Tiểu luận môn Tâm lý học Tiểu học | Trường Đại học Vinh

Tiểu luận môn Tâm lý học Tiểu học | Trường Đại học Vinh. Tài liệu được biên soạn dưới dạng file PDF gồm 19 trang, giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP
HỌC PHẦN
TÂM LÝ HỌC – GIÁO DỤC HỌC TIỂU HỌC
Người thực hiện:
Mã học viên
Lớp:
Giảng viên hướng dẫn:
NGHỆ AN – 2021
I. MỤC LỤC
II. NỘI DUNG.......................................................................................................1
PHẦN I. CHỦ ĐỀ 1..............................................................................................1
1. MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU.............................................................................2
2.1. Sự phát triển tâm lý của trẻ em được thực hiện theo cơ chế di sản xã hội.....2
2.2. Hoạt động là động lực và phương thức của sự phát triển tâm lý trẻ em........2
2.3. Giao tiếp là điều kiện của sự phát triển tâm lý trẻ em....................................2
3. KẾT LUẬN.......................................................................................................5
PHẦN II. CHỦ ĐỀ 2.............................................................................................6
1. MỞ ĐẦU...........................................................................................................6
2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU.............................................................................7
2.1. Thực trạng dạy học 2 buổi/ ngày tại trường TH …........................................7
2.2. Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy 2 buổi/ngày................................8
3. KẾT LUẬN.....................................................................................................10
III. TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................11
II. NỘI DUNG
PHẦN I. CHỦ ĐỀ 1
(Anh chị hãy giải thích lấy dụ thực tế của hoạt động dạy học
Trường Tiểu học để chứng minh các luận điểm: Sự phát triển tâm của trẻ
em được thực hiện theo chế di sản hội; Hoạt động động lực
phương thức của sự phát triển tâm trẻ em; Giao tiếp điều kiện của sự
phát triển tâm lý trẻ em)
1. MỞ ĐẦU
Sự phát triển tâm lý trẻ em là một quá trình trẻ em tích cực hoạt động để lĩnh
hội nền văn hóa hội loài người. L.x. Vưgốtxki đã đi sâu nghiên cứu về vai trò
của việc sử dụng các công cụ lao động người nêu ra tưởng: việc sử dụng
các công cụ lao động dẫn đến sự biến đổi hành vi con người, khiến con người khác
với động vật. Sự khác biệt này thể hiện nhất tính gián tiếp của hoạt động.
Trong hoạt động, con người biết sử dụng công cụ lao động và các hiệu (từ ngữ,
chữ số…). Công cụ hướng ra bên ngoài, tác động vào đối tượng nhằm biến đổi nó
phục vụ cho những nhu cầu của con người, còn hiệu hướng vào bên trong, tác
động đến hành vi con người, có vai trò điều khiển, điều chỉnh hành vi và hoạt động
của con người. Sự phát triển diễn ra trong chính quá trình con người nắm vững các
loại công cụ các loạihiệu đó. Trải qua các giai đoạn phát triển, con người sử
dụng các loại hiệu để ghi lại những kinh nghiệm về các loại công cụ cách
thức sử dụng chúng. Đó là kho tàng kinh nghiệm mang tính xã hội lịch sử của loài
người. Để phát triển, đứa trẻ phải tích cực lĩnh hội được những kinh nghiệm đó
thông qua hoạt động . Nhưng đứa trẻ không tự lớn lên giữa môi trườnggiao tiếp
thông qua vai trò trung gian của người lớn. Người lớn truyền thụ những kinh
nghiệm đó bằng con đường đặc trưng giáo dục (theo nghĩa rộng). Chính vậy,
L. X. Vưgôtxki coi giáo dục chiếm vị tri trung tâm hàng đầu trong toàn bộ hệ
thống tổ chức cuộc sống của trẻ em.
Việc nghiên cưu các yếu tố tác động đến sự phát triển tâm lý của trẻ em như:
tâm trẻ em được thực hiện theo chế di sản hội; Hoạt động động lực
1
phương thức của sự phát triển tâm trẻ em; Giao tiếp điều kiện của sự phát
triển tâm lý trẻ em, do đó rất quan trọng.
2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.1. Sự phát triển tâm lý của trẻ em được thực hiện theo cơ chế di sản xã
hội
- Sự phát triển của trẻ em là quá trình lĩnh hội kinh nghiệm xã hội - lịch s
trong nền văn hóa:
+ Văn hoá là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Nói tới văn hoá nói tới con người,
nói tới xã hội loài người cùng toàn bộ những thành tựu phát triển của nó.
+ Nền văn hoá hội chứa đựng toàn bộ kinh nghiệm hội - lịch sử
được loài người tạo ra trong suốt quá trình lịch sử.
+ Văn hoá thường được chia thành hai hình thái: Văn hoá vật thể và văn hoá
phi vật thể. Tuy nhiên sự phân chia như vậy chỉ mang tính ước lệ, tương đối.
+ Tâm lý học khoa học đã khẳng định: Sự phát triển của trẻ em, quá trình
nên người của trẻ chính là quá trình đứa trẻ đứa trẻ lĩnh hội những kinh nghiệm xã
hội - lịch sử được loài người sáng tạo ra và giữ lại trong nền văn hoá, bằng chính
hoạt động của trẻ em.
- Vai trò của nền văn hoá xã hội đối với sự phát triển tâm lý của trẻ em:
+ Mối quan hệ giữa con người và văn hoá, hay vai trò của nền văn hoá xã hội
đối với sự phát triển tâm lý người là một vấn đề quan trọng trong lý luận văn hoá.
2
+ Xét về quá trình phát triển của một đứa trẻ, thì ngay từ khi ra đời, trẻ đã có
sẵn một thế giới văn hoá của của loài người, trẻ chưa phải là người sáng tạo ra
cũng chưa thể biến đổi . Song nền văn hoá xã hội nguồn gốc của sự
phát triển tâm của trẻ. Không được sống trong xã hội loài người thì đứa tr
không thể trở thành người. Khi sinh thành ra, đứa trẻ được thừa hưởng bộ não
người - quan quan trọng nhất để phản ánh hiện thực khách quan làm nảy sinh
vấn đề tâm lý.
+ Văn hoá tạo nên s phát triển liên tục của lịch sử nhân loại lịch sử
của mỗi dân tộc. Không bao giờ thể cắt đứt con người với lịch sử, nên cũng
không thể tách con người với văn hoá. Vì văn hoá cũng là bản thân lịch sử của con
người, cội nguồn của mỗi người. Với ý nghĩ đó, việc giáo dục con người bằng
văn hoá, bằng các giá trị và truyền thống văn hoá có vai trò rất quan trọng.
+ Trẻ sinh ra phát triển tâm của nó bị khống chế bởi nền văn hoá mà
tiếp xúc, nền văn hoá xã hội, những kinh ngiệm lịch sử xã hội là nguồn gốc nội
dung của sự phát triển tâm lý, văn hoá lạc hậu, chậm phát triển sản sinh ra những
con người lạc hậu, văn hoá hiện đại sẽ sản sinh ra những con người văn minh.
+ Loài người hình như không có sự đồng nhất không phải vì màu da, mái tóc,
đặc điểm của mắt i, sự khác biệt khá lớn về điều kiện cách sống,
về sự phong phú của hoạt động vật chất tinh thần, về trình độ phát triển năng
lực tâm lý của họ khác nhau về văn hoá.
Như vậy, do điều kiện, hoàn cảnh kinh tếtiến bộ xã hội khác biệt thể
tạo nên trình độ phát triển khác nhau của trẻ em các dân tộc sống các miền khác
nhau trên thế giới và giữa các vùng trong cùng một đất nước.
- Đối với trẻ lứa tuổi Tiểu học thì văn hoá gia đình một vai trò đặc biệt:
+ Lúc mới sinh ra, tất cả trẻ em đều được cha mẹ nuôi dưỡng trong tổ ấm,
đến một độ tuổi nào đó mới ra đời, mới hoà nhập được vào cộng đồng xã hội.
+ Tổ ấm của trẻ emgia đình, môi trường văn hoá được tạo dựng nên
trên sở tình thương yêu, đùm bọc lẫn nhau của những người ruột thịt trong
gia đình - gọi là văn hoá gia đình.
3
+ Văn hoá gia đình một môi trường đặc biệt rất phù hợp với sự phát
triển của trẻ thơ. Trước hết đó là môi trường an toàn, trong đó đứa trẻ lớn lên
bên cạnh những người ruột thịt, luôn được yêu thương ấp ủ, môi trường đó
tạo nên trcảm giác an toàn vmặt tâm lý. Do trẻ luôn được cm sóc nên
tạo ra ở trẻ cảm giác an toàn về mặt thể chất, nhờ có cảm giác an toàn đó, đứa trẻ
mới cảm thấy yên tâm, mới vui chơi hồn nhiên, mới mạnh dạn thăm , thử
nghiệmm cách tác động lên svật xung quanh để phát huy những kh năng về
m lý sinh đang sinh sôi nảy nở. Mất đi cái cảm gc an toàn, đứa trẻ
luôn shãi, dễ co nh lại, giảm tính ch cực năng động và thường xuyên rơi
vào tình trạng thụ động, buồn bã.
+ Gia đình còn i trường phong phú.thể nói văn hoá gia đình môi
trường an toàn phong phú, trong đó trẻ được nuôi dưỡngdạy dỗ theo một
phương thức đặc biệt - phương thức gia đình - khác với phương thức nhà trường.
Tóm lại, văn hoá gia đình môi trường rất cần thiết cho trẻ thơ. Đó nền
văn hoá con người được tiếp cận sớm nhất, môi trường hội đầu tiên của
mỗi người, với một phương thức tác động rất phù hợp đối với quá trình hình thành
những cơ sở ban đầu của nhân cách con người. Đó chính là cuộc sống thực của trẻ.
2.2. Hoạt động động lực phương thức của sự phát triển tâm trẻ
em
- Tâm lý là sản phẩm của hoạt động:
+ Ngày nay quan niệm cho rằng: Tâm lý, nhân cách con người chỉ thể nảy
sinh, vận hành, phát triển và bộc lộ thông qua hoạt động, được thừa nhận rông rãi.
