Tiểu luận "Nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam"

Tiểu luận "Nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam"

lOMoARcPSD| 36271885
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LUẬN CHÍNH TRỊ
-----***-----
TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN VIỆT NAM;
VỊ TRÍ, VAI TCỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ NHÀ NƯỚC
Tên sinh viên: Trịnh Minh Quý
Lớp tín chỉ: TRI115K61.7
Lớp hành chính: Anh 02 KTQT TC K61
Khối: 1
Khóa: 61
số sinh viên: 2211410153
Giáo viên hướng dẫn: Ths. Đinh Thị Quỳnh
Nội, năm 2022
Trang 1
lOMoARcPSD| 36271885
Lời mở đầu
Việt Nam xuất phát từ một nước nông nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu, kém
phát triển. Di sản của cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp vẫn còn tồn tại
khá nặng. Những hệ quả của trạng thái bao cáo tư duy bao cấp vẫn còn,
chưa thực sự sẵn sàng hội nhập. Do vậy phát triển trở thành nhiệm vụ, mục
tiêu số một của toàn Đảng toàn dân. Muốn vậy phải phát triển kinh tế quốc
dân, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, đặc biệt là thành
phần kinh tế nhà nước vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng hội chủ nghĩa.
Mục đích chính của việc nghiên cứu đề tài “Nền kinh tế nhiều thành
phần ở Việt Nam; vị trí, vai trò của thành phần kinh tế nhà nước” là để có
thể hiểu hơn về sở, vai trò của nền kinh tế nhiều thành phần của nước
ta. Hơn nữa, là để nắm rõ được vai trò thực tiễn của thành phần kinh tế nhà
nước. Đồng thời, đưa ra những giải pháp giúp tăng cường, củng cố vai trò,
vị trí chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam.
Nội dung i tiểu luận gồm ba phần chính:
-Phần 1: Nền kinh tế nhiều thành phần Việt Nam.
-Phần 2: Thành phần kinh tế nhà nước của nền kinh tế nhiều thành
phần Việt Nam.
-Phần 3: Biện pháp tăng cường vai trò chủ đạo của thành phần kinh
tế nnước.
Tuy nhiên, trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu chắc chắn không thể
tránh khỏi những sai sót, em rất mong nhận được sự góp ý của cô để hoàn
thiện bài tiểu luận của mình. Em xin chân thành cảm ơn sự giảng dạy và
định hướng của Đinh Th Quỳnh đã giúp em trong quá trình tìm hiểu
bộ môn thực hiện đề tài này.
Trang 2
lOMoARcPSD| 36271885
Mục Lục
1. Nền kinh tế nhiều thành phần Việt Nam 4
1.1. sở của nền kinh tế nhiều thành phần
Việt Nam .............................................................. 4
1.2. Thực trạng các thành phần kinh tế của nền
kinh tế đa thành phần ở ớc ta ........................ 5
1.3. Vai trò của cấu kinh tế nhiều thành phần
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội Việt
Nam ...................................................................... 6
2. Thành phần kinh tế nhà nước của nền kinh tế
nhiều thành phần Việt Nam ............................... 8
2.1. Cấu tạo của kinh tế nhà ớc ...................... 8
2.2. Đặc điểm của kinh tế nhà nước Việt Nam 9
2.3. Vai trò thực tiễn của thành phần kinh tế nhà
nước .....................................................................10
3. Biện pháp tăng cường vai trò chủ đạo của
thành phần kinh tế nhà ớc ...............................14
Tài liệu tham khảo ................................................18
Trang 3
lOMoARcPSD| 36271885
1. Nền kinh tế nhiều thành phần Việt Nam
1.1. sở của nền kinh tế nhiều thành phần Việt Nam
Kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa của Việt Nam thực
chất là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị
trường nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội dưới sự quản lí của Nhà nước,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xét về mặt lịch sử, sau khi cách mạng dân tộc dân chủ thành công
bước vào thời kỳ quá độ của chủ nghĩa xã hội, đất nước tiếp thu một di sản
của nền sản xuất bao gồm nhiều thành phần kinh tế như kinh tế cá thể, tiểu
chủ, kinh tế tư bản tư nhân, các thành phần kinh tế này vẫn còn tác dụng
đối với việc phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta nên cần thiết phải tiếp
tục duy trì. Mặt khác, do yêu cầu xây dựng CNXH cần phải xây dựng và
phát triển các thành phần kinh tế mới như kinh tế nnước, kinh tế tập thể,
kinh tế chủ nghĩa tư bản nhà nước. Vì vậy, về mặt lịch sử, sự tồn tại nền
kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH là một tất yếu
khách.
Xét về mặt lý luận, sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong
thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta là do yêu cầu của quy luật quan hệ sản
xuất phải phù hợp với tính chất trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất quyết định. Nước ta bước vào thời kỳ quá độ của chủ nghĩa xã hội với
một trình độ lực lượng sản xuất còn thấp kém, phát triển không đồng đều
giữa các vùng, các ngành. Điều đó có nghĩa tồn tại nhiều loại trình độ lực
lượng sản xuất khác nhau, do đó đòi hỏi phải có nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế.
Từ đây, các thành phần kinh tế đã xuất hiện:
Trang 4
lOMoARcPSD| 36271885
(1). . Một số thành phần kinh tế do xã hội cũ để lại thì các thành
phần kinh tế này vẫn có vai trò quan trọng để phát triển kinh
tế, lợi cho đất nước trong việc giải quyết việc làm, tăng sản
phẩm, huy động các nguồn vốn… Ví dụ thành phần kinh tế tư
nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân).
(2). . Một số thành phần kinh tế mới xuất hiện trong quá trình
cải tạo xây dựng chủ nghĩa hội như kinh tế nhà ớc,
kinh tế tập thể, kinh tế tư bản nhà ớc.
Các thành phần kinh tế này tồn tại khách quan và có quan hệ hàng
hóa tiền tệ với nhau, tạo thành cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa hội ở nước ta.
1.2. Thực trạng các thành phần kinh tế của nền kinh tế
đa thành phần ở nước ta
Căn cứ vào nguyên lý chung và điều kiện cụ thể của Việt Nam, Đảng
Cộng sản Việt Nam xác định nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
hội Việt Nam có 5 thành phần đó là:
(1). . Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu
công cộng (công hữu) về liệu sản xuất (sở hữu toàn n
sở hữu nhà nước). Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp
Nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm nhà nước
các tài sản thuộc sở hữu nhà nước thể đưa vào vòng chu
chuyển kinh tế. Bên cạnh đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, then chốt.
(2). . Kinh tế tập thể thành phần kinh tế bao gồm nhng sở
kinh tế do người lao động tự nguyện góp vốn, cùng kinh doanh,
tự quản theo nguyên tắc tập trung, bình đẳng, cùng lợi.
Kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, nòng
cốt hợp tác dựa trên sở hữu của các thành viên sở hữu tập
thể; liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản
xuất,
Trang 5
lOMoARcPSD| 36271885
kinh doanh, các doanh nghiệp vừanhỏ thuộc các thành phần
kinh tế; không giới hạn quy mô và địa bàn (trừ một số lĩnh vực
quy định riêng); phân phối theo lao động, theo vốn góp
mức độ tham gia dịch vụ; hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, t
chịu trách nhiệm.
