Tiểu luận môn tư tưởng Hồ Chí Minh| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA THỐNG KÊ
I TẬP LỚN
N HỌC: ỞNG HỒ C MINH
ĐỀI: QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CẤU NỀN KINH TẾ NƯỚC
TA TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ N CHỦ NGHĨA HỘI VÀ VẬN DỤNG CỦA
ĐẢNG TRONG XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ NƯỚC TA HIỆN NAY
Họn sinh viên : Nguyễn Trung Kn
MSV : 11223162
Lớp tín chỉ : LLTT1101 - 07
Giảng viên : TS.Nguyễn TThiện
NỘI - 2023
MỞ ĐẦU...............................................................................................................................................3
NỘI DUNG........................................................................................................................................... 4
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN............................................................................................................ 4
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về những đặc điểm của nền kinh tế trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.........................................................................................................4
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam....................................................................................................................................5
2.1 Quan điểm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam............5
2.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam....................................................................................................................................6
2.2.1 Cơ cấu thành phần kinh tế.................................................................................................. 6
a. Thừa nhận sự tồn tại khách quan của các thành phần kinh tế.............................................6
b. Xác định tính chất của các thành phần kinh tế và chính sách của Nhà nước đối với từng
thành phần kinh tế....................................................................................................................... 6
2.2.2 Cơ cấu ngành kinh tế...........................................................................................................8
2.2.3 Cơ cấu vùng kinh tế.............................................................................................................9
PHẦN 2: VẬN DỤNG.................................................................................................................... 10
1. Hoàn cảnh quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.......................................................10
2. Thực trạng vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát
triển nền kinh tế nước ta hiện nay.............................................................................................11
a. Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần...............................................................................11
b. Chủ chương chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phù hợp.................................................12
c. Phát triển các vùng kinh tế trọng điểm.............................................................................12
KẾT LUẬN......................................................................................................................................... 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................................. 15
2
MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh - một người có sự nghiệp cách mạng vĩ đại, với sự vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của đất nước mình, Người
đã đề ra những đường lối đúng đắn, đưa Cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác.
Thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ta đã trải qua hơn 60 năm lịch
sử, đó là một quãng thời gian dài lâu mà toàn dân cùng nhau trải qua giai đoạn phát
triển kinh tế xã hội, cùng nhau chứng kiến giai đoạn lịch sử chuyển mình sang một
hình thái kinh tế xã hội mới tiến lên cộng sản chủ nghĩa. Đi lên chủ nghĩa xã hội là một
tất yếu khách quan theo đúng quy luật tiến hóa của lịch sử. Tuy nhiên, xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở một nước kinh tế kém phát triển như nước ta là quá trình phấn đấu đầy
“khó khăn” và “gian khổ”, chưa có tiền lệ trong lịch sử, song Đảng cộng sản Việt
Nam, nhân dân Việt Nam vẫn kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong suốt
hơn 85 năm qua. Để thực hiện được mục tiêu đó cần thiết phải xây dựng một cơ cấu
kinh tế hợp lý. Trong đó cần phải xác vai trò, tỷ trọng và mối quan hệ hợp thành giữa
các ngành kinh tế quốc dân, giữa các vùng, lãnh thổ và giữa các thành phần kinh tế.
Các yếu tố hợp thành cơ cấu kinh tế phải được thể hiện cả về mặt số lượng cũng như
về mặt chất lượng và được xác định trong những giai đoạn nhất định, phù hợp với
những đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội cụ thể của mỗi quốc gia qua từng thời kỳ. Vậy
phải làm sao để có được cái nhìn toàn diện để phát triển kinh tế? Đến đây, ta nhìn về tư
tưởng của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
của Việt Nam. Đó là quan điểm mang ý nghĩa chiến lược, với tư duy logic vượt thời
đại mà cho tới tận bây giờ Đảng và Chính phủ vẫn tiếp tục học tập và làm theo lời Bác
để thực hiện phát triển kinh tế quốc dân. Với ý nghĩa to lớn và thiết thực như vậy, đề
tài “Tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Sự vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay?” đã được chọn
và trình bày sau đây.
3
NỘI DUNG
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về những đặc điểm của nền kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác phải trải
qua giai đoạn trung gian, C.Mác và Ph.Ăngghen gọi đó là thời kỳ quá độ. C.Mác đã
khẳng định giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản là một thời kỳ chuyển
hóa cách mạng từ xã hội nọ thành xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy sẽ là một thời
kỳ quá độ chính trị, trong đó nhà nước không thể là cái gì khác hơn là chuyên chính
cách mạng của giai cấp vô sản. Hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời có
quá trình phát triển qua các giai đoạn, từ thấp đến cao: giai đoạn thấp của chủ nghĩa
cộng sản; giai đoạn cao hơn của chủ nghĩa cộng sản. Thời kỳ Mác và Ăngghen trong
bối cảnh của thế kỷ XIX ở phương Tây vấn đề kinh tế của thời kỳ quá độ chưa đặt ra
nên các ông chỉ mới đề cập đến nội dung chính trị. V.I.Lênin đã kế thừa, phát huy tư
tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, đồng thời Lênin cụ thể hóa việc phân kỳ hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa thành ba giai đoạn: Giai đoạn thấp của chủ nghĩa
cộng sản gọi là chủ nghĩa xã hội; Giai đoạn cao được gọi là chủ nghĩa cộng sản hay xã
hội cộng sản; Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu và lâu
dài. V.I.Lênin phân tích đặc điểm kinh tế của các quốc gia quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
từ đó cho rằng có nhiều kiểu quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là kiểu “quá độ” của các
nước đã qua chủ nghĩa tư bản và “quá độ” của những nước “bỏ qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa” đi lên chủ nghĩa xã hội.
Ông chỉ rõ đặc điểm kinh tế nổi bật nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là sự tồn tại nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế trong
một hệ thống kinh tế quốc dân thống nhất (những yếu tố của xã hội cũ bên cạnh những
nhân tố mới của chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa đấu tranh với
nhau). Đây là bước quá độ trung gian tất yếu trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội, không thể dùng ý chí để xóa bỏ ngay kết cấu nhiều thành phần của nền kinh tế,
nhất là đối với những nước còn ở trình độ chưa trải qua sự phát triển của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội được xác lập trên cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu
về tư liệu sản xuất với những hình thức tổ chức kinh tế đa dạng, đan xen hỗn hợp và
tương ứng với nó là những hình thức phân phối khác nhau, trong đó hình thức phân
phối theo lao động tất yếu ngày càng giữ vai trò là hình thức phân phối chủ đạo.
Không phải chỉ đề ra những quan điểm lý luận, mà V.I.Lênin còn là người trực
tiếp lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện, vận dụng các luận điểm lý luận đó vào thực tiễn xây
4
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga sau nội chiến. Từ mùa xuân năm 1921, nước Nga
chuyển sang giai đoạn mới của cách mạng, thì Chính sách cộng sản thời chiến không
còn thích hợp nữa, mà còn trở thành lực cản đối với sự phát triển vì đã làm triệt tiêu
động lực của những người sản xuất, Lênin cùng với Đảng Bôn-sê-vích Nga đưa ra và
thực hiện Chính sách kinh tế mới (NEP) để thay thế Chính sách cộng sản thời chiến.
Chính sách kinh tế mới với nhiều nội dung khác nhau, trong đó có nội dung cơ bản là
sử dụng sức mạnh kinh tế của nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; phát
triển sản xuất và lưu thông hàng hóa; sử dụng các hình thức kinh tế quá độ như khuyến
khích phát triển sản xuất hàng hóa nhỏ của nông dân, thợ thủ công, khuyến khích phát
triển kinh tế tư bản tư nhân, phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước, chấn chỉnh lại các
doanh nghiệp nhà nước, chuyển mạnh sang hạch toán kinh tế... Và V.I.Lênin cũng chủ
trương đẩy mạnh hợp tác kinh tế với các nước tư bản phương Tây để tranh thủ kỹ
thuật, vốn và kinh nghiệm quản lý...
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam
2.1 Quan điểm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam
Kế thừa những quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng không ngừng
và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xuất phát từ đặc điểm, điều kiện của Việt Nam,
Hồ Chí Minh đã khẳng định: Thời kỳ quá độ “là thời kỳ dân chủ mới”, tiến dần lên
chủ nghĩa xã hội. Ở Việt Nam là hình thái quá độ gián tiếp với: “Đặc điểm to nhất là từ
một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Đặc điểm này chi phối tác động đến mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, nhằm từng bước xóa bỏ triệt để các tàn tích của chế độ thực
dân, phong kiến, đồng thời từng bước gây dựng các mầm mống cho chủ nghĩa xã hội
phát triển, đó là một tất yếu.