+ Các Mác quan niệm rằng: “Ý niệm chẳng qua vật chất được đem chuyển
vào trong đầu óc con người được cải biến đi trong đó”. Quan niệm này được
các nhà tâmhọc nghiên cứu diễn đạt một cách cụ thể. Bắt đầu từ nghiên
cứu của Vưgôtxki. Ông cho rằng: Hoạt động tâm (Hoạt động bên trong) của
mỗi người được xây dựng theo mẫu của hoạt động bên ngoài.
+ Vai trò của tính tích cực hoạt động của con người trong quá trình nhận thức
thế giới rất quan trọng. luôn một trong các điều kiện quyết định của
bất cứ hoạt động nào của trẻ sự phát triển nói chung. Kết quả của hoạt động
4
phụ thuộc vào tính tích cực, vào vai trò của nó đối với sự phát triển của trẻ. Ví dụ :
Có thể nói kết quả hoạt động còn phụ thuộc vào động cơ, hệ thống động cơ thứ bậc
sẽ tạo ra xu thế hoạt động, xu thế phát triển nhân cách.
+ Chính hệ thống động thứ bậc, động tạo ra khuynh hướng của hoạt
động khác nhau của các nhân, tạo ra nét đặc trương tâm lý, nhân cách của
từng trẻ.
- Hoạt động chủ đạo:
+ Cuộc sống một chuỗi hoạt động. Song những dạng hoạt động trong
giai đoạn này chủ đạo ý nghĩa lớn đối với sự phát triển tâm lý, nhân
cách, có những dạng hoạt động ít có ý nghĩa hơn đối với sự phát triển tâm lý, nhân
cách, những hoạt động giữ vai trò chủ yếu trong sự phát triển, những dạng
giữ vai trò phụ thuộc. Nhưng sự phát triển tâm phụ thuộc không phải vào
những hoạt động nói chung mà phụ thuộc chủ yếu vào hoạt động chủ đạo.
+ mỗi lứa tuổi một hoạt động chủ đạo nhất định, đó hoạt động
những đặc điểm sau đây:
. hoạt động đối tượng mới mẻ, chưa hề trước đó. Chính đối tượng
mới này tạo ra những cái mới (hay những cấu tạo mới) trong tâm lý, tức tạo ra
sự phát triển (theo đúng nghĩa của thuật ngữ này).
. hoạt động khả năng chi phối toàn bộ đời sống tâm lý trẻ. Những quá
trình tâm lý của trẻ được cải tổ, được tổ chức lại bằng hoạt động này.
. Là hoạt động có khả năng chi phối các hoạt động khác cùng diễn ra động thời
tạo ra những nét đặc trưng trong tâm lý của trẻ mỗi giai đoạn phát triển.
Chẳng hạn, hoạt động vui trơi của trẻ mẫu giáo trung tâmtrò chơi đóng vai
theo chủ đề, so với hoạt động chủ đạo của lứa tuổi ấu nhi (là hoạt động với đồ vật)
thì đối ợng mới, đó chức năng đối tượng của người lớn những, mối
quan hệ giữa họ với các kiểu ứng xử của con người.
Tóm lại: “Hoạt động chđạo đó hoạt động s phát triển của quy
định những biến đổi chủ yếu nhất trong trong các quá trình tâm lý và trong các đặc
điểm tâm lý của nhân cách đứa trẻ ở giai đoạn phát triển nhất định của nó”.
5
2.3. Giao tiếp là điều kiện của sự phát triển tâm lý trẻ em
Theo tâm học: Giao tiếp hoạt động xác lập, vận hành các mối quan hệ
giữa người với người nhằm thỏa mãn những nhu cầu nhất định.
Giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội.
- Giao tiếp điều kiện tồn tại của con người. Nếu không giao tiếp với
người khác thì con người không thể phát triển, cảm thấy cô đơn và có khi trở thành
bệnh hoạn.
- Nếu khônggiao tiếp thì khôngsự tồn tại hội, xã hội luônmột
cộng đồng người có sự ràng buộc, liên kết với nhau.
- Qua giao tiếp chúng ta thể xác định được các mức độ nhu cầu, tưởng,
tình cảm, vốn sống, kinh nghiệm…của đối tượng giao tiếp, nhờ đó mà chủ thể giao
tiếp đáp ứng kịp thời, phù hợp với mục đích và nhiệm vụ giao tiếp.
- Từ đó tạo thành các hình thức giao tiếp giữa nhân với nhân, giữa
nhân với nhóm, giữa nhóm với nhóm hoặc giữa nhóm với cộng đồng.
Ví dụ: Khi một con người sinh ra được chó sói nuôi, thì người đó sẽ có nhiều
lông, không đi thẳng đi bằng 4 chân, ăn thịt sống, sẽ sợ người, sống trong
hang và có những hành động, cách cư xử giống như tập tính của chó sói.
Giao tiếp là nhu cầu sớm nhất của con người từ khi tồn tại đến khi mất đi.
- Từ khi con người mới sinh ra đã có nhu cầu giao tiếp, nhằm thõa mãn những
nhu cầu của bản thân.
- Ở đâu có sự tồn tại của con người thì ở đó có sự giao tiếp giữa con người với
con người, giao tiếp là cơ chế bên trong của sự tồn tại và phát triển con người
- Để tham gia vào các quan hệhội, giao tiếp với người khác thì con người
phải có một cái tên, và phải có phương tiện để giao tiếp.
- Lớn lên con người phải có nghề nghiệp, mà nghề nghiệp do xã hội sinh ra và
quy định. Việc đào tạo, chuẩn bị tri thức cho nghề nghiệp phải tuân theo một quy
định cụ thể, khoa học… không học tập tiếp xúc với mọi người thì sẽ không
nghề nghiệp theo đúng nghĩa của nó, hơn nữa muốn hành nghề phải nghệ thuật
giao tiếp với mọi người thì mới thành đạt trong cuộc sống.
6
- Trong quá trình lao động con người không thể tránh được các mối quan hệ
với nhau. Đó một phương tiện quan trọng để giao tiếp một đặc trưng quan
trọng của con người là tiếng nói và ngôn ngữ.
- Giao tiếp giúp con người truyền đạt kinh nghiệm, thuyết phục, kích thích đối
tượng giao tiếp hoạt động, giải quyết các vấn đề trong học tập, sản xuất kinh
doanh, thỏa mãn những nhu cầu hứng thú, cảm xúc tạo ra.
- Qua giao tiếp giúp con người hiểu biết lẫn nhau, liên hệ với nhau làm
việc cùng nhau.
Ví dụ: Từ khi một đứa trẻ vừa mới sinh ra đã nhu cầu giao tiếp với ba mẹ
mọi người để được thỏa mãn nhu cầu an toàn, bảo vệ, chăm sóc được vui
chơi,…
Thông qua giao tiếp con người gia nhập vào các mối quan hệhội, lĩnh hội
nền văn hóa xã hội, đạo đức, chuẩn mực xã hội.
- Trong quá trình giao tiếp thì nhân điều chỉnh, điều khiển hành vi của
mình cho phù hợp với các chuẩn mực hội, quan hệ hội, phát huy những mặt
tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực.
- Cùng với hoạt động giao tiếp con người tiếp thu nền văn hóa, xã hội, lịch sử
biến những kinh nghiệm đó thành vốn sống. Kinh nghiệm của bản thân hình thành
phát triển trong đời sống tâm lý. Đồng thời góp phần vào sự phát triển của
hội.
- Nhiều nhà tâm học đã khẳng định, nếu không sự giao tiếp giữa con
người thì một đứa trẻ không thể phát triển tâm lý, nhân cách và ý thức tốt được.
- Nếu con người trong hội không giao tiếp với nhau thì sẽ không
một xã hội tiến bộ, con người tiến bộ.
- Nếu nhân không giao tiếp với hội thì nhân đó sẽ không biết phải
làm những để cho phù hợp với chuẩn mực hội, nhân đó sẽ rơi vào tình
trạng cô đơn, cô lập về tinh thần và đời sống sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
- Trong khi giao tiếp với mọi người thì họ truyền đạt cho nhau những tư tưởng
, tình cảm, thấu hiểu điều kiện tiếp thu được những tinh hoa văn hóa nhân
loại, biết cách ứng xử như thế nào là phù hợp với chuẩn mực xã hội.
7
dụ: Khi gặp người lớn tuổi hơn mình thì phải chào hỏi, phải xưng cho
đúng mực, phải biết tôn trọng tất cả mọi người, dù họ là ai đi chăng nữa, phải luôn
luôn thể hiện mình là người có văn hóa, đạo đức.
Thông qua giao tiếp con người hình thành năng lực tự ý thức.
- Trong quá trình giao tiếp, con người nhận thức đánh giá bản thân mình trên
sở nhận thức đánh giá người khác. Theo cách này họ xu hướng tìm kiếm
người khác để xem ý kiến của mình đúng không, thừa nhận không. Trên sở
đó họ sự tự điều chỉnh, điều khiển hành vi của mình theo hướng tăng cường
hoặc giảm bớt sự thích ứng lẫn nhau.
- Tự ý thức là điều kiện trở thành chủ thể hành động độc lập, chủ thể xã hội.
- Thông qua giao tiếp thì nhân tự điều chỉnh, điều khiển hành vi theo mục
đích tự giác.
- Thông qua giao tiếp thì nhân khả năng tự giáo dục tự hoàn thiện
mình.
- nhân tự nhận thức về bản thân mình từ bên ngoài đến nội tâm, tâm hồn,
những diễn biến tâm lý, giá trị tinh thần của bản thân, vị thế và các quan hệ xã hội.
- Khi một cá nhân đã tự ý thức được thì khi ra xã hội họ thường nhìn nhận
so sánh mình với người khác xem họ hơn người khác điểm nào yếu hơn
điểm nào, để nổ lực phấn đấu, phát huy nhũng mặt tích cực hạn chế những
mặt yếu kém.
- Nếu không giao tiếp nhân đó sẽ không biết những mình làm được
xã hội chấp nhận không, có đúng với những xã hội đang cần duy trì và phát
huy hay không.
- Nếu con người khi sinh ra mà bị bỏ rơi, mà được động vật nuôi thì những cử
chỉ hành động của nuôi bản thân con người đó sẽ giống như cử chỉ hành
động của con vật mà đã nuôi bản thân con người đó.
