Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh đề tài "Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng của đảng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ nước ta hiện nay."

Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh đề tài "Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng của đảng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ nước ta hiện nay." của Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống. Mời bạn đọc đón xem!

lOMoARcPSD|37054152
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TPHCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG
TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ NƯỚC TA HIỆN NAY.
lOMoARcPSD|37054152
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................ 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ....................................................................................................... 2
3. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................... 2
4. Kết cấu tiểu luận ............................................................................................................. 3
Nội dung Tiểu luận gồm 2 chương: .................................................................................. 3
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN
TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ................................................................... 4
1.Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội ......................................................................................................................... 4
1.1.Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng
vô sản ................................................................................................................................ 4
1.2.Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản lãnh
đạo .................................................................................................................................... 5
1.3.Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc ....................... 7
1.4.Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả
năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc ........................................... 8
1.5.Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách mạng
bạo lực .............................................................................................................................. 9
2. Ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội đối với sự nghiệp nước ta hiện nay .................................................... 11
2.1. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ cả nước tiến
hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (1930 - 1954) ............................................ 11
2.2. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ cả nước tiến
hành đồng thời hai chiến lược cách mạng (1954-1975) ................................................ 15
lOMoARcPSD|37054152
2.3. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ cả nước quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ................................................................................................... 18
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI
PHÓNG DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CỦA ĐẢNG TRONG
CÔNG CUỘC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ NƯỚC TA ................................................. 22
1. Thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo v
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ................................................................................................. 22
2. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong tiến trình đổi mới ............................ 24
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 26
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 26
lOMoARcPSD|37054152
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vấn đề độc lập dân tộc từ lâu đã luôn một vấn đề cốt lõi căn bản nhất đối
với mọi quốc gia, dân tộc. Tkhi cách mạng Tháng mười Nga thành công (10/1917)
đã mở ra một thời đại mới: thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi toàn thế giới. Do vậy vấn đề độc lập dân tộc đã phát triển lên một bước
mới, đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay khi Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa
Đông Âu sụp đổ, tình hình thế giới đang diễn biến nhanh chóng hết sức phức
tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới độc lập dân tộc công cuộc xây
dựng chủ nghĩa hội. Chủ nghĩa đế quốc các thế lực phản động với chiêu bài
“nhân quyền”, “tự do tôn giáo” và gần đây “chống khủng bố” đã tập trung mũi
nhọn nhằm chống phá phong trào cách mạng thế giới trước hết là đối với các
nước xã hội chủ nghĩa còn lại trong đó có Việt Nam. Chúng muốn xóa bỏ chủ nghĩa
xã hội cả phương diện lý luận và hiện thực khi thành trì vĩ đại của chủ nghĩa xã hội
là Liên đã sụp đổ. Do vậy xây dựng chnghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ vững chắc
tổ quốc Việt Nam hội chủ nghĩa vẫn hai nhiệm vụ chiến lược của toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân ta.
Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc chủ nghĩa xã hội, đường lối đó sợi
chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử cách mạng Việt Nam từ khi Đảng, ngọn cờ
bách chiến bách thắng của cách mạng Việt Nam. Đó là bài học được Đại hội lần thứ
IV của Đảng rút ra từ thực tiễn phong phú của cách mạng nước ta, được các Đại hội
lần thứ V, VI của Đảng tiếp tục khẳng định và đặc biệt được Đại hội lần thứ VII của
Đảng phát triển với nội dung mới qua tổng kết kinh nghiệm 15 năm tiến hành cách
mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước. Bài học trên là sự phản ánh sinh động
xu thế cách mạng của thời đại cũng như của nước ta, không những chỉ ra nguồn gốc
thắng lợi của cách mạng Việt Nam trước đây, còn chỉ ra những yếu tố bảo đảm
lOMoARcPSD|37054152
tính đúng đắn của đường lối và sự thắng lợi của cách mạng trong thời kỳ quá độ tiến
lên chủ nghĩa xã hội.
Nghiên cứu tưởng trên của Hồ Chí Minh sgóp phần làm sáng để mọi
người nhận thức đúng đắn, sâu sắc hơn những giá trị tưởng đại công lao to
lớn của Người, đồng thời rút ra được những vấn đề tính nguyên tắc, những bài
học kinh nghiệm hết sức quý báu để vận dụng trong việc thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược cách mạng của Đảng hiện nay xây dựng thành công bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Tiểu luận góp phần làm sáng rõ những quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh
cùng với Đảng ta trong lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam thực hiện đường lối
chiến lược: “Cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội”. Từ đó
nhận thức sâu sắc hơn tư tưởng của Người đối với con đường cách mạng Việt Nam
đồng thời vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
tổ quốc xã hội chủ nghĩa giai đoạn hiện nay dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tiểu luận trình bày một cách bản tưởng Hồ Chí Minh về những nội dung,
biện pháp của Người và Đảng ta trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam theo
hai đường lối chiến lược. Từ đó rút ra những vấn đề tính nguyên tắc, những bài
học có thể vận dụng vào sự nghiệp cách mạng hiện nay của Đảng.
3. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng của Đảng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ
nước ta hiện nay” được nghiên cứu theo phương pháp tư duy lôgic kết hợp với lịch
sử là chủ yếu. Ngoài ra còn sử dụng phương pháp so sánh, tổng hợp, phân tích…
lOMoARcPSD|37054152
4. Kết cấu tiểu luận
Nội dung Tiểu luận gồm 2 chương:
+ Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với Chủ
nghĩa xã hội.
+ Chương 2: Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền
với Chủ nghĩa xã hội của Đảng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ nước ta.
lOMoARcPSD|37054152
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI
PHÓNG DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội
1.1.Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách
mạng vô sản
Thất bại của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp Việt Nam cuối
thế kXIX đầu thế kỷ XX chứng tỏ rằng, những con đường giải phóng dân tộc
dưới ngọn cờ tưởng phong kiến hoặc tưởng sản không đáp ứng được
yêu cầu khách quan là giành độc lập, tự do của dân tộc do lịch sử đặt ra. Hồ Chí
Minh rất khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha, nhưng Người không tán
thành các con đường cứu nước ấy, quyết tâm ra đi tìm một con đường cứu
nước mới.
Tháng 7-1920, khi đọc thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề
dân tộc vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin, Người thấy "tin tưởng, sáng tỏ cảm
động". Người khẳng định: "Đây cái cần thiết cho chúng ta, đây con đường
giải phóng chúng ta"1 . Người đã tìm thấy trong luận của V.I. Lênin một con
đường cứu nước mới: con đường cách mạng vô sản.
Đầu m 1923, trong Truyền đơn cổ động mua báo Người cùng khổ (Le
Paria), Người viết: "Chỉ chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho
mọi người không phân biệt chủng tộc nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái,
đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mi người và vì mọi người, niềm vui,
hòa bình, hạnh phúc..."
Như vậy là, vượt qua sự hạn chế về tưởng của các phu của các nhà
cách mạng xu hướng sản đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với học thuyết
cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vô sản.
lOMoARcPSD|37054152
Từ đó, Người quyết tâm đưa dân tộc Việt Nam đi theo con đường đó. Con
đường cách mạng vô sản, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, bao hàm những nội
dung chủ yếu sau:
- Tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc dần dần từng bước "đi tới
hộicộng sản".
- Lực lượng lãnh đạo cách mạng giai cấp công nhân đội tiền phong của
nólà Đảng Cộng sản.
- Lực lượng cách mạng khối đoàn kết toàn dân, nòng cốt liên minh giữagiai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và lao động trí óc.
- Sự nghiệp cách mạng của Việt Nam một bộ phận khăng khít của cách
mạngthế giới, cho nên phải đoàn kết quốc tế.
1.2.Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản
lãnh đạo
Các nhà yêu nước Việt Nam đã ý thức được tầm quan trọng vai trò của
tổ chức cách mạng. Phan Châu Trinh cho rằng: ngày nay, muốn độc lập, tự do,
phải có đoàn thể. Rất tiếc là ông chưa kịp thực hiện ý tưởng của mình. Phan Bội
Châu đã tổ chức ra Duy tân hội (1904) và Việt Nam Quang phục hội (1912), dự
định sau sẽ cải tổ thành Việt Nam quốc dân đảng theo kiểu Tôn Trung Sơn, chưa
kịp thực hiện thì ông đã bị bắt và giam lỏng tại Huế.
Dù đã thành lập hay chưa thì các tổ chức cách mạng kiểu cũ không thể đưa
cách mạng giải phóng dân tộc đi đến thành công, thiếu một đường lối chính
trị đúng đắn một phương pháp cách mạng khoa học, không sở rộng rãi
trong quần chúng. Những nỗ lực đấu tranh cứu nước nhưng không thành công
lOMoARcPSD|37054152
của Việt Nam quốc dân đảng, tổ chức chính trị tiêu biểu nhất của giai cấp tư sản
Việt Nam, đã chứng minh điều đó.
Hồ Chí Minh khẳng định: Muốn giải phóng dân tộc thành công trước hết
phải đảng cách mệnh. Người phân tích: "cách mệnh trước phải làm cho dân
giác ngộ, phải giảng giải lý luận và chnghĩa cho dân hiểu, phải hiểu phong triều
thế giới, phải bày sách lược cho dân... Vậy nên sức cách mệnh phải tập trung,
muốn tập trung phải có đảng cách mệnh".
Đầu năm 1930, Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, một chính đảng
của giai cấp công nhân Việt Nam, tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh
liên hệ mật thiết với quần chúng.
lOMoARcPSD|37054152
1.3.Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc "là việc chung cả dân chúng
chứ không phải việc một hai người". Người phân tích: "dân tộc cách mệnh chưa phân
giai cấp, nghĩa là sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền". Trong
lực lượng đó, công nông "là gốc cách mệnh", "là người chủ cách mệnh"; "còn học
trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị bản áp bức, song không cực khổ bằng
công nông; 3 hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi"
Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của nhân dân trong khởi nghĩa trang.
Người coi sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo vô tận của quần chúng là then chốt
bảo đảm thắng lợi. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Người phê phán việc lấy ám
sát cá nhân và bạo động non làm phương thức hành động. Người khẳng định:
"Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại"
Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Người xác định lực lượng cách
mạng bao gồm toàn dân tộc: Đảng phải tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân, tập
hợp đại bộ phận nông dân phải dựa vào hạng dân cày nghèo, lãnh đạo nông dân
làm cách mạng ruộng đất; lôi kéo tiểu sản, trí thức, trung nông... đi vào phe sản
giai cấp; đối với pnông, trung tiểu địa chủ và bản Việt Nam chưa mặt
phản cách mạng thì phải lợi dụng, chí ít làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào
đã ra mặt phản cách mạng (như Đảng Lập hiến) thì phải đánh đổ
Chủ trương tập hợp lực lượng của Hồ Chí Minh phản ánh tư tưởng đại đoàn kết
dân tộc của Người. Trong Bài ca du ch (1942), Người chủ trương mọi người già,
trẻ, gái, trai, dân, lính đều tham gia đánh giặc. Trong Chthị thành lập Đội Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân (ngày 22-12-1944), Người viết: "Cuộc kháng chiến của
ta là cuộc kháng chiến của toàn dân, cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân"
Mục đích cách mạng chiến tranh chính nghĩa - vì độc lập tự do, làm cho khả
năng tiến hành chiến tranh nhân dân trở thành hiện thực, làm cho toàn dân tự giác
tham gia kháng chiến. Tư tưởng chiến tranh nhân dân của Hồ Chí Minh ngọn cờ
lOMoARcPSD|37054152
cổ vũ, dẫn dắt cả dân tộc ta đứng lên kháng chiến kháng chiến thắng lợi, đánh
thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ trong 30 năm chiến tranh cách mạng Việt Nam,
làm nên thắng lợi vĩ đại có tính thời đại sâu sắc.
1.4.Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có
khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
Trong phong trào cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của
cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng sản chính quốc.
Đề cương về phong trào cách mạng các nước thuộc địa nửa thuộc địa được
thông qua tại Đại hội VI Quốc tế cộng sản (ngày 1-9-1928) cho rằng: Chỉ thể thực
hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các thuộc địa khi giai cấp sản giành được
thắng lợi các nước tư bản tiên tiến. Quan điểm này, hình chung đã làm giảm
tính chủ động, sáng tạo của các phong trào cách mạng ở thuộc địa.