(3). . Kinh tế nhân thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở
hữu tư nhân về liệu sản xuất. Kinh tế tư nhân bao gồm: kinh
tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân. Kinh tế tư nhân đóng
vai trò là động lực của nền kinh tế.
(4). . Kinh tế bản nhà nước thành phần kinh tế dựa trên hình
thức sở hữu hỗn hợp về vốn giữa kinh tế nhà nước và kinh tế
bản. Kinh tế bản Nhà nước gồm những doanh nghiệp
liên doanh (giữa nhà nước với bản trong ngoài nước…).
Kinh tế bản Nhà nước tiềm năng to lớn về vốn, công
nghệ, kinh nghiệm quản lí.
(5). . Kinh tế vốn đầu nước ngoài bao gồm các doanh nghiệp
thể 100% vốn nước ngoài (một thành viên hoặc nhiều thành
viên) thể liên kết, liên doanh với doanh nghiệp nớc
hoặc doanh nghiệp nhân của nước ta. Kinh tế vốn đầu
nước ngoài vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta.
Thành phần kinh tế nhà nước kinh tế tập thể, tuy cùng dựa trên
chế độ công hữu về liệu sản xuất, nhưng các đơn vị kinh tế vẫn s
khác biệt nhất định, quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, lợi ích
riêng. Mặt khác, các đơn vị kinh tế còn có sự khác nhau về trình độ tổ chức
quản lí, nên chi phí sản xuất hiệu quả sản xuất cũng khác nhau.
1.3. Vai trò của cấu kinh tế nhiều thành phần trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Việt Nam
Nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần, nghĩa tồn tại nhiều hình
thức quan hệ sản xuất, sẽ phù hợp với thực trạng thấp kém không
Trang 6
lOMoARcPSD| 36271885
đồng đều của lực lượng sản xuất nước ta hiện nay. Sự phù hợp này,
đến lượt nó, lại tác dụng thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng
trưởng kinh tế, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả kinh tế trong các thành
phần kinh tế trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân ở nước ta.
Nhìn vào số liệu thông kê, năm 2000 Việt Nam có 65,3% lực lượng
lao động thuộc lĩnh vực nông nghiệp nhưng đến năm 2020, tỷ trọng hai
phần ba thuộc lĩnh vực nông nghiệp đó đã giảm xuống còn 37,2%, tăng
thêm lao động cho lĩnh vực dịch vụ công nghiệp. Những năm trước
lĩnh vực nông nghiệp tuyển dụng nhiều lao động nhất, đến nay lĩnh vực
dịch vụ nông nghiệp tuyển dụng số lao động gần tương đương nhau
(lần lượt 37,3% và 37,2%) theo sát lĩnh vực công nghiệp
(25,5%). Con số này cũng phần nào lý giải năng suất lao động của Việt
Nam bình quân giai đoạn 2016-2020 tăng 5,8%/năm, cao hơn giai đoạn
2011-2015 (4,3%).
Nền kinh tế nhiều thành phần thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hoá,
góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh, cải thiện và nâng cao
đời sống nhân dân, phát triển các mặt của đời sống kinh tế hội.
Nền kinh tế nhiều thành phần cho phép khai thác sử dụng
hiệu qu sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế trong nước
như: vốn, lao động, tài nguyên, kinh nghiệm tổ chức quản lý, khoa học
ng nghệ mới trên thế giới…
Theo Tổng Cục thống kê, tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý IV
năm 2020 ước tính tăng 4,48% so với cùng kỳ năm trước, mức tăng
thấp nhất của quý IV các năm trong giai đoạn 2011-2020. Dịch Covid-
19 được kiểm soát chặt chẽ, nền kinh tế từng bước hoạt động trở li
trong điều kiện bình thường mới, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam
EU hiệu lực từ ngày 01/8/2020 đã tạo động lực cho nền kinh tế
nên GDP quý IV năm 2020 tăng trưởng khởi sắc so với quý III năm
2020, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp thủy sản tăng 4,69% so
Trang 7
lOMoARcPSD| 36271885
với cùng kỳ năm trước; khu vực công nghiệp xây dng tăng 5,60%;
khu vực dịch vụ tăng 4,29%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng
1,07%. Về sử dụng GDP quý IV năm 2020, tiêu dùng cuối cùng tăng
1,48% so với cùng kỳ năm trước; tích lũy tài sản tăng 5,29%; xuất khẩu
hàng hóa dịch vụ tăng 15,25%; nhập khẩu hàng hóa dịch vụ tăng
14,83%. Đông thời Việt Nam xếp hạng 6 thế giới hạng 2 châu Á v
mức độ tăng trưởng GDP đến cuối năm 2022.
Nền kinh tế nhiều thành phần còn tạo điều kiện thực hiện mở
rộng các hình thức kinh tế quá độ, trong đó hình thức kinh tế bản
nhà nước, như những “cầu nối”, trạm “trung gian” cần thiết đđưa
nước ta từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa hội bỏ qua chế độ bản chủ
nghĩa.
cấu kinh tế nhiều thành phần tạo tiền đ khắc phục tình trạng
độc quyền, tạo ra quan hệ cạnh tranh, động lực quan trọng thúc đẩy cải
tiến kỹ thuật, phát triển lực ợng sản xuất.
2. Thành phần kinh tế nhà ớc của nền kinh tế
nhiều thành phần ở Việt Nam
2.1. Cấu tạo của kinh tế nhà nước
Kinh tế nhà nước được hiểu khu vực kinh tế thuộc sở hữu của
nhà nước, do nhà nước trực tiếp quản lý, điều hành tổ chức các hoạt
động sản xuất, kinh doanh thông qua bộ máy đại diện là các quan
quản lý nhà nước.
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu toàn
dân về liệu sản xuất. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, ngân hàng
nhà nước, ngân sách nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo
Trang 8
lOMoARcPSD| 36271885
hiểm nhà nước các tài nguyên quốc gia, các tài sản khác thuộc sở
hữu nhà nước có thể dựa vào vòng chu chuyển kinh tế.
2.2. Đặc điểm của kinh tế nhà nước Việt Nam
Kinh tế nhà nước thuộc sở hữu của nhà nước theo chế độ sở hữu
toàn dân về tư liệu sản xuất. Đây là điểm khác biệt rõ nét khi ta so sánh
với kinh tế tư nhân. Bởi kinh tế nhân là khu vực kinh tế thuộc sở hữu
nhân, độc lập hoàn toàn với nhà nước.
Kinh tế nhà nước do nhà nước trực tiếp quản lý, điều hành và tổ chức
các hoạt động sản xuất, kinh doanh thông qua bộ máy đại diện là các cơ
quan quản lý nhà nước. Ngược lại đối với kinh tế tư nhân thì do chính
chủ sở hữu doanh nghiệp quyết định đối với quản lý, điều hành và t
chức bộ máy.
Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, ngân hàng
nhà nước, ngân sách nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo
hiểm nhà nước và các tài nguyên quốc gia, các tài sản khác thuộc sở hữu
nhà nước. Các doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò độc quyền những
lĩnh vực có quan hệ trực tiếp đến an ninh quốc gia, có thể kể đến các lĩnh
vực như dầu khí, điện lực, khoáng sản, hàng không, bảo hiểm…
Theo loại hình doanh nghiệp, tại thời điểm 31/12/2020, doanh
nghiệp ngoài nhà nước chiếm 59,4% tổng vốn toàn doanh nghiệp, thu
hút 28,9 triệu tỷ đồng, tăng 11,7% so với năm 2019 tăng 92,5% so với
năm 2016. Doanh nghiệp FDI chiếm 19,2%, thu hút 9,4 triệu tỷ đồng,
tăng 18,3% so với năm 2019 và tăng 84,4% năm 2016. Trong khi đó,
doanh nghiệp nhà nước chỉ chiếm 0,3% tổng số doanh nghiệp nhưng
chiếm 21,4% tổng vốn toàn doanh nghiệp, thu hút 10,4 triệu tỷ đồng,
tăng 8,8% so với năm 2019 tăng 30,8% so với năm 2016. (theo biểu
Trang 9
lOMoARcPSD| 36271885
đồ cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả sản
xuất kinh doanh năm 2020).
Kinh tế nhà nước các doanh nghiệp nhà nước được tổ chức hoạt
động sản xuất, kinh doanh theo nguyên tắc hạch toán kinh tế, xoá bỏ dần
sự bao cấp của nhà nước.
Kinh tế nhà nước thực hiện phân phối theo lao động theo hiệu quả
sản xuất kinh doanh, đây là mt đặc điểm rất quan trọng của các doanh
nghiệp thuộc thành phần kinh tế nhà nước hình thức phân phối can
bản và là nguyên tắc phân phối chủ yếu, thích hợp với các thành phần
dựa trên chế độ công hữu về liệu sản xuất nước ta hiện nay.
2.3. Vai trò thực tiễn của thành phần kinh tế nhà nước
Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần ở nước ta, kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo. Việc xác lập vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước vấn đề tính nguyên tắc sự khác biệt có tính bản chất giữa
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường tư
bản chủ nghĩa. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị
trường nước ta đã quyết định kinh tế nhà nươcs phải giữ vai trò chủ đạo
trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Bởi lẽ mỗi một chế độ xã hội đều
có một cơ sở kinh tế tương ứng với nó, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế
tập thể tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới hội chủ nghĩa nước ta.
Trải qua hàng chục năm đổi mới, khu vực kinh tế nhà nước luôn giữ
vững phát huy tốt vai trò chủ đạo, làm nòng cốt và định hướng, hướng
dẫn các thành phần kinh tế khác phát triển theo đúng định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Đại hội X của Đảng khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN):
“Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng
để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều
kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước
Trang 10
lOMoARcPSD| 36271885
cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền
kinh tế quốc dân”.
Cương lĩnh y dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011), do Đại hội XI của Đảng thông qua,
khẳng định “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ
chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt
động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh
tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh
tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể
không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển”.
Điều 51 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được
Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28-11-2013, khẳng
định: “Nền kinh tế Việt Nam nền kinh tế thị trường định hướng hội
chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế
nhà nước giữ vai trò ch đạo”.
Đại hội XII: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một
động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần
kinh tế bình đẳng, hợp tác cạnh tranh theo pháp luật”.
Nói đến vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế là nói
đến tầm quan trọng và tính chất quyết định của nó đối với đường hướng
phát triển của một quốc gia; thành phần kinh tế nhà nước nắm giữ những
vị trí then chốt của nền kinh tế lực lượng khả năng can thiệp,
Trang 11
lOMoARcPSD| 36271885
điều tiết, ớng dẫn, giúp đỡ, liên kết, tạo điều kiện cho các thành phần
kinh tế khác cùng phát triển.
Khi đưa ra đường lối đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, với nhiều thành phần kinh tế, Đảng ta xác định
các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu
dài, hợp tác cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai
trò chủ đạo chứ không “lãnh đạo” đối với các thành phần kinh tế khác.
Việc khẳng định thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo không
nghĩa phân biệt, đối xử hay hạn chế vai trò và sự phát triển của các
thành phần kinh tế khác, mà các thành phần kinh tế đều có mối quan hệ
biện chứng với nhau, đan xen, liên kết với nhau, tác động qua lại lẫn
nhau, thành phần kinh tế này làm tiền đề cho thành phần kinh tế khác
phát triển.
Như vậy, việc khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước
không có nghĩa là quay về quan niệm cũ, coi việc phát triển sở hữu nhà
nước là mục tiêu phát triển kinh tế, hoặc cho rằng, muốn xây dựng chế
độ mới, cần trước hết phát triển sở hữu nhà nước (cải tạo quan hệ sản
xuất), mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Đối với nước ta, việc
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường đòi hỏi khu vực tư nhân cần phải
được bình đẳng phát triển và dần được khẳng định vị trí, do vậy kinh tế
nhà nước mặc dù vẫn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhưng phạm
vi, mức độ và hình thức cần có sự thay đổi cơ bản. Kinh tế nhà nước chỉ
cần duy trì và phát triển ở những nơi cần thiết, có vai trò hỗ trợ, dẫn
đường bảo đảm cho sự phát triển ổn định của xã hội; khu vực nào c
thành phần kinh tế khác có thể phát triển và hoạt động có hiệu quả hơn
thì sẽ không cần sự hiện diện của kinh tế nhà nước. Mặt khác, tính định
hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế nước ta luôn đòi hỏi phải xác
định một số lĩnh vực trọng yếu thực hiện mục tiêu chính trị - hội.
Trang 12
lOMoARcPSD| 36271885
Nhìn lại những năm qua, khi kinh tế thế giới suy thoái, thiên tai, dịch
bệnh hoành hành, nhờ có sức mạnh của kinh tế nhà nước mà Việt Nam
mới bảo đảm cân đối vĩ mô, các cân đối lớn của nền kinh tế, góp phần
kiềm chế lạm phát, duy trì mức tăng trưởng khá cao. Cùng với tăng
trưởng kinh tế, thành phần kinh tế nhà nước còn đóng góp tích cực vào
việc bảo đảm an sinh xã hội, phát triển các lĩnh vực y tế, giáo dục, tạo
việc làm, xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, an
ninh - quốc phòng, chủ quyền quốc gia, góp phần nâng cao vị thế của đất
nước khu vực trên thế giới...
Ở Việt Nam, kinh tế nhà nước ngày càng khẳng định vai trò, vị thế
của mình trong các thành phần kinh tế. Do bản chất và mục đích hoạt
động, nên thành phần kinh tế nhà nướcvai trò chính tr - hội to lớn.
Các doanh nghiệp trong thành phần kinh tế nhà nước luôn tiên phong
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đóng vai trò
quan trọng trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, như
viễn thông, than, điện, xăng dầu, khai khoáng, tài chính, ngân hàng và
các dịch vụ công thiết yếu bảo đảm nhu cầu tiêu dùng, sản xuất trong
nước xuất khẩu.
