BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG
KHOA: NGOẠI NG
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC-LENIN
Giáo viên hướng dẫn: Lê Hữu Sơn
Nhóm: 2
Trưởng nhóm: Ngô Anh Kiệt
Lớp: 24TA1
Năm học: 2024 – 2028
Đà Nẵng, ngày 04 tháng 4 năm 2025
Danh sách thành viên tham gia tiểu luận:
Mai Ngọc Linh
Bùi Quốc Huy
Diệu Linh
Khánh Huyền
Khánh Ly
Ngô Anh Kiệt
Nhật Linh
Hồng Thạnh Quốc Huy
Thuỳ Linh
Trần Văn Kỳ
Bùi Duy H
Phạm Văn Lương
MỤC LỤC
A. KHÁI QUÁT VỀ TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN
I. Giới thiệu khái quát về triết học Mác Lênin
II. Quan điểm của triết học Mác - Lênin về mối quan hệ giữa triết
học và khoa học cụ thể:
III. Vai trò của triết học Mác Lênin
B. NGUYÊN LÝ CỦA SỰ PHÁT TRIỂN
I. Khái niệm của "phát triển"
II.Tính chất của “phát triển”
III. Ý nghĩa của phương pháp luận rút ra từ nguyên lý của sự phát
triển
IV. Ví dụ về ý nghĩa của nguyên lý của sự phát triển
C. Ý NGHĨA CỦA PHƯƠNG PHÁP LUẬN
D. CÁCH MẠNG VIỆT NAM LÀ MỘT QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
I. Khái niệm “quá trình phát triển”
II. Cách mạng Việt Nam diễn ra nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, thể
hiện tính liên tục và phát triển:
III. Sự phát triển thể hiện cả về tư tưởng, lực lượng và phương pháp
đấutranh:
IV. Thành tựu sau mi giai đoạn thể hiện rõ sự phát triển vượt bậc:
E. KẾT LUẬN
A. KHÁI QUÁT VỀ TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
I. Giới thiệu khái quát vTriết học Mác-Lênin
Triết học Mác - Lênin là khoa học về những quy luật phổ biến chung nhất
của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy con người; trang bị
cho con người thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp biện chứng
duy vật đúng đắn để nhận thức và cải tạo thế giới.
II. Quan điểm của triết học Mác - Lênin về mối quan hệ giữa triết học và
khoa học cụ thể:
Triết học và khoa học tự nhiên xuất hiện, tồn tại, vận động và phát triển trên
cơ sở những điều kiện kinh tế – xã hội và chịu sự chi phối của những quy
luật nhất định. Đồng thời, giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác
động qua lại lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Lịch sử quá trình hình
thành và phát triển hơn hai nghìn năm của triết học và khoa học tự nhiên đã
cho thấy hai lĩnh vực tri thức này luôn luôn có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Triết học có vai trò rất to lớn đối với sự phát triển của khoa học cụ thể.
Và ngược lại, với mỗi gian đoạn phát triển của khoa học, nhất là khoa học tự
nhiên thì triết học cũng có một bước phát triển.
+ Thời cổ đại :
Khoa học tự nhiên mới hình thành ở thời kỳ cổ đại thì còn sơ khai và nằm
trong chính triết học, triết học tự nhiên. Khoa học tự nhiên phụ thuộc vào
triết học. Bên cạnh đó, khoa học tự nhiên tác động đến sự phát triển của các
quan niệm triết học khi mà những kiến thức của khoa học tự nhiên còn rời
rạc, ít ỏi và chưa có tính hệ thống đã hình thành một quan niệm thô sơ về thế
giới – quan niệm duy vật tự phát, về sau đã bị quan niệm siêu hình thế chỗ.
+ Thời trung cổ :
Sự phát triển của triết học kinh viện vào thời trung đại đã nâng cao sức mạnh
của niềm tin tôn giáo, đánh gục lý trí – vốn được đề cao vào thời cổ đại trước
đó. Điều này đã làm thủ tiêu khoa học, trước hết là khoa học tự nhiên, mở
đường cho thần học phát triển. Qua đó,ta thấy rõ ảnh hưởng của quan niệm
triết học lên sự phát triển của khoa học.
+ Thời phục hưng – cận đại :
Vào thời phục hưng, quan niệm coi triết học là “người mẹ” của các khoa học
xuất hiện thời cổ đại, bị lãng quên thời trung cổ, bây giờ được khôi phục. Sau
đó,quan niệm này phát triển thành quan niệm coi triết học là “khoa học của
các khoa học” trong thời cận đại. Thời này, triết học phát triển nhanh, kéo
theo sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tự nhiên, một lần nữa lý trí triết học
và hiểu biết khoa học t lên trên lý lẽ
thần học và niềm n tôn giáo (phù hợp với nguyên tắc phủ định biện chứng
trong triết học Mac – Lenin: lý trí – niềm n – lý trí).
+ Thời hiện đại :
Thời hiện đại, đặc biệt là khoa học tự nhiên đầu thế kỷ XIX đã có bước phát
triển mới, chuyển từ giai đoạn thực nghiệm sang giai đoạn khái quát lý luận.
Quan điểm siêu hình đã không còn thích hợp với sự phát triển của khoa học
tự nhiên, cản trở sự phát triển của khoa học tự nhiên.
Để khoa học tự nhiên thoát khỏi phương pháp tư duy siêu hình, tất yếu phải
thay đổi quan niệm về thế giới, cần phải khái quát những thành tựu mới của
nó để xây dựng quan điểm biện chứng duy vật trong nhận thức về tự nhiên,
tức chuyển từ quan niệm siêu hình sang quan niệm biện chứng. Điều này cho
thấy sự ảnh hưởng của khoa học tự nhiên đến việc thay đổi những quan niệm
triết học. Đây chính là cơ sở cho chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời. Sự ra
đời và phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng luôn gắn liền với các
thành tựu của khoa học hiện đại, vừa là sự khái quát lại những thành tựu của
khoa học hiện đại, vừa đóng vai trò to lớn đối với sự phát triển của khoa học
hiện đại.
III. Vai trò của Triết học Mác-Lênin
Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991) khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của
Đảng. Đây là cơ sở lý luận và phương pháp để tư duy đúng đắn về con
đường phát triển của cách mạng Việt Nam, đánh dấu một bước tiến mới về
đổi mới nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta trong suốt hơn 30 năm qua.