Do nhận thức được vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa, đánh giá
đúng sức mạnh dân tộc, năm 1921, Nguyễn ái Quốc cho rằng cách mạng giải phóng
dân tộc ở thuộc địa có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Người viết: "Ngàyhàng trăm triệu nhân dân châu á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh
để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình
thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn
lOMoARcPSD|37054152
tại của chủ nghĩa bản chủ nghĩa đế quốc, họ thể giúp đỡ những người anh
em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn
Trong tác phẩm Đường kách mệnh, Hồ Chí Minh có sự phân biệt về nhiệm vụ
của cách mạng sản cách mạng giải phóng dân tộc cho rằng: hai thứ cách
mạng đó tuy khác nhau, nhưng quan hệ chặt chẽ với nhau. Người nêu dụ:
"An Nam dân tộc cách mệnh thành công thì bản Pháp yếu, bản Pháp yếu thì
công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ. Và nếu công nông Pháp làm cách
mệnh thành công, thì dân tộc An Nam sẽ được tự do"
Đây một luận điểm sáng tạo, có giá trị luận và thực tiễn to lớn; một cống
hiến rất quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin,
đã được thắng lợi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên toàn thế giới
trong gần một thế kỷ qua chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
1.5.Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách
mạng bạo lực
a. Bạo lực cách mạng trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam
Các thế lực đế quốc sử dụng bạo lực để xâm lược và thống trị thuộc địa, đàn
áp man các phong trào yêu nước. Chế độ thực dân, tự bản thân đã một
hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu. Chưa đè bẹp ý chí xâm lược của
chúng thì chưa thể có thắng lợi hoàn toàn. Vì thế con đường để giành và giữ độc
lập dân tộc chỉ thể con đường cách mạng bạo lực. Đánh giá đúng bản chất
cực kỳ phản động của bọn đế quốc và tay sai, Hồ Chí Minh cho rằng: "Trong
cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp của dân tộc, cần dùng bạo
lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo
vệ chính quyền"
Quán triệt quan điểm sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, H
Chí Minh cho rằng bạo lực cách mạng cũng bạo lực của quần chúng. Hình thức
của bạo lực cách mạng bao gồm cả đấu tranh chính trị đấu tranh trang,
lOMoARcPSD|37054152
nhưng phải "tùy tình hình cụ thể quyết định những hình thức đấu tranh cách
mạng thích hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang
đấu tranh chính trị để giành thắng lợi cho cách mạng" tưởng bạo lực
cách mạng và tư tưởng nhân đạo hòa bình thống nhất biện chứng với nhau trong
tưởng Hồ Chí Minh. Người chủ trương, yêu nước, thương dân, yêu thương con
người, yêu chuộng hòa bình, tự do, công lý, tranh thủ mọi khả năng hòa bình để
giải quyết xung đột, nhưng một khi không thể tránh khỏi chiến tranh thì phải kiên
quyết tiến hành chiến tranh, kiên quyết dùng bạo lực cách mạng, dùng khởi nghĩa
và chiến tranh cách mạng để giành, giữ và bảo vệ hòa bình, vì độc lập tự do
b. Phương châm chiến lược đánh lâu dài trong cách mạng giải phóng dântộc
Trước những kẻ thù lớn mạnh, Hồ Chí Minh chủ trương sử dụng phương châm
chiến lược đánh lâu dài. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người nói: "Địch
muốn tốc chiến, tốc thắng. Ta lấy trường kỳ kháng chiến trị nó, tđịch nhất định
thua, ta nhất định thắng" , "Trường kỳ kháng chiến... nhất định thắng lợi"2 . Kháng
chiến phải trường kỳ vì đất ta hẹp, dân ta ít, nước ta nghèo, ta phải chuẩn bị lâu dài
và phải sự chuẩn bị toàn diện của toàn dân. Theo Người, họa thực dân cũng như
một chứng bệnh trầm trọng. Muốn chữa bệnh ấy, ta phải thật gan dạ để chịu đau đớn
khi mổ xẻ, phải đủ thời giờ để bồi dưỡng lại sức, kết quả nhất định tẩy trừ được
bệnh ấy. Công cuộc kháng chiến cũng như vậy. Người phân tích: "Với binh nhiều,
tướng đủ, khí giới tối tân, chúng định đánh mau thắng mau.
Với quân đội mới tổ chức, với khí thô sơ, ta quyết kế trường kỳ kháng chiến...
thắng lợi với trường kỳ phải đi đôi với nhau"
Độc lập tự chủ, tự lực tự cường kết hợp với tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế là một
quan điểm nhất quán trong tưởng Hồ Chí Minh. Trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ, Người đã động viên sức mạnh của toàn dân tộc, đồng thời ra sức
vận động, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế to lớn hiệu quả, cả về vật chất tinh
thần, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để kháng chiến thắng lợi.
lOMoARcPSD|37054152
2. Ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội đối với sự nghiệp nước ta hiện nay
2.1. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ
cả nước tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (1930 - 1954)
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
sớm nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Vấn đề dân tộc bao giờ
cũng mang tính giai cấp. Mỗi giai cấp đều quan điểm riêng về vấn đề dân tộc. o
những thế kỷ XVI, XVII, XVIII, dân tộc gắn với giai cấp tư sản. Lúc đó, giai cấp tư
sản giương cao ngọn cờ dân tộc chống chế độ phong kiến lỗi thời. Thắng lợi của
phong trào dân tộc lúc đó là thắng lợi của chủ nghĩa dân tộc tư sản, thắng lợi của chủ
nghĩa tư bản. Khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang thời kỳ đế quốc chủ nghĩa, giai cấp
sản chẳng những kbóc lột nhân dân trong nước, còn kẻ thống trị, áp bức,
bóc lột lớn nhất đối với nhiều dân tộc trên thế giới. Sau thắng lợi đại của Cách
mạng Tháng Mười, giai cấp công nhân, đại biểu cho phương thức sản xuất mới,
phương thức sản xuất hội chủ nghĩa, giai cấp duy nhất có khả năng giải quyết
vấn đề dân tộc, kết hợp đúng đắn lợi ích giai cấp với lợi ích chân chính của dân tộc.
Ngày nay, dân tộc gắn liền với giai cấp công nhân, với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
hội. Nước ta cũng chịu sự tác động của xu thế chung đó. Xác định đúng địa vị lịch
sử của giai cấp công nhân điều kiện cốt yếu để kết hợp yếu tố dân tộc với yếu tố
giai cấp theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận
thức sớm điều đó. Người nói: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng
được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng
sản và của cách mạng thế giới"
1
. Vào những năm 20 của thế kỷ này, ở Việt Nam đã
có cuộc đấu tranh giữa tổ chức tiền thân của Đảng với phong trào yêu nước mang tư
tưởng quốc gia về đường lối cách mạng giải phóng dân tộc. Nhận nguyên nhân
thất bại của các phong trào yêu nước chống Pháp dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu và
1
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 1, Nxb CTQG, HN, 2000, Tr. 416
lOMoARcPSD| 37054152
các lãnh tụ nông dân, biết những hạn chế của những cuộc cách mạng dân chủ tư sản,
hơn nữa với sức mạnh thuyết phục của chủ nghĩa Mác-Lênin đường lối cách mạng
kiểu mới, qua cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa quốc gia, phần
lớn hội viên, đảng viên của Tâm Tâm Xã, Tân Việt đã hăng hái tiếp thu tư tưởng cứu
nước của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Vì vậy, phong trào công nhân nhanh chóng trở
thành phong trào chính trị độc lập và phong trào yêu nước với nội dung mới đã phát
triển mạnh mẽ vào năm 1929 dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam tháng
2 năm 1930. Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam ra đời là biểu hiện đầy đủ về sự
thống nhất giữa xu hướng phát triển chung của thời đại của riêng nước ta; đáp ứng
đúng đòi hỏi của tư tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa hội gắn liền với nhau,
đồng thời lực lượng duy nhất khả năng lãnh đạo thực hiện thắng lợi tưởng
đó. Ngay sau khi ra đời, trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, tiếp đó Luận
cương chính trị , Đảng đã xác định đường lối cách mạng Việt Nam phải trải qua
hai giai đoạn: trước hết là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sau đó tiến lên chủ
nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển của chế độ tư bản chủ nghĩa, mục đích cuối
cùng của Đảng là thực hiện chủ nghĩa cộng sản ở nước ta. Trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng, Đảng luôn luôn nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa
hội, vì vậy đã giải quyết đúng đắn hàng loạt vấn đề lớn của cách mạng Việt Nam
đã giành được những thắng lợi đại. Với đường lối chiến lược đó, Đảng đã nắm
vững lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về tính liên tục và tính giai đoạn của cách mạng,
khéo giải quyết mối quan hệ giữa hai giai đoạn cách mạng. giai đoạn cách mạng
dân tộc dân chủ, trong khi tập trung sức người, sức của để hoàn thành nhiệm vụ
chống đế quốc, chống phong kiến, Đảng vẫn không quên tuyên truyền phương hướng
tiến lên chủ nghĩa xã hội và khi có điều kiện, Đảng bắt tay ngay xây dựng một số cơ
sở kinh tế, vừa phục vụ giai đoạn trước, vừa gây mầm mống thành phần kinh tế
hội chủ nghĩa thuộc giai đoạn cách mạng sau. Phương hướng tiến lên chủ nghĩa
hội tuy là việc làm trong tương lai, nhưng tuyên truyền và quán triệt tư tưởng đó lại
tác dụng làm tăng thêm sức mạnh cho hiện tại đáp ứng từng bước yêu cầu
lOMoARcPSD|37054152
của quần chúng đông đảo kết hợp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp,
trước hết công nhân nông dân, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Sức
mạnh của cách mạng dân tộc dân chủ bắt nguồn từ những nhân tđó chính những
nhân tố đó giữ vai trò quyết định thắng lợi của cách mạng. Đường lối nắm vững ngọn
cờ độc lập dân tộc chủ nghĩa hội của Đảng đã khắc phục những hạn chế của
nhiều nhà yêu nước trước đây là chưa thấy rõ con đường tiến lên của dân tộc. Chính
hạn chế đó một trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại của phong trào giải
phóng dân tộc kiểu nước ta. Nhiệm vụ dân tộc dân chủ được giải quyết càng
triệt để thì những điều kiện để đi lên chủ nghĩa xã hội càng được tạo ra đầy đủ. Giải
quyết mối quan hgiữa hai giai đoạn cách mạng là một vấn đề quan trọng nhưng
chưa phải vấn đề khó nhất. Việc giải quyết mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế
quốc và nhiệm vụ chống phong kiến để có thể phát huy cao độ yếu tố dân tộc mới là
vấn đề phức tạp. Đảng phải mất mt thời gian tương đối dài mới đạt được sự nhất trí
cao. Nguyện vọng tha thiết trực tiếp của nhân dân ta là dân tộc độc lập, người cày
ruộng. Từ sự phân tích trên, Đảng vạch rõ cách mạng Việt Nam có hai nhiệm vụ
chiến lược: đánh đuổi bọn đế quốc xâmợc và thống trị, giành độc lập dân tộc, xoá
bỏ chế độ phong kiến giành ruộng đất cho nông dân. Hai nhiệm vụ đó phải được tiến
hành khăng khít với nhau, không được tách rời. Đó là tưởng đúng đắn. Về chỉ đạo
chiến lược, Đảng phải đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, với khẩu hiệu
"Tổ quốc trên hết" để phát huy cao độ sức mạnh dân tộc nhưng không coi nhẹ những
nhiệm vụ dân chủ. Trong các văn kiện Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do
Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo đã đáp ứng được điều đó. Trong khi không xa rời
mục tiêu chiến lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương tập trung lực lượng toàn dân
chống đế quốc và đại địa chủ, còn đối với "bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ
bản An
lOMoARcPSD|37054152
Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng
trung lập"
1
. Về sau, Đảng còn thu hẹp hơn diện đấu tranh để thực hiện sách lược thêm
bạn, bớt thù. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phản ánh đúng mâu thuẫn chủ
yếu nhất của xã hội Việt Nammâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân ta với chủ nghĩa
đế quốc tay sai. tưởng đó đã đáp ứng yêu cầu nắm vững ngọn cờ dân tộc để
tập hợp lực lượng đánh mạnh vào âm mưu thâm độc của chủ nghĩa đế quốc, sử dụng
chủ nghĩa quốc gia chia rẽ dân tộc, chống lại đường lối đại đoàn kết của Chủ tịch H
Chí Minh. tưởng đúng đắn sáng tạo nói trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt
nguồn từ việc khéo kết hợp yếu tố dân tộc với yếu tố giai cấp để xem xét vấn đề xã
hội. Sự ra đời một tư duy mới luôn gặp khó khăn, trắc trở. Trong mấy năm đầu của
lịch sử Đảng, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh không được Quốc tế Cộng sản và
Đảng ta chấp nhận và bị thay thế bằng một đường lối "cứng rắn" dựa trên cơ sở đơn
thuần vận dụng hay quá nhấn mạnh lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp. Thực tiễn
ngày càng chỉ quan điểm "cứng rắn" đó không phù hợp với luận thực tiễn
của cách mạng nước ta. Vừa mới ra đời, Đảng đã thành tích lớn phát động được
cao trào cách mạng của công - nông trong cả nước kéo dài hơn một năm, nhưng cao
trào đó cũng bộc lộ tính hẹp hòi, "tả" khuynh trong công tác vận động cách mạng.