Về nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: Phải tạo ra những điều kiện cần và đủ về cơ sở vật chất; đồng thời, Đảng
phải “lãnh đạo toàn dân thực hiện dân chủ mới, xây dựng điều kiện để tiến lên chủ
nghĩa xã hội”. Trong đó, “nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền
tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, ... tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có
công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá
trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền
kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”.
5
Những nội dung tư tưởng về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí
Minh không chỉ là sự tiếp thu, kế thừa những giá trị trong hệ thống lý luận chủ nghĩa
Mác - Lênin về thời kỳ quá độ, mà còn được bổ sung, phát triển trong điều kiện lịch sử
mới; qua đó, tiếp tục khẳng định và làm sáng rõ bản chất khoa học, cách mạng của chủ
nghĩa Mác - Lênin.
2.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam
Bác đã chỉ rõ nội dung nhiệm vụ cụ thể trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội rất toàn diện. Trên lĩnh vực kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất là vấn đề mấu
chốt, tăng năng suất lao động trên cơ sở công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, cùng với
thiết lập quan hệ sản xuất, cơ chế quản lý kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế, ngành,
vùng, lãnh thổ trong thời kỳ quá độ. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng quan hệ phân
phối và quản lý kinh tế. Theo Người, quản lý kinh tế phải dựa trên cơ sở hạch toán,
đem lại hiệu quả cao, sử dụng tốt các đòn bẩy để phát triển sản xuất.
Trong bối cảnh nền kinh tế của nước ta còn nghèo nàn, kỹ thuật lạc hậu, Hồ Chí
Minh xác định nhiệm vụ quan trọng nhất của thời kỳ quá độ là phải cải tạo nền kinh tế
cũ, xây dựng nền kinh tế mới có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại. Đây là quá
trình xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Giữa cải tạo và xây
dựng thì xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài và phải luôn gắn với việc thực hiện
đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
2.2.1 Cơ cấu thành phần kinh tế
a. Thừa nhận sự tồn tại khách quan của các thành phần kinh tế
Nhận thức rõ tính quy luật của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở một nước
nông nghiệp lạc hậu như Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, trong thời kỳ quá
độ ở Việt Nam sẽ tất yếu tồn tại đan xen nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Từ nhận
định: “Trong nước ta hiện nay có những hình thức sở hữu chính về tư liệu sản xuất như
sau: sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân, sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập
thể của nhân dân lao động, sở hữu của người lao động riêng lẻ, một ít tư liệu sản xuất
thuộc sở hữu của nhà tư bản”, Người kết luận: “Mục đích của chế độ ta là xóa bỏ các
hình thức sở hữu không xã hội chủ nghĩa, làm cho nền kinh tế gồm nhiều thành phần
phức tạp trở nên một nền kinh tế thuần nhất, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở
hữu tập thể”. Tuy nhiên, mục đích đó phải được thực hiện từng bước phù hợp với điều
kiện cụ thể
6
b. Xác định tính chất của các thành phần kinh tế và chính sách của Nhà nước đối
với từng thành phần kinh tế.
Khi nghiên cứu Chính sách kinh tế mới (NEP) của Lênin để vận dụng vào hoàn
cảnh cụ thể của Việt Nam, ngay từ trong kháng chiến chống Pháp, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói rõ, ở vùng tự do của ta, còn tồn tại 6 thành phần kinh tế. Trong tác phẩm
"Thường thức chính trị" viết năm 1953, Hồ Chí Minh đã nêu rõ bản chất của chế độ
công hữu xã hội chủ nghĩa và đã cụ thể hóa các thành phần kinh tế bao gồm:
+ Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô
+ Kinh tế quốc doanh
+ Các hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp
+ Kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghệ
+ Kinh tế tư bản của tư nhân
+ Kinh tế tư bản quốc gia
Sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần là đặc điểm mới của nền kinh tế
Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Bên cạnh các thành phần kinh tế xã
hội chủ nghĩa thì có sự tồn tại của thành phần là kinh tế phong kiến. Đây là thành phần
kinh tế mang tính đặc thù vì nó phản ánh trình độ phát triển kinh tế thấp với chế độ sở
hữu phong kiến về ruộng đất và trong hoàn cảnh đặc thù yêu cầu phải tiếp tục kháng
chiến để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc, cách mạng dân chủ. Như vậy, Hồ
Chí Minh, đã nhận thức rõ vị trí, vai trò của từng thành phần kinh tế trong nền kinh tế
và có cơ sở để hoạch định chính sách đảm bảo ổn định nền kinh tế và góp phần quan
trọng đảm bảo kháng chiến thắng lợi.
Khi nước ta hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ rõ, quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước tiền tư bản (Trung Quốc,
Việt Nam) phải “kinh qua chế độ dân chủ mới”. Trong chế độ dân chủ mới có 5 loại
kinh tế khác nhau:
+ Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung của nhân
dân)
+ Các hợp tác xã (nó là nửa chủ nghĩa xã hội, và sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội)
+ Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác
xã, tức là nửa chủ nghĩa xã hội)
+ Tư bản của tư nhân
7
+ Tư bản của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh
doanh).
Người quan điểm nền kinh tế nước ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội
chứ không theo hướng chủ nghĩa tư bản vì loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển
nhanh hơn; Nhà nước cần quan tâm đến sự phát triển của các thành phần kinh tế ở các
mức độ phù hợp.
Như vậy, cơ cấu thành phần kinh tế trong chế độ dân chủ mới ở Miền Bắc Việt
Nam sau năm 1954 so với cơ cấu kinh tế Việt Nam trong vùng tự do 1945-1954 ở
những điểm thống nhất và có những điểm thay đổi sau:
+ Điểm thống nhất: Trong nền kinh quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì đặc điểm
kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc Việt Nam là sự
tồn tại khách quan của các thành phần kinh tế. Và tồn tại các thành phần kinh tế phổ
biến: Kinh tế quốc doanh; Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ; Tư bản của
tư nhân. Thành phần kinh tế quá độ: Các hợp tác xã; Tư bản của Nhà nước.
+ Điểm thay đổi:
Một là, khác với thời kháng chiến, trong chế độ dân chủ mới không còn
thành phần kinh tế phong kiến. Cải cách ruộng đất đã triệt tiêu chế độ sở
hữu phong kiến về ruộng đất. Người nông dân đã trở thành người cày có
rộng, chủ sở hữu ruộng đất. Điều này một lần nữa khẳng định lại nhận
định của Hồ Chí Minh: làm sản dân quyền cách mạng thổ địa
cách mạng để đi tới hội cộng sản”. Muốn đi tới chủ nghĩa cộng sản
thì dân tộc phải độc lập và dân cày phải có ruộng.
Hai là, các thành phần kinh tế thay đổi về vị trí và vai trò trong nền kinh
tế. Ví dụ, kinh tế quốc doanh là hình thức sở hữu toàn dân, lãnh đạo nền
kinh tế quốc dân, phát triển thành phần kinh tế quốc doanh tạo nền tảng
vật chất cho chủ nghĩa hộithúc đẩy việc cải tạo hội chủ nghĩa.
Như vậy, vị trí, vai trò của thành phần kinh tế quốc doanh đã bước
phát triển mới, từ chỗ tính chất chủ nghĩa hội đã trở thành thành
phần kinh tế thực sự đại diện cho chủ nghĩa hội vai trò “lãnh
đạo” trong nền kinh tế đảm bảo định hướng hội chủ nghĩa của sự
phát triển kinh tế.
2.2.2 Cơ cấu ngành kinh tế
Hồ Chí Minh khẳng định: “nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có hai chân là công
nghiệp và nông nghiệp… hai chân không đều nhau, không thể bước mạnh được”.
Ngay từ bước đầu phát triển kinh tế, Hồ Chí Minh đã rất coi trọng ngành nông nghiệp
nước ta. Theo Người, nông nghiệp phải là gốc, là trụ cột chính bởi vì nông nghiệp bảo
8
đảm lương thực, thực phẩm nguồn sống của con người, là cơ sở cho các ngành kinh tế
khác. Hơn nữa, vốn dĩ ở nước ta với tiền đề địa lý là nước nhiệt đới cận xích đạo lấy
nông nghiệp là ngành kinh tế chủ yếu với bề dày lịch sử của nền nông nghiệp lúa nước
trải dài suốt quá trình kiến quốc, nông dân chiếm đại đa số trong dân cư, cho nên việc
quan tâm phát triển nông nghiệp là một vấn đề cực kỳ quan trọng trong chiến lược
phát triển kinh tế nước nhà.