Ví dụ: Khi tham gia vào các hoạt động xã hội thì cá nhân nhận thức mình nên
làm những không nên làm những việc như: nên giúp đỡ những người gặp
hoàn cảnh khó khăn, tham gia vào các hoạt động tình nguyện, không được tham
8
gia các tệ nạn hội, chỉ được phép tuyên truyền mọi người về tác hại của chúng
đối với bản thân, gia đình và xã hội.
Hoặc khi tham dự một đám tang thì mọi người ý thức được rằng phải ăn mặc
lịch sự, không nên cười đùa. Bên cạnh đó phải tỏ lòng thương tiết đối với người đã
khuất và gia đình họ.
3. KẾT LUẬN
Người lớn trung tâm của mọi tình huống đứa trẻ trong đó. Càng
về sau mối liên hệ càng sâu sắc trở lên tinh tế hơn, đa dạng hơn ới
những hình thức phức tạp hơn. Người lớn là người cụ thể mang trong mình tất cả
những trong quá trình sống trẻ phải lĩnh hội được. Chỉ thông qua người
lớn nhờ người lớn trẻ mới lĩnh hội được toàn bộ sự phong phú của thực
tại: Thế giới đồ vật với cách sử dụng chúng, kho tàng ngôn ngữ những năng lực
phẩm chất người.
Để quá trình giáo dục mang lại hiệu quả cao thì người ta cần nghiên cứu xác
định xem dạy trẻ những cái dạy như thế nào các giai đoạn khác nhau của
tuổi ấu thơ. Đứa trẻ phát triển được nhờ quá trìnhnh hội kinh nghiệm lịch
sử xã hội mà chính giáo dục đã truyền thụ cho trẻ những kinh nghiệm đó. Vấn đề
mối quan hệ tương hỗ giữa giáo dục phát triển của trẻ được các nhà tâm
học theo trường phái khác nhau giải quyết không giống nhau. Giáo dục còn tác
động qua lại rất mật thiết với tất cả những ảnh hưởng xuất phát từ môi trường,
nắm vai trò, chủ đạo trong việc sử dụng các điều kiện xã hội thuận lợi, cũng
như trong việc loại trừ làm suy yếu những ảnh hưởng tác động bất lợi bắt
nguồn trong một strường hợp từ i trường trẻ sống. Nhà giáo dục có thể
tạo ra những điều kiện tốt giúp trẻ phát triển thuận lợi.
Giáo dục thể định ớng phát triển tâm trẻ em, chính vậy giáo dục
phải đưa ra những hình thức hoạt động nhất định tổ chức sao cho thể
hình thành trẻ những phẩm chất tâm cần thiết thể điều chỉnh
những nét tâmđã hình thành trước đây. thể nói nhà giáo dục giỏi nhà tổ
chức hoạt động giỏi. Muốn phát triển tâm cho trẻ không còn cách nào ngoài
9
việc tổ chức mọi hoạt động cho trẻ được tốt. Chúng ta đánh giá cao vai trò giáo
dục song chúng ta không cho “giáo dục là vạn năng”.
PHẦN II. CHỦ ĐỀ 2
(Phân tích thực trạng dạy học 2 buổi/ngày ở Trường Tiểu học mà
anh/chị đang công tác, từ đó đề xuất một số biện pháp nâng cao chất lượng,
hiệu quả tổ chức dạy học 2 buổi/ngày ở đó)
1. MỞ ĐẦU
Dạy học 2 buổi trên ngày nhu cầu thực tế của hội. Từ những lợi ích
trong việc dạy học 2 buổi/ ngày mang lại cho thấy đây cách thức tất yếu cần
được duy trì, phát triển cấp Tiểu học. Tuy vậy, những vấn đề tồn tại của dạy
học 2 buổi/ ngày cũng cần được nghiên cứu tìm kiếm giải pháp tháo gỡ. Trong
đó, thực trạng lớn nhất của việc dạy học 2 buổi/ ngày đó buổi 2, giáo viên
hội tốt nhất để thực hiện việc dạy phân hoá HS, thời gian đắp lỗ hổng
kiến thức cho HS yếu, điều kiện tốt nhất để phát triển năng lực duy cho HS
khá giỏi. Ngoài ra,buổi 2, ta có thể tạo những sân chơi thật bổ ích cho việc phát
triển toàn diện nhân cách học sinh. Lâu nay, trong dạy học GV đã thực sự đổi mới
từ việc chọn nội dung, hình thức, thời lượng, đồ dùng dạy học, cách đánh giá,…
cho phù hợp với đối tượng nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Song hầu như GV
đã giành hết thời gian và tâm huyết cho dạy học buổi 1 (Buổi dạy học các tiết được
cấu sẵn trong chương trình), còn vấn đề dạy học buổi 2 chưa được nhiều GV
quan tâm, không ít GV xem nhẹ hình thức dạy học buổi 2, nhiều GV xem buổi 2
như là giờ tự học, tự làm bài tập, tự kiểm tra kiến thức, kỹ năng của HS. Bên cạnh
một số tiết dạy học buổi 2 thực sự có hiệu quả thì có không ít những tiết dạy ở buổi
2 GV giao cho HS một số bài tập đồng loạt HS giải quyết hết các bài tập đó hết
nhiệm vụ của tiết học. Còn trong tiết đó, bao nhiêu HS cần rèn kiến thức, kỹ năng
gì? Cần rèn đến đâu? Các em hứng thú học không? nhu cầu học hay không
thì GV ít chú ý đến nên phần nào chất lượng dạy học buổi 2 hiệu quả chưa cao.
Từ thực tế vừa nêu, cùng với kinh nghiệm dạy học bậc Tiểu học trong
những năm qua, tôi nhận thấy việc tìm ra “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất
lượng dạy học 2 buổi/ngày tại Trường TH ……” là vấn đề mang tính cấp thiết.
10
2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.1. Thực trạng dạy học 2 buổi/ ngày tại trường TH …..
Trong thực tế dạy học, có lúc GV còn ngại khi lên lớp buổi 2. GV chưa tự tin
với việc lựa chọn nội dung, hình thức, phương pháp dạy. Hình thức dạy buổi 2
chưa phong phú, chưa hấp dẫn, chưa tạo cho HS thích học và say học. Một số tiết
chưa dạy theo nhu cầu của HS, chưa giúp được HS yếu rèn kiến thức, kỹ năng; HS
giỏi chưa có nhiệm vụ riêng, HS cá biệt chưa được quan tâm đúng mức nên nề nếp
lớp học chưa nghiêm túc, không khí lớp học chưa sôi nổi, HS chán học, hiệu quả
không cao.
11
Thực trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, song về bản gồm các
nguyên nhân sau:
- :Về phía giáo viên
+ Trước đây, xuất phát từ quan niệm SGK, phân phối chương trình “pháp
lệnh” cho nên trong quá trình dạy, GV tập trung dạy sao cho hết kiến thức, bài tập
ở SGK, việc đưa nội dung cho phù hợp với từng đối tượng là rất ít.
+ GV hiểu máy móc tinh thần chỉ đạo, không đưa thêm nội dung, kiến thức
mới vào dạy buổi 2 mà chủ yếu là khai thác kiến thức đã có trong SGK, củng cố và
rèn luyện các kiến thức kỹ năng đã học. Vậy trong dạy học buổi 2 GV chưa
mạnh dạn đưa các loại bài phù hợp với từng đối tượng HS.
+ Thời gian giành cho việc soạn bài của GV Tiểu học bị hạn chế. dạy học
buổi 2 không có những thiết kế bài soạn sẵn cho từng tiết cho giáo viên tham khảo
nên để thiết kế được những giáo án buổi 2 thực sự phù hợp với các đối tượng
phương pháp, hình thức dạy học phong phú đòi hỏi giáo viên phải thực sự dày
công. Trong khi đó, cường độ lao động của giáo viên Tiểu học cao, thời gian hạn
chế (giáo viên đi dạy thể đến 8 buổi/tuần, sinh hoạt chuyên môn, hoạt động
công tác đoàn thể, lao động cùng học sinh, phụ đạo học sinh yếu, bồi dưỡng học
sinh giỏi,...). Vì vậy việc tiếp cận thông tin mới, việc nghiên cứu các tài liệu, soạn
giáo án có phần hạn chế.
+ Trong những năm gần đây, ngành Giáo dục đã chỉ đạo mạnh mẽ, sát sao về
vấn đề tự chủ trong dạy học. GV đã linh hoạt, chủ động chọn nội dung, thời lượng,
phương pháp. Thế nhưng không tránh khỏi một số buổi 2, các tiết tự chọn, năng
khiếu được cơ cấu cứng nên việc điều chỉnh thời lượng một số tiết không thực hiện
được.
+ Có giáo viên không dạy buổi 1 ở lớp đó nên học sinh nào nắm kiến thức kỹ
năng nào ở mức độ nào, buổi 2 cần rèn cho em đó đến đâu là chưa thực sự sát bằng
giáo viên chủ nhiệm.
12
+ những GV rất tâm huyết với nghề, rất yêu trẻ nhưng chưa thực sự gần
gũi, thân thiện, chưa biết thuyết phục trẻ bằng tình cảm, chưa tạo niềm tinchưa
gây hứng thú cũng như nhu cầu học cho trẻ, nhất HS yếu. Đó những GV
năng lực phạm chưa cao, không khả năng tổ chức các hoạt động sôi nổi khi
lên lớp nên HS chán học.
- :Về phía học sinh
+ Lớp nào cũng đủ các loại đối tượng HS như (giỏi, khá, trung bình, yếu,
khuyết tật, cá biệt) nên khi thiết kế bài dạy, lên lớp gặp nhiều khó khăn.
+ Còn một bộ phận HS yếu, gia đình không quan tâm. Những học sinh này rất
ngại học chóng chán, lại, nhiều em làm ảnh hưởng đến nề nếp không khí lớp
học.
+ một số lớp không bán trú, số buổi học học sinh tham gia học tăng
thêm không đồng đều. Muốn dạy tốt cho số HS này, GV phải thiết kế nội dung
nhiệm vụ riêng cho phù hợp để củng cố kiến thức rèn luyện kỹ năng cho các
em.