Hiện nay, tình hình trong nước và trên thế giới có nhiều biến động, đòi hỏi
người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ thanh niên, sinh viên cần nhận thức rõ vai
trò, vị trí, trách nhiệm của mình trong sự nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - -nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước với nội dung và phương pháp thích hợp làm cơ sở
cho phát triển tư duy biện chứng, bản lĩnh chính trị, nâng cao ý thức trách
nhiệm, giữ vững niềm tin của thanh niên, sinh viên vào mục tiêu độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Thấm
nhuần lý luận triết học Mác-Lênin sẽ tạo sức mạnh nội lực, trí tuệ, đạo đức
để tự tin, kiên định, vững vàng trên con đường đổi mới, hội nhập và phát
triển bền vững.
B. NGUYÊN LÝ CỦA SỰ PHÁT TRIỂN
I. KHÁI NIỆM CỦA PHÁT TRIỂN
Trong lịch sử triết học, quan điểm siêu hình xem sự “phát triển” chỉ là sự
tăng, giảm thuần túy về lượng, không có sự thay đổi về chất của sự vật, hiện
tượng; đồng thời, nó cũng xem sự phát triển là quá trình tiến lên liên tục,
không trải qua những bước quanh co phức tạp.
Đối lập với quan điểm siêu hình, trong phép biện chứng khái niệm “phát
triển” dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật, hiện tượng theo khuynh
hướng đi lên: từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn
thiện hơn. Như vậy, khái niệm “phát triển” không đồng nhất với khái niệm
"vận động" (biến đổi) nói chung; đó không phải là sự biến đổi tăng lên hay
giảm đi đơn thuần về lượng hay sự biến đổi tuần hoàn lặp đi lặp lại ở chất cũ
mà là sự biến đổi về chất theo hướng ngày càng hoàn thiện của sự vật ở
những trình độ ngày càng cao hơn.
“Phát triển” cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan
vốn có của sự vật, hiện tượng; là quá trình thống nhất giữa phủ định các nhân
tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ sự vật, hiện tượng cũ
trong hình thái của sự vật, hiện tượng mới.
II. TÍNH CHẤT CỦA “PHÁT TRIỂN”
Các quá trình phát triển đều có tính khách quan, tính phổ biến và tính đa
dạng, phong phú.
- Tính khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của
sựvận động và phát triển. Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện
tượng; là quá trình giải quyết mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng đó. Vì vậy,
“phát triển” là thuộc tính tất yếu, khách quan, không phụ thuộc vào ý thức
của con người.
Ví dụ: Hạt lúa, hạt đầu khi có nước, đất, chất dinh dưỡng, ánh sáng dù không
có con người nhưng nó vẫn phát triển.
- Tính phổ biến được thể hiện ở các quá trình phát triển diễn ra trong
mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả mọi sự vật, hiện tượng
và trong mọi quá trình, mọi giai đoạn của sự vật, hiện tượng đó. Trong mỗi
quá trình biến đổi đã có thể bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái mới,
phù họp với quy luật khách quan.
+ Trong tự nhiên : Tăng cường khả năng thích nghi cơ thể trước sự biến đổi
của môi trường
Ví dụ: Người ở Miền Nam ra công tác làm việc ở Bắc thời gian đầu sẽ khó
chịu với thay đổi khí hậu họ nhưng dần họ sẽ quen và thích nghi.
+ Trong xã hội: Nâng cao năng lực chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội, tiến
tới mức độ ngày càng cao trong sự nghiệp giải phóng con người.
Ví dụ: Mức sống của dân cư xã hội sau lúc nào cũng cao hơn so với xã hội
trước.
+ Trong tư duy : Khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc, đầy đủ, đúng đắn
hơn với tự nhiên và xã hội.
Ví dụ: Trình độ hiểu biết của con người ngày càng cao so với trước đây.
- Tính đa dạng, phong phú được thể hiện ở chỗ: phát triển là khuynh hướng
chung của mọi sự vật. hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi lĩnh
vực hiện thực lại có quá trình phát triển không hoàn toàn giống nhau. Tồn tại
ở những không gian và thời gian khác nhau thì sự vật, hiện tượng sẽ phát
triển khác nhau. Đồng thời, trong quá trình phát triển của mình, sự vật, hiện
tượng còn chịu nhiều sự tác động của các sự vật, hiện tượng hay quá trình
khác của rất nhiều yếu tố và điều kiện lịch sử, cụ thể. Sự tác động đó có thể
làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật, hiện tượng, thậm chí có thể
làm cho sự vật, hiện tượng thụt lùi tạm thời, có thể dẫn tới sự phát triển về
mặt này và thoái hóa ở mặt khác... Đó đều là những biểu hiện của tính phong
phú, đa dạng của các quá trình phát triển.
Chẳng hạn, nói chung, ngày nay trẻ em phát triển nhanh hơn cả về thể chất
lẫn trí tuệ so với trẻ em ở các thế hệ trước do chúng được thừa hưởng những
thành quả, những điều kiện thuận lợi mà xã hội mang lại
III. Ý NGHĨA CỦA PHƯƠNG PHÁP LUẬN RÚT RA TỪ
NGUYÊN LÝ
CỦA SỰ PHÁT TRIỂN
Từ việc nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển của các sự vật, hiện tượng,
chúng ta rút ra quan điểm phát triển trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Quan điển này đòi hỏi:
a. Khi xem xét các sự vật, hiện tượng, ta phải đặt nó trong sự vận động
và phát triển.
Ta cần phải nắm rõ được sự vật không chỉ như là cái nó đang có,
đanghiện hữu trước mắt mà còn phải nắm được khuynh hướng phát triển
tương lai và khả năng chuyển hóa của nó. Bằng tư duy khoa học, ta phải làm
sáng tỏ được xu hướng chủ đạo của tất cả những biến đổi khác nhau đó.