Từ năm 1939 trở đi, tưởng chiến lược cách mạng trên đây của Chủ tịch Hồ Chí
Minh được Quốc tế Cộng sản Đảng ta chấp nhận phát triển thêm. Hội nghị
Trung ương 8 tháng 5-1941, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã đưa ra
một luận điểm mới: "Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải
phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể
quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, quyền lợi của bộ phận, giai cấp
đến vạn năm cũng không đòi lại được"
2
. Từ đây, Mặt trận Việt Minh được thành lập,
Mặt trận lực lượng lớn ảnh hưởng mạnh, đã góp phần quan trọng vào việc phát
động cuộc Tổng khởi nghĩa mang tính toàn dân dẫn đến thắng lợi của Cách mạng
1
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 3, Nxb CTQG, HN, 2000, Tr. 3
2
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 3, Nxb CTQG, HN, 2000, Tr. 113
lOMoARcPSD|37054152
tháng Tám, tiếp đến Mặt trận Liên Việt, một trong những lực lượng bảo vệ thắng lợi
chính quyền non trẻ là cơ sở của cuộc chiến tranh nhân dân rộng lớn chống thực
dân Pháp xâm lược. Để phản ánh đúng tưởng chiến lược về tính không tách rời
của hai nhiệm vụ chống đế quốc phong kiến, phản ánh nhận thức của Đảng muốn
giữ quyền lãnh đạo dân tộc phải thực hiện những yêu cầu dân chủ đối với nông dân,
Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng (2-1951) đã định rõ "nhiệm vụ giải phóng dân
tộc bao gồm nhiệm vụ phản phong kiến", và thay khái niệm "cách mạng tư sản dân
quyền" bằng khái niệm "cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân". Từ những thành công
cũng như lúc sai lầm, Đảng đã rút ra bài học quan trọng về mối quan hệ giữa chiến
lược sự chỉ đạo chiến lược. Đó là: nắm vững giương cao ngọn cdân tộc
dân chủ với hai khẩu hiệu chiến lược "dân tộc độc lập" "người cày ruộng",
Đảng ta đã lôi cuốn được đông đảo nông dân đi theo giai cấp công nhân, động viên
được các tầng lớp nhân dân khác cùng với công, nông bước lên trận tuyến cách mạng
chống đế quốc phong kiến. Trong quá trình cách mạng, những nhiệm vụ chiến
lược đó đã được cụ thể hoá bằng những mục tiêu thích hợp với từng thời kỳ, dựa trên
sự phân tích những mối quan hệ giai cấp cụ thể khả năng phân hoá hàng ngũ kẻ
thù đế quốc và phong kiến, nhằm tập trung ngọn lửa cách mạng vào kẻ thù nguy hại
nhất trong từng lúc một. Song, dù ở bất cứ thời kỳ nào, những mục tiêu và nhiệm vụ
chính trị cụ thể do Đảng đề ra, vcơ bản đều bao hàm cả hai nội dung dân tộc và dân
chủ, về cơ bản đều gắn liền hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. Như
vậy về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược, Đảng đã nhận thức đầy đủ hơn và
bảo đảm cho Đảng tránh mắc sai lầm tả hữu khuynh trong việc lãnh đạo hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam trong thời kỳ chống đế quốc Mỹ.
2.2. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ
cả nước tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng (1954-1975)
Từ m 1954, hbình được lập lại, đặc điểm lớn nhất của nước ta tạm thời
bị chia cắt làm hai miền, với hai chế độ chính trị đối lập. Đảng ta nhận định trong
lOMoARcPSD| 37054152
thời kỳ mới, việc kết hợp đúng đắn giữa nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước cũng tác dụng quyết định đến thắng lợi của
cách mạng miền Nam. Đảng ta phải giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ cách
mạng ở hai miền trong lúc trên thế giới chưa có tiền lệ giải quyết thành công vấn đề
này. Bên cạnh những khó khăn, cách mạng Việt Nam ng nhiều thuận lợi bản:
cách mạng nước ta đang thế thắng, tinh thần nhân dân đang hừng hực quyết tâm
hơn bao giờ hết, phong trào giải phóng dân tộc đã đánh đổ từng mảng lớn hệ thống
thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc; lúc đó hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đang là
lực lượng hùng mạnh. Trung thành với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác
- Lênin, với lợi ích dân tộc và nghĩa vụ quốc tế, Đảng ta đã từng bước giải quyết mối
quan hệ giữa cách mạng hai miền. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng
(9-1960) đã quyết định đường lối cách mạng chung của cả nước: - "Một là, tiến hành
cách mạng hội chủ nghĩa miền Bắc. - Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách
thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành
độc lập và dân chủ trong cả nước. Hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan hệ mật thiết
với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau". Về vị trí chiến lược cách mạng của từng
miền, Đảng ta xác định miền Bắc xã hội chủ nghĩa giữ vai trò quyết định nhất của sự
nghiệp cách mạng cả nước và sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà, còn cách
mạng miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đánh đổ đế quốc Mỹ tay sai.
Thông qua thực hiện nhiệm vụ cách mạng mỗi miền mà góp phần thực hiện nhiệm
vụ chung của cả nước là hoàn thành độc lập, thống nhất đất nước. Bởi vậy, Đảng ta
coi quan điểm chmiền Nam hoàn toàn giải phóng, rồi cả nước cùng tiến lên chủ
nghĩa xã hội là không đúng.
Đường lối trên biểu hiện tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta. luận cũng
như thực tiễn chứng minh đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược ch mạng
khác nhau ở hai miền là đúng đắn. Hai chiến lược đó chẳng những không mâu thuẫn
còn hỗ trợ, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Trong khi đra nhiệm vụ cải tạo
xây dựng chủ nghĩa hội miền Bắc, Đảng không chỉ căn cứ vào tình hình miền
lOMoARcPSD| 37054152
Bắc, mà còn căn cứ cả vào tình hình miền Nam. Đảng đề ra chủ trương đúng đắn đó
vừa đáp ứng nguyện vọng của nhân dân hai miền Bắc - Nam, đồng thời phát huy
được tinh thần yêu nước, mở rộng mặt trận dân tộc giải phóng. Bằng công cuộc xây
dựng kinh tế - hội miền Bắc, vừa bảo đảm đời sống cho nhân dân miền Bắc, vừa
tăng cường lực lượng làm hậu thuẫn chi viện cho cách mạng miền Nam. Đảng
lãnh đạo nhân dân miền Bắc phối hợp với nhân dân miền Nam đấu tranh chống những
thủ đoạn xâm lược, chiến tranh chống phá của đế quốc Mỹ ở miền Nam và cả miền
Bắc. Đảng giáo dục nhân dân miền Nam nhận vị trí quan trọng của cách mạng dân
tộc dân chủ miền Nam là: trực tiếp làm thất bại mọi chính sách xâm lược
dịch của đế quốc Mỹ và góp phần tích cực bảo vệ miền Bắc, bảo vệ căn cứ địa cách
mạng của cả nước, tạo điều kiện cho miền Bắc giữ được hoà bình để tiến hành thắng
lợi sự nghiệp cải tạo xây dựng chủ nghĩa hội. Trong khi đề ra nhiệm vụ, phương
pháp cách mạng miền Nam cũng như khi quyết định mở những trận quyết chiến
chiến lược, Đảng phải căn cứ vào tình hình miền Nam cả tình hình miền Bắc, xem
xét tác động của những thắng lợi sẽ giành được có ảnh hưởng đối với miền Nam và
cả đối với miền Bắc. Tiến lên chủ nghĩa xã hội, lực lượng mọi mặt của miền Bắc sẽ
được tăng cường nhanh chóng. Đảng thể lãnh đạo nền kinh tế theo hướng giải
quyết khéo mâu thuẫn giữa sức người, sức của có hạn với yêu cầu ngày càng lớn của
sự nghiệp cách mạng của hai miền. Miền Bắc hội chủ nghĩa lực lượng vững
mạnh mới đủ sức làm tròn nhiệm vụ căn cứ địa của cả nước, đủ sức tự bảo vệ, đánh
thắng hai cuộc chiến tranh phoại rất ác liệt của đế quốc Mỹ, đủ điều kiện chi
viện cho cách mạng miền
Nam, đồng thời làm tròn nghĩa vụ quốc tế đối với hai nước Lào Campuchia anh
em. Sự gắn bó chặt chẽ giữa cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng
giải phóng dân tộc miền Nam m cho thế lực của cách mạng cả nước cũng như
của miền Nam không ngừng tăng lên. Nhờ vậy, cách mạng miền Nam đã sử dụng
được sức mạnh tổng hợp của cả ớc để tiến công địch, đánh bại mọi chiến lược,
chiến thuật của đế quốc Mỹ tay sai. Thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến chống
lOMoARcPSD|37054152
Mỹ, Đảng ta rút ra những kết luận quan trọng: - Thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước thắng lợi của cả hai chiến lược cách mạng được tiến hành
đồng thời kết hợp chặt chvới nhau. - Cách mạng hội chủ nghĩa miền Bắc
nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ sự nghiệp cách mạng
nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Đảng khẳng đnh: Không thể
thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nếu không có miền Bắc
hội chủ nghĩa.
Từ việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai chiến lược cách mạng, Đảng
ta đã giải quyết sáng tạo một loạt vấn đề lớn như đẩy mạnh cách mạng bảo vệ hoà
bình thế giới, khu vực hoà bình tương đối ngay miền Bắc; giữa tiến công
bảo vệ...; bác bỏ những quan điểm hữu khuynh và phiêu lưu. Đảng ta khả năng
có điều kiện giải quyết vấn đề trên do đã từng hoạt động trong những hoàn cảnh đặc
biệt. Cách mạng Việt Nam đã chứng minh một tư tưởng lớn của thời đại ngày nay
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội gắn liền với. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội là bài học quan trọng của Đảng. Đảng tiếp tục quán triệt bài học
đó trong giai đoạn lịch sử mới.
2.3. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ
cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Sau khi giải phóng miền Nam năm 1975, thống nhất đất nước, Đảng đã xác
định cả nước chuyển sang giai đoạn mới. Việc chuyển giai đoạn cách mạng ý
nghĩa đặc biệt quan trọng. Nhưng việc làm đó không đơn giản. Mỗi nước cách
giải quyết riêng, không có một khuôn mẫu định trước. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa
Mác -Lênin, dựa vào thực tiễn cách mạng nước ta, Đảng nhận định: Trong thời đại
ngày nay, khi độc lập dân tộc chủ nghĩa hội không thể tách rời nhau, và nước
ta, khi giai cấp ng nhân giữ vai trò lãnh đạo cách mạng tthắng lợi của cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân cũng là sự bắt đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, sự bắt
đầu của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa hội, sự bắt đầu của thời kỳ thực hiện
lOMoARcPSD| 37054152
nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính sản. Tất nhiên, việc chuyển cách mạng sang
giai đoạn mới và việc xây dựng chủ nghĩa xã hội với quy mô lớn không đồng nghĩa
với nhau. Trước sau như một, Đảng ta và nhân dân ta kiên trì con đường xã hội chủ
nghĩa nắm vững định hướng hội chủ nghĩa trong sự nghiệp đổi mới. Đại hội
lần thứ VII của Đảng nêu quyết tâm: "Toàn Đảng, toàn dân tiếp tục nắm vững ngọn
cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội". Vì: "Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết
để thực hiện chủ nghĩa hội chủ nghĩa hội sbảo đảm vững chắc cho
độc lập dân tộc". Để thực hiện quyết tâm đó, việc làm đầu tiên của Đảng là đánh giá
một cách khách quan những thuận lợi khó khăn của tình hình đất nước tình
hình thế giới. Đảng phải mất một thời gian mới đi đến những nhận định tương đối
đầy đủ, thậm chí lúc nhận thức sai lầm, nóng vội. Sức mạnh của thời đại trong
giai đoạn hiện nay sức mạnh của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại;
xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới; các lực lượng đấu tranh cho hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chtiến bộ hội, v.v.. Loài người cuối cùng nhất định
sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội, lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co.