Các doanh nghiệp nhà nước vừa là chủ thể kinh doanh, vừa là lực
lượng kinh tế nòng cốt do Nhà nước sử dụng trong tác động tham gia các
hoạt động kinh tế. Là chủ thể kinh doanh, các doanh nghiệp nhà nước
phải thực hiện hạch toán kinh tế, tự chủ về tài chính, hoạt động có hiệu
quả để bảo đảm quá trình tái sản xuất mở rộng, bảo đảm gia tăng nguồn
lực kinh tế mà Nhà nước đã đầu tư cho các doanh nghiệp này. Là lực
lượng tham gia các hoạt động kinh tế như một công cụ của Nhà nước,
các doanh nghiệp nhà nước cần góp phần tạo ra sự ổn định kinh tế -
hội, giúp Nhà nước đạt được các mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội.
Tuy nhiên, khi Nhà nước nắm trong tay một khối lượng sở hữu
khổng lồ thì chính những bất lợi (khuyết tật) của sở hữu nhà nước bắt
Trang 13
lOMoARcPSD| 36271885
nguồn từ đặc điểm của hình thức sở hữu này ngày càng bộc lộ và tạo nên
xu hướng làm giảm tính hiệu quả của thành phần kinh tế này, kéo theo sự
sụt giảm hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế. Chúng ta đang cơ cấu lại khu
vựcdoanh nghiệp nhà nước, theo đó tập trung vào những lĩnh vực then
chốt, thiết yếu, những địa bàn quan trọng an ninh - quốc phòng,
những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác
không đầu tư. Doanh nghiệp nhà nước tiến tới phải thật s hoạt động
theo chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ
yếu; tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế khác theo quy định pháp luật.
Như vậy, có thể khẳng định việc xác định kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
đúng đắn, phù hợp với điều kiện của nước ta và là tiêu chí quan trọng
bảo đảm tính định hướng hội chủ nghĩa cho nền kinh tế.
3. Biện pháp tăng ờng vai trò chủ đạo của
thành phần kinh tế nhà ớc
Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, kinh tế
nhà nước cùng với kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng của nền
kinh tế quốc dân là quan điểm được xác định nhất quán trong các văn
kiện của Đảng và các văn bản pháp quy của Nhà nước ta. Để giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế, trong giai đoạn mới cần
phải tăng cường vai trò chủ đạo củakinh tế nhà nước.
Hiện nay, thành phần kinh tế nhà nước nước ta được cấu trúc từ hai
bộ phận: hệ thống doanh nghiệp bộ phận phi doanh nghiệp. Trong
đó, hệ thống doanh nghiệp nhà nước được xác định là “lực lượng nòng
cốt”. Việc xác định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước thông qua vai
trò của doanh nghiệp nhà ớc, dựa trên các nội dung bản: nắm vững
những ngành và lĩnh vực then chốt để phát huy vai trò chủ đạo trong
Trang 14
lOMoARcPSD| 36271885
nền kinh tế; làm đòn bẩy thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết các
vấn đề xã hội, mở đường, hướng dẫn các thành phần kinh tế khác cùng
phát triển; đi đầu trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ,
nêu gương về năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp
hành pháp luật; là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định
hướng điều tiết nền kinh tế; tạo môi trường điều kiện thúc đẩy các
thành phần khác cùng phát triển.
Trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng Nhà nước ta đã
nhiều chủ trương, chính sách, giải pháp đổi mới và phát triển doanh
nghiệp nhà nước nhằm phát huy vai trò của kinh tế nhà nước trong nền
kinh tế thị trường định hướngxã hội ch nghĩa. Bởi vậy, số ợng các
doanh nghiệp nhà nước giảm, nhưng quy mô của mỗi doanh nghiệp lại
tăng lên. Đến cuối năm 2008, số lượng doanh nghiệp mà Nhà nước nắm
100% vốn điều lệ chỉ còn 14,3% so với đầu những năm 1990, nhưng
mức trang bị tài sản và đầu tư tài chính dài hạn tăng từ 39,91 tỷ đồng
(năm 2000) lên 257,75 tỷ đồng (năm 2008)1. Các doanh nghiệp nhà
nước chiếm gần 50% tổng giá trị tài sản và đầu tư tài chính của các loại
hình doanh nghiệp; 80% số dư vốn tín dụng của các ngân hàng thương
mại trong nước; 70% vốn cho vay nước ngoài và 11,5% lực lượng lao
động xã hội2. Năm 2008, các doanh nghiệp nhà nước (chủ yếu là các
tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước đóng góp trên 35% GDP, tạo
ra 39,5% giá trị sản xuất công nghiệp, trên 50% kim ngạch xuất khẩu;
đóng góp khoảng 50% ngân sách, góp phần tăng đầu tư và giải quyết
các vấn đ hội.
Để làm được như vậy phải hoàn thành việc củng cố, sắp xếp, điều
chỉnh cơ cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả của các doanh nghiệp hiện
có, đồng thời phát triển thêm doanh nghiệp Nhà nước đầu tư 100% vón
hoặc cổ phần chi phối một ngành, lĩnh vực then chốt và địan
Trang 15
lOMoARcPSD| 36271885
quan trọng. Sắp xếp lạic doanh nghiệp Nhà nước về thực chất giải
quyết vấn đề sở hữu, theo những hướng sau:
(1) Đầu hiệu quả (cả trang bị thuật, vốn, trình độ quản lý
vào những đơn vị kinh tế nắm những mạch máu quan trọng
của nền kinh tế.
(2) Thực hiện tốt chủ trương cổ phần hóa đa dạng hóa sở hữu
đối với các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm 100%
vốn.
(3) Giao bán khoán cho thuê các doanh nghiệp vừa và nhỏ mà
nhà nước không cần nắm giữ.
(4) Sáp nhập, giải thể cho phá sản những doanh nghiệp hoạt động
không có hiệu quả và không thực hiện các biện pháp trên (cả
nước khoảng 250 nghiệp quốc doanh trung ương, 2041
nghiệp quốc doanh địa phương quản lý).
Về mặt quản lý kinh tế Nhà nước phải phân biệt quyền chủ sở hữu và
quyền kinh doanh của doanh nghiệp.
Hơn nữa, Nhà nước cần phải tiếp tục đổi mới cơ chế thực hiện chức
năng kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh tế. Cùng với việc củng cố
các bộ phận thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát trong mỗi quan
ở mỗi cấp, chúng ta cần nghiên cứu thành lập hệ thống kiểm tra, giám
sát độc lập với hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp thực
hiện các chức năng điều hành các hoạt động kinh tế. Đây là điều kiện
cơ bản đảm bảo tính khách quan khi thực hiện chức năng kiểm tra,
kiểm soát. Trách nhiệm của Quốc hội phải phát huy vai trò trong việc
giám sát, quản lý và sử dụng vốn nhà nước nói chung và vốn của Nhà
nước tại các doanh nghiệp nhà nước nói riêng. Ngoài các hoạt động
giám sát thường xuyên, Quốc hội cần chú trọng tổ chức các giám sát
chuyên đề, như hoạt động kiểm tra, giám sát của Quốc hội với các tập
đoàn kinh tế nhà nước thời gian qua.