Quan điểm phát triển hoàn toàn đối lập với quan điểm bảo thủ, trì trệ,
định kiến. Tuyệt đối hóa một nhận thức nào đó về sự vật có được trong một
hoàn cảnh lịch sử nhất định, xem đó là nhận thức duy nhất đúng về toàn bộ
sự vật trong quá trình phát triển tiếp theo của nó sẽ đưa chúng ta đến sai lầm
nghiêm trọng.
b. Không dao động trước những quanh co, phức tạp của sự phát
triển trong thực tiễn.
Ta cần phải xác quyết rằng các sự vật, hiện tượng phát triển theo một quá
trình biện chứng đầy mâu thuẫn. Do đó ta phải công nhận tính quanh co,
phức tạp của quá trình phát triển như một hiện tượng phổ biến, đương nhiên.
Quan điểm phát triển đòi hỏi phải có sự nhìn nhận, đánh giá khách quan đối
với mỗi bước thụt lùi tương đối của sự vật, hiện tượng. Bi quan về sự thụt lùi
tương đối sẽ khiến chúng ta gặp phải những sai lầm tai hại.
c. Phải chủ động tìm ra phương pháp thúc đẩy sự phát triển của
sựvật, hiện tượng.
Ta phải tích cực, chủ động nghiên cứu, tìm ra những mâu thuẫn
trongmỗi sự vật, hiện tượng. Từ đó, xác định biện pháp phù hợp giải quyết
mâu thuẫn để thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển.
Việc xác định những biện pháp cũng cần căn cứ vào từng giai đoạn, hoàn
cảnh cụ thể của sự vật, hiện tượng. Vì sự phát triển diễn ra theo nhiều giai
đoạn, từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Vì trong sự phát triển có sự kế thừa, ta phải chủ động phát hiện, c
vũcái mới phù hợp, tìm cách thúc đẩy để cái mới đó chiếm vai trò chủ đạo.
Ta cũng phải tìm cách kế thừa những bộ phận, thuộc tính… còn hợp lý của
cái cũ, đồng thời kiên quyết loại bỏ những gì thuộc cái cũ mà lạc hậu, cản trở
sự phát triển.
Phải tích cực học hỏi, tích lũy kiến thức khoa học và kiến thức thực tiễn.
Tuyệt đối tránh bảo thủ, trì trệ trong tư duy và hành động.
Sự phát triển được thực hiện bằng con đường tích lũy về lượng để
tạora sự thay đổi về chất. Do đó, chúng ta phải luôn nỗ lực, chăm chỉ lao
động để làm cho sự vật, hiện tượng tích lũy đủ về lượng rồi dẫn đến sự thay
đổi về chất.
III. VÍ DỤ VỀ Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN LÝ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN
Ví dụ về sự phát triển như sau:
Trong quá trình biến đổi của các giống loài đã có sự biến đổi và pháttriển
từ bậc thấp lên bậc cao.
Quá trình thay thế lẫn nhau của các hình thức thức tổ chức trong xã hộicủa
loài người: từ hình thức tổ chức xã hội thị tộc, bộ lạc còn sơ khai thời
nguyên thuỷ lên các hình thức tổ chức xã hội cao hơn là hình thức tổ chức
bộ tộc, dân tộc…
Sự ra đời và thay thế các hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử
Cụ thể là từ nhà nước chủ nô là kiểu nhà nước đầu tiên trong lịch sử ra đời
dựa trên cơ sở tan rã của chế độ thị tộc, bộ lạc gắn liề với chế độ tư hữu và
phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng.
Sự bóc lột không có giới hạn của các chủ nô làm cho mâu thuẫn giữa chủ nô
với nô lệ ngày một gay gắt, nô lệ đứng lên đấu tranh giải phóng nô lệ, giao
đất canh tác. Điều này đã dẫn đến sự chuyển hóa dần từ phương thức sản
xuất chiếm hữu nô lệ sang phương thức sản xuất phong kiến, nhà nước
phong kiến ra đời. Tiếp đó trải qua các giai đoạn là nhà nước tư sản và cuối
cùng là nhà nước xã hội chủ nghĩa.
C. Ý NGHĨA CỦA PHƯƠNG PHÁP LUẬN
Nguyên lý về sự phát triển có ý nghĩa phương pháp luận sâu sắc trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn.
Cụ thể: Nhận thức đúng đắn hiện thực: Con người cần nhìn nhận thế giới và
các sự vật hiện tượng trong mối quan hệ vận động, thay đổi, không nên đánh
giá phiến diện, cứng nhắc hay đứng im.
Tư duy biện chứng: Khi phân tích, đánh giá một vấn đề cần đặt nó trong quá
trình vận động, trong các mối liên hệ và sự tác động qua lại giữa các mặt đối
lập để tìm ra xu hướng phát triển.
Thái độ tích cực trong thực tiễn: Nguyên lý khẳng định rằng cái mới, cái tiến
bộ nhất định sẽ thay thế cái cũ, do đó cần kiên trì đổi mới, sáng tạo, dám
nghĩ, dám làm, thúc đẩy cái mới, chống lại sự bảo thủ trì trệ.
Ứng dụng vào công cuộc đổi mới và phát triển đất nước: Trong quản lý xã
hội và hoạch định chính sách, nguyên lý này giúp lãnh đạo đưa ra những
quyết sách phù hợp với xu thế thời đại và quy luật vận động của xã hội.
Nhìn sự vật trong sự vận động và phát triển: Khi xem xét sự vật, cần đặt nó
trong bối cảnh vận động không ngừng và quá trình phát triển liên tục, phải
nhận thức xu hướng, khả năng chuyển hóa tương lai bằng tư duy khoa học,
biện chứng. Điều này tránh lối tư duy bảo thủ, phiến diện hay tuyệt đối hóa
nhận thức, vốn dẫn đến sai lầm nghiêm trọng.