- :Về nhà trường
+ Điều kiện về sở vật chất, tài liệu phục vụ cho dạy học theo pháp mới
chưa đáp ứng được yêu cầu (bàn ghế chưa đạt chuẩn, thiếu các phương tiện nghe
nhìn,...).
+ Cảnh quan môi trường chưa thật đẹp.
Tóm lại: Rất nhiều nguyên nhân dẫn đến chất lượng dạy học buổi 2 chưa cao.
tui tìm ra một số giải pháp để khắc phục những khó khăn đó, nâng cao chất lượng
dạy học buổi 2 nhằm góp phần thực hiện tốt mục tiêu giáo dục.
2.2. Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy 2 buổi/ngày
* Giải pháp 1: Nâng cao nhận thức giáo viên:
- Mỗi giáo viên phải nắm bắt, hiểu thấu đáo nội dung và tinh thần chỉ đạo của
ngành về vấn đề tự chủ, linh hoạt, sáng tạo trong dạy học; về lựa chọn nội dung để
phù hợp đối tượng và đảm bảo chuẩn kiến thức và kỹ năng của từng lớp theo quyết
định 16/2006-BGD&ĐT và ý thực được trách nhiệm của mình khi thực hiện công
văn đó.
13
- Giáo viên phải hiểu về mục tiêu, nguyên tắc của dạy học buổi 2 để từ đó
định hướng cho những thiết kế bài dạy phù hợp. Hiện nay, GV phải quan niệm
SGK, phân phối chương trình thể sử dụng một cách linh hoạt nên khoảng sáng
tạo hợp lý của GV rất lớn.
- GV phải ý thức được rằng HS Tiểu học tiềm ẩn nhiều khả năng phát triển,
song do chưa kinh nghiệm về cuộc sống nên các em tiếp thu không chọn lọc.
Bởi vậy GV Tiểu học giữ vai trò quyết định đến sự phát triển đúng hướng của các
em, là nhân tố quyết định đối với chất lượng GD của mỗi lớp tiểu học, của từng HS
tiểu học. Hiểu điều đó để GV định hướng cho mình trong công tác chuẩn bị.
*Giải pháp 2: Dạy đến từng đối tượng HS, dạy theo nhu cầu người học một
cách hợp lý:
- Khi mọi đối tượng HS đều được học, mỗi một học sinh được giao từng công
việc cụ thể phù hợp với năng lực, sở trường thì các em sẽ hăng hái thực hiện,
không khí lớp học sôi nổi. Muốn đạt được mục tiêu này giáo viên phải:
+ Tìm hiểu, nắm bắt, phân loại đối tượng HS: Đâyviệc làm rất quan trọng,
bởi lẽ khi phân loại được HS của lớp, giáo viên đó hình dung ra nhóm học sinh nào
cần để giáo viên kế hoạch. Bởi thế, ngay từ đầu năm, giáo viên nên cho học
sinh chơi một trò chơi để giáo viên tìm hiểu về lịch, nhu cầu, năng lực, uy tín
HS.
+ Chọn nội dung cho phù hợp với từng nhóm đối tượng HS: Song song với
việc nắm bắt, phân loại học sinh, giáo viên phải quan tâm đến chuẩn kiến thức, kỹ
năng cần đạt của từng bài, từng phần trong từng tiết học chính khóa buổi 1. Với
nội dung đó, buổi 2 học sinh TB, yếu cần luyện kỹ năng gì. Em nào chưa nắm
được chuẩn? Em nào hổng kiến thức kỹ năng gì? Do nguyên nhân nào, cần đưa nội
dung vào dạy với lượng bài bao nhiêu còn HS khá giỏi cần mở rộng, khắc sâu
hay nâng cao đến đâu. Nên đưa dạng bài nào vào dạy phần nào hợp lý, tạo
được điều kiện tốt nhất cho các em được cọ xát, phát triển năng khiếu.
Trong thực tế lên lớp, có những đơn vị kiến thức khi dạy buổi 2 HS trung bình, yếu
các em luyện để đạt chuẩn vững chắc một cách tự giác, hứng thú với nhiều biện
pháp của giáo viên là xem như thành công. Còn nhóm HS khá, giỏi các em đó nắm
14
chắc kiến thức bản thì nhiệm vụ của giáo viên không được ép các em làm
thui chột năng khiếu của HS. Lúc này giáo viên phải tạo cho các em hội được
tiếp xúc, được làm quen, được chủ động chiếm lĩnh kiến thức mức độ cao hơn.
Điều đó đặt ra cho giáo viên phải chọn nội dung phù hợp với từng đối tượng.
* Giải pháp 3: :Đa dạng hóa các hình thức dạy học
Khi lên lớp dạy học buổi 2 nếu hình thức dạy học đơn điệu, cùng kiệt nàn,
học sinh sẽ rất ngại học, chán học. Bởi thế, bên cạnh việc chủ động chọn nội dung,
thời lượng thích hợp thì giáo viên quan tâm đến việc làm phong phú các hình thức
dạy học nhằm chống chán, tạo nhu cầu học cho học sinh để phát huy tốt nhất
vai trò chủ động sáng tạo, ý thức tự học, tự rèn của học sinh. Chẳng hạn, trong một
tiết học buổi 2, giáo viên thể đan xen giữa hình thức học nhân, học nhóm,
học cả lớp, thay đổi giữa các bài tập dạng trắc nghiệm, bài tập tự luận, câu đố, xen
kẽ giữa việc dùng các đồ dùng học tập như bảng con, phiếu bài tập, vở ô ly,…Cụ
thể 1 số tiết trên lớp, cụ thể 1 số tiết ngoài không gian phòng học, hay qua các
sân chơi trí tuệ, qua các cuộc thi,…Thế nhưng dù ở hình thức nào, dù phương pháp
nào cũng cần đảm bảo:
+ Không ảnh hưởng đến thời lượng các tiết đó được cơ cấu cứng ở buổi 2.
+ Tạo niềm tin, ổn định tâm lý, tạo tâm thế, nhu cầu học cho học sinh.
+ Cách thức dạy học kết hợp nghệ thuật chủ nhiệm phù hợp với tính cách,
năng lực, đặc điểm tâm lý, hoàn cảnh từng học sinh để mọi học sinh đều thích học.
* Giải pháp 4: Mạnh dạn điều chỉnh thời lượng, kết hợp đan xen các tiết học
một cách hợp lý, tích hợp các kiến thức ở các lĩnh vực qua các sân chơi trí tuệ cho
HS:
- Ngoài những tiết Ôn luyện riêng biệt cho từng phân môn GV đó linh
hoạt chọn các phương pháp, đa dạng hóa các hình thức lên lớp thì việc tạo những
sân chơi trí tuệ cho HS cũng cùng quan trọng bởi lúc đó các em được ôn kiến
thức, được luyện kỹ năng, được phát triển toàn diện trong không khí thi đua sôi
nổi, vui tươi, lành mạnh. Thực tế, thời khóa biểu nhà trường đó xây dựng nhằm
đảm bảo mục tiêu giáo dục toàn diện cho HS rất cụ thể cho từng lớp. Song, trong
quá trình dạy học buổi 2, một số buổi học (có thể 1 tháng 1 lần) ta thể đan
15
xen các tiết vào nhau, xâu chuỗi các tiết tạo thành 1 buổi sinh hoạt câu lạc bộ (câu
lạc bộ toán học, câu lạc bộ âm nhạc, câu lạc bộ mỹ thuật...), 1 buổi sinh hoạt ngoài
giờ lên lớp, 1 sân chơi trí tuệ cho HS rất thú vị và hiệu quả.
3. KẾT LUẬN
Để nâng cao hiệu quả hoạt động dạy học 2 buổi/ ngày cần sự hỗ trợ, hợp tác
và quan tâm của nhà quan lí, do đó chúng tôi đề xuất một số vấn đề sau:
- : Chỉ đạo phối hợp tốt các lực lượng giáo dục, làm tốtĐối với nhà trường
công táchội hoá giáo dục để tranh thủ được sự hỗ trợ của nhiều lực lượng phối
hợp giáo dục và tranh thủ được kinh phí cho hoạt động dạy học, mua sắm thêm cơ
sở vật chất, xây dựng môi trường phạm thân thiện. Trong sinh hoạt Tổ chuyên
môn, trường phải hỗ trợ, vấn thêm về nội dung, hình thức, chỉ đạo sát hơn nữa
đến vấn đề dạy học linh hoạt, sáng tạo đặc biệt đối với buổi 2. Khi xây dựng thời
khoá biểu, nhà trường nên tham khảo ý kiến của nhiều giáo viên. Thời khoá biểu
(cả buổi 1 và buổi 2) cần được xây dựng trên cơ sở thực tế và có thể thực hiện một
cách linh hoạt.
- : Tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị dạy học có chấtĐối với ngành giáo dục
lượng. Tập huấn cho CBQL, CTV thanh tra về đánh giá xếp loại giờ dạy để mỗi
lần cán bộ quản đi kiểm tra, thanh tra các trường phải linh hoạt. Người làm
công tác kiểm tra, đánh giá phải ghi nhận sự cố gắng của giáo viên để GV tự tin
hơn trong dạy học, nhất dạy học buổi; Tăng thêm biên chế cho các nhà trường
nhằm giảm bớt số buổi lên lớp để giáo viên có thời gian nghiên cứu, soạn bài nhiều
hơn.
III. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn ánh Tuyết (1999), Tâm lí học trẻ em, Nhà xuất bản Giáo dục.
2. Trần Trọng Thuỷ (2002), Bài tập thực hành Tâm lý học, Nhà xuất bản Đại
học Quốc gia Hà Nội.
3. Phạm Minh Hạc (chủ biên): Tâm lý học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1982.
4. Trần Hiệp (chủ biên): Tâm học hội, Nxb Khoa họchội, Hà Nội,
1997.