Trang 16
lOMoARcPSD| 36271885
Việc thực hiện đồng bộ các nội dung trên đây, chúng ta sẽ tăng
cường được vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định ớng hội ch nghĩa, góp phần thực hiện thắng lợi mục
tiêu: "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Trang 17
lOMoARcPSD| 36271885
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình kinh tế chính trị Mác -nin (tái bản lần hai).
2. Kinh tế nhiều thành phần trong nền kinh tế quá độn chủ nghĩa hội
ở nước ta. PSG. TS Vũ Văn Phúc, báo điện tử Đảng Cộng sản Việt
Nam.
3. Nền kinh tế nhiều thành phần. Nguyễn Văn Phi.
4. Về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Ts. Phạm Việt Dũng, tạp c
Cộng sản.
Trang 18
| 1/18

Preview text:

lOMoAR cPSD| 36271885
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ -----***-----
TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN Ở VIỆT NAM;
VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ NHÀ NƯỚC
Tên sinh viên: Trịnh Minh Quý Lớp tín chỉ: TRI115K61.7
Lớp hành chính: Anh 02 – KTQT TC K61 Khối: 1 Khóa: 61
Mã số sinh viên: 2211410153
Giáo viên hướng dẫn: Ths. Đinh Thị Quỳnh Hà Hà Nội, năm 2022 Trang 1 lOMoAR cPSD| 36271885 Lời mở đầu
Việt Nam xuất phát từ một nước nông nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu, kém
phát triển. Di sản của cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp vẫn còn tồn tại
khá nặng. Những hệ quả của trạng thái bao cáo tư duy bao cấp vẫn còn,
chưa thực sự sẵn sàng hội nhập. Do vậy phát triển trở thành nhiệm vụ, mục
tiêu số một của toàn Đảng toàn dân. Muốn vậy phải phát triển kinh tế quốc
dân, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, đặc biệt là thành
phần kinh tế nhà nước vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mục đích chính của việc nghiên cứu đề tài “Nền kinh tế nhiều thành
phần ở Việt Nam; vị trí, vai trò của thành phần kinh tế nhà nước” là để có
thể hiểu rõ hơn về cơ sở, vai trò của nền kinh tế nhiều thành phần của nước
ta. Hơn nữa, là để nắm rõ được vai trò thực tiễn của thành phần kinh tế nhà
nước. Đồng thời, đưa ra những giải pháp giúp tăng cường, củng cố vai trò,
vị trí chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam.
Nội dung bài tiểu luận gồm ba phần chính:
-Phần 1: Nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam.
-Phần 2: Thành phần kinh tế nhà nước của nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam.
-Phần 3: Biện pháp tăng cường vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước.
Tuy nhiên, trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu chắc chắn không thể
tránh khỏi những sai sót, em rất mong nhận được sự góp ý của cô để hoàn
thiện bài tiểu luận của mình. Em xin chân thành cảm ơn sự giảng dạy và
định hướng của cô Đinh Thị Quỳnh Hà đã giúp em trong quá trình tìm hiểu
bộ môn và thực hiện đề tài này. Trang 2 lOMoAR cPSD| 36271885 Mục Lục
1. Nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam 4
1.1. Cơ sở của nền kinh tế nhiều thành phần ở
Việt Nam ..............................................................
4
1.2. Thực trạng các thành phần kinh tế của nền
kinh tế đa thành phần ở nước ta ........................
5
1.3. Vai trò của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam ......................................................................
6
2. Thành phần kinh tế nhà nước của nền kinh tế
nhiều thành phần ở Việt Nam ...............................
8
2.1. Cấu tạo của kinh tế nhà nước ...................... 8
2.2. Đặc điểm của kinh tế nhà nước Việt Nam 9
2.3. Vai trò thực tiễn của thành phần kinh tế nhà
nước .....................................................................
10
3. Biện pháp tăng cường vai trò chủ đạo của
thành phần kinh tế nhà nước ...............................
14
Tài liệu tham khảo ................................................18 Trang 3 lOMoAR cPSD| 36271885
1. Nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam
1.1. Cơ sở của nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam thực
chất là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị
trường nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội dưới sự quản lí của Nhà nước,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xét về mặt lịch sử, sau khi cách mạng dân tộc dân chủ thành công
bước vào thời kỳ quá độ của chủ nghĩa xã hội, đất nước tiếp thu một di sản
của nền sản xuất bao gồm nhiều thành phần kinh tế như kinh tế cá thể, tiểu
chủ, kinh tế tư bản tư nhân, các thành phần kinh tế này vẫn còn tác dụng
đối với việc phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta nên cần thiết phải tiếp
tục duy trì. Mặt khác, do yêu cầu xây dựng CNXH cần phải xây dựng và
phát triển các thành phần kinh tế mới như kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể,
kinh tế chủ nghĩa tư bản nhà nước. Vì vậy, về mặt lịch sử, sự tồn tại nền
kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH là một tất yếu khách.
Xét về mặt lý luận, sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong
thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta là do yêu cầu của quy luật quan hệ sản
xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất quyết định. Nước ta bước vào thời kỳ quá độ của chủ nghĩa xã hội với
một trình độ lực lượng sản xuất còn thấp kém, phát triển không đồng đều
giữa các vùng, các ngành. Điều đó có nghĩa là tồn tại nhiều loại trình độ lực
lượng sản xuất khác nhau, do đó đòi hỏi phải có nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế.
Từ đây, các thành phần kinh tế đã xuất hiện: Trang 4 lOMoAR cPSD| 36271885
(1). . Một số thành phần kinh tế do xã hội cũ để lại thì các thành
phần kinh tế này vẫn có vai trò quan trọng để phát triển kinh
tế, có lợi cho đất nước trong việc giải quyết việc làm, tăng sản
phẩm, huy động các nguồn vốn… Ví dụ thành phần kinh tế tư
nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân).
(2). . Một số thành phần kinh tế mới xuất hiện trong quá trình
cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội như kinh tế nhà nước,
kinh tế tập thể, kinh tế tư bản nhà nước.
Các thành phần kinh tế này tồn tại khách quan và có quan hệ hàng
hóa – tiền tệ với nhau, tạo thành cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. 1.2.
Thực trạng các thành phần kinh tế của nền kinh tế
đa thành phần ở nước ta
Căn cứ vào nguyên lý chung và điều kiện cụ thể của Việt Nam, Đảng
Cộng sản Việt Nam xác định nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội Việt Nam có 5 thành phần đó là:
(1). . Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu
công cộng (công hữu) về tư liệu sản xuất (sở hữu toàn dân và
sở hữu nhà nước). Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp
Nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm nhà nước
và các tài sản thuộc sở hữu nhà nước có thể đưa vào vòng chu
chuyển kinh tế. Bên cạnh đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, then chốt.