Giữ lập trường trước sự phức tạp: Sự phát triển không theo đường thẳng mà
diễn ra biện chứng, đầy mâu thuẫn và quanh co. Cần nhìn nhận tính phức tạp
này là tự nhiên, đánh giá khách quan các bước tiến hay lùi tạm thời, tránh bi
quan hay quyết định sai lầm, giữ kiên nhẫn để thấy bản chất trong bức tranh
lớn. Chủ động thúc đẩy phát triển: Phải tích cực tìm cách giải quyết mâu
thuẫn nội tại – động lực của phát triển – bằng phương pháp khoa học, phù
hợp thực tiễn từng giai đoạn. Đồng thời, cổ vũ cái mới tiến bộ, kế thừa chọn
lọc cái cũ còn giá trị, loại bỏ yếu tố lạc hậu, dựa trên nghiên cứu và kinh
nghiệm thực tiễn. Tích lũy lượng dẫn đến đột phá chất: Sự phát triển cần kiên
trì tích lũy dần về lượng qua lao động, thực tiễn, tạo điều kiện cho những
thay đổi đột phá về chất, đưa sự vật lên tầm cao mới. Tránh thái độ trì trệ kìm
hãm tiến bộ.
D. CHỨNG MINH CÁCH MẠNG VIỆT NAM LÀ MỘT QUÁ
TRÌNH PHÁT
TRIỂN
Cách mạng Việt Nam là sự nghiệp đấu tranh lâu dài và gian khổ của nhân dân
ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Quá trình đó không diễn ra
trong một sớm một chiều một quá trình phát triển liên tục, có định hướng
ràng qua từng thời kỳ lịch sử. Việc xem cách mạng Việt Nam một quá
trình phát triển là hoàn toàn có cơ sở lịch sử và thực tiễn.
I. Khái niệm "quá trình phát triển":
- "Quá trình" là sự diễn tiến liên tục qua nhiều giai đoạn.
- "Phát triển" là vận động đi lên, ngày càng tiến bộ, hoàn thiện hơn.
=> Vậy, "quá trình phát triển" là sự thay đổi liên tục theo chiều hướng tích
cực, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
II. Cách mạng Việt Nam diễn ra qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, thể
hiện tính liên tục và phát triển:
- Giai đoạn 1930–1945:
+ Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1930) đánh dấu bước ngoặt về tổ chức
và tư tưởng.
+ Lãnh đạo phong trào đấu tranh giành độc lập, kết thúc bằng thắng lợi
Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
+ Việt Nam tuyên bố độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- Giai đoạn 1945–1954:
+ Đấu tranh giữ vững chính quyền non trẻ, tiến hành kháng chiến chống
thực dân Pháp.
+ Kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ (1954), miền Bắc hoàn toàn
giải phóng.
- Giai đoạn 1954–1975:
+ Miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội.
+ Miền Nam tiếp tục kháng chiến chống Mỹ và chính quyền tay sai.
+ Kết thúc bằng đại thắng mùa Xuân 1975, đất nước được thống nhất.
- Giai đoạn 1975 đến nay:
+ Xây dựng đất nước sau chiến tranh, đặc biệt là từ công cuộc Đổi mới năm
1986.
+ Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội ch
nghĩa. + Đất nước ngày càng phát triển, hội nhập sâu rộng vào khu vực và
thế giới.
III. Sự phát triển thể hiện cả về tư tưởng, lực lượng và phương pháp đấu
tranh:
- Từ các phong trào khởi nghĩa tự phát đến sự lãnh đạo có đường lối đúng
đắn.
- Từ những cuộc đấu tranh đơn lẻ đến chiến tranh nhân dân toàn diện. - Từ
mục tiêu giành độc lập dân tộc đến mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
XHCN.
IV. Thành tựu sau mỗi giai đoạn thể hiện rõ sự phát triển vượt bậc:
- Đánh đổ ách đô hộ thực dân, phong kiến => Giành lại độc lập dân tộc.
- Thống nhất đất nước, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.
- Xây dựng nền kinh tế phát triển, đời sống nhân dân ngày càng được nâng
cao.
- Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được củng cố.
=> Kết luận : Cách mạng Việt Nam là một quá trình phát triển liên tục, tiến
bộ cả về lý luận và thực tiễn. Đó là sự phát triển từ đấu tranh giành độc lập
đến xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Thành quả của cách
mạng ngày nay là minh chứng rõ ràng nhất cho quá trình ấy.
E. Kết luận:
Nguyên lý về sự phát triển trong triết học Mac-Lenin nhấn mạnh rằng mọi sự vật,
hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy đều vận động và phát triển không
ngừng, tuân theo những quy luật khách quan. Sự phát triển này không diễn ra một
cách tuyến tính mà có thể trải qua những giai đoạn phức tạp, thậm chí có những
bước thụt lùi tương đối, nhưng xu hướng chung vẫn là tiến bộ và hoàn thiện
hơn.Việc thấu hiểu và vận dụng nguyên lý này mang lại ý nghĩa phương pháp luận
sâu sắc. Nó đòi hỏi chúng ta phải nhìn nhận sự vật, hiện tượng trong trạng thái
động, luôn biến đổi và phát triển. Điều này giúp tránh được tư duy bảo thủ, trì trệ và
khuyến khích sự đổi mới, sáng tạo. Đồng thời, nguyên lý này cũng nhấn mạnh tầm
quan trọng của việc nhận diện và giải quyết các mâu thuẫn nội tại, thúc đẩy sự tiến
bộ thông qua việc giải quyết các xung đột bên trong sự vật, hiện tượng. Trong thực
tiễn, lịch sử cách mạng Việt Nam là một minh chứng sống động cho việc vận dụng
nguyên lý về sự phát triển. Từ những ngày đầu đấu tranh giành độc lập, trải qua các
giai đoạn kháng chiến chống ngoại xâm, đến công cuộc xây dựng và đổi mới đất
nước hiện nay, Việt Nam đã không ngừng vận động và phát triển. Quá trình này thể
hiện sự chuyển biến từ một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến trở thành một quốc gia
độc lập, tự chủ và đang trên đà phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong
bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, việc tiếp tục vận dụng nguyên
lý về sự phát triển là vô cùng quan trọng. Nó đòi hỏi chúng ta phải luôn đổi mới tư
duy, nhạy bén trong việc nhận diện và giải quyết các vấn đề mới nảy sinh, đồng thời
kiên định với mục tiêu phát triển bền vững, vì lợi ích của nhân dân và đất nước.
Tóm lại, nguyên lý về sự phát triển không chỉ là một quy luật triết học trừu tượng,
mà còn là kim chỉ nam cho hành động thực tiễn. Việc nhận thức đúng đắn và vận
dụng sáng tạo nguyên lý này sẽ giúp chúng ta định hướng đúng đắn trong công cuộc
xây dựng và phát triển đất nước, góp phần đưa Việt Nam tiến lên con đường phồn
vinh và hạnh phúc.

