cũng như khi xã hội phân chia
thành giai cấp đối kháng. Để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị, nhà
nước đã quy định hành vi nào là tội phạm và áp dụng các trách nhiệm hình
sự hoặc hình phạt đối với người nào thực hiện các hành vi đó. Do đó, tội
phạm không chỉ mang thuộc tính lịch sử - xã hội mà còn mang bản chất là 1
hiện tượng pháp lý. Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa pháp lý của
việc xác định rõ khái niệm tội phạm, luật hình sự của Việt Nam cũng như
một số luật hình sự các nước xã hội chủ nghĩa đều có định nghĩa thống nhất
khái niệm tội phạm thể hiện rõ bản chất xã hội của tội phạm, qua đó phản
ánh quan điểm, đường lối đúng đắn chính sách luật hình sự của nước ta
trong từng giai đoạn của lịch sử và cách mạng, bảo vệ các lợi ích của toàn
thể nhân dân. Hơn nữa, khái niệm tội phạm trong luật hình sự còn là cơ sở
để phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác và với hành vi trái đạo 2
đức, cũng như các trường hợp không phải là tội phạm, qua đó, bảo vệ, củng
cố và duy trì trật tự xã hội, góp phần đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm, bảo vệ một cách hữu hiệu lợi ích của nhà nước, của xã hội, các quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân. Cùng với đó, đối với nghiên cứu tội phạm
chúng ta không chỉ nghiên cứu khái niệm, bản chất của tội phạm mà còn
phải nghiên cứu các yếu tố các dấu hiệu cấu thành tội phạm và các trường
hợp không phải là tội phạm (loại trừ trách nhiệm hình sự).
Nghiên cứu về tội phạm là vấn đề cơ bản và quan trọng nhất của luật
Hình sự Việt Nam. Bởi lẽ, tội phạm là đối tượng đấu tranh phòng ngừa và
chống của chính sách hình sự của Nhà nước, vì thế có nhiều quan điểm khác
nhau về khái niệm tội phạm. Một số quan điểm cho rằng: “Tội phạm là hành
vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, được quy định trong bộ luật hình sự và phải
chịu hình phạt”; hay: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái
pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt”,…
Khái niệm tôi phạm đã được ghi nhận định nghĩa lập pháp trong
khoản 1, điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung 2009): “Tội
phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự,
do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô
ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc,
xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an
ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích
hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa”.
Từ đó có thể đưa ra định nghĩa khoa học của khái niệm tội phạm như
sau: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật
hình sự do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách 3
nhiệm hình sự thực hiện 1 cách có lỗi (Cố ý hoặc vô ý) xâm phạm đến các
quan hệ xã hội được Bộ luật hình sự xác lập và bảo vệ.”
Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là một đặc điểm đầu tiên và
quan trọng của tội phạm. Tội phạm hay bất cứ vi phạm pháp luật nào đều có
tính nguy hiểm cho xã hội. Nên tính nguy hiểm cho xã hội là 1 trong những
căn cứ để phân biệt hành vi phạm tội với các hành vi vi phạm pháp luật
khác. Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính nguy hiểm
không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp
khác. Việc đánh giá hành vi nào là hành vi nguy hiểm cho xã hội phụ thuộc
vào tình hình phát triển của xã hội và yêu cầu đấu tranh phòng ngừa tội
phạm. Nếu trước đây, hành vi trộm cắp dưới 2 triệu đồng dược coi là hành vi nguy hiểm
cho xã hội và người thực hiện hành vi này có thể bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội trộm cắp tài sản, thì hiện nay, hành vi này không bị coi là hành
vi nguy hiểm cho xã hội nữa. Ngược lại có hành vi trước đây chưa được coi
là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhưng nay lại coi là nguy hiểm cho xã hội
và được coi là tội phạm. Ví dụ: hành vi xâm phạm quyền ứng cử của công
dân, trước đây chưa được coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nay hành vi
này được coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Tính nguy hiểm cho xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau:
hình thức lỗi, hậu quả, công cụ, phương tiện pham tội, phương thức thủ đoạn
phạm tội, thời gian, không gian phạm tội, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội,
động cơ mục đích phạm tội, nhân thân người phạm tội cũng như tình hình an
ninh trật tự, an toàn xã hội nơi sảy ra sự việc,…
Đặc điểm thứ hai của tội phạm là một đặc điểm thể hiện nguyên tắc
pháp chế Xã hội chủ nghĩa theo Luật hình sự Việt Nam. Bất kỳ hành vi nào
được cơi là tội phạm cũng đều được quy định trong Bộ luật hình sự. Do đó 4
không ai bị truy cứu trách nhiệm hình sự và phải chịu trách nhiệm hình sự
nếu đã thực hiện 1 hành vi mà không được bộ luật hình sự quy định là tội
phạm. Tức là 1 người thực hiện hành vi nguy hiểm đến đâu nhưng hành vi
đó chưa được quy định trong bộ luật hình sự thì hành vi đó không được coi là tội phạm.