(2). . Kinh tế tập thể là thành phần kinh tế bao gồm những cơ sở
kinh tế do người lao động tự nguyện góp vốn, cùng kinh doanh,
tự quản lý theo nguyên tắc tập trung, bình đẳng, cùng có lợi.
Kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, mà nòng
cốt là hợp tác dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập
thể; liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, Trang 5 lOMoAR cPSD| 36271885
kinh doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc các thành phần
kinh tế; không giới hạn quy mô và địa bàn (trừ một số lĩnh vực
có quy định riêng); phân phối theo lao động, theo vốn góp và
mức độ tham gia dịch vụ; hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
(3). . Kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Kinh tế tư nhân bao gồm: kinh
tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân. Kinh tế tư nhân đóng
vai trò là động lực của nền kinh tế.
(4). . Kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên hình
thức sở hữu hỗn hợp về vốn giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư
bản. Kinh tế tư bản Nhà nước gồm những doanh nghiệp
liên doanh (giữa nhà nước với tư bản trong và ngoài nước…).
Kinh tế tư bản Nhà nước có tiềm năng to lớn về vốn, công
nghệ, kinh nghiệm quản lí.
(5). . Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài bao gồm các doanh nghiệp
có thể 100% vốn nước ngoài (một thành viên hoặc nhiều thành
viên) có thể liên kết, liên doanh với doanh nghiệp nhà nước
hoặc doanh nghiệp tư nhân của nước ta. Kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài có vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta.
Thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, tuy cùng dựa trên
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự
khác biệt nhất định, có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, có lợi ích
riêng. Mặt khác, các đơn vị kinh tế còn có sự khác nhau về trình độ tổ chức
quản lí, nên chi phí sản xuất và hiệu quả sản xuất cũng khác nhau. 1.3.
Vai trò của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần, có nghĩa là tồn tại nhiều hình
thức quan hệ sản xuất, sẽ phù hợp với thực trạng thấp kém và không Trang 6 lOMoAR cPSD| 36271885
đồng đều của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay. Sự phù hợp này,
đến lượt nó, lại có tác dụng thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng
trưởng kinh tế, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả kinh tế trong các thành
phần kinh tế và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân ở nước ta.
Nhìn vào số liệu thông kê, năm 2000 Việt Nam có 65,3% lực lượng
lao động thuộc lĩnh vực nông nghiệp nhưng đến năm 2020, tỷ trọng hai
phần ba thuộc lĩnh vực nông nghiệp đó đã giảm xuống còn 37,2%, tăng
thêm lao động cho lĩnh vực dịch vụ và công nghiệp. Những năm trước
lĩnh vực nông nghiệp tuyển dụng nhiều lao động nhất, đến nay lĩnh vực
dịch vụ và nông nghiệp tuyển dụng số lao động gần tương đương nhau
(lần lượt là 37,3% và 37,2%) và theo sát là lĩnh vực công nghiệp
(25,5%). Con số này cũng phần nào lý giải năng suất lao động của Việt
Nam bình quân giai đoạn 2016-2020 tăng 5,8%/năm, cao hơn giai đoạn 2011-2015 (4,3%).
Nền kinh tế nhiều thành phần thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hoá,
góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh, cải thiện và nâng cao
đời sống nhân dân, phát triển các mặt của đời sống kinh tế – xã hội.
Nền kinh tế nhiều thành phần cho phép khai thác và sử dụng có
hiệu quả sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế trong nước
như: vốn, lao động, tài nguyên, kinh nghiệm tổ chức quản lý, khoa học
và công nghệ mới trên thế giới…
Theo Tổng Cục thống kê, tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý IV
năm 2020 ước tính tăng 4,48% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng
thấp nhất của quý IV các năm trong giai đoạn 2011-2020. Dịch Covid-
19 được kiểm soát chặt chẽ, nền kinh tế từng bước hoạt động trở lại
trong điều kiện bình thường mới, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam
và EU có hiệu lực từ ngày 01/8/2020 đã tạo động lực cho nền kinh tế
nên GDP quý IV năm 2020 tăng trưởng khởi sắc so với quý III năm
2020, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 4,69% so Trang 7 lOMoAR cPSD| 36271885
với cùng kỳ năm trước; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,60%;
khu vực dịch vụ tăng 4,29%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng
1,07%. Về sử dụng GDP quý IV năm 2020, tiêu dùng cuối cùng tăng
1,48% so với cùng kỳ năm trước; tích lũy tài sản tăng 5,29%; xuất khẩu
hàng hóa và dịch vụ tăng 15,25%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng
14,83%. Đông thời Việt Nam xếp hạng 6 thế giới và hạng 2 châu Á về
mức độ tăng trưởng GDP đến cuối năm 2022.
Nền kinh tế nhiều thành phần còn tạo điều kiện thực hiện và mở
rộng các hình thức kinh tế quá độ, trong đó có hình thức kinh tế tư bản
nhà nước, nó như những “cầu nối”, trạm “trung gian” cần thiết để đưa
nước ta từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần tạo tiền đề khắc phục tình trạng
độc quyền, tạo ra quan hệ cạnh tranh, động lực quan trọng thúc đẩy cải
tiến kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất.
2. Thành phần kinh tế nhà nước của nền kinh tế
nhiều thành phần ở Việt Nam 2.1.
Cấu tạo của kinh tế nhà nước
Kinh tế nhà nước được hiểu là khu vực kinh tế thuộc sở hữu của
nhà nước, do nhà nước trực tiếp quản lý, điều hành và tổ chức các hoạt
động sản xuất, kinh doanh thông qua bộ máy đại diện là các cơ quan quản lý nhà nước.
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu toàn
dân về tư liệu sản xuất. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, ngân hàng
nhà nước, ngân sách nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo Trang 8 lOMoAR cPSD| 36271885
hiểm nhà nước và các tài nguyên quốc gia, các tài sản khác thuộc sở
hữu nhà nước có thể dựa vào vòng chu chuyển kinh tế. 2.2.
Đặc điểm của kinh tế nhà nước Việt Nam
Kinh tế nhà nước thuộc sở hữu của nhà nước theo chế độ sở hữu
toàn dân về tư liệu sản xuất. Đây là điểm khác biệt rõ nét khi ta so sánh
với kinh tế tư nhân. Bởi kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế thuộc sở hữu
tư nhân, độc lập hoàn toàn với nhà nước.
Kinh tế nhà nước do nhà nước trực tiếp quản lý, điều hành và tổ chức
các hoạt động sản xuất, kinh doanh thông qua bộ máy đại diện là các cơ
quan quản lý nhà nước. Ngược lại đối với kinh tế tư nhân thì do chính
chủ sở hữu doanh nghiệp quyết định đối với quản lý, điều hành và tổ chức bộ máy.
Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, ngân hàng
nhà nước, ngân sách nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo
hiểm nhà nước và các tài nguyên quốc gia, các tài sản khác thuộc sở hữu
nhà nước. Các doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò độc quyền những
lĩnh vực có quan hệ trực tiếp đến an ninh quốc gia, có thể kể đến các lĩnh
vực như dầu khí, điện lực, khoáng sản, hàng không, bảo hiểm…
Theo loại hình doanh nghiệp, tại thời điểm 31/12/2020, doanh
nghiệp ngoài nhà nước chiếm 59,4% tổng vốn toàn doanh nghiệp, thu
hút 28,9 triệu tỷ đồng, tăng 11,7% so với năm 2019 và tăng 92,5% so với
năm 2016. Doanh nghiệp FDI chiếm 19,2%, thu hút 9,4 triệu tỷ đồng,
tăng 18,3% so với năm 2019 và tăng 84,4% năm 2016. Trong khi đó,
doanh nghiệp nhà nước chỉ chiếm 0,3% tổng số doanh nghiệp nhưng
chiếm 21,4% tổng vốn toàn doanh nghiệp, thu hút 10,4 triệu tỷ đồng,
tăng 8,8% so với năm 2019 và tăng 30,8% so với năm 2016. (theo biểu Trang 9 lOMoAR cPSD| 36271885
đồ cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả sản xuất kinh doanh năm 2020).
Kinh tế nhà nước các doanh nghiệp nhà nước được tổ chức hoạt
động sản xuất, kinh doanh theo nguyên tắc hạch toán kinh tế, xoá bỏ dần
sự bao cấp của nhà nước.
Kinh tế nhà nước thực hiện phân phối theo lao động và theo hiệu quả
sản xuất kinh doanh, đây là một đặc điểm rất quan trọng của các doanh
nghiệp thuộc thành phần kinh tế nhà nước là hình thức phân phối can
bản và là nguyên tắc phân phối chủ yếu, thích hợp với các thành phần
dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất ở nước ta hiện nay. 2.3.
Vai trò thực tiễn của thành phần kinh tế nhà nước
Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần ở nước ta, kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo. Việc xác lập vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước là vấn đề có tính nguyên tắc và là sự khác biệt có tính bản chất giữa
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường tư
bản chủ nghĩa. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị
trường nước ta đã quyết định kinh tế nhà nươcs phải giữ vai trò chủ đạo
trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Bởi lẽ mỗi một chế độ xã hội đều
có một cơ sở kinh tế tương ứng với nó, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế
tập thể tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới – xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Trải qua hàng chục năm đổi mới, khu vực kinh tế nhà nước luôn giữ
vững và phát huy tốt vai trò chủ đạo, làm nòng cốt và định hướng, hướng
dẫn các thành phần kinh tế khác phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội X của Đảng khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN):
“Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng
để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều
kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước Trang 10 lOMoAR cPSD| 36271885
cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011), do Đại hội XI của Đảng thông qua,
khẳng định “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ
chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt
động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh
tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh
tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể
không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển”.
Điều 51 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được
Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28-11-2013, khẳng
định: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo”.
Đại hội XII: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một
động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần
kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”.
Nói đến vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế là nói
đến tầm quan trọng và tính chất quyết định của nó đối với đường hướng
phát triển của một quốc gia; thành phần kinh tế nhà nước nắm giữ những
vị trí then chốt của nền kinh tế và là lực lượng có khả năng can thiệp, Trang 11 lOMoAR cPSD| 36271885
điều tiết, hướng dẫn, giúp đỡ, liên kết, tạo điều kiện cho các thành phần
kinh tế khác cùng phát triển.
Khi đưa ra đường lối đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, với nhiều thành phần kinh tế, Đảng ta xác định
các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu
dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai
trò chủ đạo chứ không “lãnh đạo” đối với các thành phần kinh tế khác.
Việc khẳng định thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo không
có nghĩa là phân biệt, đối xử hay hạn chế vai trò và sự phát triển của các
thành phần kinh tế khác, mà các thành phần kinh tế đều có mối quan hệ
biện chứng với nhau, đan xen, liên kết với nhau, tác động qua lại lẫn
nhau, thành phần kinh tế này làm tiền đề cho thành phần kinh tế khác phát triển.
Như vậy, việc khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước
không có nghĩa là quay về quan niệm cũ, coi việc phát triển sở hữu nhà
nước là mục tiêu phát triển kinh tế, hoặc cho rằng, muốn xây dựng chế
độ mới, cần trước hết phát triển sở hữu nhà nước (cải tạo quan hệ sản
xuất), mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Đối với nước ta, việc
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường đòi hỏi khu vực tư nhân cần phải
được bình đẳng phát triển và dần được khẳng định vị trí, do vậy kinh tế
nhà nước mặc dù vẫn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhưng phạm
vi, mức độ và hình thức cần có sự thay đổi cơ bản. Kinh tế nhà nước chỉ
cần duy trì và phát triển ở những nơi cần thiết, có vai trò hỗ trợ, dẫn
đường bảo đảm cho sự phát triển ổn định của xã hội; khu vực nào mà các
thành phần kinh tế khác có thể phát triển và hoạt động có hiệu quả hơn
thì sẽ không cần sự hiện diện của kinh tế nhà nước. Mặt khác, tính định
hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế nước ta luôn đòi hỏi phải xác
định một số lĩnh vực trọng yếu thực hiện mục tiêu chính trị - xã hội. Trang 12 lOMoAR cPSD| 36271885
Nhìn lại những năm qua, khi kinh tế thế giới suy thoái, thiên tai, dịch
bệnh hoành hành, nhờ có sức mạnh của kinh tế nhà nước mà Việt Nam
mới bảo đảm cân đối vĩ mô, các cân đối lớn của nền kinh tế, góp phần
kiềm chế lạm phát, duy trì mức tăng trưởng khá cao. Cùng với tăng
trưởng kinh tế, thành phần kinh tế nhà nước còn đóng góp tích cực vào
việc bảo đảm an sinh xã hội, phát triển các lĩnh vực y tế, giáo dục, tạo
việc làm, xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, an
ninh - quốc phòng, chủ quyền quốc gia, góp phần nâng cao vị thế của đất
nước ở khu vực và trên thế giới...
Ở Việt Nam, kinh tế nhà nước ngày càng khẳng định vai trò, vị thế
của mình trong các thành phần kinh tế. Do bản chất và mục đích hoạt
động, nên thành phần kinh tế nhà nước có vai trò chính trị - xã hội to lớn.
Các doanh nghiệp trong thành phần kinh tế nhà nước luôn tiên phong
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đóng vai trò
quan trọng trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, như
viễn thông, than, điện, xăng dầu, khai khoáng, tài chính, ngân hàng và
các dịch vụ công thiết yếu bảo đảm nhu cầu tiêu dùng, sản xuất trong nước và xuất khẩu.
Các doanh nghiệp nhà nước vừa là chủ thể kinh doanh, vừa là lực
lượng kinh tế nòng cốt do Nhà nước sử dụng trong tác động tham gia các
hoạt động kinh tế. Là chủ thể kinh doanh, các doanh nghiệp nhà nước
phải thực hiện hạch toán kinh tế, tự chủ về tài chính, hoạt động có hiệu
quả để bảo đảm quá trình tái sản xuất mở rộng, bảo đảm gia tăng nguồn
lực kinh tế mà Nhà nước đã đầu tư cho các doanh nghiệp này. Là lực
lượng tham gia các hoạt động kinh tế như một công cụ của Nhà nước,
các doanh nghiệp nhà nước cần góp phần tạo ra sự ổn định kinh tế - xã
hội, giúp Nhà nước đạt được các mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội.