Phát triển nông nghiệp ở nước ta lúc đó là thực sự quan trọng, không chỉ để
đảm bảo lương thực, thực phẩm cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm việc
làm cho người lao động, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, mà điều quan trọng hơn là
nó sẽ là cơ sở ban đầu cho các ngành kinh tế khác, cũng như cơ sở cho vấn đề công
nghiệp hóa nước nhà. Nông nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ lương thực
cho nhân dân; cung cấp đủ nguyên liệu… Công nghiệp phải phát triển mạnh để cung
cấp hàng tiêu dùng cần thiết cho nhân dân, trước hết là cho nông dân; cung cấp máy
bơm nước, phân hóa học, thuốc trừ sâu... để đẩy mạnh nông nghiệp và cung cấp dàn
máy cày, máy bừa cho các hợp tác xã nông nghiệp. Cho nên công nghiệp và nông
nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển, như hai chân đi khỏe và đi đều
thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích. Thế là thực hiện liên minh
công nông để xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, sung sướng cho
nhân dân.
Tiếp đó, theo Bác chìa khóa để thúc đẩy mối quan hệ giữa nông nghiệp và công
nghiệp không đâu xa mà chính là thương nghiệp. Vai trò của thương nghiệp được
Người giải thích như sau: “Trong nền kinh tế quốc dân có ba mặt quan trọng: nông
nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp. Ba mặt tác động quan hệ mật thiết với nhau.
Thương nghiệp cái khâu giữa công nghiệp và nông nghiệp. Thương nghiệp đưa hàng
đến nông thôn phục vụ nông dân thương nghiệp lại đưa nông sản, nguyên liệu cho
thành thị tiêu dùng. Nếu không thương nghiệp bị đứt thì không liên kết được nông
nghiệp với công nghiệp, không củng cố được liên minh công nông, công tác không
chạy thì hoạt động nông nghiệp, công nghiệp, sẽ bị rời rạc”.
2.2.3 Cơ cấu vùng kinh tế
Nói về quan điểm của mình về cơ cấu vùng thì Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra
phương hướng là cơ cấu vùng kinh tế trọng điểm sao cho phù hợp với nông thôn,
thành thị và hải đảo để từ đó rút ngắn khoảng cách thu nhập, văn minh và nhận thức
giữa các vùng.
Tiếp nữa, Người khẳng định phải xây dựng nền kinh tế tự chủ đi đôi với mở
rộng hợp tác quốc tế. Bác cho rằng độc lập là phải độc lập toàn diện triệt để, một quốc
gia dân tộc độc lập là một quốc gia dân tộc độc lập về mọi mặt: chính trị, kinh tế, quốc
phòng, văn hóa tư tưởng. Mà quan trọng nhất với Người đó chính là độc lập và chính
9
trị và kinh tế, tức là không lệ thuộc vào bất kỳ quốc gia dân tộc nào khác như một số
nước trung đông. Chúng ta độc lập toàn diện, độc lập về mọi mặt nhưng không có
nghĩa là đóng cửa khép kín mà vẫn có sự giao thương với các nước khác.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định vai trò của khoa học kĩ thuật đối với sự
phát triển của nền kinh tế nước nhà. Người cho rằng chúng ta không có điều kiện
thuận lợi cho khoa học kĩ thuật thì giờ cần phải học tập tiếp thu từ các nước đi trước,
tìm tòi và tiếp thu khoa học kĩ thuật, nguồn vốn của nước họ và đặc biệt là những kinh
nghiệm đi trước trong quản lý và sản xuất đặc biệt là sản xuất hàng hóa. Từ đó ứng
dụng về nước ta sao cho phù hợp với hoàn cảnh địa lý, tập tục thói quen đặc điểm của
nền kinh tế nước nhà. Song song với việc học tập tiếp thu, chúng ta cũng không được
quên đi những tinh hoa của nước nhà, phải biết “hòa nhập mà không hòa tan”, cũng
như giữ vững tôn trọng độc lập chủ quyền, ngăn cấm mọi hành động ảnh hưởng đến
nền độc lập của quốc gia mình và không can thiệp tới độc lập chủ quyền của quốc gia
dân tộc khác.
Ngoài ra, Nhà nước cần thực hiện tốt việc tập trung quản lý kinh tế, tức quản lý
và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, đưa ra những nguyên tắc trong quá trình quản lý cho
hợp lý, đảm bảo lợi ích chung của các thành phần kinh tế, công bằng với từng vùng
kinh tế, ngành kinh tế, cải thiện những mâu thuẫn trong nền kinh tế nước nhà. Người
cũng khẳng định cần chống tiêu cực trong hoạt động quản lý, xử phạt nghiêm minh
những hành vi tham ô tham nhũng, bè phái, đặc biệt là Đảng viên thì càng phải có
những biện pháp xử lý hợp tình hợp lý, nếu nghiêm trọng thì khai trừ khỏi Đảng cũng
những hình phạt đúng luật đúng nguyên tắc để làm gương cho những người khác và
thanh lọc Đảng trong sạch.
Kết hợp với đó là những kế hoạch hóa trong phát triển kinh tế cho phù hợp với
từng thời kỳ, phải có những quan điểm cụ thể, kiện toàn bộ máy nhà nước thực hiện
quản lý. Việc quản lý kinh tế được Bác chú tâm rất kỹ. Theo Bác, việc quan tâm tới
cán bộ quản lý kinh tế cũng rất quan trọng. Mà quan tâm ở đây là quan tâm tới chất
lượng đội ngũ quản lý, cần có chuyên môn quản lý, kinh nghiệm quản lý đúng ngành
phù hợp với vùng kinh tế, đồng thời phải có những phẩm chất cần có của người quản
lý, của công dân yêu nước. Có như vậy thì việc phát triển các vùng kinh tế trọng điểm
mới có thể thành công.
Ta có thể thấy, trên cơ sở nhận thức về tính quy luật chung, tính đặc thù trong
nền kinh tế của từng nước, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo quan điểm của
V.I.Lênin về đặc điểm kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vào
hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam và trong từng giai đoạn cụ thể.
PHẦN 2: VẬN DỤNG
1. Hoàn cảnh quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
10
Thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam khởi đầu từ năm 1954 trong
miền Bắc và đến năm 1975 cả nước cùng tiến hành Cách mạng xã hội Chủ nghĩa, cùng
quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Nước ta ở thời kỳ đó có thể coi là một nước nông nghiệp
lạc hậu, chưa phát triển và muốn nhảy vọt lên Chủ nghĩa xã hội mà bỏ qua giai đoạn tư
bản chủ nghĩa. Đồng nghĩa với việc chúng ta đã phải đối mặt với những thử thách vô
cùng khó khăn ở trước mắt bởi ở các nước tư bản đi lên xã hội Chủ nghĩa khác họ đã
có thể áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật trong khi nước ta lại chỉ dừng lại ở học
tập và áp dụng các công nghệ đó.
2. Thực trạng vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong việc phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay
Trung thành với tư tưởng Mác-Lê nin, thế nhưng Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí
Minh vẫn luôn không ngừng sáng tạo, đổi mới và phát triển những lý luận về quá độ
lên Chủ nghĩa xã hội sao cho phù hợp với những đặc điểm, bối cảnh cũng như tình
hình Cách mạng của nước ta. Điều đó được thể hiện ở tổng quan chung, lịch sử và cụ
thể là: Khẳng định phương hướng, con đường tất yếu để đi lên Chủ nghĩa xã hội đó là
“tất cả các dân tộc đều tiến đến xã hội chủ nghĩa” như chủ nghĩa Mác - Lênin đã đề
cập
a. Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần
“Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành
thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta” là điều mà Đảng ta đã
khẳng định. Trong đó theo tư tưởng của Người về xây dựng Chủ nghĩa xã hội và phát
triển nền kinh tế trong sự nghiệp đổi mới, Đảng và Nhà nước phải cùng nhau giải
phóng mọi năng lực sản xuất, đánh dấu mốc mang ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính
quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên xã hội chủ nghĩa.
Đúc kết những mục tiêu, mô hình đã định ra và xây dựng ở chặng đường đầu
thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, Cương lĩnh 1991 do Đại hội VII đã xác định 6
đặc trưng về xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng. Tổng kết thành tựu trong quá
trình xây dựng đất nước trong “thời kỳ phát triển mới”, đồng thời định hướng cho
“giai đoạn sau” đến giữa thế kỷ XXI, Văn bản Đại hội X và Cương lĩnh của đại hội
cùng khoá đã bổ sung toàn diện, hoàn thiện hơn thành 8 đặc trưng xã hội chủ nghĩa mà
nhân dân ta phải đạt được là: “ dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh;
do nhân dân làm chủ, có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền
văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất
công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong
cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp nhau cùng tiến độ; có Nhà
11
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản”. Trong đó, đặc trưng tổng quát là “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”.