16
5. Tài liệu dạy học 2 buổi/ngày, NXB giáo dục, 2019.
17
| 1/19

Preview text:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP HỌC PHẦN
TÂM LÝ HỌC – GIÁO DỤC HỌC TIỂU HỌC Người thực hiện: Mã học viên Lớp:
Giảng viên hướng dẫn: NGHỆ AN – 2021 I. MỤC LỤC
II. NỘI DUNG.......................................................................................................1
PHẦN I. CHỦ ĐỀ 1..............................................................................................1
1. MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU.............................................................................2
2.1. Sự phát triển tâm lý của trẻ em được thực hiện theo cơ chế di sản xã hội.....2
2.2. Hoạt động là động lực và phương thức của sự phát triển tâm lý trẻ em........2
2.3. Giao tiếp là điều kiện của sự phát triển tâm lý trẻ em....................................2
3. KẾT LUẬN.......................................................................................................5
PHẦN II. CHỦ ĐỀ 2.............................................................................................6
1. MỞ ĐẦU...........................................................................................................6
2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU.............................................................................7
2.1. Thực trạng dạy học 2 buổi/ ngày tại trường TH …........................................7
2.2. Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy 2 buổi/ngày................................8
3. KẾT LUẬN.....................................................................................................10
III. TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................11 II. NỘI DUNG PHẦN I. CHỦ ĐỀ 1
(Anh chị hãy giải thích và lấy ví dụ thực tế của hoạt động dạy học ở
Trường Tiểu học để chứng minh các luận điểm: Sự phát triển tâm lý của trẻ
em được thực hiện theo cơ chế di sản xã hội; Hoạt động là động lực và
phương thức của sự phát triển tâm lý trẻ em; Giao tiếp là điều kiện của sự
phát triển tâm lý trẻ em) 1. MỞ ĐẦU
Sự phát triển tâm lý trẻ em là một quá trình trẻ em tích cực hoạt động để lĩnh
hội nền văn hóa xã hội loài người. L.x. Vưgốtxki đã đi sâu nghiên cứu về vai trò
của việc sử dụng các công cụ lao động ở người và nêu ra tư tưởng: việc sử dụng
các công cụ lao động dẫn đến sự biến đổi hành vi con người, khiến con người khác
với động vật. Sự khác biệt này thể hiện rõ nhất ở tính gián tiếp của hoạt động.
Trong hoạt động, con người biết sử dụng công cụ lao động và các kí hiệu (từ ngữ,
chữ số…). Công cụ hướng ra bên ngoài, tác động vào đối tượng nhằm biến đổi nó
phục vụ cho những nhu cầu của con người, còn kí hiệu hướng vào bên trong, tác
động đến hành vi con người, có vai trò điều khiển, điều chỉnh hành vi và hoạt động
của con người. Sự phát triển diễn ra trong chính quá trình con người nắm vững các
loại công cụ và các loại kí hiệu đó. Trải qua các giai đoạn phát triển, con người sử
dụng các loại ký hiệu để ghi lại những kinh nghiệm về các loại công cụ và cách
thức sử dụng chúng. Đó là kho tàng kinh nghiệm mang tính xã hội lịch sử của loài
người. Để phát triển, đứa trẻ phải tích cực lĩnh hội được những kinh nghiệm đó
thông qua hoạt động và giao tiếp. Nhưng đứa trẻ không tự lớn lên giữa môi trường
mà thông qua vai trò trung gian của người lớn. Người lớn truyền thụ những kinh
nghiệm đó bằng con đường đặc trưng là giáo dục (theo nghĩa rộng). Chính vì vậy,
L. X. Vưgôtxki coi giáo dục chiếm vị tri trung tâm hàng đầu trong toàn bộ hệ
thống tổ chức cuộc sống của trẻ em.
Việc nghiên cưu các yếu tố tác động đến sự phát triển tâm lý của trẻ em như:
tâm lý trẻ em được thực hiện theo cơ chế di sản xã hội; Hoạt động là động lực và 1
phương thức của sự phát triển tâm lý trẻ em; Giao tiếp là điều kiện của sự phát
triển tâm lý trẻ em, do đó rất quan trọng.
2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.1. Sự phát triển tâm lý của trẻ em được thực hiện theo cơ chế di sản xã hội
- Sự phát triển của trẻ em là quá trình lĩnh hội kinh nghiệm xã hội - lịch sử trong nền văn hóa:
+ Văn hoá là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Nói tới văn hoá là nói tới con người,
nói tới xã hội loài người cùng toàn bộ những thành tựu phát triển của nó.
+ Nền văn hoá xã hội chứa đựng toàn bộ kinh nghiệm xã hội - lịch sử
được loài người tạo ra trong suốt quá trình lịch sử.
+ Văn hoá thường được chia thành hai hình thái: Văn hoá vật thể và văn hoá
phi vật thể. Tuy nhiên sự phân chia như vậy chỉ mang tính ước lệ, tương đối.
+ Tâm lý học khoa học đã khẳng định: Sự phát triển của trẻ em, quá trình
nên người của trẻ chính là quá trình đứa trẻ đứa trẻ lĩnh hội những kinh nghiệm xã
hội - lịch sử được loài người sáng tạo ra và giữ lại trong nền văn hoá, bằng chính hoạt động của trẻ em.
- Vai trò của nền văn hoá xã hội đối với sự phát triển tâm lý của trẻ em:
+ Mối quan hệ giữa con người và văn hoá, hay vai trò của nền văn hoá xã hội
đối với sự phát triển tâm lý người là một vấn đề quan trọng trong lý luận văn hoá. 2
+ Xét về quá trình phát triển của một đứa trẻ, thì ngay từ khi ra đời, trẻ đã có
sẵn một thế giới văn hoá của của loài người, trẻ chưa phải là người sáng tạo ra
nó và cũng chưa thể biến đổi nó. Song nền văn hoá xã hội là nguồn gốc của sự
phát triển tâm lý của trẻ. Không được sống trong xã hội loài người thì đứa trẻ
không thể trở thành người. Khi sinh thành ra, đứa trẻ được thừa hưởng bộ não
người - cơ quan quan trọng nhất để phản ánh hiện thực khách quan làm nảy sinh vấn đề tâm lý.
+ Văn hoá tạo nên sự phát triển liên tục của lịch sử nhân loại và lịch sử
của mỗi dân tộc. Không bao giờ có thể cắt đứt con người với lịch sử, nên cũng
không thể tách con người với văn hoá. Vì văn hoá cũng là bản thân lịch sử của con
người, là cội nguồn của mỗi người. Với ý nghĩ đó, việc giáo dục con người bằng
văn hoá, bằng các giá trị và truyền thống văn hoá có vai trò rất quan trọng.
+ Trẻ sinh ra và phát triển tâm lý của nó bị khống chế bởi nền văn hoá mà nó
tiếp xúc, nền văn hoá xã hội, những kinh ngiệm lịch sử xã hội là nguồn gốc và nội
dung của sự phát triển tâm lý, văn hoá lạc hậu, chậm phát triển sản sinh ra những
con người lạc hậu, văn hoá hiện đại sẽ sản sinh ra những con người văn minh.
+ Loài người hình như không có sự đồng nhất không phải vì màu da, mái tóc,
đặc điểm của mắt mũi, mà vì có sự khác biệt khá lớn về điều kiện và cách sống,
về sự phong phú của hoạt động vật chất và tinh thần, về trình độ phát triển năng
lực tâm lý của họ khác nhau về văn hoá.
Như vậy, do điều kiện, hoàn cảnh kinh tế và tiến bộ xã hội khác biệt có thể
tạo nên trình độ phát triển khác nhau của trẻ em các dân tộc sống ở các miền khác
nhau trên thế giới và giữa các vùng trong cùng một đất nước.
- Đối với trẻ ở lứa tuổi Tiểu học thì văn hoá gia đình có một vai trò đặc biệt:
+ Lúc mới sinh ra, tất cả trẻ em đều được cha mẹ nuôi dưỡng trong tổ ấm,
đến một độ tuổi nào đó mới ra đời, mới hoà nhập được vào cộng đồng xã hội.
+ Tổ ấm của trẻ em là gia đình, là môi trường văn hoá được tạo dựng nên
trên cơ sở tình thương yêu, đùm bọc lẫn nhau của những người ruột thịt trong
gia đình - gọi là văn hoá gia đình. 3
+ Văn hoá gia đình là một môi trường đặc biệt rất phù hợp với sự phát
triển của trẻ thơ. Trước hết vì đó là môi trường an toàn, trong đó đứa trẻ lớn lên
bên cạnh những người ruột thịt, luôn được yêu thương ấp ủ, môi trường đó
tạo nên ở trẻ cảm giác an toàn về mặt tâm lý. Do trẻ luôn được chăm sóc nên
tạo ra ở trẻ cảm giác an toàn về mặt thể chất, nhờ có cảm giác an toàn đó, đứa trẻ
mới cảm thấy yên tâm, mới vui chơi hồn nhiên, mới mạnh dạn thăm dò, thử
nghiệm tìm cách tác động lên sự vật xung quanh để phát huy những khả năng về
tâm lý và sinh lý đang sinh sôi nảy nở. Mất đi cái cảm giác an toàn, đứa trẻ
luôn sợ hãi, dễ co mình lại, giảm tính tích cực năng động và thường xuyên rơi
vào tình trạng thụ động, buồn bã.
+ Gia đình còn là môi trường phong phú. Có thể nói văn hoá gia đình là môi
trường an toàn và phong phú, trong đó trẻ được nuôi dưỡng và dạy dỗ theo một
phương thức đặc biệt - phương thức gia đình - khác với phương thức nhà trường.
Tóm lại, văn hoá gia đình là môi trường rất cần thiết cho trẻ thơ. Đó là nền
văn hoá mà con người được tiếp cận sớm nhất, là môi trường xã hội đầu tiên của
mỗi người, với một phương thức tác động rất phù hợp đối với quá trình hình thành
những cơ sở ban đầu của nhân cách con người. Đó chính là cuộc sống thực của trẻ.
2.2. Hoạt động là động lực và phương thức của sự phát triển tâm lý trẻ em
- Tâm lý là sản phẩm của hoạt động:
+ Ngày nay quan niệm cho rằng: Tâm lý, nhân cách con người chỉ có thể nảy
sinh, vận hành, phát triển và bộc lộ thông qua hoạt động, được thừa nhận rông rãi.
+ Các Mác quan niệm rằng: “Ý niệm chẳng qua là vật chất được đem chuyển
vào trong đầu óc con người và được cải biến đi ở trong đó”. Quan niệm này được
các nhà tâm lý học nghiên cứu và diễn đạt nó một cách cụ thể. Bắt đầu từ nghiên
cứu của Vưgôtxki. Ông cho rằng: Hoạt động tâm lý (Hoạt động bên trong) của
mỗi người được xây dựng theo mẫu của hoạt động bên ngoài.