Sức mạnh của dân tộc là: chính quyền thuộc về nhân dân; nước nhà đi vào giai đoạn
hoà bình xây dựng; dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, có ý chí vươn lên mãnh liệt,
nhân dân ta lòng yêu nước nồng nàn, cần cù lao động sáng tạo; chúng ta đã xây
dựng được một số sở vật chất ban đầu; tài nguyên thiên nhiên nước ta tương đối
phong phú, đa dạng; nước ta vào khu vực phát triển kinh tế năng động, lại nằm trên
các tuyến giao thông quốc tế quan trọng. Đại hội lần thứ VII của Đảng đã xác định
mục tiêu và giải pháp chiến lược, những điều kiện tiên quyết để biến tiềm năng thành
hiện thực, trong đó có nhiều điểm đổi mới phải quán triệt. Phát triển một nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng hội ch nghĩa, kinh tế quốc doanh
giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng được củng cố mở rộng. Xoá bỏ
triệt để chế quản tập trung quan liêu bao cấp, hình thành chế thị trường
sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác.
lOMoARcPSD| 37054152
Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế
trong các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn luôn
nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội, bảo vệ chính quyền và các thành quả cách mạng. Xây dựng một nền văn hoá
mới, tạo ra một đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú, đa dạng, nội dung nhân
đạo, dân chủ, tiến bộ. Phát huy nhân tố con người trên sở bảo đảm công bằng,
bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, kết hợp tốt giữa các lợi ích: cá nhân, tập thể và
xã hội. Hình thành một cộng đồng xã hội Việt Nam, trong đó các giai cấp, các tầng
lớp dân đều nghĩa vụ, quyền lợi chính đáng. Không ngừng củng cố, tăng cường
đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực
thuộc về nhân dân.
Thực hiện chính sách đối ngoại mềm dẻo, linh hoạt khôn khéo nhằm tạo
điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc đi lên chủ
nghĩa xã hội, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội và giải quyết nhiều vấn đề khác có lợi
ích toàn cầu. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng điều kiện quan trọng nhất của việc
kết hợp, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc chủ nghĩa hội. Tiến hành thường
xuyên xây dựng chỉnh đốn Đảng bảo đảm Đảng cộng sản Việt Nam luôn trong
sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, đồng thời
làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Những tư tưởng chiến lược nói trên của Đảng là đúng đắn. Trong quá trình lãnh đạo
cách mạng, Đảng cụ thể hoá hoàn chỉnh những tưởng đó nhằm khai thác đầy
đủ nhất sức mạnh của độc lập dân tộc và chủ nghĩa hội. Đường lối kết hợp giương
cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội một bài học lớn của Đảng ta. Với
đường lối đó, Đảng ta góp phần bảo vệ tính trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin,
lOMoARcPSD|37054152
chống chủ nghĩa hội, chủ nghĩa dân tộc -vanh. Nhờ lực lượng hùng hậu do
đường lối này đưa lại, quân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giành được thắng
lợi trọn vẹn trong cách mạng n tộc dân chủ nhân dân. Ngày nay, tiếp tục nắm vững
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội với nội dung mới, Đảng sẽ tiếp tục tạo
ra lực lượng lớn mạnh bảo đảm cho Đảng làm tròn nhiệm vụ lịch sử trong giai đoạn
cách mạng hiện nayxây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.
lOMoARcPSD|37054152
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG
GIẢI PHÓNG DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CỦA
ĐẢNG TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ NƯỚC TA
1. Thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi
với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV - đại hội thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên
chủ nghĩa hội đã khẳng định: "Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, khi cả nước
làm một nhiệm vụ chiến lược hoặc làm hai nhiệm vụ chiến lược, Đảng ta từ khi ra
đời đến nay vẫn luôn luôn giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc chủ nghĩa xã hội,
đó là đường lối, là sức mạnh, là nguồn gốc mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam".
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội
VII thông qua đã khẳng định trong thời kỳ đổi mới: "Toàn Đảng, toàn dân tiếp tục
nắm vững ngọn cờ độc lập, dân tộc chủ nghĩa xã hội, ngọn cờ vinh quang mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và thế hệ mai sau”.
Hiện nay, cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam vẫn
đang tiếp diễn. Đảng ta khẳng định: "Trong giai đoạn đổi mới, phải giữ vững mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa hội”. Trong bất kỳ nh huống nào cũng phải
thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong quan hệ quốc tế phức tạp, chằng chéo nhiện nay, để thực hiện thắng lợi
hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta, đòi hỏi phải nhận thức sâu sắc
các yếu tố tác động đến độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Chiến tranh lạnh trên thế giới kết thúc, hoà bình, hợp tác phát triển xu thế
chung, nhưng cuộc đấu tranh dân tộc giai cấp vẫn diễn biến phức tạp, gay gắt.
Nguy cơ xung đột trang chiến tranh cục bộ vẫn chưa bloại trừ; mâu thuẫn dân
tộc, sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ nổ ra nhiều nơi gây mất ổn định nhiều
khu vực. Chủ nghĩa đế quốc đang lợi dụng ưu thế về kinh tế và kỹ thuật, nhân danh
lOMoARcPSD| 37054152
chống khủng bố, để thực hiện chiến lược diễn biến hoà bình” can thiệp vào công
việc nội bộ các nước, buộc các nước hội chủ nghĩa, các nước đang phát triển đi
vào quỹ đạo của chúng. Hiện nay giao lưu kinh tế, giao lưu văn hoá giữa các dân tộc
tăng lên. Trong khi giao lưu văn hoá phát triển mạnh mẽ, thì các nước đang phát triển
cũng đứng trước sự “xâm lăng văn hoá” từ phía các nước đế quốc. Trong bối cảnh
hiện nay, quan niệm về độc lập dân tộc chủ nghĩa hội phải được chú ý toàn
diện từ độc lập về lãnh thổ, về chủ quyền an ninh quốc gia đến độc lập, tự do về kinh
tế, chính trị, văn hóa, lối sống đạo đức hội. Không thể không thể chấp
nhận quan niệm nhân quyền cao hơn chủ quyền quốc gia. Việc rêu rao nhân quyền
của các nước bản, trước hết là Mỹ, thực chất là một hình thức mỵ dân, lấy cớ nhân
quyền đề can thiệp vào công việc nội bộ nước khác. Không thể độc lập tự do về
chính trị nếu bị lệ thuộc về kinh tế. Không thể giữ vững độc lập tự chủ nếu lối sống,
đạo đức xã hội bsuy thoái, văn hoá dân tộc bị coi rẻ hoặc bị biến dạng. Để thực hiện
tốt hai nhiệm vchiến lược hiện nay cần chú ý một số nguyên tắc tính chất phương
pháp luận:
- Xây dựng thành công hội hội chủ nghĩa, bảo vệ vững chắc độc lập dân
tộctrước hết phải bằng nguồn nội lực của đất nước, không lệ thuộc vào bên ngoài,
nhưng phải biết tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi để gia tăng nguồn lực phát
triển quốc gia. Kết hợp sức mạnh dân tộc sức mạnh thời đại theo tư tưởng H Chí
Minh để thực hiện thành công hai nhiệm vụ chiến lược.
- Trên sở nhận thức toàn cầu hoá, khu vực hoá kinh tế một tất yếu
kháchquan, tđó xác định các bước đi chủ động hội nhập phù hợp với năng
lực của đất nước. Hội nhập phải làm tăng sức mạnh đất nước làm giàu bản sắc
dân tộc.
- Độc lập dân tộc gắn chặt chẽ với chủ nghĩa hội phải được thể hiện
trongsuốt quá trình cách mạng trên mọi lĩnh vực của sự nghiệp xây dựng và bảo v
Tổ quốc.
lOMoARcPSD|37054152
2. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong tiến trình đổi mới
Ngày nay, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội chỉ có thể có được nếu Đảng và nhân
dân ta giải quyết thành công hàng loạt vấn đề trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính
trị, văn hoá, xã hội, đối nội và đối ngoại theo định hướng hội chủ nghĩa, trung
thành với con đường Hồ Chí Minh đã vạch ra. Đảng ta khẳng định trong bất kỳ tình
huống nào, cũng phải giữ vững định hướng hội chủ nghĩa, kiên quyết đề phòng
và chống nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, đang xuất hiện nhiều vấn đề lý luận nằm trong tổng thể quan niệm chung
về chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Nhu cầu phát triển đất nước đang đặt ra, đòi lại phải
nhận diện và hiểu biết về chủ nghĩa xã hội vừa mang tính tổng thể, vừa trong những
chi tiết, đường nét cụ thể. Do vậy, giữ vững định hướng hội chủ nghĩa theo
tưởng Hồ Chí Minh, trước hết cần làm sáng tỏ các vấn đề cơ bản sau:
- Cả trong luận thực tiễn cần khẳng định vấn đề định hướng đưa đất nước đilên
chủ nghĩa hội duy nhất đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của dân tộc xu
thế thời đại.
- m rõ và cụ thể hmục tiêu của đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa làdân
giàu, nước mạnh, hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sức hấp dẫn của chủ nghĩa
xã hội, trước hết là ở mục tiêu mang đậm bản chất nhân văn này.
- Xác định bản chất đặc trưng và nh cấu trúc của chủ nghĩa hội ViệtNam.
- m các động lực phát triển của chủ nghĩa xã hội, trong đó động lực con
ngườivới nhu cầu lợi ích của họ giữ vị ttrung tâm. Mặt khác việc phát hiện
động lực, chính sách phát huy và kết hợp các động lực phát triển slàm cho chủ
nghĩa xã hội sinh động, năng động và mang tính thực tiễn.
- Xác định rõ bước đi và cách làm chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội đang bị chi phối, tác động mạnh mẽ của rất nhiều yếu tố khách
lOMoARcPSD|37054152
quan và chủ quan; thách thức rất lớn, nhưng cũng rất nhiều thời cơ, vận hội. Trên cơ
sở quan niệm đúng đắn của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lại
kinh nghiệm thực tiễn hơn 70 năm qua, đặc biệt thực tiễn của gần 20 năm đổi
mới, cho phép chúng ta hiểu được thực chất con đường độc lập dân tộc tiến lên chủ
nghĩa hội trong bối cảnh hiện nay. Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa hội
nhu cầu sống còn, là sự lựa chọn duy nhất đúng của Việt Nam.
lOMoARcPSD|37054152
KẾT LUẬN
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa hội, với cách mạng Việt Nam không chỉ mục tiêu, nhu cầu, cương
lĩnh hành động, là ngọn cờ hiệu triệu, mà còn là động lực, là niềm tin sắt son của cả
dân tộc Việt Nam ta. Độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là sự gắn kết hai sức
mạnh thành một sức bật mới; ý nghĩa là cội nguồn thắng lợi của cách mạng Việt
Nam hôm qua, hôm nay và mai sau.