Thể chế kinh tế trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được Đảng ta
tập trung xây dựng, từng bước bổ sung, hoàn thiện. Nếu như từ Đại hội VI đến Đại hội
VII, Đảng đã khởi thảo và tiến tới xác định trong Cương lĩnh 1991 “ nền kinh tế có cơ
cấu nhiều thành phần” là đặc trưng cơ bản của thể chế kinh tế ở thời kỳ quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội, thì đến Cương lĩnh 2011 và Văn kiện Đại hội XII đã “thống nhất nhận
thức nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận
hành đầy đủ, đồng bộ theo quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”. Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng diễn ra năm 2006 đã xác định các thành phần
kinh tế của nước ta thời điểm đó, bám sát vào tư tưởng Hồ Chí Minh là có 5 thành
phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản
tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Nhìn chung,
các thành phần kinh tế có tổ chức hoạt động đúng pháp luật, đóng vai trò hợp thành
nên nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng nhau phát triển, hợp tác
và cạnh tranh lành mạnh. Tiếp tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng ta
diễn ra vào năm 2011 lại một lần nữa nhấn mạnh mục tiêu phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa với “nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối”. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII của Đảng cũng đã khái quát lại những lý luận của mình dựa trên cơ
sở tổng kết quá trình 30 năm đổi mới: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế
Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế,
các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp
luật”. Và cho tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã một lần nữa giúp
chúng ta nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của các thành phần kinh tếtrong thời kỳ
đổi mới, nhấn mạnh về việc cải tiến để phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản
xuất của nước ta trong giai đoạn tiếp theo”.
b. Chủ chương chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phù hợp
12
Sau Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI nước ta đã có bước ngoặt thay đổi toàn
diện bằng việc đặt trọng tâm vào nền nông nghiệp theo lời của chủ tịch Hồ Chí Minh
và từ đó nền kinh tế đã có dấu hiệu khởi sắc. Qua 35 công cuộc đổi mới thì cuối cùng
nền kinh tế Việt Nam đã có được cho mình những thành tựu đặc sắc và đang từng
bước hội nhập sâu rộng với quốc tế. Đặc biệt phải kể đến là trong giai đoạn 2015-2020
kinh tế Việt Nam đã có sự chuyển dịch cơ cấu mạnh mẽ trong việc rút bớt nguồn lực
của nông, lâm, ngư nghiệp và đẩy mạnh phát triển nền công nghiệp cũng như khai thác
khoáng sản, xây dựng và dịch vụ. Nhờ đó mới thu hút được thêm nhiều nguồn lực
quan trọng.
Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại đại hội IX đã
chỉ rõ phương hướng phát triển nền kinh tế quốc dân là: “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
cơ cấu đầu tư dựa trên cơ sở phát huy các thế mạnh và các lợi thế so sánh của đất
nước, gắn với nhu cầu thị trường trong và ngoài nước, đáp ứng về cơ bản các nhu cầu
thiết yếu về đời sống nhân dân và yêu cầu trang bị lại trong nền kinh tế và quốc phòng
an ninh”. Đồng thời Đảng cũng nhấn mạnh việc tăng cường chỉ đạo và các nguồn lực
cần thiết cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn từ đó tiếp tục
phát triển và đầu tư về kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội ở nông thôn để đưa nông, lâm,
ngư nghiệp lên trình độ mới, có thể ứng dụng khoa học kĩ thuật để cải thiện lợi nhuận.
Cùng với đó dần chuyển dịch lao động sang khu vực công nghiệp và dịch vụ, nâng cao
chất lương đội ngũ nhân lực để bảo đảm cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa
đất nước vững tiến trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
c. Phát triển các vùng kinh tế trọng điểm
- Việt Nam có 7 vùng kinh tế trọng điểm là:
+ Trung du và miền núi phía Bắc
+ Đồng bằng Bắc bộ
+ Bắc Trung Bộ
+ Ven biển Nam Trung Bộ
+ Tây Nguyên
+ Đông Nam Bộ
+ Đồng bằng sông Cửu Long
Phụ thuộc vào đặc điểm địa lý, dân cư, thói quen của từng vừng mà Đảng và
Nhà nước đã có những vận dụng và phương hướng nhất định để phát triển kinh tế của
7 vùng kinh tế trọng điểm này. Ví dụ, trung du miền núi phía Bắc có lợi thế về khoáng
sản, địa hình là các dãy núi cao như dãy Hoàng Liên Sơn, tạo điều kiện để phát triển
việc khai thác khoáng sản và thuỷ điện. Hay vùng Nam Trung Bộ là lãnh thổ dài hẹp,
giáp với biển Đông, phù hợp để phát triển nghề săn bắt đánh cá. Đặc biệt, Nhà nước
13
nhấn mạnh phát triển lĩnh vực du lịch dịch vụ biển ở khu vực này. Xét trong bối cảnh
hội nhập kinh tế, thay đổi trong trục kinh tế và chính trị của thế giới, sự xuất hiện của
một trật tự thế giới đa cực, sự nổi lên của Trung Quốc và Ấn Độ thì Việt Nam chúng ta
phải có những đổi mới tư duy, chuyển từ “mở rộng quan hệ, gia nhập và tham gia hợp
tác quốc tế” thành “ chủ động đóng góp tích cực, khởi xướng và tham gia định hình
các cơ chế hợp tác”. Hơn nữa, tiếp cận đa ngành, liên ngành và đa phương hiện nay
đang là xu thế phổ biến nhất là trong hoàn cảnh toàn cầu hóa đang ngày phát triển
mạnh mẽ cho nên Việt Nam càng phải có sự khai thác lãnh thổ linh hoạt và tối ưu nhất
trong đó tạo ra sự đột phá để đáp ứng yêu cầu của cạnh tranh quốc tế và hội nhập toàn
cầu. Để thực hiện được những điều này thì Đảng và Chính phủ nhận định rằng cần
phải tập trung vào việc: Hoàn thiện quy hoạch vùng và lấy đó làm cơ sở để phát triển
các vùng kinh tế trọng điểm; nâng cao chất lượng vật chất, gia tăng kết cấu cơ sở hạ
tầng kiến trúc xã hội, đảm bảo việc sử dụng tài nguyên vùng kinh tế hợp lý song song
với bảo vệ môi trường.
14
KẾT LUẬN
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam đã thể hiện những nội dung đặc sắc, trên cơ sở kế thừa và phát triển sáng tạo
những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin vào đặc điểm, tình hình xã hội Việt Nam.
Thực tiễn luôn vận động biến đổi và đang đặt ra nhiều vấn đề mới, những nội dung tư
tưởng về thời kỳ quá độ của Người vẫn giữ nguyên giá trị, cần tiếp tục bổ sung, phát
triển trong điều kiện mới.
Qua tìm hiểu và phân tích, chúng ta đúc kết lại trong tư tưởng của Hồ Chí
Minh, Người chia cơ cấu kinh tế thành: cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu ngành kinh
tế, cơ cấu vùng kinh tế. Trong đó, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được Người phân
tích một cách sâu sắc và rành mạch nhất, chỉ rõ được điểm mạnh và yếu của từng
thành phần để có thể tìm ra phương hướng phù hợp phát triển cho từng thành phần
kinh tế. Có thể nói, 5 thành phần kinh tế ở nước ta khi đi lên chủ nghĩa xã hội được
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra nay đã hiện hữu đầy đủ trong đường lối của Đảng thời kỳ
đổi mới. Những thành phần này được Đảng nhận thức sâu sắc và luôn cố gắng hoàn
thiện trong thực tiễn. Trên cơ sở nhận thức đó, Đảng đề ra đường lối chính sách ngày
càng phù hợp và nhất quán với từng loại hình kinh tế, cũng như mục tiêu, phương
hướng của nền kinh tế nhiều thành phần qua từng Đại hội trong thời kì đổi mới. Nhờ
vậy mà nền kinh tế của nước ta đã có sự phát triển vượt bậc, góp phần tạo nên thành
công của thời kỳ đổi mới, nâng cao và cải thiện đời sống nhân dân.