Để khẳng đinh rõ điều này, điều 2 Bộ luật hình sự quy định: “Chỉ người nào
phạm 1 tội đã được bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình
sự”. Đặc điểm này có ý nghĩa về phương diện thực tiễn là tránh việc xử lý
tùy tiện của người áp dụng pháp luật: giúp cơ quan lập pháp kịp thời bổ sung
sửa đổi bộ luật hình sự theo sát sự thay đổi của tình hình kinh tế xã hội để
công tác đấu tranh phòng chống tội phạm đạt hiệu quả.
Đặc điểm thứ ba là tội phạm phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội do con
người thực hiện 1 cách có lỗi cố ý hoặc vô ý. Khi có sự kiện tội phạm được
thực hiện 1 cách có lỗi thì tính chất lỗi là phạm trù liên quan đến hành vi còn
lỗi là phạm trù liên quan đến ng phạm tội. Khi hành vi khách quan gây nguy
hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm, được con người thực hiện 1 cách có lỗi
dưới hình thức cố ý hoặc vô ý thì hành vi đó mang tính chất lỗi và hành vi
đó trở thành hành vi phạm tội, người có lỗi trong hành vi thực hiện tội phạm
phải chịu trách nhiệm hình sự. Nếu hành vi gây nguy hiểm cho xã hội bị luật
hình sự cấm mà được thực hiện trong thực tế nhưng người thực hiện hành vi
đó không có lỗi thì không bị coi là hành vi phạm tội, người không có lỗi
trong việc thực hiện hành vi đó không phải chịu trách nhiệm hình sự theo
quy định của Bộ luật hình sự.
Đặc điểm thứ tư của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự là
người mà tại thời điểm thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình
sự cấm ở trong trạng thái bình thường và hoàn toàn có khả năng nhận thức 5
được đầy đủ hành vi, tính chất thực tế và tính chất pháp lý của hành vi do
mình thực hiện, cũng như khả năng điều khiển được đầy đủ hành vi đó.
Năng lực trách nhiệm hình sự có mối liên quan chặt chẽ trực tiếp với
lỗi, có năng lực trách nhiệm hình sự là cơ sở cần và đủ để có lỗi trong việc
thực hiện tội phạm, vì để có lỗi trong việc thực hiện tội phạm thì chủ thể của
hành vi đó nhất thiết phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Người
đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là người mà tại thời điểm phạm tội đã đạt
đến độ tuổi do luật hình sự quy định để có thể có khả năng nhận thức được
đầy đủ tính chất thực tế và tính chất pháp lý của hành vi do mình thực hiện
cũng như có khả năng điều khiển hành vi đó.
Điều 12 Bộ luật hình sự quy định Tuổi chịu trách nhiệm hình sự: “1.
Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.
Người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nhưng không có năng lực
trách nhiệm hình sự thì hành vi phạm tội của người đó không được coi là tội
phạm. Ví dụ: Một người 20 tuổi (đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự) nhưng do
bị tâm thần (không có năng lực trách nhiệm hình sự) thực hiện hành vi giết
người, thì người này không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Mối quan hệ giữa 4 đặc điểm của tội phạm: chỉ khi nào có sự
tổng hợp của cả 4 đặc điểm thì một hành vi mới bị coi là tội phạm, còn như
thiếu dù chỉ 1 trong 4 đặc điểm đó thì hvi nhất thiết không thể bị coi là tội phạm.
Việc phân loại tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quy định
các nguyên tắc xử lý, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thời hiệu thi
hành bản án và các quy định khác về điều kiện áp dụng một số loại hình phạt 6
hoặc biện pháp tư pháp, v.v.. Phân loại tội phạm còn là cơ sở để cụ thể hóa
trách nhiệm hình sự, quy định khung hình phạt, bảo đảm nguyên tắc cá thể
hóa TNHS và hình phạt. Ngoài ra, việc phân loại tội phạm còn có ý nghĩa
đối với việc quy định một số chế định tạm giam, tạm giữ trong Bộ luật hình sự.
Phân loại tội phạm trong luật hình sự là chia những hành vi nguy hiểm
trong xã hội bị luật hình sự cấm thành từng loại nhất định theo những tiêu
chí này hay những tiêu chí khác để làm tiền đề cho cá thể hóa trách nhiệm
hình sự và hình phạt hoặc tha miễn trách nhiệm hình sự và hình phạt.
Cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người phạm tội, ngoài ra, cấu thành tội phạm còn là yếu tố bảo đảm
các quyền và tự do của công dân, của con người, làm ranh giới để xử lý giữa
trường hợp hành vi đã cấu thành tội phạm hay không cấu thành tội phạm.