Thế kỷ XXI được mđầu bằng hình ảnh của một thế giới đầy biến động, cũng
đồng thời mở ra một kỷ nguyên hội nhập, đua tranh gay gắt của cộng đồng quốc tế.
thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, phải đối mặt với xu thế toàn cầu hoá, thì
hệ giá trị độc lập dân tộc chủ nghĩa hội, trong ý thức trong hành động của
Đảng và nhân dân ta vẫn là mục tiêu, lý tưởng, là quốc bảo phù hợp với xu thế thời
đại; sẽ đưa nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa trong s
nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng chủ nghĩa hội
và bảo vệ vững chắc Tổ Quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh, đưa đất nước ta sánh vai cùng các nước trong khu vực và trên thế
giới./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Những quan điểm cở bản của C.Mác-Ph.Ăngghen-V.I.Lênin về CNXH thời
kỳ quá độ, Nxb CTQG, HN, 1997;
2. Đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới CNXH Đỗ Mười, Nxb CTQG, HN, 1996; 3.
Đổi mới vì độc lập dân tộc và CNXH, HVCT, Nxb QĐND, HN, 1996;
4. “Hồ Chí Minh-Nhà tư tưởng lỗi lạc” – Song Thành, Nxb CTQG, HN, 2005;
5. Tư tưởng Hồ Chí Minh-Di sản văn hóa dân tộc, Nxb QĐND, HN, 2000;
lOMoARcPSD| 37054152
6. Giáo trình “Tư tưởng Hồ Chí Minh”, Nxb CTQG, Hà Nội, 2008;
7. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 1, Nxb CTQG, HN, 2000;
8. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 3, Nxb CTQG, HN, 2000;
9. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, HN, 2000;
10. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 9, Nxb CTQG, HN, 2000;
11. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 10, Nxb CTQG, HN, 2000;
12. C.Mác và Ph.Ăng nghen, Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, HN, 1995
| 1/30

Preview text:

lOMoARcPSD| 37054152
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TPHCM KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG
TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ NƯỚC TA HIỆN NAY. lOMoARcPSD| 37054152 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................ 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ....................................................................................................... 2
3. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................... 2
4. Kết cấu tiểu luận ............................................................................................................. 3
Nội dung Tiểu luận gồm 2 chương: .................................................................................. 3
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN
TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ................................................................... 4
1.Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội ......................................................................................................................... 4
1.1.Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng
vô sản ................................................................................................................................ 4
1.2.Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản lãnh
đạo .................................................................................................................................... 5
1.3.Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc ....................... 7
1.4.Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả
năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc ........................................... 8
1.5.Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách mạng
bạo lực .............................................................................................................................. 9
2. Ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội đối với sự nghiệp nước ta hiện nay .................................................... 11
2.1. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ cả nước tiến
hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (1930 - 1954) ............................................ 11

2.2. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ cả nước tiến
hành đồng thời hai chiến lược cách mạng (1954-1975) ................................................ 15
lOMoARcPSD| 37054152
2.3. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ cả nước quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ................................................................................................... 18

CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI
PHÓNG DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CỦA ĐẢNG TRONG
CÔNG CUỘC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ NƯỚC TA ................................................. 22

1. Thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ................................................................................................. 22
2. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong tiến trình đổi mới ............................ 24
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 26
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 26 lOMoARcPSD| 37054152 MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vấn đề độc lập dân tộc từ lâu đã luôn là một vấn đề cốt lõi căn bản nhất đối
với mọi quốc gia, dân tộc. Từ khi cách mạng Tháng mười Nga thành công (10/1917)
đã mở ra một thời đại mới: thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi toàn thế giới. Do vậy vấn đề độc lập dân tộc đã phát triển lên một bước
mới, đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay khi Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa
ở Đông Âu sụp đổ, tình hình thế giới đang diễn biến nhanh chóng và hết sức phức
tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới độc lập dân tộc và công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động với chiêu bài
“nhân quyền”, “tự do tôn giáo” và gần đây là “chống khủng bố” đã tập trung mũi
nhọn nhằm chống phá phong trào cách mạng thế giới mà trước hết là đối với các
nước xã hội chủ nghĩa còn lại trong đó có Việt Nam. Chúng muốn xóa bỏ chủ nghĩa
xã hội cả phương diện lý luận và hiện thực khi thành trì vĩ đại của chủ nghĩa xã hội
là Liên Xô đã sụp đổ. Do vậy xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ vững chắc
tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vẫn là hai nhiệm vụ chiến lược của toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân ta.
Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đường lối đó là sợi
chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng, là ngọn cờ
bách chiến bách thắng của cách mạng Việt Nam. Đó là bài học được Đại hội lần thứ
IV của Đảng rút ra từ thực tiễn phong phú của cách mạng nước ta, được các Đại hội
lần thứ V, VI của Đảng tiếp tục khẳng định và đặc biệt được Đại hội lần thứ VII của
Đảng phát triển với nội dung mới qua tổng kết kinh nghiệm 15 năm tiến hành cách
mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước. Bài học trên là sự phản ánh sinh động
xu thế cách mạng của thời đại cũng như của nước ta, không những chỉ ra nguồn gốc
thắng lợi của cách mạng Việt Nam trước đây, mà còn chỉ ra những yếu tố bảo đảm lOMoARcPSD| 37054152
tính đúng đắn của đường lối và sự thắng lợi của cách mạng trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Nghiên cứu tư tưởng trên của Hồ Chí Minh sẽ góp phần làm sáng rõ để mọi
người nhận thức đúng đắn, sâu sắc hơn những giá trị tư tưởng vĩ đại và công lao to
lớn của Người, đồng thời rút ra được những vấn đề có tính nguyên tắc, những bài
học kinh nghiệm hết sức quý báu để vận dụng trong việc thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược cách mạng của Đảng hiện nay là xây dựng thành công và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Tiểu luận góp phần làm sáng rõ những quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh
cùng với Đảng ta trong lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam thực hiện đường lối
chiến lược: “Cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Từ đó
nhận thức sâu sắc hơn tư tưởng của Người đối với con đường cách mạng Việt Nam
đồng thời vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
tổ quốc xã hội chủ nghĩa giai đoạn hiện nay dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tiểu luận trình bày một cách cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về những nội dung,
biện pháp của Người và Đảng ta trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam theo
hai đường lối chiến lược. Từ đó rút ra những vấn đề có tính nguyên tắc, những bài
học có thể vận dụng vào sự nghiệp cách mạng hiện nay của Đảng.
3. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng của Đảng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ
nước ta hiện nay” được nghiên cứu theo phương pháp tư duy lôgic kết hợp với lịch
sử là chủ yếu. Ngoài ra còn sử dụng phương pháp so sánh, tổng hợp, phân tích… lOMoARcPSD| 37054152
4. Kết cấu tiểu luận
Nội dung Tiểu luận gồm 2 chương:
+ Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội.
+ Chương 2: Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền
với Chủ nghĩa xã hội của Đảng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ nước ta. lOMoARcPSD| 37054152
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI
PHÓNG DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội
1.1.Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách
mạng vô sản
Thất bại của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở Việt Nam cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX chứng tỏ rằng, những con đường giải phóng dân tộc
dưới ngọn cờ tư tưởng phong kiến hoặc tư tưởng tư sản là không đáp ứng được
yêu cầu khách quan là giành độc lập, tự do của dân tộc do lịch sử đặt ra. Hồ Chí
Minh rất khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha, nhưng Người không tán
thành các con đường cứu nước ấy, mà quyết tâm ra đi tìm một con đường cứu nước mới.
Tháng 7-1920, khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề
dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin, Người thấy "tin tưởng, sáng tỏ và cảm
động". Người khẳng định: "Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường
giải phóng chúng ta"1 . Người đã tìm thấy trong lý luận của V.I. Lênin một con
đường cứu nước mới: con đường cách mạng vô sản.
Đầu năm 1923, trong Truyền đơn cổ động mua báo Người cùng khổ (Le
Paria), Người viết: "Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho
mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái,
đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc..."
Như vậy là, vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà
cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với học thuyết
cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vô sản. lOMoARcPSD| 37054152
Từ đó, Người quyết tâm đưa dân tộc Việt Nam đi theo con đường đó. Con
đường cách mạng vô sản, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, bao hàm những nội dung chủ yếu sau:
- Tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc và dần dần từng bước "đi tới xã hộicộng sản".
- Lực lượng lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân mà đội tiền phong của nólà Đảng Cộng sản.
- Lực lượng cách mạng là khối đoàn kết toàn dân, nòng cốt là liên minh giữagiai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và lao động trí óc.
- Sự nghiệp cách mạng của Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách
mạngthế giới, cho nên phải đoàn kết quốc tế.
1.2.Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo
Các nhà yêu nước Việt Nam đã ý thức được tầm quan trọng và vai trò của
tổ chức cách mạng. Phan Châu Trinh cho rằng: ngày nay, muốn độc lập, tự do,
phải có đoàn thể. Rất tiếc là ông chưa kịp thực hiện ý tưởng của mình. Phan Bội
Châu đã tổ chức ra Duy tân hội (1904) và Việt Nam Quang phục hội (1912), dự
định sau sẽ cải tổ thành Việt Nam quốc dân đảng theo kiểu Tôn Trung Sơn, chưa
kịp thực hiện thì ông đã bị bắt và giam lỏng tại Huế.
Dù đã thành lập hay chưa thì các tổ chức cách mạng kiểu cũ không thể đưa
cách mạng giải phóng dân tộc đi đến thành công, vì nó thiếu một đường lối chính
trị đúng đắn và một phương pháp cách mạng khoa học, không có cơ sở rộng rãi
trong quần chúng. Những nỗ lực đấu tranh cứu nước nhưng không thành công lOMoARcPSD| 37054152
của Việt Nam quốc dân đảng, tổ chức chính trị tiêu biểu nhất của giai cấp tư sản
Việt Nam, đã chứng minh điều đó.
Hồ Chí Minh khẳng định: Muốn giải phóng dân tộc thành công trước hết
phải có đảng cách mệnh. Người phân tích: "cách mệnh trước phải làm cho dân
giác ngộ, phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu, phải hiểu phong triều
thế giới, phải bày sách lược cho dân... Vậy nên sức cách mệnh phải tập trung,
muốn tập trung phải có đảng cách mệnh".
Đầu năm 1930, Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, một chính đảng
của giai cấp công nhân Việt Nam, có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh và
liên hệ mật thiết với quần chúng. lOMoARcPSD| 37054152
1.3.Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc "là việc chung cả dân chúng
chứ không phải việc một hai người". Người phân tích: "dân tộc cách mệnh chưa phân
giai cấp, nghĩa là sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền". Trong
lực lượng đó, công nông "là gốc cách mệnh", "là người chủ cách mệnh"; "còn học
trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng
công nông; 3 hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi"
Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của nhân dân trong khởi nghĩa vũ trang.
Người coi sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo vô tận của quần chúng là then chốt
bảo đảm thắng lợi. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Người phê phán việc lấy ám
sát cá nhân và bạo động non làm phương thức hành động. Người khẳng định:
"Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại"
Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Người xác định lực lượng cách
mạng bao gồm toàn dân tộc: Đảng phải tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân, tập
hợp đại bộ phận nông dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, lãnh đạo nông dân
làm cách mạng ruộng đất; lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông... đi vào phe vô sản
giai cấp; đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam mà chưa rõ mặt
phản cách mạng thì phải lợi dụng, chí ít là làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào
đã ra mặt phản cách mạng (như Đảng Lập hiến) thì phải đánh đổ
Chủ trương tập hợp lực lượng của Hồ Chí Minh phản ánh tư tưởng đại đoàn kết
dân tộc của Người. Trong Bài ca du kích (1942), Người chủ trương mọi người già,
trẻ, gái, trai, dân, lính đều tham gia đánh giặc. Trong Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân (ngày 22-12-1944), Người viết: "Cuộc kháng chiến của
ta là cuộc kháng chiến của toàn dân, cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân"
Mục đích cách mạng và chiến tranh chính nghĩa - vì độc lập tự do, làm cho khả
năng tiến hành chiến tranh nhân dân trở thành hiện thực, làm cho toàn dân tự giác
tham gia kháng chiến. Tư tưởng chiến tranh nhân dân của Hồ Chí Minh là ngọn cờ lOMoARcPSD| 37054152
cổ vũ, dẫn dắt cả dân tộc ta đứng lên kháng chiến và kháng chiến thắng lợi, đánh
thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ trong 30 năm chiến tranh cách mạng Việt Nam,
làm nên thắng lợi vĩ đại có tính thời đại sâu sắc.