Preview text:

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG KHOA: NGOẠI NGỮ
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC-LENIN
Giáo viên hướng dẫn: Lê Hữu Sơn Nhóm: 2
Trưởng nhóm: Ngô Anh Kiệt Lớp: 24TA1
Năm học: 2024 – 2028
Đà Nẵng, ngày 04 tháng 4 năm 2025
Danh sách thành viên tham gia tiểu luận: Mai Ngọc Linh Bùi Quốc Huy Diệu Linh Khánh Huyền Khánh Ly Ngô Anh Kiệt Nhật Linh Hồng Thạnh Quốc Huy Thuỳ Linh Trần Văn Kỳ Bùi Duy Hoà Phạm Văn Lương MỤC LỤC
A. KHÁI QUÁT VỀ TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN
I. Giới thiệu khái quát về triết học Mác Lênin
II. Quan điểm của triết học Mác - Lênin về mối quan hệ giữa triết
học và khoa học cụ thể:
III. Vai trò của triết học Mác Lênin
B. NGUYÊN LÝ CỦA SỰ PHÁT TRIỂN
I. Khái niệm của "phát triển"
II.Tính chất của “phát triển”
III. Ý nghĩa của phương pháp luận rút ra từ nguyên lý của sự phát triển
IV. Ví dụ về ý nghĩa của nguyên lý của sự phát triển
C. Ý NGHĨA CỦA PHƯƠNG PHÁP LUẬN
D. CÁCH MẠNG VIỆT NAM LÀ MỘT QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
I. Khái niệm “quá trình phát triển”
II. Cách mạng Việt Nam diễn ra nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, thể
hiện tính liên tục và phát triển:
III. Sự phát triển thể hiện cả về tư tưởng, lực lượng và phương pháp đấutranh:
IV. Thành tựu sau mỗi giai đoạn thể hiện rõ sự phát triển vượt bậc: E. KẾT LUẬN
A. KHÁI QUÁT VỀ TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN I.
Giới thiệu khái quát về Triết học Mác-Lênin
Triết học Mác - Lênin là khoa học về những quy luật phổ biến chung nhất
của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy con người; trang bị
cho con người thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp biện chứng
duy vật đúng đắn để nhận thức và cải tạo thế giới. II.
Quan điểm của triết học Mác - Lênin về mối quan hệ giữa triết học và khoa học cụ thể:
Triết học và khoa học tự nhiên xuất hiện, tồn tại, vận động và phát triển trên
cơ sở những điều kiện kinh tế – xã hội và chịu sự chi phối của những quy
luật nhất định. Đồng thời, giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác
động qua lại lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Lịch sử quá trình hình
thành và phát triển hơn hai nghìn năm của triết học và khoa học tự nhiên đã
cho thấy hai lĩnh vực tri thức này luôn luôn có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Triết học có vai trò rất to lớn đối với sự phát triển của khoa học cụ thể.
Và ngược lại, với mỗi gian đoạn phát triển của khoa học, nhất là khoa học tự
nhiên thì triết học cũng có một bước phát triển. + Thời cổ đại :
Khoa học tự nhiên mới hình thành ở thời kỳ cổ đại thì còn sơ khai và nằm
trong chính triết học, triết học tự nhiên. Khoa học tự nhiên phụ thuộc vào
triết học. Bên cạnh đó, khoa học tự nhiên tác động đến sự phát triển của các
quan niệm triết học khi mà những kiến thức của khoa học tự nhiên còn rời
rạc, ít ỏi và chưa có tính hệ thống đã hình thành một quan niệm thô sơ về thế
giới – quan niệm duy vật tự phát, về sau đã bị quan niệm siêu hình thế chỗ. + Thời trung cổ :
Sự phát triển của triết học kinh viện vào thời trung đại đã nâng cao sức mạnh
của niềm tin tôn giáo, đánh gục lý trí – vốn được đề cao vào thời cổ đại trước
đó. Điều này đã làm thủ tiêu khoa học, trước hết là khoa học tự nhiên, mở
đường cho thần học phát triển. Qua đó,ta thấy rõ ảnh hưởng của quan niệm
triết học lên sự phát triển của khoa học.
+ Thời phục hưng – cận đại :
Vào thời phục hưng, quan niệm coi triết học là “người mẹ” của các khoa học
xuất hiện thời cổ đại, bị lãng quên thời trung cổ, bây giờ được khôi phục. Sau
đó,quan niệm này phát triển thành quan niệm coi triết học là “khoa học của
các khoa học” trong thời cận đại. Thời này, triết học phát triển nhanh, kéo
theo sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tự nhiên, một lần nữa lý trí triết học
và hiểu biết khoa học vượt lên trên lý lẽ
thần học và niềm tin tôn giáo (phù hợp với nguyên tắc phủ định biện chứng
trong triết học Mac – Lenin: lý trí – niềm tin – lý trí). + Thời hiện đại :
Thời hiện đại, đặc biệt là khoa học tự nhiên đầu thế kỷ XIX đã có bước phát
triển mới, chuyển từ giai đoạn thực nghiệm sang giai đoạn khái quát lý luận.
Quan điểm siêu hình đã không còn thích hợp với sự phát triển của khoa học
tự nhiên, cản trở sự phát triển của khoa học tự nhiên.
Để khoa học tự nhiên thoát khỏi phương pháp tư duy siêu hình, tất yếu phải
thay đổi quan niệm về thế giới, cần phải khái quát những thành tựu mới của
nó để xây dựng quan điểm biện chứng duy vật trong nhận thức về tự nhiên,
tức chuyển từ quan niệm siêu hình sang quan niệm biện chứng. Điều này cho
thấy sự ảnh hưởng của khoa học tự nhiên đến việc thay đổi những quan niệm
triết học. Đây chính là cơ sở cho chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời. Sự ra
đời và phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng luôn gắn liền với các
thành tựu của khoa học hiện đại, vừa là sự khái quát lại những thành tựu của
khoa học hiện đại, vừa đóng vai trò to lớn đối với sự phát triển của khoa học hiện đại. III.