+ Vai trò của tính tích cực hoạt động của con người trong quá trình nhận thức
thế giới là rất quan trọng. Nó luôn là một trong các điều kiện quyết định của
bất cứ hoạt động nào của trẻ và sự phát triển nói chung. Kết quả của hoạt động 4
phụ thuộc vào tính tích cực, vào vai trò của nó đối với sự phát triển của trẻ. Ví dụ :
Có thể nói kết quả hoạt động còn phụ thuộc vào động cơ, hệ thống động cơ thứ bậc
sẽ tạo ra xu thế hoạt động, xu thế phát triển nhân cách.
+ Chính hệ thống động cơ thứ bậc, động cơ tạo ra khuynh hướng của hoạt
động khác nhau của các cá nhân, tạo ra nét đặc trương tâm lý, nhân cách của từng trẻ.
- Hoạt động chủ đạo:
+ Cuộc sống là một chuỗi hoạt động. Song có những dạng hoạt động trong
giai đoạn này là chủ đạo và có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển tâm lý, nhân
cách, có những dạng hoạt động ít có ý nghĩa hơn đối với sự phát triển tâm lý, nhân
cách, có những hoạt động giữ vai trò chủ yếu trong sự phát triển, có những dạng
giữ vai trò phụ thuộc. Nhưng sự phát triển tâm lý phụ thuộc không phải vào
những hoạt động nói chung mà phụ thuộc chủ yếu vào hoạt động chủ đạo.
+ Ở mỗi lứa tuổi có một hoạt động chủ đạo nhất định, đó là hoạt động có
những đặc điểm sau đây:
. Là hoạt động có đối tượng mới mẻ, chưa hề có trước đó. Chính đối tượng
mới này tạo ra những cái mới (hay những cấu tạo mới) trong tâm lý, tức là tạo ra
sự phát triển (theo đúng nghĩa của thuật ngữ này).
. Là hoạt động có khả năng chi phối toàn bộ đời sống tâm lý trẻ. Những quá
trình tâm lý của trẻ được cải tổ, được tổ chức lại bằng hoạt động này.
. Là hoạt động có khả năng chi phối các hoạt động khác cùng diễn ra động thời
và tạo ra những nét đặc trưng trong tâm lý của trẻ ở mỗi giai đoạn phát triển.
Chẳng hạn, hoạt động vui trơi của trẻ mẫu giáo mà trung tâm là trò chơi đóng vai
theo chủ đề, so với hoạt động chủ đạo của lứa tuổi ấu nhi (là hoạt động với đồ vật)
thì nó có đối tượng mới, đó là chức năng đối tượng của người lớn và những, mối
quan hệ giữa họ với các kiểu ứng xử của con người.
Tóm lại: “Hoạt động chủ đạo đó là hoạt động mà sự phát triển của nó quy
định những biến đổi chủ yếu nhất trong trong các quá trình tâm lý và trong các đặc
điểm tâm lý của nhân cách đứa trẻ ở giai đoạn phát triển nhất định của nó”. 5
2.3. Giao tiếp là điều kiện của sự phát triển tâm lý trẻ em
Theo tâm lý học: Giao tiếp là hoạt động xác lập, vận hành các mối quan hệ
giữa người với người nhằm thỏa mãn những nhu cầu nhất định.
Giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội.
- Giao tiếp là điều kiện tồn tại của con người. Nếu không có giao tiếp với
người khác thì con người không thể phát triển, cảm thấy cô đơn và có khi trở thành bệnh hoạn.
- Nếu không có giao tiếp thì không có sự tồn tại xã hội, vì xã hội luôn là một
cộng đồng người có sự ràng buộc, liên kết với nhau.
- Qua giao tiếp chúng ta có thể xác định được các mức độ nhu cầu, tư tưởng,
tình cảm, vốn sống, kinh nghiệm…của đối tượng giao tiếp, nhờ đó mà chủ thể giao
tiếp đáp ứng kịp thời, phù hợp với mục đích và nhiệm vụ giao tiếp.
- Từ đó tạo thành các hình thức giao tiếp giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá
nhân với nhóm, giữa nhóm với nhóm hoặc giữa nhóm với cộng đồng.
Ví dụ: Khi một con người sinh ra được chó sói nuôi, thì người đó sẽ có nhiều
lông, không đi thẳng mà đi bằng 4 chân, ăn thịt sống, sẽ sợ người, sống ở trong
hang và có những hành động, cách cư xử giống như tập tính của chó sói.
Giao tiếp là nhu cầu sớm nhất của con người từ khi tồn tại đến khi mất đi.
- Từ khi con người mới sinh ra đã có nhu cầu giao tiếp, nhằm thõa mãn những nhu cầu của bản thân.
- Ở đâu có sự tồn tại của con người thì ở đó có sự giao tiếp giữa con người với
con người, giao tiếp là cơ chế bên trong của sự tồn tại và phát triển con người
- Để tham gia vào các quan hệ xã hội, giao tiếp với người khác thì con người
phải có một cái tên, và phải có phương tiện để giao tiếp.
- Lớn lên con người phải có nghề nghiệp, mà nghề nghiệp do xã hội sinh ra và
quy định. Việc đào tạo, chuẩn bị tri thức cho nghề nghiệp phải tuân theo một quy
định cụ thể, khoa học… không học tập tiếp xúc với mọi người thì sẽ không có
nghề nghiệp theo đúng nghĩa của nó, hơn nữa muốn hành nghề phải có nghệ thuật
giao tiếp với mọi người thì mới thành đạt trong cuộc sống. 6
- Trong quá trình lao động con người không thể tránh được các mối quan hệ
với nhau. Đó là một phương tiện quan trọng để giao tiếp và một đặc trưng quan
trọng của con người là tiếng nói và ngôn ngữ.
- Giao tiếp giúp con người truyền đạt kinh nghiệm, thuyết phục, kích thích đối
tượng giao tiếp hoạt động, giải quyết các vấn đề trong học tập, sản xuất kinh
doanh, thỏa mãn những nhu cầu hứng thú, cảm xúc tạo ra.
- Qua giao tiếp giúp con người hiểu biết lẫn nhau, liên hệ với nhau và làm việc cùng nhau.
Ví dụ: Từ khi một đứa trẻ vừa mới sinh ra đã có nhu cầu giao tiếp với ba mẹ
và mọi người để được thỏa mãn nhu cầu an toàn, bảo vệ, chăm sóc và được vui chơi,…
Thông qua giao tiếp con người gia nhập vào các mối quan hệ xã hội, lĩnh hội
nền văn hóa xã hội, đạo đức, chuẩn mực xã hội.
- Trong quá trình giao tiếp thì cá nhân điều chỉnh, điều khiển hành vi của
mình cho phù hợp với các chuẩn mực xã hội, quan hệ xã hội, phát huy những mặt
tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực.
- Cùng với hoạt động giao tiếp con người tiếp thu nền văn hóa, xã hội, lịch sử
biến những kinh nghiệm đó thành vốn sống. Kinh nghiệm của bản thân hình thành
và phát triển trong đời sống tâm lý. Đồng thời góp phần vào sự phát triển của xã hội.
- Nhiều nhà tâm lý học đã khẳng định, nếu không có sự giao tiếp giữa con
người thì một đứa trẻ không thể phát triển tâm lý, nhân cách và ý thức tốt được.
- Nếu con người trong xã hội mà không giao tiếp với nhau thì sẽ không có
một xã hội tiến bộ, con người tiến bộ.
- Nếu cá nhân không giao tiếp với xã hội thì cá nhân đó sẽ không biết phải
làm những gì để cho phù hợp với chuẩn mực xã hội, cá nhân đó sẽ rơi vào tình
trạng cô đơn, cô lập về tinh thần và đời sống sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
- Trong khi giao tiếp với mọi người thì họ truyền đạt cho nhau những tư tưởng
, tình cảm, thấu hiểu và có điều kiện tiếp thu được những tinh hoa văn hóa nhân
loại, biết cách ứng xử như thế nào là phù hợp với chuẩn mực xã hội. 7
Ví dụ: Khi gặp người lớn tuổi hơn mình thì phải chào hỏi, phải xưng hô cho
đúng mực, phải biết tôn trọng tất cả mọi người, dù họ là ai đi chăng nữa, phải luôn
luôn thể hiện mình là người có văn hóa, đạo đức.
Thông qua giao tiếp con người hình thành năng lực tự ý thức.
- Trong quá trình giao tiếp, con người nhận thức đánh giá bản thân mình trên
cơ sở nhận thức đánh giá người khác. Theo cách này họ có xu hướng tìm kiếm ở
người khác để xem ý kiến của mình có đúng không, thừa nhận không. Trên cơ sở
đó họ có sự tự điều chỉnh, điều khiển hành vi của mình theo hướng tăng cường
hoặc giảm bớt sự thích ứng lẫn nhau.
- Tự ý thức là điều kiện trở thành chủ thể hành động độc lập, chủ thể xã hội.
- Thông qua giao tiếp thì cá nhân tự điều chỉnh, điều khiển hành vi theo mục đích tự giác.
- Thông qua giao tiếp thì cá nhân có khả năng tự giáo dục và tự hoàn thiện mình.
- Cá nhân tự nhận thức về bản thân mình từ bên ngoài đến nội tâm, tâm hồn,
những diễn biến tâm lý, giá trị tinh thần của bản thân, vị thế và các quan hệ xã hội.
- Khi một cá nhân đã tự ý thức được thì khi ra xã hội họ thường nhìn nhận và
so sánh mình với người khác xem họ hơn người khác ở điểm nào và yếu hơn ở
điểm nào, để nổ lực và phấn đấu, phát huy nhũng mặt tích cực và hạn chế những mặt yếu kém.
- Nếu không giao tiếp cá nhân đó sẽ không biết những gì mình làm có được
xã hội chấp nhận không, có đúng với những gì mà xã hội đang cần duy trì và phát huy hay không.
- Nếu con người khi sinh ra mà bị bỏ rơi, mà được động vật nuôi thì những cử
chỉ và hành động của nuôi bản thân con người đó sẽ giống như cử chỉ và hành
động của con vật mà đã nuôi bản thân con người đó.