Dưới góc độ khoa học có thể hiểu cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu
hiệu được quy định trong luật hình sự đặc trưng cho một loại tội phạm cụ
thể. Cấu thành tội phạm của một loại tội phạm cụ thể là tổng hợp các dấu
hiệu (khách quan và chủ quan) đặc trưng cho khách thể và mặt khách quan,
chủ thể và mặt chủ quan của tội phạm. Các dấu hiệu có quan hệ chặt chẽ,
thiếu một dấu hiệu nào sẽ không có cấu thành tội phạm.
Việc phân loại cấu thành tội phạm căn cứ vào mức độ nguy hiểm cho
xã hội của hành vi phạm tội có thể chia cấu thành tội phạm thành: cấu thành
tội phạm cơ bản; cấu thành tội phạm tăng nặng; cấu thành tội phạm giảm
nhẹ. Cấu thành tội phạm cơ bản là tổng hợp các dấu hiệu đặc trưng, bắt buộc
với mọi trường hợp phạm tội của một loại tội, phản ánh bản chất của loại tội
đó và cho phép phân biệt được loại tội phạm này với các loại tội phạm khác.
Nội dung của cấu thành tội phạm cơ bản chỉ bao gồm những dáu hiệu định
tội. Đây là các cấu thành tội phạm được thể hiện ở khoản 1 của đa số các tội 7
phạm. Ví dụ như tội trộm cắp tài sản (khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự), tội
vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ gây hậu
quả nghiêm trọng (khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự).. Cấu thành tội phạm
tăng nặng bao gồm những dấu hiệu định tội và những dấu hiệu thể hiện mức
độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm tăng lên rõ rệt. Cấu thành tội phạm
giảm nhẹ bao gồm những dấu hiệu định tội và nững dấu hiệu thể hiện mức
độ nguy hiểm cho xã hội giảm đi rõ rệt. Ta còn căn cứ vào cấu trúc của cấu
thành tội phạm có thể chia cấu thành tội phạm thành: cấu thành tội phạm
hình thức; cấu thành tội phạm vật chất; cấu thành tội phạm hỗn hợp. Trong
đó: Cấu thành tội phạm hình thức thức là cấu thành tội phạm có duy nhất
một yếu tố bắt buộc về mặt khách quan của tội phạm là hành vi nguy hiểm
cho xã hội. Tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức được coi là hoàn
thành từ thời điểm thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được mô tả trong
điều luật phần các tội phạm Bộ luật hình sự. Cấu thành tội phạm vật chất là
cấu thành tội phạm mà các dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan của tội
phạm bao gồm: hành vi phạm tội, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; và
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra.
Tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất được coi là hoàn thành từ thời
điểm có thiệt hại xảy ra. Cấu thành tội phạm hỗn hợp là loại cấu thành tội
phạm mà các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm vừa có
yếu tố của cấu thành tội phạm hình thức, vừa có yếu tố của cấu thành tội phạm vật chất.
Các bộ phận cấu thành tội phạm được coi là các yếu tố cấu thành tội
phạm.Các yếu tố cấu thành tội phạm bao gồm: Khách thể, mặt khách quan,
chủ thể và mặt chủ quan của tội phạm. Khách thể của tội phạm là các quan
hệ xã hội được Bộ luật hình sự xác lập và bảo vệ bị tội phạm xâm hại bằng
cách gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại trong một chừng mực nhất định. 8
Ta có thể phân khách thể của tội phạm thành 3 loại: Khách thể chung: Là
tổng thể các quan hệ xã hội do luật hình sự bảo vệ bị các tội phạm xâm hại.
Bất kỳ tội phạm nào cũng xâm hại đến khách thể chung của tội phạm. Khách
thể chung của tội phạm được liệt kê tại Điều 8 Bộ luật hình sự và trên cơ sở
đó các nhà làm luật phân chia các loại tội phạm có cùng tính chất trong cùng
một chương tương ứng tại phần các tội phạm của Bộ luật hình sự. Khách thể
loại: Là nhóm các quan hệ xã hội có cùng tính chất liên hệ qua lại với nhau,
được 1 nhóm các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ và bị 1 nhóm các tội
phạm xâm hại. Khách thể loại là cơ sở để phân loại các tội phậm trong phần
các tội phạm của luật hình sự thành các chương. Khách thể trực tiếp: Là
quan hệ xã hội cụ thể được 1 quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ và bị 1 loại
tội phạm trực tiếp xâm hại. Khách thể trực tiếp là căn cứ để quy định các
loại tội phạm vào các chương mục nhất định của Bộ luật hình sự.