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (2021), Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập (2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
3. C.Mác và Ph.Ăng ghen, Toàn tập (2002), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
4. V.I.Lênin, Toàn tập (1980), Nxb Tiến bộ, Mátxcơva
5. Hồ Chí Minh, Thường thức chính trị (1954), Nxb Sự thật
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, IX, X,
XI, XII, XIII (1996, 2001, 2006, 2011, 2016, 2021), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
8. Tạp chí Tổ chức nhà nước (2022): Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần và sự vận dụng của Đảng ta trong thời
kỳ đổi mới (tcnn.vn)
9. Tạp chí tài chính: Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam và những vấn
đề đặt r
16
| 1/16

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA THỐNG KÊ BÀI TẬP LỚN
MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI: QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CƠ CẤU NỀN KINH TẾ NƯỚC
TA TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ VẬN DỤNG CỦA
ĐẢNG TRONG XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ NƯỚC TA HIỆN NAY

Họ và tên sinh viên : Nguyễn Trung Kiên MSV : 11223162 Lớp tín chỉ : LLTT1101 - 07 Giảng viên
: TS.Nguyễn Trí Thiện HÀ NỘI - 2023
MỞ ĐẦU...............................................................................................................................................3
NỘI DUNG...........................................................................................................................................4
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN............................................................................................................4
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về những đặc điểm của nền kinh tế trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội
.........................................................................................................4
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam
....................................................................................................................................5
2.1 Quan điểm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam............5
2.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam
....................................................................................................................................6
2.2.1 Cơ cấu thành phần kinh tế..................................................................................................6
a. Thừa nhận sự tồn tại khách quan của các thành phần kinh tế.............................................6
b. Xác định tính chất của các thành phần kinh tế và chính sách của Nhà nước đối với từng
thành phần kinh tế.
......................................................................................................................6
2.2.2 Cơ cấu ngành kinh tế...........................................................................................................8
2.2.3 Cơ cấu vùng kinh tế.............................................................................................................9
PHẦN 2: VẬN DỤNG....................................................................................................................10 1.
Hoàn cảnh quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.......................................................10 2.
Thực trạng vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát
triển nền kinh tế nước ta hiện nay.............................................................................................11
a. Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần...............................................................................11 b.
Chủ chương chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phù hợp.................................................12 c.
Phát triển các vùng kinh tế trọng điểm.............................................................................12
KẾT LUẬN.........................................................................................................................................14
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................................................15 2 MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh - một người có sự nghiệp cách mạng vĩ đại, với sự vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của đất nước mình, Người
đã đề ra những đường lối đúng đắn, đưa Cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ta đã trải qua hơn 60 năm lịch
sử, đó là một quãng thời gian dài lâu mà toàn dân cùng nhau trải qua giai đoạn phát
triển kinh tế xã hội, cùng nhau chứng kiến giai đoạn lịch sử chuyển mình sang một
hình thái kinh tế xã hội mới tiến lên cộng sản chủ nghĩa. Đi lên chủ nghĩa xã hội là một
tất yếu khách quan theo đúng quy luật tiến hóa của lịch sử. Tuy nhiên, xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở một nước kinh tế kém phát triển như nước ta là quá trình phấn đấu đầy
“khó khăn” và “gian khổ”, chưa có tiền lệ trong lịch sử, song Đảng cộng sản Việt
Nam, nhân dân Việt Nam vẫn kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong suốt
hơn 85 năm qua. Để thực hiện được mục tiêu đó cần thiết phải xây dựng một cơ cấu
kinh tế hợp lý. Trong đó cần phải xác vai trò, tỷ trọng và mối quan hệ hợp thành giữa
các ngành kinh tế quốc dân, giữa các vùng, lãnh thổ và giữa các thành phần kinh tế.
Các yếu tố hợp thành cơ cấu kinh tế phải được thể hiện cả về mặt số lượng cũng như
về mặt chất lượng và được xác định trong những giai đoạn nhất định, phù hợp với
những đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội cụ thể của mỗi quốc gia qua từng thời kỳ. Vậy
phải làm sao để có được cái nhìn toàn diện để phát triển kinh tế? Đến đây, ta nhìn về tư
tưởng của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
của Việt Nam. Đó là quan điểm mang ý nghĩa chiến lược, với tư duy logic vượt thời
đại mà cho tới tận bây giờ Đảng và Chính phủ vẫn tiếp tục học tập và làm theo lời Bác
để thực hiện phát triển kinh tế quốc dân. Với ý nghĩa to lớn và thiết thực như vậy, đề
tài “Tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Sự vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay?” đã được chọn và trình bày sau đây. 3 NỘI DUNG
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về những đặc điểm của nền kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác phải trải
qua giai đoạn trung gian, C.Mác và Ph.Ăngghen gọi đó là thời kỳ quá độ. C.Mác đã
khẳng định giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản là một thời kỳ chuyển
hóa cách mạng từ xã hội nọ thành xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy sẽ là một thời
kỳ quá độ chính trị, trong đó nhà nước không thể là cái gì khác hơn là chuyên chính
cách mạng của giai cấp vô sản. Hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời có
quá trình phát triển qua các giai đoạn, từ thấp đến cao: giai đoạn thấp của chủ nghĩa
cộng sản; giai đoạn cao hơn của chủ nghĩa cộng sản. Thời kỳ Mác và Ăngghen trong
bối cảnh của thế kỷ XIX ở phương Tây vấn đề kinh tế của thời kỳ quá độ chưa đặt ra
nên các ông chỉ mới đề cập đến nội dung chính trị. V.I.Lênin đã kế thừa, phát huy tư
tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, đồng thời Lênin cụ thể hóa việc phân kỳ hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa thành ba giai đoạn: Giai đoạn thấp của chủ nghĩa
cộng sản gọi là chủ nghĩa xã hội; Giai đoạn cao được gọi là chủ nghĩa cộng sản hay xã
hội cộng sản; Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu và lâu
dài. V.I.Lênin phân tích đặc điểm kinh tế của các quốc gia quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
từ đó cho rằng có nhiều kiểu quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là kiểu “quá độ” của các
nước đã qua chủ nghĩa tư bản và “quá độ” của những nước “bỏ qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa” đi lên chủ nghĩa xã hội.
Ông chỉ rõ đặc điểm kinh tế nổi bật nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là sự tồn tại nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế trong
một hệ thống kinh tế quốc dân thống nhất (những yếu tố của xã hội cũ bên cạnh những
nhân tố mới của chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa đấu tranh với
nhau). Đây là bước quá độ trung gian tất yếu trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội, không thể dùng ý chí để xóa bỏ ngay kết cấu nhiều thành phần của nền kinh tế,
nhất là đối với những nước còn ở trình độ chưa trải qua sự phát triển của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội được xác lập trên cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu
về tư liệu sản xuất với những hình thức tổ chức kinh tế đa dạng, đan xen hỗn hợp và
tương ứng với nó là những hình thức phân phối khác nhau, trong đó hình thức phân
phối theo lao động tất yếu ngày càng giữ vai trò là hình thức phân phối chủ đạo.
Không phải chỉ đề ra những quan điểm lý luận, mà V.I.Lênin còn là người trực
tiếp lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện, vận dụng các luận điểm lý luận đó vào thực tiễn xây 4
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga sau nội chiến. Từ mùa xuân năm 1921, nước Nga
chuyển sang giai đoạn mới của cách mạng, thì Chính sách cộng sản thời chiến không
còn thích hợp nữa, mà còn trở thành lực cản đối với sự phát triển vì đã làm triệt tiêu
động lực của những người sản xuất, Lênin cùng với Đảng Bôn-sê-vích Nga đưa ra và
thực hiện Chính sách kinh tế mới (NEP) để thay thế Chính sách cộng sản thời chiến.
Chính sách kinh tế mới với nhiều nội dung khác nhau, trong đó có nội dung cơ bản là
sử dụng sức mạnh kinh tế của nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; phát
triển sản xuất và lưu thông hàng hóa; sử dụng các hình thức kinh tế quá độ như khuyến
khích phát triển sản xuất hàng hóa nhỏ của nông dân, thợ thủ công, khuyến khích phát
triển kinh tế tư bản tư nhân, phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước, chấn chỉnh lại các
doanh nghiệp nhà nước, chuyển mạnh sang hạch toán kinh tế... Và V.I.Lênin cũng chủ
trương đẩy mạnh hợp tác kinh tế với các nước tư bản phương Tây để tranh thủ kỹ
thuật, vốn và kinh nghiệm quản lý...
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam
2.1 Quan điểm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Kế thừa những quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng không ngừng
và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xuất phát từ đặc điểm, điều kiện của Việt Nam,
Hồ Chí Minh đã khẳng định: Thời kỳ quá độ “là thời kỳ dân chủ mới”, tiến dần lên
chủ nghĩa xã hội. Ở Việt Nam là hình thái quá độ gián tiếp với: “Đặc điểm to nhất là từ
một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Đặc điểm này chi phối tác động đến mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, nhằm từng bước xóa bỏ triệt để các tàn tích của chế độ thực
dân, phong kiến, đồng thời từng bước gây dựng các mầm mống cho chủ nghĩa xã hội
phát triển, đó là một tất yếu.