Ví dụ: Khi tham gia vào các hoạt động xã hội thì cá nhân nhận thức mình nên
làm những gì và không nên làm những việc gì như: nên giúp đỡ những người gặp
hoàn cảnh khó khăn, tham gia vào các hoạt động tình nguyện, không được tham 8
gia các tệ nạn xã hội, chỉ được phép tuyên truyền mọi người về tác hại của chúng
đối với bản thân, gia đình và xã hội.
Hoặc khi tham dự một đám tang thì mọi người ý thức được rằng phải ăn mặc
lịch sự, không nên cười đùa. Bên cạnh đó phải tỏ lòng thương tiết đối với người đã khuất và gia đình họ. 3. KẾT LUẬN
Người lớn là trung tâm của mọi tình huống mà đứa trẻ ở trong đó. Càng
về sau mối liên hệ càng sâu sắc và trở lên tinh tế hơn, đa dạng hơn và dưới
những hình thức phức tạp hơn. Người lớn là người cụ thể mang trong mình tất cả
những gì mà trong quá trình sống trẻ phải lĩnh hội được. Chỉ thông qua người
lớn và nhờ có người lớn trẻ mới lĩnh hội được toàn bộ sự phong phú của thực
tại: Thế giới đồ vật với cách sử dụng chúng, kho tàng ngôn ngữ những năng lực phẩm chất người.
Để quá trình giáo dục mang lại hiệu quả cao thì người ta cần nghiên cứu xác
định xem dạy trẻ những cái gì và dạy như thế nào ở các giai đoạn khác nhau của
tuổi ấu thơ. Đứa trẻ phát triển được là nhờ có quá trình lĩnh hội kinh nghiệm lịch
sử xã hội mà chính giáo dục đã truyền thụ cho trẻ những kinh nghiệm đó. Vấn đề
mối quan hệ tương hỗ giữa giáo dục và phát triển của trẻ được các nhà tâm lí
học theo trường phái khác nhau giải quyết không giống nhau. Giáo dục còn tác
động qua lại rất mật thiết với tất cả những ảnh hưởng xuất phát từ môi trường,
nó nắm vai trò, chủ đạo trong việc sử dụng các điều kiện xã hội thuận lợi, cũng
như trong việc loại trừ làm suy yếu những ảnh hưởng và tác động bất lợi bắt
nguồn trong một số trường hợp từ môi trường mà trẻ sống. Nhà giáo dục có thể
tạo ra những điều kiện tốt giúp trẻ phát triển thuận lợi.
Giáo dục có thể định hướng phát triển tâm lý trẻ em, chính vì vậy giáo dục
phải đưa ra những hình thức hoạt động nhất định và tổ chức nó sao cho có thể
hình thành ở trẻ những phẩm chất tâm lý cần thiết và có thể điều chỉnh
những nét tâm lý đã hình thành trước đây. Có thể nói nhà giáo dục giỏi là nhà tổ
chức hoạt động giỏi. Muốn phát triển tâm lý cho trẻ không còn cách nào ngoài 9
việc tổ chức mọi hoạt động cho trẻ được tốt. Chúng ta đánh giá cao vai trò giáo
dục song chúng ta không cho “giáo dục là vạn năng”.
PHẦN II. CHỦ ĐỀ 2
(Phân tích thực trạng dạy học 2 buổi/ngày ở Trường Tiểu học mà
anh/chị đang công tác, từ đó đề xuất một số biện pháp nâng cao chất lượng,
hiệu quả tổ chức dạy học 2 buổi/ngày ở đó) 1. MỞ ĐẦU
Dạy học 2 buổi trên ngày là nhu cầu thực tế của xã hội. Từ những lợi ích
trong việc dạy học 2 buổi/ ngày mang lại cho thấy đây là cách thức tất yếu cần
được duy trì, phát triển ở cấp Tiểu học. Tuy vậy, những vấn đề tồn tại của dạy và
học 2 buổi/ ngày cũng cần được nghiên cứu và tìm kiếm giải pháp tháo gỡ. Trong
đó, thực trạng lớn nhất của việc dạy học 2 buổi/ ngày đó là ở buổi 2, giáo viên có
cơ hội tốt nhất để thực hiện việc dạy phân hoá HS, có thời gian bù đắp lỗ hổng
kiến thức cho HS yếu, có điều kiện tốt nhất để phát triển năng lực tư duy cho HS
khá giỏi. Ngoài ra, ở buổi 2, ta có thể tạo những sân chơi thật bổ ích cho việc phát
triển toàn diện nhân cách học sinh. Lâu nay, trong dạy học GV đã thực sự đổi mới
từ việc chọn nội dung, hình thức, thời lượng, đồ dùng dạy học, cách đánh giá,…
cho phù hợp với đối tượng nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Song hầu như GV
đã giành hết thời gian và tâm huyết cho dạy học buổi 1 (Buổi dạy học các tiết được
cơ cấu sẵn trong chương trình), còn vấn đề dạy học buổi 2 chưa được nhiều GV
quan tâm, không ít GV xem nhẹ hình thức dạy học buổi 2, nhiều GV xem buổi 2
như là giờ tự học, tự làm bài tập, tự kiểm tra kiến thức, kỹ năng của HS. Bên cạnh
một số tiết dạy học buổi 2 thực sự có hiệu quả thì có không ít những tiết dạy ở buổi
2 GV giao cho HS một số bài tập đồng loạt HS giải quyết hết các bài tập đó là hết
nhiệm vụ của tiết học. Còn trong tiết đó, bao nhiêu HS cần rèn kiến thức, kỹ năng
gì? Cần rèn đến đâu? Các em có hứng thú học không? Có nhu cầu học hay không
thì GV ít chú ý đến nên phần nào chất lượng dạy học buổi 2 hiệu quả chưa cao.
Từ thực tế vừa nêu, cùng với kinh nghiệm dạy học ở bậc Tiểu học trong
những năm qua, tôi nhận thấy việc tìm ra “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất
lượng dạy học 2 buổi/ngày tại Trường TH ……” là vấn đề mang tính cấp thiết. 10
2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.1. Thực trạng dạy học 2 buổi/ ngày tại trường TH …..
Trong thực tế dạy học, có lúc GV còn ngại khi lên lớp buổi 2. GV chưa tự tin
với việc lựa chọn nội dung, hình thức, phương pháp dạy. Hình thức dạy buổi 2
chưa phong phú, chưa hấp dẫn, chưa tạo cho HS thích học và say học. Một số tiết
chưa dạy theo nhu cầu của HS, chưa giúp được HS yếu rèn kiến thức, kỹ năng; HS
giỏi chưa có nhiệm vụ riêng, HS cá biệt chưa được quan tâm đúng mức nên nề nếp
lớp học chưa nghiêm túc, không khí lớp học chưa sôi nổi, HS chán học, hiệu quả không cao. 11
Thực trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, song về cơ bản gồm các nguyên nhân sau:
- Về phía giáo viên:
+ Trước đây, xuất phát từ quan niệm SGK, phân phối chương trình là “pháp
lệnh” cho nên trong quá trình dạy, GV tập trung dạy sao cho hết kiến thức, bài tập
ở SGK, việc đưa nội dung cho phù hợp với từng đối tượng là rất ít.
+ GV hiểu máy móc tinh thần chỉ đạo, không đưa thêm nội dung, kiến thức
mới vào dạy buổi 2 mà chủ yếu là khai thác kiến thức đã có trong SGK, củng cố và
rèn luyện các kiến thức kỹ năng đã học. Vậy là trong dạy học buổi 2 GV chưa
mạnh dạn đưa các loại bài phù hợp với từng đối tượng HS.
+ Thời gian giành cho việc soạn bài của GV Tiểu học bị hạn chế. Ở dạy học
buổi 2 không có những thiết kế bài soạn sẵn cho từng tiết cho giáo viên tham khảo
nên để thiết kế được những giáo án buổi 2 thực sự phù hợp với các đối tượng và
phương pháp, hình thức dạy học phong phú đòi hỏi giáo viên phải thực sự dày
công. Trong khi đó, cường độ lao động của giáo viên Tiểu học cao, thời gian hạn
chế (giáo viên đi dạy có thể đến 8 buổi/tuần, sinh hoạt chuyên môn, hoạt động
công tác đoàn thể, lao động cùng học sinh, phụ đạo học sinh yếu, bồi dưỡng học
sinh giỏi,...). Vì vậy việc tiếp cận thông tin mới, việc nghiên cứu các tài liệu, soạn
giáo án có phần hạn chế.
+ Trong những năm gần đây, ngành Giáo dục đã chỉ đạo mạnh mẽ, sát sao về
vấn đề tự chủ trong dạy học. GV đã linh hoạt, chủ động chọn nội dung, thời lượng,
phương pháp. Thế nhưng không tránh khỏi một số buổi 2, các tiết tự chọn, năng
khiếu được cơ cấu cứng nên việc điều chỉnh thời lượng một số tiết không thực hiện được.
+ Có giáo viên không dạy buổi 1 ở lớp đó nên học sinh nào nắm kiến thức kỹ
năng nào ở mức độ nào, buổi 2 cần rèn cho em đó đến đâu là chưa thực sự sát bằng giáo viên chủ nhiệm. 12
+ Có những GV rất tâm huyết với nghề, rất yêu trẻ nhưng chưa thực sự gần
gũi, thân thiện, chưa biết thuyết phục trẻ bằng tình cảm, chưa tạo niềm tin và chưa
gây hứng thú cũng như nhu cầu học cho trẻ, nhất là HS yếu. Đó là những GV có
năng lực sư phạm chưa cao, không có khả năng tổ chức các hoạt động sôi nổi khi
lên lớp nên HS chán học.
- Về phía học sinh:
+ Lớp nào cũng có đủ các loại đối tượng HS như (giỏi, khá, trung bình, yếu,
khuyết tật, cá biệt) nên khi thiết kế bài dạy, lên lớp gặp nhiều khó khăn.
+ Còn một bộ phận HS yếu, gia đình không quan tâm. Những học sinh này rất
ngại học chóng chán, ỷ lại, nhiều em làm ảnh hưởng đến nề nếp và không khí lớp học.