Yếu tố thứ hai của cấu thành tội phạm là mặt khách quan của tội
phạm là mặt bên ngoài của tội phạm hay là những dấu hiệu của tội phạm
biểu hiện ra ngoài thế giới khách quan.
Yếu tố thứ ba của cấu thành tội phạm là chủ thể của tội phạm là con
người cụ thể đang sống đã thực hiện tội phạm đạt độ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên đối với một số tội
phạm yêu cầu người thực hiện tội phạm phải có thêm một số dấu hiệu bổ
sung như: giới tính, nghề nghiệp, độ tuổi, chức vụ, quyền hạn,… gọi là chủ
thể đặc biệt của tội phạm.
Yếu tố thứ tư của cấu thành tội phạm là mặt chủ quan của tội phạm là
mặt bên trong của tội phạm, là thái độ tâm lý của người phạm tội đối với
hành vi nguy hiểm cho xã hội và với hậu quả do hành vi đó gây ra. Các dấu
hiệu của mặt chủ quan bao gồm: Lỗi: là thái độ tâm lý của tội phạm đối với
hành vi phạm tội và hậu quả mà hành vi đó gây ra thể hiện dưới dạng cố ý 9
hoặc vô ý. Các hình thức của lỗi là: Lỗi cố ý là lỗi mà trong đó chủ thể lựa
chọn hành vi phạm tội và thực hiện hành vi đó, lỗi cố ý gồm cố ý trực tiếp:
là lỗi của một người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức
được hành vi của mình có tính chất nguy hiểm, thấy trước được hậu quả
nguy hiểm cho xã hội và mong muốn điều đó xảy ra, lỗi cố ý gián tiếp: là lỗi
của một người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, tuy không mong
muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra, lỗi vô ý: là lỗi của một
người trong đó chủ thể k lựa chọn hành vi phạm tội nhưng trên thực tế đã
gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Lỗi vô ý gồm vô ý do quá tự tin là lỗi
của 1 người tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây hậu quả nguy hiểm
cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa
được. Lỗi vô ý do cẩu thả là lỗi của 1 người không thấy trước được hành vi
của mình có thể gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội mặc dù có thể thấy trước
được hoặc buộc phải thấy trước.
Động cơ phạm tội là nhân tố bên trong thúc đẩy người phạm tội thực
hiện tội phạm. Cơ sở để trở thành động cơ phạm tội là những nhu cầu về vật
chất, tinh thần, các lợi ích sai lệch của cá nhân được chủ thể nhận thức cũng
có thể là nhu cầu bình thường nhưng chủ thể đã chọn cách thoản mãn chúng
trái với chuẩn mực xã hội. Mục đích phạm tội là mô hình được hình thành
trong ý thức người phạm tội và người phạm tội mong muốn đạt được điều đó
trên thực thế bằng cách thực hiện tội phạm.
Như vậy bốn yếu tố cấu thành tội phạm có mối quan hệ hữu cơ và
chặt chẽ với nhau, mỗi yếu tố cấu thành tội phạm đều biểu hiện một nội
dung cụ thể và tổng hợp 4 yếu tố cấu thành tội phạm phản ánh mối liên hệ
quan hệ tâm lý, thái độ bên trong của 1 người với hành vi do chính họ thực
hiện ra bên ngoài thế giới khách quan gây ra những hậu quả nuy hiểm cho xã
hội. Do đó bất kỳ hành vi phạm tội nào, dù ít nghiêm trọng hay đặc biệt 10
nghiêm trọng, dù xâm phạm đến quan hệ xã hội nào, dù mức hình phạt và
loại hình phạt có nghiêm khắc đến thế nào thì tội phạm trong luật hình sự
đều thể hiện mối quan hệ hữu cơ, logic và thống nhất giữa mặt khách quan
và mặt chủ quan của tội phạm.
Vậy nghiên cứu về cấu thành tội phạm và tội phạm có ý nghĩa quan
trọng trong việc hoàn thiện hệ thống lý luận và hệ thống pháp luật hình sự.
Lý luận về cấu thành tội phạm là cơ sở khoa học để xây dựng các cấu thành
tội phạm cụ thể trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự. Theo đó, mỗi
khi cần bổ sung thêm một tội phạm mới, các nhà làm luật nước ta bao giờ
cũng dựa vào lý luận về cấu thành tội phạm trong khoa học luật hình sự để
xây dựng các quản lý văn bản cho thống nhất và phù hợp với từng tội danh
tương ứng cụ thể, bảo đảm tính chuẩn xác và hợp lý, đồng thời phục vụ cho
hoạt động áp dụng pháp luật hình sự liên quan đến tội phạm, tội danh và
định tội danh được chính xác tr thực tiễn, bảo đảm xử lý đúng ng, đúng tội
và đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, tránh làm oan người vô tội. 11