Về nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: Phải tạo ra những điều kiện cần và đủ về cơ sở vật chất; đồng thời, Đảng
phải “lãnh đạo toàn dân thực hiện dân chủ mới, xây dựng điều kiện để tiến lên chủ
nghĩa xã hội”. Trong đó, “nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền
tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, ... tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có
công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá
trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền
kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”. 5
Những nội dung tư tưởng về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí
Minh không chỉ là sự tiếp thu, kế thừa những giá trị trong hệ thống lý luận chủ nghĩa
Mác - Lênin về thời kỳ quá độ, mà còn được bổ sung, phát triển trong điều kiện lịch sử
mới; qua đó, tiếp tục khẳng định và làm sáng rõ bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
2.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam

Bác đã chỉ rõ nội dung nhiệm vụ cụ thể trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội rất toàn diện. Trên lĩnh vực kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất là vấn đề mấu
chốt, tăng năng suất lao động trên cơ sở công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, cùng với
thiết lập quan hệ sản xuất, cơ chế quản lý kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế, ngành,
vùng, lãnh thổ trong thời kỳ quá độ. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng quan hệ phân
phối và quản lý kinh tế. Theo Người, quản lý kinh tế phải dựa trên cơ sở hạch toán,
đem lại hiệu quả cao, sử dụng tốt các đòn bẩy để phát triển sản xuất.
Trong bối cảnh nền kinh tế của nước ta còn nghèo nàn, kỹ thuật lạc hậu, Hồ Chí
Minh xác định nhiệm vụ quan trọng nhất của thời kỳ quá độ là phải cải tạo nền kinh tế
cũ, xây dựng nền kinh tế mới có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại. Đây là quá
trình xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Giữa cải tạo và xây
dựng thì xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài và phải luôn gắn với việc thực hiện
đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
2.2.1 Cơ cấu thành phần kinh tế
a. Thừa nhận sự tồn tại khách quan của các thành phần kinh tế

Nhận thức rõ tính quy luật của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở một nước
nông nghiệp lạc hậu như Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, trong thời kỳ quá
độ ở Việt Nam sẽ tất yếu tồn tại đan xen nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Từ nhận
định: “Trong nước ta hiện nay có những hình thức sở hữu chính về tư liệu sản xuất như
sau: sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân, sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập
thể của nhân dân lao động, sở hữu của người lao động riêng lẻ, một ít tư liệu sản xuất
thuộc sở hữu của nhà tư bản”, Người kết luận: “Mục đích của chế độ ta là xóa bỏ các
hình thức sở hữu không xã hội chủ nghĩa, làm cho nền kinh tế gồm nhiều thành phần
phức tạp trở nên một nền kinh tế thuần nhất, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở
hữu tập thể”. Tuy nhiên, mục đích đó phải được thực hiện từng bước phù hợp với điều kiện cụ thể 6
b. Xác định tính chất của các thành phần kinh tế và chính sách của Nhà nước đối
với từng thành phần kinh tế.

Khi nghiên cứu Chính sách kinh tế mới (NEP) của Lênin để vận dụng vào hoàn
cảnh cụ thể của Việt Nam, ngay từ trong kháng chiến chống Pháp, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói rõ, ở vùng tự do của ta, còn tồn tại 6 thành phần kinh tế. Trong tác phẩm
"Thường thức chính trị" viết năm 1953, Hồ Chí Minh đã nêu rõ bản chất của chế độ
công hữu xã hội chủ nghĩa và đã cụ thể hóa các thành phần kinh tế bao gồm:
+ Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô + Kinh tế quốc doanh
+ Các hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp
+ Kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghệ
+ Kinh tế tư bản của tư nhân
+ Kinh tế tư bản quốc gia
Sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần là đặc điểm mới của nền kinh tế
Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Bên cạnh các thành phần kinh tế xã
hội chủ nghĩa thì có sự tồn tại của thành phần là kinh tế phong kiến. Đây là thành phần
kinh tế mang tính đặc thù vì nó phản ánh trình độ phát triển kinh tế thấp với chế độ sở
hữu phong kiến về ruộng đất và trong hoàn cảnh đặc thù yêu cầu phải tiếp tục kháng
chiến để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc, cách mạng dân chủ. Như vậy, Hồ
Chí Minh, đã nhận thức rõ vị trí, vai trò của từng thành phần kinh tế trong nền kinh tế
và có cơ sở để hoạch định chính sách đảm bảo ổn định nền kinh tế và góp phần quan
trọng đảm bảo kháng chiến thắng lợi.
Khi nước ta hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ rõ, quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước tiền tư bản (Trung Quốc,
Việt Nam) phải “kinh qua chế độ dân chủ mới”. Trong chế độ dân chủ mới có 5 loại kinh tế khác nhau:
+ Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung của nhân dân)
+ Các hợp tác xã (nó là nửa chủ nghĩa xã hội, và sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội)
+ Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác
xã, tức là nửa chủ nghĩa xã hội) + Tư bản của tư nhân 7
+ Tư bản của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh doanh).
Người quan điểm nền kinh tế nước ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội
chứ không theo hướng chủ nghĩa tư bản vì loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển
nhanh hơn; Nhà nước cần quan tâm đến sự phát triển của các thành phần kinh tế ở các mức độ phù hợp.
Như vậy, cơ cấu thành phần kinh tế trong chế độ dân chủ mới ở Miền Bắc Việt
Nam sau năm 1954 so với cơ cấu kinh tế Việt Nam trong vùng tự do 1945-1954 ở
những điểm thống nhất và có những điểm thay đổi sau:
+ Điểm thống nhất: Trong nền kinh quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì đặc điểm
kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc Việt Nam là sự
tồn tại khách quan của các thành phần kinh tế. Và tồn tại các thành phần kinh tế phổ
biến: Kinh tế quốc doanh; Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ; Tư bản của
tư nhân. Thành phần kinh tế quá độ: Các hợp tác xã; Tư bản của Nhà nước. + Điểm thay đổi:
 Một là, khác với thời kháng chiến, trong chế độ dân chủ mới không còn
thành phần kinh tế phong kiến. Cải cách ruộng đất đã triệt tiêu chế độ sở
hữu phong kiến về ruộng đất. Người nông dân đã trở thành người cày có
rộng, chủ sở hữu ruộng đất. Điều này một lần nữa khẳng định lại nhận
định của Hồ Chí Minh: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Muốn đi tới chủ nghĩa cộng sản
thì dân tộc phải độc lập và dân cày phải có ruộng.
 Hai là, các thành phần kinh tế thay đổi về vị trí và vai trò trong nền kinh
tế. Ví dụ, kinh tế quốc doanh là hình thức sở hữu toàn dân, lãnh đạo nền
kinh tế quốc dân, phát triển thành phần kinh tế quốc doanh tạo nền tảng
vật chất cho chủ nghĩa xã hội và thúc đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, vị trí, vai trò của thành phần kinh tế quốc doanh đã có bước
phát triển mới, từ chỗ có tính chất chủ nghĩa xã hội đã trở thành thành
phần kinh tế thực sự đại diện cho chủ nghĩa xã hội và có vai trò “lãnh
đạo” trong nền kinh tế và đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển kinh tế.
2.2.2 Cơ cấu ngành kinh tế
Hồ Chí Minh khẳng định: “nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có hai chân là công
nghiệp và nông nghiệp… hai chân không đều nhau, không thể bước mạnh được”.
Ngay từ bước đầu phát triển kinh tế, Hồ Chí Minh đã rất coi trọng ngành nông nghiệp
nước ta. Theo Người, nông nghiệp phải là gốc, là trụ cột chính bởi vì nông nghiệp bảo 8
đảm lương thực, thực phẩm nguồn sống của con người, là cơ sở cho các ngành kinh tế
khác. Hơn nữa, vốn dĩ ở nước ta với tiền đề địa lý là nước nhiệt đới cận xích đạo lấy
nông nghiệp là ngành kinh tế chủ yếu với bề dày lịch sử của nền nông nghiệp lúa nước
trải dài suốt quá trình kiến quốc, nông dân chiếm đại đa số trong dân cư, cho nên việc
quan tâm phát triển nông nghiệp là một vấn đề cực kỳ quan trọng trong chiến lược
phát triển kinh tế nước nhà.