+ Ở một số lớp không bán trú, số buổi học mà học sinh tham gia học tăng
thêm không đồng đều. Muốn dạy tốt cho số HS này, GV phải thiết kế nội dung và
nhiệm vụ riêng cho phù hợp để củng cố kiến thức và rèn luyện kỹ năng cho các em. - Về nhà trường:
+ Điều kiện về cơ sở vật chất, tài liệu phục vụ cho dạy học theo pháp mới
chưa đáp ứng được yêu cầu (bàn ghế chưa đạt chuẩn, thiếu các phương tiện nghe nhìn,...).
+ Cảnh quan môi trường chưa thật đẹp.
Tóm lại: Rất nhiều nguyên nhân dẫn đến chất lượng dạy học buổi 2 chưa cao.
tui tìm ra một số giải pháp để khắc phục những khó khăn đó, nâng cao chất lượng
dạy học buổi 2 nhằm góp phần thực hiện tốt mục tiêu giáo dục.
2.2. Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy 2 buổi/ngày
* Giải pháp 1: Nâng cao nhận thức giáo viên:
- Mỗi giáo viên phải nắm bắt, hiểu thấu đáo nội dung và tinh thần chỉ đạo của
ngành về vấn đề tự chủ, linh hoạt, sáng tạo trong dạy học; về lựa chọn nội dung để
phù hợp đối tượng và đảm bảo chuẩn kiến thức và kỹ năng của từng lớp theo quyết
định 16/2006-BGD&ĐT và ý thực được trách nhiệm của mình khi thực hiện công văn đó. 13
- Giáo viên phải hiểu về mục tiêu, nguyên tắc của dạy học buổi 2 để từ đó
định hướng cho những thiết kế bài dạy phù hợp. Hiện nay, GV phải quan niệm
SGK, phân phối chương trình có thể sử dụng một cách linh hoạt nên khoảng sáng
tạo hợp lý của GV rất lớn.
- GV phải ý thức được rằng HS Tiểu học tiềm ẩn nhiều khả năng phát triển,
song do chưa có kinh nghiệm về cuộc sống nên các em tiếp thu không chọn lọc.
Bởi vậy GV Tiểu học giữ vai trò quyết định đến sự phát triển đúng hướng của các
em, là nhân tố quyết định đối với chất lượng GD của mỗi lớp tiểu học, của từng HS
tiểu học. Hiểu điều đó để GV định hướng cho mình trong công tác chuẩn bị.
*Giải pháp 2: Dạy đến từng đối tượng HS, dạy theo nhu cầu người học một cách hợp lý:
- Khi mọi đối tượng HS đều được học, mỗi một học sinh được giao từng công
việc cụ thể phù hợp với năng lực, sở trường thì các em sẽ hăng hái thực hiện,
không khí lớp học sôi nổi. Muốn đạt được mục tiêu này giáo viên phải:
+ Tìm hiểu, nắm bắt, phân loại đối tượng HS: Đây là việc làm rất quan trọng,
bởi lẽ khi phân loại được HS của lớp, giáo viên đó hình dung ra nhóm học sinh nào
cần gì để giáo viên có kế hoạch. Bởi thế, ngay từ đầu năm, giáo viên nên cho học
sinh chơi một trò chơi để giáo viên tìm hiểu về lý lịch, nhu cầu, năng lực, uy tín HS.
+ Chọn nội dung cho phù hợp với từng nhóm đối tượng HS: Song song với
việc nắm bắt, phân loại học sinh, giáo viên phải quan tâm đến chuẩn kiến thức, kỹ
năng cần đạt của từng bài, từng phần trong từng tiết học chính khóa ở buổi 1. Với
nội dung đó, ở buổi 2 học sinh TB, yếu cần luyện kỹ năng gì. Em nào chưa nắm
được chuẩn? Em nào hổng kiến thức kỹ năng gì? Do nguyên nhân nào, cần đưa nội
dung vào dạy và với lượng bài bao nhiêu còn HS khá giỏi cần mở rộng, khắc sâu
hay nâng cao đến đâu. Nên đưa dạng bài nào vào dạy ở phần nào là hợp lý, là tạo
được điều kiện tốt nhất cho các em được cọ xát, phát triển năng khiếu.
Trong thực tế lên lớp, có những đơn vị kiến thức khi dạy buổi 2 HS trung bình, yếu
các em luyện để đạt chuẩn vững chắc một cách tự giác, hứng thú với nhiều biện
pháp của giáo viên là xem như thành công. Còn nhóm HS khá, giỏi các em đó nắm 14
chắc kiến thức cơ bản thì nhiệm vụ của giáo viên không được gò ép các em làm
thui chột năng khiếu của HS. Lúc này giáo viên phải tạo cho các em cơ hội được
tiếp xúc, được làm quen, được chủ động chiếm lĩnh kiến thức ở mức độ cao hơn.
Điều đó đặt ra cho giáo viên phải chọn nội dung phù hợp với từng đối tượng.
* Giải pháp 3: Đa dạng hóa các hình thức dạy học:
Khi lên lớp dạy học ở buổi 2 nếu hình thức dạy học đơn điệu, cùng kiệt nàn,
học sinh sẽ rất ngại học, chán học. Bởi thế, bên cạnh việc chủ động chọn nội dung,
thời lượng thích hợp thì giáo viên quan tâm đến việc làm phong phú các hình thức
dạy học nhằm chống chán, tạo nhu cầu học cho học sinh và để phát huy tốt nhất
vai trò chủ động sáng tạo, ý thức tự học, tự rèn của học sinh. Chẳng hạn, trong một
tiết học buổi 2, giáo viên có thể đan xen giữa hình thức học cá nhân, học nhóm,
học cả lớp, thay đổi giữa các bài tập dạng trắc nghiệm, bài tập tự luận, câu đố, xen
kẽ giữa việc dùng các đồ dùng học tập như bảng con, phiếu bài tập, vở ô ly,…Cụ
thể 1 số tiết trên lớp, cụ thể có 1 số tiết ngoài không gian phòng học, hay qua các
sân chơi trí tuệ, qua các cuộc thi,…Thế nhưng dù ở hình thức nào, dù phương pháp nào cũng cần đảm bảo:
+ Không ảnh hưởng đến thời lượng các tiết đó được cơ cấu cứng ở buổi 2.
+ Tạo niềm tin, ổn định tâm lý, tạo tâm thế, nhu cầu học cho học sinh.
+ Cách thức dạy học kết hợp nghệ thuật chủ nhiệm phù hợp với tính cách,
năng lực, đặc điểm tâm lý, hoàn cảnh từng học sinh để mọi học sinh đều thích học.
* Giải pháp 4: Mạnh dạn điều chỉnh thời lượng, kết hợp đan xen các tiết học
một cách hợp lý, tích hợp các kiến thức ở các lĩnh vực qua các sân chơi trí tuệ cho HS:
- Ngoài những tiết Ôn luyện riêng biệt cho từng phân môn mà GV đó linh
hoạt chọn các phương pháp, đa dạng hóa các hình thức lên lớp thì việc tạo những
sân chơi trí tuệ cho HS cũng vô cùng quan trọng bởi lúc đó các em được ôn kiến
thức, được luyện kỹ năng, được phát triển toàn diện trong không khí thi đua sôi
nổi, vui tươi, lành mạnh. Thực tế, thời khóa biểu nhà trường đó xây dựng nhằm
đảm bảo mục tiêu giáo dục toàn diện cho HS rất cụ thể cho từng lớp. Song, trong
quá trình dạy học ở buổi 2, ở một số buổi học (có thể 1 tháng 1 lần) ta có thể đan 15
xen các tiết vào nhau, xâu chuỗi các tiết tạo thành 1 buổi sinh hoạt câu lạc bộ (câu
lạc bộ toán học, câu lạc bộ âm nhạc, câu lạc bộ mỹ thuật...), 1 buổi sinh hoạt ngoài
giờ lên lớp, 1 sân chơi trí tuệ cho HS rất thú vị và hiệu quả. 3. KẾT LUẬN
Để nâng cao hiệu quả hoạt động dạy học 2 buổi/ ngày cần sự hỗ trợ, hợp tác
và quan tâm của nhà quan lí, do đó chúng tôi đề xuất một số vấn đề sau:
- Đối với nhà trường: Chỉ đạo phối hợp tốt các lực lượng giáo dục, làm tốt
công tác xã hội hoá giáo dục để tranh thủ được sự hỗ trợ của nhiều lực lượng phối
hợp giáo dục và tranh thủ được kinh phí cho hoạt động dạy học, mua sắm thêm cơ
sở vật chất, xây dựng môi trường sư phạm thân thiện. Trong sinh hoạt Tổ chuyên
môn, trường phải hỗ trợ, tư vấn thêm về nội dung, hình thức, chỉ đạo sát hơn nữa
đến vấn đề dạy học linh hoạt, sáng tạo đặc biệt đối với buổi 2. Khi xây dựng thời
khoá biểu, nhà trường nên tham khảo ý kiến của nhiều giáo viên. Thời khoá biểu
(cả buổi 1 và buổi 2) cần được xây dựng trên cơ sở thực tế và có thể thực hiện một cách linh hoạt.
- Đối với ngành giáo dục: Tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị dạy học có chất
lượng. Tập huấn cho CBQL, CTV thanh tra về đánh giá xếp loại giờ dạy để mỗi
lần cán bộ quản lý đi kiểm tra, thanh tra ở các trường phải linh hoạt. Người làm
công tác kiểm tra, đánh giá phải ghi nhận sự cố gắng của giáo viên để GV tự tin
hơn trong dạy học, nhất là dạy học buổi; Tăng thêm biên chế cho các nhà trường
nhằm giảm bớt số buổi lên lớp để giáo viên có thời gian nghiên cứu, soạn bài nhiều hơn.
III. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn ánh Tuyết (1999), Tâm lí học trẻ em, Nhà xuất bản Giáo dục.
2. Trần Trọng Thuỷ (2002), Bài tập thực hành Tâm lý học, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
3. Phạm Minh Hạc (chủ biên): Tâm lý học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1982.
4. Trần Hiệp (chủ biên): Tâm lý học xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997. 16
5. Tài liệu dạy học 2 buổi/ngày, NXB giáo dục, 2019. 17