1.4.Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có
khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
Trong phong trào cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của
cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc.
Đề cương về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa được
thông qua tại Đại hội VI Quốc tế cộng sản (ngày 1-9-1928) cho rằng: Chỉ có thể thực
hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được
thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến. Quan điểm này, vô hình chung đã làm giảm
tính chủ động, sáng tạo của các phong trào cách mạng ở thuộc địa.
Do nhận thức được vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa, đánh giá
đúng sức mạnh dân tộc, năm 1921, Nguyễn ái Quốc cho rằng cách mạng giải phóng
dân tộc ở thuộc địa có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Người viết: "Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh
để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình
thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn lOMoARcPSD| 37054152
tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh
em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn
Trong tác phẩm Đường kách mệnh, Hồ Chí Minh có sự phân biệt về nhiệm vụ
của cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc và cho rằng: hai thứ cách
mạng đó tuy có khác nhau, nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Người nêu ví dụ:
"An Nam dân tộc cách mệnh thành công thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì
công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ. Và nếu công nông Pháp làm cách
mệnh thành công, thì dân tộc An Nam sẽ được tự do"
Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn; một cống
hiến rất quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin,
đã được thắng lợi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên toàn thế giới
trong gần một thế kỷ qua chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
1.5.Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách
mạng bạo lực
a. Bạo lực cách mạng trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam
Các thế lực đế quốc sử dụng bạo lực để xâm lược và thống trị thuộc địa, đàn
áp dã man các phong trào yêu nước. Chế độ thực dân, tự bản thân nó đã là một
hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu. Chưa đè bẹp ý chí xâm lược của
chúng thì chưa thể có thắng lợi hoàn toàn. Vì thế con đường để giành và giữ độc
lập dân tộc chỉ có thể là con đường cách mạng bạo lực. Đánh giá đúng bản chất
cực kỳ phản động của bọn đế quốc và tay sai, Hồ Chí Minh cho rằng: "Trong
cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo
lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền"
Quán triệt quan điểm sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Hồ
Chí Minh cho rằng bạo lực cách mạng cũng là bạo lực của quần chúng. Hình thức
của bạo lực cách mạng bao gồm cả đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, lOMoARcPSD| 37054152
nhưng phải "tùy tình hình cụ thể mà quyết định những hình thức đấu tranh cách
mạng thích hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang
và đấu tranh chính trị để giành thắng lợi cho cách mạng" Tư tưởng bạo lực
cách mạng và tư tưởng nhân đạo hòa bình thống nhất biện chứng với nhau trong
tư tưởng Hồ Chí Minh. Người chủ trương, yêu nước, thương dân, yêu thương con
người, yêu chuộng hòa bình, tự do, công lý, tranh thủ mọi khả năng hòa bình để
giải quyết xung đột, nhưng một khi không thể tránh khỏi chiến tranh thì phải kiên
quyết tiến hành chiến tranh, kiên quyết dùng bạo lực cách mạng, dùng khởi nghĩa
và chiến tranh cách mạng để giành, giữ và bảo vệ hòa bình, vì độc lập tự do
b. Phương châm chiến lược đánh lâu dài trong cách mạng giải phóng dântộc
Trước những kẻ thù lớn mạnh, Hồ Chí Minh chủ trương sử dụng phương châm
chiến lược đánh lâu dài. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người nói: "Địch
muốn tốc chiến, tốc thắng. Ta lấy trường kỳ kháng chiến trị nó, thì địch nhất định
thua, ta nhất định thắng" , "Trường kỳ kháng chiến... nhất định thắng lợi"2 . Kháng
chiến phải trường kỳ vì đất ta hẹp, dân ta ít, nước ta nghèo, ta phải chuẩn bị lâu dài
và phải có sự chuẩn bị toàn diện của toàn dân. Theo Người, họa thực dân cũng như
một chứng bệnh trầm trọng. Muốn chữa bệnh ấy, ta phải thật gan dạ để chịu đau đớn
khi mổ xẻ, phải có đủ thời giờ để bồi dưỡng lại sức, kết quả nhất định tẩy trừ được
bệnh ấy. Công cuộc kháng chiến cũng như vậy. Người phân tích: "Với binh nhiều,
tướng đủ, khí giới tối tân, chúng định đánh mau thắng mau.
Với quân đội mới tổ chức, với vũ khí thô sơ, ta quyết kế trường kỳ kháng chiến...
thắng lợi với trường kỳ phải đi đôi với nhau"
Độc lập tự chủ, tự lực tự cường kết hợp với tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế là một
quan điểm nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ, Người đã động viên sức mạnh của toàn dân tộc, đồng thời ra sức
vận động, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế to lớn và có hiệu quả, cả về vật chất và tinh
thần, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để kháng chiến thắng lợi. lOMoARcPSD| 37054152
2. Ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội đối với sự nghiệp nước ta hiện nay
2.1. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ
cả nước tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (1930 - 1954)
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
sớm nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Vấn đề dân tộc bao giờ
cũng mang tính giai cấp. Mỗi giai cấp đều có quan điểm riêng về vấn đề dân tộc. Vào
những thế kỷ XVI, XVII, XVIII, dân tộc gắn với giai cấp tư sản. Lúc đó, giai cấp tư
sản giương cao ngọn cờ dân tộc chống chế độ phong kiến lỗi thời. Thắng lợi của
phong trào dân tộc lúc đó là thắng lợi của chủ nghĩa dân tộc tư sản, thắng lợi của chủ
nghĩa tư bản. Khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang thời kỳ đế quốc chủ nghĩa, giai cấp
tư sản chẳng những là kẻ bóc lột nhân dân trong nước, mà còn là kẻ thống trị, áp bức,
bóc lột lớn nhất đối với nhiều dân tộc trên thế giới. Sau thắng lợi vĩ đại của Cách
mạng Tháng Mười, giai cấp công nhân, đại biểu cho phương thức sản xuất mới,
phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa, là giai cấp duy nhất có khả năng giải quyết
vấn đề dân tộc, kết hợp đúng đắn lợi ích giai cấp với lợi ích chân chính của dân tộc.
Ngày nay, dân tộc gắn liền với giai cấp công nhân, với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Nước ta cũng chịu sự tác động của xu thế chung đó. Xác định đúng địa vị lịch
sử của giai cấp công nhân là điều kiện cốt yếu để kết hợp yếu tố dân tộc với yếu tố
giai cấp theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận
thức sớm điều đó. Người nói: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng
được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng
sản và của cách mạng thế giới"1. Vào những năm 20 của thế kỷ này, ở Việt Nam đã
có cuộc đấu tranh giữa tổ chức tiền thân của Đảng với phong trào yêu nước mang tư
tưởng quốc gia về đường lối cách mạng giải phóng dân tộc. Nhận rõ nguyên nhân
thất bại của các phong trào yêu nước chống Pháp dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu và
1 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 1, Nxb CTQG, HN, 2000, Tr. 416 lOMoAR cPSD| 37054152
các lãnh tụ nông dân, biết những hạn chế của những cuộc cách mạng dân chủ tư sản,
hơn nữa với sức mạnh thuyết phục của chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối cách mạng
kiểu mới, qua cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa quốc gia, phần
lớn hội viên, đảng viên của Tâm Tâm Xã, Tân Việt đã hăng hái tiếp thu tư tưởng cứu
nước của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Vì vậy, phong trào công nhân nhanh chóng trở
thành phong trào chính trị độc lập và phong trào yêu nước với nội dung mới đã phát
triển mạnh mẽ vào năm 1929 dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam tháng
2 năm 1930. Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam ra đời là biểu hiện đầy đủ về sự
thống nhất giữa xu hướng phát triển chung của thời đại và của riêng nước ta; đáp ứng
đúng đòi hỏi của tư tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội gắn liền với nhau,
đồng thời là lực lượng duy nhất có khả năng lãnh đạo thực hiện thắng lợi tư tưởng
đó. Ngay sau khi ra đời, trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, tiếp đó là Luận
cương chính trị , Đảng đã xác định đường lối cách mạng Việt Nam là phải trải qua
hai giai đoạn: trước hết là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sau đó tiến lên chủ
nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển của chế độ tư bản chủ nghĩa, mục đích cuối
cùng của Đảng là thực hiện chủ nghĩa cộng sản ở nước ta. Trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng, Đảng luôn luôn nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, vì vậy đã giải quyết đúng đắn hàng loạt vấn đề lớn của cách mạng Việt Nam và
đã giành được những thắng lợi vĩ đại. Với đường lối chiến lược đó, Đảng đã nắm
vững lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về tính liên tục và tính giai đoạn của cách mạng,
khéo giải quyết mối quan hệ giữa hai giai đoạn cách mạng. Ở giai đoạn cách mạng
dân tộc dân chủ, trong khi tập trung sức người, sức của để hoàn thành nhiệm vụ
chống đế quốc, chống phong kiến, Đảng vẫn không quên tuyên truyền phương hướng
tiến lên chủ nghĩa xã hội và khi có điều kiện, Đảng bắt tay ngay xây dựng một số cơ
sở kinh tế, vừa phục vụ giai đoạn trước, vừa gây mầm mống thành phần kinh tế xã
hội chủ nghĩa thuộc giai đoạn cách mạng sau. Phương hướng tiến lên chủ nghĩa xã
hội tuy là việc làm trong tương lai, nhưng tuyên truyền và quán triệt tư tưởng đó lại
có tác dụng làm tăng thêm sức mạnh cho hiện tại vì nó đáp ứng từng bước yêu cầu lOMoARcPSD| 37054152
của quần chúng đông đảo là kết hợp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, mà
trước hết là công nhân và nông dân, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Sức
mạnh của cách mạng dân tộc dân chủ bắt nguồn từ những nhân tố đó và chính những
nhân tố đó giữ vai trò quyết định thắng lợi của cách mạng. Đường lối nắm vững ngọn
cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Đảng đã khắc phục những hạn chế của
nhiều nhà yêu nước trước đây là chưa thấy rõ con đường tiến lên của dân tộc. Chính
hạn chế đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại của phong trào giải
phóng dân tộc kiểu cũ ở nước ta. Nhiệm vụ dân tộc dân chủ được giải quyết càng
triệt để thì những điều kiện để đi lên chủ nghĩa xã hội càng được tạo ra đầy đủ. Giải
quyết mối quan hệ giữa hai giai đoạn cách mạng là một vấn đề quan trọng nhưng
chưa phải là vấn đề khó nhất. Việc giải quyết mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế
quốc và nhiệm vụ chống phong kiến để có thể phát huy cao độ yếu tố dân tộc mới là
vấn đề phức tạp. Đảng phải mất một thời gian tương đối dài mới đạt được sự nhất trí
cao. Nguyện vọng tha thiết và trực tiếp của nhân dân ta là dân tộc độc lập, người cày
có ruộng. Từ sự phân tích trên, Đảng vạch rõ cách mạng Việt Nam có hai nhiệm vụ
chiến lược: đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược và thống trị, giành độc lập dân tộc, xoá
bỏ chế độ phong kiến giành ruộng đất cho nông dân. Hai nhiệm vụ đó phải được tiến
hành khăng khít với nhau, không được tách rời. Đó là tư tưởng đúng đắn. Về chỉ đạo
chiến lược, Đảng phải đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, với khẩu hiệu
"Tổ quốc trên hết" để phát huy cao độ sức mạnh dân tộc nhưng không coi nhẹ những
nhiệm vụ dân chủ. Trong các văn kiện Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do
Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo đã đáp ứng được điều đó. Trong khi không xa rời
mục tiêu chiến lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương tập trung lực lượng toàn dân
chống đế quốc và đại địa chủ, còn đối với "bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An lOMoARcPSD| 37054152
Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng
trung lập"1. Về sau, Đảng còn thu hẹp hơn diện đấu tranh để thực hiện sách lược thêm
bạn, bớt thù. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phản ánh đúng mâu thuẫn chủ
yếu nhất của xã hội Việt Nam là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân ta với chủ nghĩa
đế quốc và tay sai. Tư tưởng đó đã đáp ứng yêu cầu nắm vững ngọn cờ dân tộc để
tập hợp lực lượng đánh mạnh vào âm mưu thâm độc của chủ nghĩa đế quốc, sử dụng
chủ nghĩa quốc gia chia rẽ dân tộc, chống lại đường lối đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Tư tưởng đúng đắn và sáng tạo nói trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt
nguồn từ việc khéo kết hợp yếu tố dân tộc với yếu tố giai cấp để xem xét vấn đề xã
hội. Sự ra đời một tư duy mới luôn gặp khó khăn, trắc trở. Trong mấy năm đầu của
lịch sử Đảng, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh không được Quốc tế Cộng sản và
Đảng ta chấp nhận và bị thay thế bằng một đường lối "cứng rắn" dựa trên cơ sở đơn
thuần vận dụng hay quá nhấn mạnh lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp. Thực tiễn
ngày càng chỉ rõ quan điểm "cứng rắn" đó không phù hợp với lý luận và thực tiễn
của cách mạng nước ta. Vừa mới ra đời, Đảng đã có thành tích lớn là phát động được
cao trào cách mạng của công - nông trong cả nước kéo dài hơn một năm, nhưng cao
trào đó cũng bộc lộ tính hẹp hòi, "tả" khuynh trong công tác vận động cách mạng.