Phát triển nông nghiệp ở nước ta lúc đó là thực sự quan trọng, không chỉ để
đảm bảo lương thực, thực phẩm cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm việc
làm cho người lao động, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, mà điều quan trọng hơn là
nó sẽ là cơ sở ban đầu cho các ngành kinh tế khác, cũng như cơ sở cho vấn đề công
nghiệp hóa nước nhà. Nông nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ lương thực
cho nhân dân; cung cấp đủ nguyên liệu… Công nghiệp phải phát triển mạnh để cung
cấp hàng tiêu dùng cần thiết cho nhân dân, trước hết là cho nông dân; cung cấp máy
bơm nước, phân hóa học, thuốc trừ sâu... để đẩy mạnh nông nghiệp và cung cấp dàn
máy cày, máy bừa cho các hợp tác xã nông nghiệp. Cho nên công nghiệp và nông
nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển, như hai chân đi khỏe và đi đều
thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích. Thế là thực hiện liên minh
công nông để xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, sung sướng cho nhân dân.
Tiếp đó, theo Bác chìa khóa để thúc đẩy mối quan hệ giữa nông nghiệp và công
nghiệp không đâu xa mà chính là thương nghiệp. Vai trò của thương nghiệp được
Người giải thích như sau: “Trong nền kinh tế quốc dân có ba mặt quan trọng: nông
nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp. Ba mặt tác động quan hệ mật thiết với nhau.
Thương nghiệp cái khâu giữa công nghiệp và nông nghiệp. Thương nghiệp đưa hàng
đến nông thôn phục vụ nông dân thương nghiệp lại đưa nông sản, nguyên liệu cho
thành thị tiêu dùng. Nếu không thương nghiệp bị đứt thì không liên kết được nông
nghiệp với công nghiệp, không củng cố được liên minh công nông, công tác không
chạy thì hoạt động nông nghiệp, công nghiệp, sẽ bị rời rạc”.
2.2.3 Cơ cấu vùng kinh tế
Nói về quan điểm của mình về cơ cấu vùng thì Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra
phương hướng là cơ cấu vùng kinh tế trọng điểm sao cho phù hợp với nông thôn,
thành thị và hải đảo để từ đó rút ngắn khoảng cách thu nhập, văn minh và nhận thức giữa các vùng.
Tiếp nữa, Người khẳng định phải xây dựng nền kinh tế tự chủ đi đôi với mở
rộng hợp tác quốc tế. Bác cho rằng độc lập là phải độc lập toàn diện triệt để, một quốc
gia dân tộc độc lập là một quốc gia dân tộc độc lập về mọi mặt: chính trị, kinh tế, quốc
phòng, văn hóa tư tưởng. Mà quan trọng nhất với Người đó chính là độc lập và chính 9
trị và kinh tế, tức là không lệ thuộc vào bất kỳ quốc gia dân tộc nào khác như một số
nước trung đông. Chúng ta độc lập toàn diện, độc lập về mọi mặt nhưng không có
nghĩa là đóng cửa khép kín mà vẫn có sự giao thương với các nước khác.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định vai trò của khoa học kĩ thuật đối với sự
phát triển của nền kinh tế nước nhà. Người cho rằng chúng ta không có điều kiện
thuận lợi cho khoa học kĩ thuật thì giờ cần phải học tập tiếp thu từ các nước đi trước,
tìm tòi và tiếp thu khoa học kĩ thuật, nguồn vốn của nước họ và đặc biệt là những kinh
nghiệm đi trước trong quản lý và sản xuất đặc biệt là sản xuất hàng hóa. Từ đó ứng
dụng về nước ta sao cho phù hợp với hoàn cảnh địa lý, tập tục thói quen đặc điểm của
nền kinh tế nước nhà. Song song với việc học tập tiếp thu, chúng ta cũng không được
quên đi những tinh hoa của nước nhà, phải biết “hòa nhập mà không hòa tan”, cũng
như giữ vững tôn trọng độc lập chủ quyền, ngăn cấm mọi hành động ảnh hưởng đến
nền độc lập của quốc gia mình và không can thiệp tới độc lập chủ quyền của quốc gia dân tộc khác.
Ngoài ra, Nhà nước cần thực hiện tốt việc tập trung quản lý kinh tế, tức quản lý
và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, đưa ra những nguyên tắc trong quá trình quản lý cho
hợp lý, đảm bảo lợi ích chung của các thành phần kinh tế, công bằng với từng vùng
kinh tế, ngành kinh tế, cải thiện những mâu thuẫn trong nền kinh tế nước nhà. Người
cũng khẳng định cần chống tiêu cực trong hoạt động quản lý, xử phạt nghiêm minh
những hành vi tham ô tham nhũng, bè phái, đặc biệt là Đảng viên thì càng phải có
những biện pháp xử lý hợp tình hợp lý, nếu nghiêm trọng thì khai trừ khỏi Đảng cũng
những hình phạt đúng luật đúng nguyên tắc để làm gương cho những người khác và
thanh lọc Đảng trong sạch.
Kết hợp với đó là những kế hoạch hóa trong phát triển kinh tế cho phù hợp với
từng thời kỳ, phải có những quan điểm cụ thể, kiện toàn bộ máy nhà nước thực hiện
quản lý. Việc quản lý kinh tế được Bác chú tâm rất kỹ. Theo Bác, việc quan tâm tới
cán bộ quản lý kinh tế cũng rất quan trọng. Mà quan tâm ở đây là quan tâm tới chất
lượng đội ngũ quản lý, cần có chuyên môn quản lý, kinh nghiệm quản lý đúng ngành
phù hợp với vùng kinh tế, đồng thời phải có những phẩm chất cần có của người quản
lý, của công dân yêu nước. Có như vậy thì việc phát triển các vùng kinh tế trọng điểm mới có thể thành công.
Ta có thể thấy, trên cơ sở nhận thức về tính quy luật chung, tính đặc thù trong
nền kinh tế của từng nước, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo quan điểm của
V.I.Lênin về đặc điểm kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vào
hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam và trong từng giai đoạn cụ thể. PHẦN 2: VẬN DỤNG
1. Hoàn cảnh quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 10
Thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam khởi đầu từ năm 1954 trong
miền Bắc và đến năm 1975 cả nước cùng tiến hành Cách mạng xã hội Chủ nghĩa, cùng
quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Nước ta ở thời kỳ đó có thể coi là một nước nông nghiệp
lạc hậu, chưa phát triển và muốn nhảy vọt lên Chủ nghĩa xã hội mà bỏ qua giai đoạn tư
bản chủ nghĩa. Đồng nghĩa với việc chúng ta đã phải đối mặt với những thử thách vô
cùng khó khăn ở trước mắt bởi ở các nước tư bản đi lên xã hội Chủ nghĩa khác họ đã
có thể áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật trong khi nước ta lại chỉ dừng lại ở học
tập và áp dụng các công nghệ đó.
2. Thực trạng vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong việc phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay
Trung thành với tư tưởng Mác-Lê nin, thế nhưng Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí
Minh vẫn luôn không ngừng sáng tạo, đổi mới và phát triển những lý luận về quá độ
lên Chủ nghĩa xã hội sao cho phù hợp với những đặc điểm, bối cảnh cũng như tình
hình Cách mạng của nước ta. Điều đó được thể hiện ở tổng quan chung, lịch sử và cụ
thể là: Khẳng định phương hướng, con đường tất yếu để đi lên Chủ nghĩa xã hội đó là
“tất cả các dân tộc đều tiến đến xã hội chủ nghĩa” như chủ nghĩa Mác - Lênin đã đề cập
a. Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần
“Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành
thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta” là điều mà Đảng ta đã
khẳng định. Trong đó theo tư tưởng của Người về xây dựng Chủ nghĩa xã hội và phát
triển nền kinh tế trong sự nghiệp đổi mới, Đảng và Nhà nước phải cùng nhau giải
phóng mọi năng lực sản xuất, đánh dấu mốc mang ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính
quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên xã hội chủ nghĩa.
Đúc kết những mục tiêu, mô hình đã định ra và xây dựng ở chặng đường đầu
thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, Cương lĩnh 1991 do Đại hội VII đã xác định 6
đặc trưng về xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng. Tổng kết thành tựu trong quá
trình xây dựng đất nước trong “thời kỳ phát triển mới”, đồng thời định hướng cho
“giai đoạn sau” đến giữa thế kỷ XXI, Văn bản Đại hội X và Cương lĩnh của đại hội
cùng khoá đã bổ sung toàn diện, hoàn thiện hơn thành 8 đặc trưng xã hội chủ nghĩa mà
nhân dân ta phải đạt được là: “ dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh;
do nhân dân làm chủ, có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền
văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất
công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong
cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp nhau cùng tiến độ; có Nhà 11
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản”. Trong đó, đặc trưng tổng quát là “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”.