Tuy nhiên, khi Nhà nước nắm trong tay một khối lượng sở hữu
khổng lồ thì chính những bất lợi (khuyết tật) của sở hữu nhà nước bắt Trang 13 lOMoAR cPSD| 36271885
nguồn từ đặc điểm của hình thức sở hữu này ngày càng bộc lộ và tạo nên
xu hướng làm giảm tính hiệu quả của thành phần kinh tế này, kéo theo sự
sụt giảm hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế. Chúng ta đang cơ cấu lại khu
vựcdoanh nghiệp nhà nước, theo đó tập trung vào những lĩnh vực then
chốt, thiết yếu, những địa bàn quan trọng và an ninh - quốc phòng,
những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác
không đầu tư. Doanh nghiệp nhà nước tiến tới phải thật sự hoạt động
theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ
yếu; tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế khác theo quy định pháp luật.
Như vậy, có thể khẳng định việc xác định kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
đúng đắn, phù hợp với điều kiện của nước ta và là tiêu chí quan trọng
bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa cho nền kinh tế.
3. Biện pháp tăng cường vai trò chủ đạo của
thành phần kinh tế nhà nước
Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, kinh tế
nhà nước cùng với kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng của nền
kinh tế quốc dân là quan điểm được xác định nhất quán trong các văn
kiện của Đảng và các văn bản pháp quy của Nhà nước ta. Để giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế, trong giai đoạn mới cần
phải tăng cường vai trò chủ đạo củakinh tế nhà nước.
Hiện nay, thành phần kinh tế nhà nước ở nước ta được cấu trúc từ hai
bộ phận: hệ thống doanh nghiệp và bộ phận phi doanh nghiệp. Trong
đó, hệ thống doanh nghiệp nhà nước được xác định là “lực lượng nòng
cốt”. Việc xác định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước thông qua vai
trò của doanh nghiệp nhà nước, dựa trên các nội dung cơ bản: nắm vững
những ngành và lĩnh vực then chốt để phát huy vai trò chủ đạo trong Trang 14 lOMoAR cPSD| 36271885
nền kinh tế; làm đòn bẩy thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết các
vấn đề xã hội, mở đường, hướng dẫn các thành phần kinh tế khác cùng
phát triển; đi đầu trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ,
nêu gương về năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp
hành pháp luật; là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định
hướng và điều tiết nền kinh tế; tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các
thành phần khác cùng phát triển.
Trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước ta đã có
nhiều chủ trương, chính sách, giải pháp đổi mới và phát triển doanh
nghiệp nhà nước nhằm phát huy vai trò của kinh tế nhà nước trong nền
kinh tế thị trường định hướngxã hội chủ nghĩa. Bởi vậy, dù số lượng các
doanh nghiệp nhà nước giảm, nhưng quy mô của mỗi doanh nghiệp lại
tăng lên. Đến cuối năm 2008, số lượng doanh nghiệp mà Nhà nước nắm
100% vốn điều lệ chỉ còn 14,3% so với đầu những năm 1990, nhưng
mức trang bị tài sản và đầu tư tài chính dài hạn tăng từ 39,91 tỷ đồng
(năm 2000) lên 257,75 tỷ đồng (năm 2008)1. Các doanh nghiệp nhà
nước chiếm gần 50% tổng giá trị tài sản và đầu tư tài chính của các loại
hình doanh nghiệp; 80% số dư vốn tín dụng của các ngân hàng thương
mại trong nước; 70% vốn cho vay nước ngoài và 11,5% lực lượng lao
động xã hội2. Năm 2008, các doanh nghiệp nhà nước (chủ yếu là các
tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước đóng góp trên 35% GDP, tạo
ra 39,5% giá trị sản xuất công nghiệp, trên 50% kim ngạch xuất khẩu;
đóng góp khoảng 50% ngân sách, góp phần tăng đầu tư và giải quyết các vấn đề xã hội.
Để làm được như vậy phải hoàn thành việc củng cố, sắp xếp, điều
chỉnh cơ cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả của các doanh nghiệp hiện
có, đồng thời phát triển thêm doanh nghiệp Nhà nước đầu tư 100% vón
hoặc có cổ phần chi phối ở một ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn Trang 15 lOMoAR cPSD| 36271885
quan trọng. Sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước về thực chất là giải
quyết vấn đề sở hữu, theo những hướng sau:
(1) Đầu tư có hiệu quả (cả trang bị kĩ thuật, vốn, trình độ quản lý
vào những đơn vị kinh tế nắm những mạch máu quan trọng của nền kinh tế.
(2) Thực hiện tốt chủ trương cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu
đối với các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm 100% vốn.
(3) Giao bán khoán cho thuê các doanh nghiệp vừa và nhỏ mà
nhà nước không cần nắm giữ.
(4) Sáp nhập, giải thể cho phá sản những doanh nghiệp hoạt động
không có hiệu quả và không thực hiện các biện pháp trên (cả
nước có khoảng 250 xí nghiệp quốc doanh trung ương, 2041
xí nghiệp quốc doanh địa phương quản lý).
Về mặt quản lý kinh tế Nhà nước phải phân biệt quyền chủ sở hữu và
quyền kinh doanh của doanh nghiệp.
Hơn nữa, Nhà nước cần phải tiếp tục đổi mới cơ chế thực hiện chức
năng kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh tế. Cùng với việc củng cố
các bộ phận thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát trong mỗi cơ quan
ở mỗi cấp, chúng ta cần nghiên cứu thành lập hệ thống kiểm tra, giám
sát độc lập với hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp thực
hiện các chức năng điều hành các hoạt động kinh tế. Đây là điều kiện
cơ bản đảm bảo tính khách quan khi thực hiện chức năng kiểm tra,
kiểm soát. Trách nhiệm của Quốc hội là phải phát huy vai trò trong việc
giám sát, quản lý và sử dụng vốn nhà nước nói chung và vốn của Nhà
nước tại các doanh nghiệp nhà nước nói riêng. Ngoài các hoạt động
giám sát thường xuyên, Quốc hội cần chú trọng tổ chức các giám sát
chuyên đề, như hoạt động kiểm tra, giám sát của Quốc hội với các tập
đoàn kinh tế nhà nước thời gian qua. Trang 16 lOMoAR cPSD| 36271885
Việc thực hiện đồng bộ các nội dung trên đây, chúng ta sẽ tăng
cường được vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần thực hiện thắng lợi mục
tiêu: "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Trang 17 lOMoAR cPSD| 36271885
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lê-nin (tái bản lần hai).
2. Kinh tế nhiều thành phần trong nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta. PSG. TS Vũ Văn Phúc, báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
3. Nền kinh tế nhiều thành phần. Nguyễn Văn Phi.
4. Về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Ts. Phạm Việt Dũng, tạp chí Cộng sản. Trang 18