Từ năm 1939 trở đi, tư tưởng chiến lược cách mạng trên đây của Chủ tịch Hồ Chí
Minh được Quốc tế Cộng sản và Đảng ta chấp nhận và phát triển thêm. Hội nghị
Trung ương 8 tháng 5-1941, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã đưa ra
một luận điểm mới: "Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải
phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể
quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp
đến vạn năm cũng không đòi lại được"2. Từ đây, Mặt trận Việt Minh được thành lập,
Mặt trận có lực lượng lớn và ảnh hưởng mạnh, đã góp phần quan trọng vào việc phát
động cuộc Tổng khởi nghĩa mang tính toàn dân dẫn đến thắng lợi của Cách mạng
1 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 3, Nxb CTQG, HN, 2000, Tr. 3
2 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 3, Nxb CTQG, HN, 2000, Tr. 113 lOMoARcPSD| 37054152
tháng Tám, tiếp đến Mặt trận Liên Việt, một trong những lực lượng bảo vệ thắng lợi
chính quyền non trẻ và là cơ sở của cuộc chiến tranh nhân dân rộng lớn chống thực
dân Pháp xâm lược. Để phản ánh đúng tư tưởng chiến lược về tính không tách rời
của hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến, phản ánh nhận thức của Đảng muốn
giữ quyền lãnh đạo dân tộc phải thực hiện những yêu cầu dân chủ đối với nông dân,
Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng (2-1951) đã định rõ "nhiệm vụ giải phóng dân
tộc bao gồm nhiệm vụ phản phong kiến", và thay khái niệm "cách mạng tư sản dân
quyền" bằng khái niệm "cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân". Từ những thành công
cũng như có lúc sai lầm, Đảng đã rút ra bài học quan trọng về mối quan hệ giữa chiến
lược và sự chỉ đạo chiến lược. Đó là: nắm vững và giương cao ngọn cờ dân tộc và
dân chủ với hai khẩu hiệu chiến lược "dân tộc độc lập" và "người cày có ruộng",
Đảng ta đã lôi cuốn được đông đảo nông dân đi theo giai cấp công nhân, động viên
được các tầng lớp nhân dân khác cùng với công, nông bước lên trận tuyến cách mạng
chống đế quốc và phong kiến. Trong quá trình cách mạng, những nhiệm vụ chiến
lược đó đã được cụ thể hoá bằng những mục tiêu thích hợp với từng thời kỳ, dựa trên
sự phân tích những mối quan hệ giai cấp cụ thể và khả năng phân hoá hàng ngũ kẻ
thù đế quốc và phong kiến, nhằm tập trung ngọn lửa cách mạng vào kẻ thù nguy hại
nhất trong từng lúc một. Song, dù ở bất cứ thời kỳ nào, những mục tiêu và nhiệm vụ
chính trị cụ thể do Đảng đề ra, về cơ bản đều bao hàm cả hai nội dung dân tộc và dân
chủ, về cơ bản đều gắn liền hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. Như
vậy về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược, Đảng đã nhận thức đầy đủ hơn và
bảo đảm cho Đảng tránh mắc sai lầm tả hữu khuynh trong việc lãnh đạo hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam trong thời kỳ chống đế quốc Mỹ.
2.2. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ
cả nước tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng (1954-1975)
Từ năm 1954, hoà bình được lập lại, đặc điểm lớn nhất của nước ta là tạm thời
bị chia cắt làm hai miền, với hai chế độ chính trị đối lập. Đảng ta nhận định trong lOMoAR cPSD| 37054152
thời kỳ mới, việc kết hợp đúng đắn giữa nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc và nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước cũng có tác dụng quyết định đến thắng lợi của
cách mạng miền Nam. Đảng ta phải giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ cách
mạng ở hai miền trong lúc trên thế giới chưa có tiền lệ giải quyết thành công vấn đề
này. Bên cạnh những khó khăn, cách mạng Việt Nam cũng có nhiều thuận lợi cơ bản:
cách mạng nước ta đang ở thế thắng, tinh thần nhân dân đang hừng hực quyết tâm
hơn bao giờ hết, phong trào giải phóng dân tộc đã đánh đổ từng mảng lớn hệ thống
thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc; lúc đó hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đang là
lực lượng hùng mạnh. Trung thành với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác
- Lênin, với lợi ích dân tộc và nghĩa vụ quốc tế, Đảng ta đã từng bước giải quyết mối
quan hệ giữa cách mạng hai miền. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng
(9-1960) đã quyết định đường lối cách mạng chung của cả nước: - "Một là, tiến hành
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. - Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách
thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành
độc lập và dân chủ trong cả nước. Hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan hệ mật thiết
với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau". Về vị trí chiến lược cách mạng của từng
miền, Đảng ta xác định miền Bắc xã hội chủ nghĩa giữ vai trò quyết định nhất của sự
nghiệp cách mạng cả nước và sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà, còn cách
mạng miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đánh đổ đế quốc Mỹ và tay sai.
Thông qua thực hiện nhiệm vụ cách mạng ở mỗi miền mà góp phần thực hiện nhiệm
vụ chung của cả nước là hoàn thành độc lập, thống nhất đất nước. Bởi vậy, Đảng ta
coi quan điểm chờ miền Nam hoàn toàn giải phóng, rồi cả nước cùng tiến lên chủ
nghĩa xã hội là không đúng.
Đường lối trên biểu hiện tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta. Lý luận cũng
như thực tiễn chứng minh đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng
khác nhau ở hai miền là đúng đắn. Hai chiến lược đó chẳng những không mâu thuẫn
mà còn hỗ trợ, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Trong khi đề ra nhiệm vụ cải tạo và
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Đảng không chỉ căn cứ vào tình hình miền lOMoAR cPSD| 37054152
Bắc, mà còn căn cứ cả vào tình hình miền Nam. Đảng đề ra chủ trương đúng đắn đó
vừa đáp ứng nguyện vọng của nhân dân hai miền Bắc - Nam, đồng thời phát huy
được tinh thần yêu nước, mở rộng mặt trận dân tộc giải phóng. Bằng công cuộc xây
dựng kinh tế - xã hội ở miền Bắc, vừa bảo đảm đời sống cho nhân dân miền Bắc, vừa
tăng cường lực lượng làm hậu thuẫn và chi viện cho cách mạng miền Nam. Đảng
lãnh đạo nhân dân miền Bắc phối hợp với nhân dân miền Nam đấu tranh chống những
thủ đoạn xâm lược, chiến tranh chống phá của đế quốc Mỹ ở miền Nam và cả ở miền
Bắc. Đảng giáo dục nhân dân miền Nam nhận rõ vị trí quan trọng của cách mạng dân
tộc dân chủ ở miền Nam là: trực tiếp làm thất bại mọi chính sách xâm lược và nô
dịch của đế quốc Mỹ và góp phần tích cực bảo vệ miền Bắc, bảo vệ căn cứ địa cách
mạng của cả nước, tạo điều kiện cho miền Bắc giữ được hoà bình để tiến hành thắng
lợi sự nghiệp cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong khi đề ra nhiệm vụ, phương
pháp cách mạng ở miền Nam cũng như khi quyết định mở những trận quyết chiến
chiến lược, Đảng phải căn cứ vào tình hình miền Nam và cả tình hình miền Bắc, xem
xét tác động của những thắng lợi sẽ giành được có ảnh hưởng đối với miền Nam và
cả đối với miền Bắc. Tiến lên chủ nghĩa xã hội, lực lượng mọi mặt của miền Bắc sẽ
được tăng cường nhanh chóng. Đảng có thể lãnh đạo nền kinh tế theo hướng giải
quyết khéo mâu thuẫn giữa sức người, sức của có hạn với yêu cầu ngày càng lớn của
sự nghiệp cách mạng của hai miền. Miền Bắc xã hội chủ nghĩa có lực lượng vững
mạnh mới đủ sức làm tròn nhiệm vụ căn cứ địa của cả nước, đủ sức tự bảo vệ, đánh
thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại rất ác liệt của đế quốc Mỹ, có đủ điều kiện chi
viện cho cách mạng miền
Nam, đồng thời làm tròn nghĩa vụ quốc tế đối với hai nước Lào và Campuchia anh
em. Sự gắn bó chặt chẽ giữa cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng
giải phóng dân tộc ở miền Nam làm cho thế và lực của cách mạng cả nước cũng như
của miền Nam không ngừng tăng lên. Nhờ vậy, cách mạng miền Nam đã sử dụng
được sức mạnh tổng hợp của cả nước để tiến công địch, đánh bại mọi chiến lược,
chiến thuật của đế quốc Mỹ và tay sai. Thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến chống lOMoARcPSD| 37054152
Mỹ, Đảng ta rút ra những kết luận quan trọng: - Thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của cả hai chiến lược cách mạng được tiến hành
đồng thời và kết hợp chặt chẽ với nhau. - Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
có nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ sự nghiệp cách mạng
nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Đảng khẳng định: Không thể có
thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nếu không có miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Từ việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai chiến lược cách mạng, Đảng
ta đã giải quyết sáng tạo một loạt vấn đề lớn như đẩy mạnh cách mạng và bảo vệ hoà
bình thế giới, ở khu vực và hoà bình tương đối ở ngay miền Bắc; giữa tiến công và
bảo vệ...; bác bỏ những quan điểm hữu khuynh và phiêu lưu. Đảng ta có khả năng và
có điều kiện giải quyết vấn đề trên do đã từng hoạt động trong những hoàn cảnh đặc
biệt. Cách mạng Việt Nam đã chứng minh một tư tưởng lớn của thời đại ngày nay là
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội gắn liền với. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội là bài học quan trọng của Đảng. Đảng tiếp tục quán triệt bài học
đó trong giai đoạn lịch sử mới.
2.3. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ
cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Sau khi giải phóng miền Nam năm 1975, thống nhất đất nước, Đảng đã xác
định cả nước chuyển sang giai đoạn mới. Việc chuyển giai đoạn cách mạng có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng. Nhưng việc làm đó không đơn giản. Mỗi nước có cách
giải quyết riêng, không có một khuôn mẫu định trước. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa
Mác -Lênin, dựa vào thực tiễn cách mạng nước ta, Đảng nhận định: Trong thời đại
ngày nay, khi độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không thể tách rời nhau, và ở nước
ta, khi giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo cách mạng thì thắng lợi của cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân cũng là sự bắt đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, sự bắt
đầu của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, sự bắt đầu của thời kỳ thực hiện lOMoAR cPSD| 37054152
nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản. Tất nhiên, việc chuyển cách mạng sang
giai đoạn mới và việc xây dựng chủ nghĩa xã hội với quy mô lớn không đồng nghĩa
với nhau. Trước sau như một, Đảng ta và nhân dân ta kiên trì con đường xã hội chủ
nghĩa và nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp đổi mới. Đại hội
lần thứ VII của Đảng nêu quyết tâm: "Toàn Đảng, toàn dân tiếp tục nắm vững ngọn
cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội". Vì: "Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết
để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho
độc lập dân tộc". Để thực hiện quyết tâm đó, việc làm đầu tiên của Đảng là đánh giá
một cách khách quan những thuận lợi và khó khăn của tình hình đất nước và tình
hình thế giới. Đảng phải mất một thời gian mới đi đến những nhận định tương đối
đầy đủ, thậm chí có lúc nhận thức sai lầm, nóng vội. Sức mạnh của thời đại trong
giai đoạn hiện nay là sức mạnh của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại;
là xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới; là các lực lượng đấu tranh cho hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, v.v.. Loài người cuối cùng nhất định
sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội, dù lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co.