Thể chế kinh tế trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được Đảng ta
tập trung xây dựng, từng bước bổ sung, hoàn thiện. Nếu như từ Đại hội VI đến Đại hội
VII, Đảng đã khởi thảo và tiến tới xác định trong Cương lĩnh 1991 “ nền kinh tế có cơ
cấu nhiều thành phần” là đặc trưng cơ bản của thể chế kinh tế ở thời kỳ quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội, thì đến Cương lĩnh 2011 và Văn kiện Đại hội XII đã “thống nhất nhận
thức nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận
hành đầy đủ, đồng bộ theo quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”. Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng diễn ra năm 2006 đã xác định các thành phần
kinh tế của nước ta thời điểm đó, bám sát vào tư tưởng Hồ Chí Minh là có 5 thành
phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản
tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Nhìn chung,
các thành phần kinh tế có tổ chức hoạt động đúng pháp luật, đóng vai trò hợp thành
nên nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng nhau phát triển, hợp tác
và cạnh tranh lành mạnh. Tiếp tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng ta
diễn ra vào năm 2011 lại một lần nữa nhấn mạnh mục tiêu phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa với “nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối”. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII của Đảng cũng đã khái quát lại những lý luận của mình dựa trên cơ
sở tổng kết quá trình 30 năm đổi mới: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế
Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế,
các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp
luật”. Và cho tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã một lần nữa giúp
chúng ta nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của các thành phần kinh tếtrong thời kỳ
đổi mới, nhấn mạnh về việc cải tiến để phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản
xuất của nước ta trong giai đoạn tiếp theo”.
b. Chủ chương chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phù hợp 12
Sau Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI nước ta đã có bước ngoặt thay đổi toàn
diện bằng việc đặt trọng tâm vào nền nông nghiệp theo lời của chủ tịch Hồ Chí Minh
và từ đó nền kinh tế đã có dấu hiệu khởi sắc. Qua 35 công cuộc đổi mới thì cuối cùng
nền kinh tế Việt Nam đã có được cho mình những thành tựu đặc sắc và đang từng
bước hội nhập sâu rộng với quốc tế. Đặc biệt phải kể đến là trong giai đoạn 2015-2020
kinh tế Việt Nam đã có sự chuyển dịch cơ cấu mạnh mẽ trong việc rút bớt nguồn lực
của nông, lâm, ngư nghiệp và đẩy mạnh phát triển nền công nghiệp cũng như khai thác
khoáng sản, xây dựng và dịch vụ. Nhờ đó mới thu hút được thêm nhiều nguồn lực quan trọng.
Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại đại hội IX đã
chỉ rõ phương hướng phát triển nền kinh tế quốc dân là: “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
cơ cấu đầu tư dựa trên cơ sở phát huy các thế mạnh và các lợi thế so sánh của đất
nước, gắn với nhu cầu thị trường trong và ngoài nước, đáp ứng về cơ bản các nhu cầu
thiết yếu về đời sống nhân dân và yêu cầu trang bị lại trong nền kinh tế và quốc phòng
an ninh”. Đồng thời Đảng cũng nhấn mạnh việc tăng cường chỉ đạo và các nguồn lực
cần thiết cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn từ đó tiếp tục
phát triển và đầu tư về kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội ở nông thôn để đưa nông, lâm,
ngư nghiệp lên trình độ mới, có thể ứng dụng khoa học kĩ thuật để cải thiện lợi nhuận.
Cùng với đó dần chuyển dịch lao động sang khu vực công nghiệp và dịch vụ, nâng cao
chất lương đội ngũ nhân lực để bảo đảm cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa
đất nước vững tiến trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
c. Phát triển các vùng kinh tế trọng điểm
- Việt Nam có 7 vùng kinh tế trọng điểm là:
+ Trung du và miền núi phía Bắc + Đồng bằng Bắc bộ + Bắc Trung Bộ + Ven biển Nam Trung Bộ + Tây Nguyên + Đông Nam Bộ
+ Đồng bằng sông Cửu Long
Phụ thuộc vào đặc điểm địa lý, dân cư, thói quen của từng vừng mà Đảng và
Nhà nước đã có những vận dụng và phương hướng nhất định để phát triển kinh tế của
7 vùng kinh tế trọng điểm này. Ví dụ, trung du miền núi phía Bắc có lợi thế về khoáng
sản, địa hình là các dãy núi cao như dãy Hoàng Liên Sơn, tạo điều kiện để phát triển
việc khai thác khoáng sản và thuỷ điện. Hay vùng Nam Trung Bộ là lãnh thổ dài hẹp,
giáp với biển Đông, phù hợp để phát triển nghề săn bắt đánh cá. Đặc biệt, Nhà nước 13
nhấn mạnh phát triển lĩnh vực du lịch dịch vụ biển ở khu vực này. Xét trong bối cảnh
hội nhập kinh tế, thay đổi trong trục kinh tế và chính trị của thế giới, sự xuất hiện của
một trật tự thế giới đa cực, sự nổi lên của Trung Quốc và Ấn Độ thì Việt Nam chúng ta
phải có những đổi mới tư duy, chuyển từ “mở rộng quan hệ, gia nhập và tham gia hợp
tác quốc tế” thành “ chủ động đóng góp tích cực, khởi xướng và tham gia định hình
các cơ chế hợp tác”. Hơn nữa, tiếp cận đa ngành, liên ngành và đa phương hiện nay
đang là xu thế phổ biến nhất là trong hoàn cảnh toàn cầu hóa đang ngày phát triển
mạnh mẽ cho nên Việt Nam càng phải có sự khai thác lãnh thổ linh hoạt và tối ưu nhất
trong đó tạo ra sự đột phá để đáp ứng yêu cầu của cạnh tranh quốc tế và hội nhập toàn
cầu. Để thực hiện được những điều này thì Đảng và Chính phủ nhận định rằng cần
phải tập trung vào việc: Hoàn thiện quy hoạch vùng và lấy đó làm cơ sở để phát triển
các vùng kinh tế trọng điểm; nâng cao chất lượng vật chất, gia tăng kết cấu cơ sở hạ
tầng kiến trúc xã hội, đảm bảo việc sử dụng tài nguyên vùng kinh tế hợp lý song song
với bảo vệ môi trường. 14 KẾT LUẬN
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam đã thể hiện những nội dung đặc sắc, trên cơ sở kế thừa và phát triển sáng tạo
những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin vào đặc điểm, tình hình xã hội Việt Nam.
Thực tiễn luôn vận động biến đổi và đang đặt ra nhiều vấn đề mới, những nội dung tư
tưởng về thời kỳ quá độ của Người vẫn giữ nguyên giá trị, cần tiếp tục bổ sung, phát
triển trong điều kiện mới.
Qua tìm hiểu và phân tích, chúng ta đúc kết lại trong tư tưởng của Hồ Chí
Minh, Người chia cơ cấu kinh tế thành: cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu ngành kinh
tế, cơ cấu vùng kinh tế. Trong đó, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được Người phân
tích một cách sâu sắc và rành mạch nhất, chỉ rõ được điểm mạnh và yếu của từng
thành phần để có thể tìm ra phương hướng phù hợp phát triển cho từng thành phần
kinh tế. Có thể nói, 5 thành phần kinh tế ở nước ta khi đi lên chủ nghĩa xã hội được
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra nay đã hiện hữu đầy đủ trong đường lối của Đảng thời kỳ
đổi mới. Những thành phần này được Đảng nhận thức sâu sắc và luôn cố gắng hoàn
thiện trong thực tiễn. Trên cơ sở nhận thức đó, Đảng đề ra đường lối chính sách ngày
càng phù hợp và nhất quán với từng loại hình kinh tế, cũng như mục tiêu, phương
hướng của nền kinh tế nhiều thành phần qua từng Đại hội trong thời kì đổi mới. Nhờ
vậy mà nền kinh tế của nước ta đã có sự phát triển vượt bậc, góp phần tạo nên thành
công của thời kỳ đổi mới, nâng cao và cải thiện đời sống nhân dân. 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (2021), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập (2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
3. C.Mác và Ph.Ăng ghen, Toàn tập (2002), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
4. V.I.Lênin, Toàn tập (1980), Nxb Tiến bộ, Mátxcơva
5. Hồ Chí Minh, Thường thức chính trị (1954), Nxb Sự thật
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, IX, X,
XI, XII, XIII (1996, 2001, 2006, 2011, 2016, 2021), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
8. Tạp chí Tổ chức nhà nước (2022): Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần và sự vận dụng của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới (tcnn.vn)
9. Tạp chí tài chính: Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam và những vấn đề đặt r 16