Vai trò của Triết học Mác-Lênin
Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991) khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của
Đảng. Đây là cơ sở lý luận và phương pháp để tư duy đúng đắn về con
đường phát triển của cách mạng Việt Nam, đánh dấu một bước tiến mới về
đổi mới nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta trong suốt hơn 30 năm qua.
Hiện nay, tình hình trong nước và trên thế giới có nhiều biến động, đòi hỏi
người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ thanh niên, sinh viên cần nhận thức rõ vai
trò, vị trí, trách nhiệm của mình trong sự nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lê-nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước với nội dung và phương pháp thích hợp làm cơ sở
cho phát triển tư duy biện chứng, bản lĩnh chính trị, nâng cao ý thức trách
nhiệm, giữ vững niềm tin của thanh niên, sinh viên vào mục tiêu độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Thấm
nhuần lý luận triết học Mác-Lênin sẽ tạo sức mạnh nội lực, trí tuệ, đạo đức
để tự tin, kiên định, vững vàng trên con đường đổi mới, hội nhập và phát triển bền vững.
B. NGUYÊN LÝ CỦA SỰ PHÁT TRIỂN I.
KHÁI NIỆM CỦA PHÁT TRIỂN
Trong lịch sử triết học, quan điểm siêu hình xem sự “phát triển” chỉ là sự
tăng, giảm thuần túy về lượng, không có sự thay đổi về chất của sự vật, hiện
tượng; đồng thời, nó cũng xem sự phát triển là quá trình tiến lên liên tục,
không trải qua những bước quanh co phức tạp.
Đối lập với quan điểm siêu hình, trong phép biện chứng khái niệm “phát
triển” dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật, hiện tượng theo khuynh
hướng đi lên: từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn
thiện hơn. Như vậy, khái niệm “phát triển” không đồng nhất với khái niệm
"vận động" (biến đổi) nói chung; đó không phải là sự biến đổi tăng lên hay
giảm đi đơn thuần về lượng hay sự biến đổi tuần hoàn lặp đi lặp lại ở chất cũ
mà là sự biến đổi về chất theo hướng ngày càng hoàn thiện của sự vật ở
những trình độ ngày càng cao hơn.
“Phát triển” cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan
vốn có của sự vật, hiện tượng; là quá trình thống nhất giữa phủ định các nhân
tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ sự vật, hiện tượng cũ
trong hình thái của sự vật, hiện tượng mới. II.
TÍNH CHẤT CỦA “PHÁT TRIỂN”
Các quá trình phát triển đều có tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú. -
Tính khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của
sựvận động và phát triển. Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện
tượng; là quá trình giải quyết mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng đó. Vì vậy,
“phát triển” là thuộc tính tất yếu, khách quan, không phụ thuộc vào ý thức của con người.
Ví dụ: Hạt lúa, hạt đầu khi có nước, đất, chất dinh dưỡng, ánh sáng dù không
có con người nhưng nó vẫn phát triển. -
Tính phổ biến được thể hiện ở các quá trình phát triển diễn ra trong
mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả mọi sự vật, hiện tượng
và trong mọi quá trình, mọi giai đoạn của sự vật, hiện tượng đó. Trong mỗi
quá trình biến đổi đã có thể bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái mới,
phù họp với quy luật khách quan.
+ Trong tự nhiên : Tăng cường khả năng thích nghi cơ thể trước sự biến đổi của môi trường
Ví dụ: Người ở Miền Nam ra công tác làm việc ở Bắc thời gian đầu sẽ khó
chịu với thay đổi khí hậu họ nhưng dần họ sẽ quen và thích nghi.
+ Trong xã hội: Nâng cao năng lực chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội, tiến
tới mức độ ngày càng cao trong sự nghiệp giải phóng con người.
Ví dụ: Mức sống của dân cư xã hội sau lúc nào cũng cao hơn so với xã hội trước.
+ Trong tư duy : Khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc, đầy đủ, đúng đắn
hơn với tự nhiên và xã hội.
Ví dụ: Trình độ hiểu biết của con người ngày càng cao so với trước đây.
- Tính đa dạng, phong phú được thể hiện ở chỗ: phát triển là khuynh hướng
chung của mọi sự vật. hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi lĩnh
vực hiện thực lại có quá trình phát triển không hoàn toàn giống nhau. Tồn tại
ở những không gian và thời gian khác nhau thì sự vật, hiện tượng sẽ phát
triển khác nhau. Đồng thời, trong quá trình phát triển của mình, sự vật, hiện
tượng còn chịu nhiều sự tác động của các sự vật, hiện tượng hay quá trình
khác của rất nhiều yếu tố và điều kiện lịch sử, cụ thể. Sự tác động đó có thể
làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật, hiện tượng, thậm chí có thể
làm cho sự vật, hiện tượng thụt lùi tạm thời, có thể dẫn tới sự phát triển về
mặt này và thoái hóa ở mặt khác... Đó đều là những biểu hiện của tính phong
phú, đa dạng của các quá trình phát triển.
Chẳng hạn, nói chung, ngày nay trẻ em phát triển nhanh hơn cả về thể chất
lẫn trí tuệ so với trẻ em ở các thế hệ trước do chúng được thừa hưởng những
thành quả, những điều kiện thuận lợi mà xã hội mang lại
III. Ý NGHĨA CỦA PHƯƠNG PHÁP LUẬN RÚT RA TỪ NGUYÊN LÝ
CỦA SỰ PHÁT TRIỂN
Từ việc nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển của các sự vật, hiện tượng,
chúng ta rút ra quan điểm phát triển trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Quan điển này đòi hỏi:
a. Khi xem xét các sự vật, hiện tượng, ta phải đặt nó trong sự vận động và phát triển.
Ta cần phải nắm rõ được sự vật không chỉ như là cái nó đang có,
đanghiện hữu trước mắt mà còn phải nắm được khuynh hướng phát triển
tương lai và khả năng chuyển hóa của nó. Bằng tư duy khoa học, ta phải làm
sáng tỏ được xu hướng chủ đạo của tất cả những biến đổi khác nhau đó. –
Quan điểm phát triển hoàn toàn đối lập với quan điểm bảo thủ, trì trệ,
định kiến. Tuyệt đối hóa một nhận thức nào đó về sự vật có được trong một
hoàn cảnh lịch sử nhất định, xem đó là nhận thức duy nhất đúng về toàn bộ
sự vật trong quá trình phát triển tiếp theo của nó sẽ đưa chúng ta đến sai lầm nghiêm trọng. b.