Sức mạnh của dân tộc là: chính quyền thuộc về nhân dân; nước nhà đi vào giai đoạn
hoà bình xây dựng; dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, có ý chí vươn lên mãnh liệt,
nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn, cần cù lao động và sáng tạo; chúng ta đã xây
dựng được một số cơ sở vật chất ban đầu; tài nguyên thiên nhiên nước ta tương đối
phong phú, đa dạng; nước ta ở vào khu vực phát triển kinh tế năng động, lại nằm trên
các tuyến giao thông quốc tế quan trọng. Đại hội lần thứ VII của Đảng đã xác định
mục tiêu và giải pháp chiến lược, những điều kiện tiên quyết để biến tiềm năng thành
hiện thực, trong đó có nhiều điểm đổi mới phải quán triệt. Phát triển một nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế quốc doanh
giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và mở rộng. Xoá bỏ
triệt để cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. lOMoAR cPSD| 37054152
Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế
trong các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn luôn
nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội, bảo vệ chính quyền và các thành quả cách mạng. Xây dựng một nền văn hoá
mới, tạo ra một đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú, đa dạng, có nội dung nhân
đạo, dân chủ, tiến bộ. Phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm công bằng,
bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, kết hợp tốt giữa các lợi ích: cá nhân, tập thể và
xã hội. Hình thành một cộng đồng xã hội Việt Nam, trong đó các giai cấp, các tầng
lớp dân cư đều có nghĩa vụ, quyền lợi chính đáng. Không ngừng củng cố, tăng cường
đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
Thực hiện chính sách đối ngoại mềm dẻo, linh hoạt và khôn khéo nhằm tạo
điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đi lên chủ
nghĩa xã hội, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội và giải quyết nhiều vấn đề khác có lợi
ích toàn cầu. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là điều kiện quan trọng nhất của việc
kết hợp, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tiến hành thường
xuyên xây dựng và chỉnh đốn Đảng bảo đảm Đảng cộng sản Việt Nam luôn trong
sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, đồng thời
làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Những tư tưởng chiến lược nói trên của Đảng là đúng đắn. Trong quá trình lãnh đạo
cách mạng, Đảng cụ thể hoá và hoàn chỉnh những tư tưởng đó nhằm khai thác đầy
đủ nhất sức mạnh của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đường lối kết hợp giương
cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là một bài học lớn của Đảng ta. Với
đường lối đó, Đảng ta góp phần bảo vệ tính trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, lOMoARcPSD| 37054152
chống chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa dân tộc sô-vanh. Nhờ lực lượng hùng hậu do
đường lối này đưa lại, quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giành được thắng
lợi trọn vẹn trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Ngày nay, tiếp tục nắm vững
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội với nội dung mới, Đảng sẽ tiếp tục tạo
ra lực lượng lớn mạnh bảo đảm cho Đảng làm tròn nhiệm vụ lịch sử trong giai đoạn
cách mạng hiện nay là xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. lOMoARcPSD| 37054152
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG
GIẢI PHÓNG DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CỦA
ĐẢNG TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ NƯỚC TA

1. Thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi
với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV - đại hội thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên
chủ nghĩa xã hội đã khẳng định: "Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, khi cả nước
làm một nhiệm vụ chiến lược hoặc làm hai nhiệm vụ chiến lược, Đảng ta từ khi ra
đời đến nay vẫn luôn luôn giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
đó là đường lối, là sức mạnh, là nguồn gốc mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam".
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội
VII thông qua đã khẳng định trong thời kỳ đổi mới: "Toàn Đảng, toàn dân tiếp tục
nắm vững ngọn cờ độc lập, dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ngọn cờ vinh quang mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và thế hệ mai sau”.
Hiện nay, cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam vẫn
đang tiếp diễn. Đảng ta khẳng định: "Trong giai đoạn đổi mới, phải giữ vững mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Trong bất kỳ tình huống nào cũng phải
thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong quan hệ quốc tế phức tạp, chằng chéo như hiện nay, để thực hiện thắng lợi
hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta, đòi hỏi phải có nhận thức sâu sắc
các yếu tố tác động đến độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Chiến tranh lạnh trên thế giới kết thúc, hoà bình, hợp tác phát triển là xu thế
chung, nhưng cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp vẫn diễn biến phức tạp, gay gắt.
Nguy cơ xung đột vũ trang và chiến tranh cục bộ vẫn chưa bị loại trừ; mâu thuẫn dân
tộc, sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ nổ ra ở nhiều nơi và gây mất ổn định nhiều
khu vực. Chủ nghĩa đế quốc đang lợi dụng ưu thế về kinh tế và kỹ thuật, nhân danh lOMoAR cPSD| 37054152
chống khủng bố, để thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình” can thiệp vào công
việc nội bộ các nước, buộc các nước xã hội chủ nghĩa, các nước đang phát triển đi
vào quỹ đạo của chúng. Hiện nay giao lưu kinh tế, giao lưu văn hoá giữa các dân tộc
tăng lên. Trong khi giao lưu văn hoá phát triển mạnh mẽ, thì các nước đang phát triển
cũng đứng trước sự “xâm lăng văn hoá” từ phía các nước đế quốc. Trong bối cảnh
hiện nay, quan niệm về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội phải được chú ý toàn
diện từ độc lập về lãnh thổ, về chủ quyền an ninh quốc gia đến độc lập, tự do về kinh
tế, chính trị, văn hóa, lối sống và đạo đức xã hội. Không thể có và không thể chấp
nhận quan niệm nhân quyền cao hơn chủ quyền quốc gia. Việc rêu rao nhân quyền
của các nước tư bản, trước hết là Mỹ, thực chất là một hình thức mỵ dân, lấy cớ nhân
quyền đề can thiệp vào công việc nội bộ nước khác. Không thể có độc lập tự do về
chính trị nếu bị lệ thuộc về kinh tế. Không thể giữ vững độc lập tự chủ nếu lối sống,
đạo đức xã hội bị suy thoái, văn hoá dân tộc bị coi rẻ hoặc bị biến dạng. Để thực hiện
tốt hai nhiệm vụ chiến lược hiện nay cần chú ý một số nguyên tắc có tính chất phương pháp luận: -
Xây dựng thành công xã hội xã hội chủ nghĩa, bảo vệ vững chắc độc lập dân
tộctrước hết phải bằng nguồn nội lực của đất nước, không lệ thuộc vào bên ngoài,
nhưng phải biết tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi để gia tăng nguồn lực phát
triển quốc gia. Kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại theo tư tưởng Hồ Chí
Minh để thực hiện thành công hai nhiệm vụ chiến lược. -
Trên cơ sở nhận thức toàn cầu hoá, khu vực hoá và kinh tế là một tất yếu
kháchquan, từ đó xác định rõ các bước đi và chủ động hội nhập phù hợp với năng
lực của đất nước. Hội nhập phải làm tăng sức mạnh đất nước và làm giàu bản sắc dân tộc. -
Độc lập dân tộc gắn bó chặt chẽ với chủ nghĩa xã hội phải được thể hiện
trongsuốt quá trình cách mạng trên mọi lĩnh vực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. lOMoARcPSD| 37054152
2. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong tiến trình đổi mới
Ngày nay, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội chỉ có thể có được nếu Đảng và nhân
dân ta giải quyết thành công hàng loạt vấn đề trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính
trị, văn hoá, xã hội, đối nội và đối ngoại theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trung
thành với con đường Hồ Chí Minh đã vạch ra. Đảng ta khẳng định trong bất kỳ tình
huống nào, cũng phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đề phòng
và chống nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, đang xuất hiện nhiều vấn đề lý luận nằm trong tổng thể quan niệm chung
về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nhu cầu phát triển đất nước đang đặt ra, đòi lại phải
nhận diện và hiểu biết về chủ nghĩa xã hội vừa mang tính tổng thể, vừa trong những
chi tiết, đường nét cụ thể. Do vậy, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, trước hết cần làm sáng tỏ các vấn đề cơ bản sau:
- Cả trong lý luận và thực tiễn cần khẳng định vấn đề định hướng đưa đất nước đilên
chủ nghĩa xã hội là duy nhất đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của dân tộc và xu thế thời đại.
- Làm rõ và cụ thể hoá mục tiêu của đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa làdân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sức hấp dẫn của chủ nghĩa
xã hội, trước hết là ở mục tiêu mang đậm bản chất nhân văn này.
- Xác định rõ bản chất đặc trưng và mô hình cấu trúc của chủ nghĩa xã hội ở ViệtNam.
- Làm rõ các động lực phát triển của chủ nghĩa xã hội, trong đó động lực con
ngườivới nhu cầu và lợi ích của họ giữ vị trí trung tâm. Mặt khác việc phát hiện
động lực, có chính sách phát huy và kết hợp các động lực phát triển sẽ làm cho chủ
nghĩa xã hội sinh động, năng động và mang tính thực tiễn.
- Xác định rõ bước đi và cách làm chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội đang bị chi phối, tác động mạnh mẽ của rất nhiều yếu tố khách lOMoARcPSD| 37054152
quan và chủ quan; thách thức rất lớn, nhưng cũng rất nhiều thời cơ, vận hội. Trên cơ
sở quan niệm đúng đắn của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lại
có kinh nghiệm thực tiễn hơn 70 năm qua, đặc biệt là thực tiễn của gần 20 năm đổi
mới, cho phép chúng ta hiểu được thực chất con đường độc lập dân tộc tiến lên chủ
nghĩa xã hội trong bối cảnh hiện nay. Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội là
nhu cầu sống còn, là sự lựa chọn duy nhất đúng của Việt Nam. lOMoARcPSD| 37054152 KẾT LUẬN
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, với cách mạng Việt Nam không chỉ là mục tiêu, là nhu cầu, là cương
lĩnh hành động, là ngọn cờ hiệu triệu, mà còn là động lực, là niềm tin sắt son của cả
dân tộc Việt Nam ta. Độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là sự gắn kết hai sức
mạnh thành một sức bật mới; có ý nghĩa là cội nguồn thắng lợi của cách mạng Việt
Nam hôm qua, hôm nay và mai sau.
Thế kỷ XXI được mở đầu bằng hình ảnh của một thế giới đầy biến động, cũng
đồng thời mở ra một kỷ nguyên hội nhập, đua tranh gay gắt của cộng đồng quốc tế.
Dù thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, dù phải đối mặt với xu thế toàn cầu hoá, thì
hệ giá trị độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trong ý thức và trong hành động của
Đảng và nhân dân ta vẫn là mục tiêu, lý tưởng, là quốc bảo phù hợp với xu thế thời
đại; sẽ đưa nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự
nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ vững chắc Tổ Quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh, đưa đất nước ta sánh vai cùng các nước trong khu vực và trên thế giới./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Những quan điểm cở bản của C.Mác-Ph.Ăngghen-V.I.Lênin về CNXH và thời
kỳ quá độ, Nxb CTQG, HN, 1997;
2. Đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới vì CNXH – Đỗ Mười, Nxb CTQG, HN, 1996; 3.
Đổi mới vì độc lập dân tộc và CNXH, HVCT, Nxb QĐND, HN, 1996; 4.
“Hồ Chí Minh-Nhà tư tưởng lỗi lạc” – Song Thành, Nxb CTQG, HN, 2005; 5.
Tư tưởng Hồ Chí Minh-Di sản văn hóa dân tộc, Nxb QĐND, HN, 2000; lOMoAR cPSD| 37054152 6.
Giáo trình “Tư tưởng Hồ Chí Minh”, Nxb CTQG, Hà Nội, 2008; 7.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 1, Nxb CTQG, HN, 2000; 8.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 3, Nxb CTQG, HN, 2000; 9.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, HN, 2000; 10.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 9, Nxb CTQG, HN, 2000; 11.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 10, Nxb CTQG, HN, 2000; 12.
C.Mác và Ph.Ăng nghen, Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, HN, 1995