Không dao động trước những quanh co, phức tạp của sự phát
triển trong thực tiễn.
Ta cần phải xác quyết rằng các sự vật, hiện tượng phát triển theo một quá
trình biện chứng đầy mâu thuẫn. Do đó ta phải công nhận tính quanh co,
phức tạp của quá trình phát triển như một hiện tượng phổ biến, đương nhiên.
Quan điểm phát triển đòi hỏi phải có sự nhìn nhận, đánh giá khách quan đối
với mỗi bước thụt lùi tương đối của sự vật, hiện tượng. Bi quan về sự thụt lùi
tương đối sẽ khiến chúng ta gặp phải những sai lầm tai hại. c.
Phải chủ động tìm ra phương pháp thúc đẩy sự phát triển của
sựvật, hiện tượng.
Ta phải tích cực, chủ động nghiên cứu, tìm ra những mâu thuẫn
trongmỗi sự vật, hiện tượng. Từ đó, xác định biện pháp phù hợp giải quyết
mâu thuẫn để thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển.
Việc xác định những biện pháp cũng cần căn cứ vào từng giai đoạn, hoàn
cảnh cụ thể của sự vật, hiện tượng. Vì sự phát triển diễn ra theo nhiều giai
đoạn, từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. –
Vì trong sự phát triển có sự kế thừa, ta phải chủ động phát hiện, cổ
vũcái mới phù hợp, tìm cách thúc đẩy để cái mới đó chiếm vai trò chủ đạo.
Ta cũng phải tìm cách kế thừa những bộ phận, thuộc tính… còn hợp lý của
cái cũ, đồng thời kiên quyết loại bỏ những gì thuộc cái cũ mà lạc hậu, cản trở sự phát triển.
Phải tích cực học hỏi, tích lũy kiến thức khoa học và kiến thức thực tiễn.
Tuyệt đối tránh bảo thủ, trì trệ trong tư duy và hành động. –
Sự phát triển được thực hiện bằng con đường tích lũy về lượng để
tạora sự thay đổi về chất. Do đó, chúng ta phải luôn nỗ lực, chăm chỉ lao
động để làm cho sự vật, hiện tượng tích lũy đủ về lượng rồi dẫn đến sự thay đổi về chất.
III. VÍ DỤ VỀ Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN LÝ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN
Ví dụ về sự phát triển như sau:
– Trong quá trình biến đổi của các giống loài đã có sự biến đổi và pháttriển
từ bậc thấp lên bậc cao.
– Quá trình thay thế lẫn nhau của các hình thức thức tổ chức trong xã hộicủa
loài người: từ hình thức tổ chức xã hội thị tộc, bộ lạc còn sơ khai thời
nguyên thuỷ lên các hình thức tổ chức xã hội cao hơn là hình thức tổ chức bộ tộc, dân tộc…
– Sự ra đời và thay thế các hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử
Cụ thể là từ nhà nước chủ nô là kiểu nhà nước đầu tiên trong lịch sử ra đời
dựa trên cơ sở tan rã của chế độ thị tộc, bộ lạc gắn liề với chế độ tư hữu và
phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng.
Sự bóc lột không có giới hạn của các chủ nô làm cho mâu thuẫn giữa chủ nô
với nô lệ ngày một gay gắt, nô lệ đứng lên đấu tranh giải phóng nô lệ, giao
đất canh tác. Điều này đã dẫn đến sự chuyển hóa dần từ phương thức sản
xuất chiếm hữu nô lệ sang phương thức sản xuất phong kiến, nhà nước
phong kiến ra đời. Tiếp đó trải qua các giai đoạn là nhà nước tư sản và cuối
cùng là nhà nước xã hội chủ nghĩa.
C. Ý NGHĨA CỦA PHƯƠNG PHÁP LUẬN
Nguyên lý về sự phát triển có ý nghĩa phương pháp luận sâu sắc trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn.
Cụ thể: Nhận thức đúng đắn hiện thực: Con người cần nhìn nhận thế giới và
các sự vật hiện tượng trong mối quan hệ vận động, thay đổi, không nên đánh
giá phiến diện, cứng nhắc hay đứng im.
Tư duy biện chứng: Khi phân tích, đánh giá một vấn đề cần đặt nó trong quá
trình vận động, trong các mối liên hệ và sự tác động qua lại giữa các mặt đối
lập để tìm ra xu hướng phát triển.
Thái độ tích cực trong thực tiễn: Nguyên lý khẳng định rằng cái mới, cái tiến
bộ nhất định sẽ thay thế cái cũ, do đó cần kiên trì đổi mới, sáng tạo, dám
nghĩ, dám làm, thúc đẩy cái mới, chống lại sự bảo thủ trì trệ.
Ứng dụng vào công cuộc đổi mới và phát triển đất nước: Trong quản lý xã
hội và hoạch định chính sách, nguyên lý này giúp lãnh đạo đưa ra những
quyết sách phù hợp với xu thế thời đại và quy luật vận động của xã hội.
Nhìn sự vật trong sự vận động và phát triển: Khi xem xét sự vật, cần đặt nó
trong bối cảnh vận động không ngừng và quá trình phát triển liên tục, phải
nhận thức xu hướng, khả năng chuyển hóa tương lai bằng tư duy khoa học,
biện chứng. Điều này tránh lối tư duy bảo thủ, phiến diện hay tuyệt đối hóa
nhận thức, vốn dẫn đến sai lầm nghiêm trọng.
Giữ lập trường trước sự phức tạp: Sự phát triển không theo đường thẳng mà
diễn ra biện chứng, đầy mâu thuẫn và quanh co. Cần nhìn nhận tính phức tạp
này là tự nhiên, đánh giá khách quan các bước tiến hay lùi tạm thời, tránh bi
quan hay quyết định sai lầm, giữ kiên nhẫn để thấy bản chất trong bức tranh
lớn. Chủ động thúc đẩy phát triển: Phải tích cực tìm cách giải quyết mâu
thuẫn nội tại – động lực của phát triển – bằng phương pháp khoa học, phù
hợp thực tiễn từng giai đoạn. Đồng thời, cổ vũ cái mới tiến bộ, kế thừa chọn
lọc cái cũ còn giá trị, loại bỏ yếu tố lạc hậu, dựa trên nghiên cứu và kinh
nghiệm thực tiễn. Tích lũy lượng dẫn đến đột phá chất: Sự phát triển cần kiên
trì tích lũy dần về lượng qua lao động, thực tiễn, tạo điều kiện cho những
thay đổi đột phá về chất, đưa sự vật lên tầm cao mới. Tránh thái độ trì trệ kìm hãm tiến bộ.
D. CHỨNG MINH CÁCH MẠNG VIỆT NAM LÀ MỘT QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
Cách mạng Việt Nam là sự nghiệp đấu tranh lâu dài và gian khổ của nhân dân
ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Quá trình đó không diễn ra
trong một sớm một chiều mà là một quá trình phát triển liên tục, có định hướng
rõ ràng qua từng thời kỳ lịch sử. Việc xem cách mạng Việt Nam là một quá
trình phát triển là hoàn toàn có cơ sở lịch sử và thực tiễn.
I. Khái niệm "quá trình phát triển":
- "Quá trình" là sự diễn tiến liên tục qua nhiều giai đoạn.
- "Phát triển" là vận động đi lên, ngày càng tiến bộ, hoàn thiện hơn.
=> Vậy, "quá trình phát triển" là sự thay đổi liên tục theo chiều hướng tích
cực, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
II. Cách mạng Việt Nam diễn ra qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, thể
hiện tính liên tục và phát triển: - Giai đoạn 1930–1945:
+ Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1930) đánh dấu bước ngoặt về tổ chức và tư tưởng.
+ Lãnh đạo phong trào đấu tranh giành độc lập, kết thúc bằng thắng lợi
Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
+ Việt Nam tuyên bố độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. - Giai đoạn 1945–1954:
+ Đấu tranh giữ vững chính quyền non trẻ, tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp.
+ Kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ (1954), miền Bắc hoàn toàn giải phóng. - Giai đoạn 1954–1975:
+ Miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội.
+ Miền Nam tiếp tục kháng chiến chống Mỹ và chính quyền tay sai.
+ Kết thúc bằng đại thắng mùa Xuân 1975, đất nước được thống nhất.
- Giai đoạn 1975 đến nay:
+ Xây dựng đất nước sau chiến tranh, đặc biệt là từ công cuộc Đổi mới năm 1986.
+ Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. + Đất nước ngày càng phát triển, hội nhập sâu rộng vào khu vực và thế giới.
III. Sự phát triển thể hiện cả về tư tưởng, lực lượng và phương pháp đấu tranh:
- Từ các phong trào khởi nghĩa tự phát đến sự lãnh đạo có đường lối đúng đắn.
- Từ những cuộc đấu tranh đơn lẻ đến chiến tranh nhân dân toàn diện. - Từ
mục tiêu giành độc lập dân tộc đến mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
IV. Thành tựu sau mỗi giai đoạn thể hiện rõ sự phát triển vượt bậc:
- Đánh đổ ách đô hộ thực dân, phong kiến => Giành lại độc lập dân tộc.
- Thống nhất đất nước, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.
- Xây dựng nền kinh tế phát triển, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao.
- Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được củng cố.
=> Kết luận : Cách mạng Việt Nam là một quá trình phát triển liên tục, tiến
bộ cả về lý luận và thực tiễn. Đó là sự phát triển từ đấu tranh giành độc lập
đến xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Thành quả của cách
mạng ngày nay là minh chứng rõ ràng nhất cho quá trình ấy. E. Kết luận:
Nguyên lý về sự phát triển trong triết học Mac-Lenin nhấn mạnh rằng mọi sự vật,
hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy đều vận động và phát triển không
ngừng, tuân theo những quy luật khách quan. Sự phát triển này không diễn ra một
cách tuyến tính mà có thể trải qua những giai đoạn phức tạp, thậm chí có những
bước thụt lùi tương đối, nhưng xu hướng chung vẫn là tiến bộ và hoàn thiện
hơn.Việc thấu hiểu và vận dụng nguyên lý này mang lại ý nghĩa phương pháp luận
sâu sắc. Nó đòi hỏi chúng ta phải nhìn nhận sự vật, hiện tượng trong trạng thái
động, luôn biến đổi và phát triển. Điều này giúp tránh được tư duy bảo thủ, trì trệ và
khuyến khích sự đổi mới, sáng tạo. Đồng thời, nguyên lý này cũng nhấn mạnh tầm
quan trọng của việc nhận diện và giải quyết các mâu thuẫn nội tại, thúc đẩy sự tiến
bộ thông qua việc giải quyết các xung đột bên trong sự vật, hiện tượng. Trong thực
tiễn, lịch sử cách mạng Việt Nam là một minh chứng sống động cho việc vận dụng
nguyên lý về sự phát triển. Từ những ngày đầu đấu tranh giành độc lập, trải qua các
giai đoạn kháng chiến chống ngoại xâm, đến công cuộc xây dựng và đổi mới đất
nước hiện nay, Việt Nam đã không ngừng vận động và phát triển. Quá trình này thể
hiện sự chuyển biến từ một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến trở thành một quốc gia
độc lập, tự chủ và đang trên đà phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong
bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, việc tiếp tục vận dụng nguyên
lý về sự phát triển là vô cùng quan trọng. Nó đòi hỏi chúng ta phải luôn đổi mới tư
duy, nhạy bén trong việc nhận diện và giải quyết các vấn đề mới nảy sinh, đồng thời
kiên định với mục tiêu phát triển bền vững, vì lợi ích của nhân dân và đất nước.
Tóm lại, nguyên lý về sự phát triển không chỉ là một quy luật triết học trừu tượng,
mà còn là kim chỉ nam cho hành động thực tiễn. Việc nhận thức đúng đắn và vận
dụng sáng tạo nguyên lý này sẽ giúp chúng ta định hướng đúng đắn trong công cuộc
xây dựng và phát triển đất nước, góp phần đưa Việt Nam tiến lên con đường phồn vinh và hạnh phúc.