Tiểu luận "Nghiên cứu lý luận hàng hóa sức lao động"
Tiểu luận "Nghiên cứu lý luận hàng hóa sức lao động. Anh/ chị hãy làm sáng tỏ thực trạng thị trường lao động ở Việt Nam, từ đó liên hệ với bản thân." của Sinh viên trường Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh giúp bạn tham khảo và hoàn thành tốt bài tiểu luận của mình đạt kết quả cao.
Môn: Kinh tế chính trị Mác - Lênin (000012004)
Trường: Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoARcPSD|36212343
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ BÀI TẬP GIỮA KỲ KINH TẾ CHÍNH TRỊ Tên đề tài:
Nghiên cứu lý luận hàng hóa sức lao động. Anh/
chị hãy làm sáng tỏ thực trạng thị trường lao động
ở Việt Nam, từ đó liên hệ với bản thân.
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
SINH VIÊN THỰC HIỆN
Nguyễn Thị Thu Hà Huỳnh Lê Duy Lộc
Mã sinh viên: 21510101418
Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2022
Downloaded by Di?p DN - Chuyên Viên R&D (diepdn@bibabo.vn) lOMoARcPSD|36212343 PHẦN MỞ ĐẦU
Nguồn lao động là tài nguyên quý báu và quan trọng cho một đất nước, đó chính là nền
tảng cũng đồng thời là căn cứ và là cơ sở trong xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã
hội của nhà nước. Quan tâm về nguồn lực lao động nghĩa là chú ý tất cả các mặt có liên
hệ với thị trường này để qua đó thể hiện vai trò và tính chất ưu việt của nó. Trên nền tảng
của học thuyết Mác - Lê nin về giá cả sức lao động và với thực tiễn sử dụng sức lao động
của đất nước chúng ta hiện tại thì sự hoàn chỉnh hệ thống này không những có tính chất
kinh tế mà lại đầy ý nghĩa xã hội đang là một yêu cầu cần thiết.
Trong những năm hiện nay nền kinh tế nước ta đang dần dần chuyển đổi từ cơ chế quan
liêu bao cấp lên nền kinh tế thị trường, nhiều ngành nghề trên cả nước đã có bước đi để
xây dựng và hình thành, tuy nhiên mức độ tăng trưởng vẫn thấp so với một số quốc gia
do sự phát triển của các lĩnh vực đó cũng chưa đồng đều. Một trong số ít các thị trường
đã phát triển được là thị trường hàng hoá (hay thường gọi là thị trường bất động sản) .
Trước thời kỳ đổi mới, Việt Nam đã không bao giờ công nhận lĩnh vực này. Thế còn trong
bối cảnh hiện tại thì sự công nhận này là cần thiết. Vào ngày 23/6/1994, nhà nước ta đã
thông qua Bộ Luật Lao Động, theo sau đó là một hệ thống những văn bản của Chính phủ
quy định, thực thi Bộ Luật Lao động đã có một số ảnh hưởng nhất định đối với sự hoàn
thiện của pháp luật trong lĩnh vực này. Sức lao động có thể nói là một mặt hàng đặc biệt,
nó được gọi là cái giá của tiền lương và được định đoạt bằng việc thương lượng giữa hai người
Vậy hàng hoá sức lao động là gì? Chúng có các đặc tính, chức năng và ý nghĩa như làm
sao trong đời sống xã hội? Thị trường hàng hoá sức lao động ở Việt Nam đã diễn biến ra
sao vào thời điểm năm 1986? Để làm sáng tỏ thêm điều này, em đã nghiên cứu đề tài: "
Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin về thị trường sức lao động và quan hệ với thực tiễn ở Việt Nam. " PHẦN NỘI DUNG
I. Sức lao động và điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa: 1. Sức lao động là gì?
Theo C. Mác, “Sức lao động đó là toàn bộ các thể lực và trí lực ở trong thân thể một con
người, thể lực và trí lực mà con người phải làm cho hoạt động để sản xuất ra những vật có ích”.
2. Những điều kiện biến sức lao động trở thành hàng hóa:
Trong bất cứ xã hội nào, sức lao động cũng là điều kiện cơ bản của sản xuất. Nhưng
không phải trong bất cứ điều kiện nào, sức lao động cũng là hàng hóa. Sức lao động chỉ
có thể trở thành hàng hóa trong những điều kiện lịch sử nhất định sau đây:
-Thứ nhất: Người có sức lao động phải được tự do về thân thể, làm chủ được sức lao
động của mình và có quyền bán sức lao động của mình nhưmột hàng hóa. Sức lao động
Downloaded by Di?p DN - Chuyên Viên R&D (diepdn@bibabo.vn) lOMoARcPSD|36212343
chỉ xuất hiện trên thị trường với tư cách là hàng hóa, nếu nó do bản thân con người có sức
lao động đưa ra bán. Muốn vậy, người có sức lao động phải có quyền sở hữu năng lực
của mình.Việc biến sức lao động trở thành hàng hóa đòi hỏi phải thủ tiêu chế độ chiếm
hữu nô lệ và chế độ phong kiến.
-Thứ hai: Người có sức lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất để không thể
tự tiến hành lao động sản xuất. Chỉ trong điều kiện ấy, người lao động mới buộc phải bán
sức lao động của mình vì không còn cách nào để sinh sống. Sự tồn tại đồng thời hai điều
kiện trên tất yếu dẫn đến chỗ sức lao động biến thành hàng hóa. Dưới chủ nghĩa tư bản
đã xuất hiện đầy đủ hai điều kiện đó. Cách mạng tư sản đã giải phóng người lao động
khỏi sự lệ thuộc về thân thể vào chủ nô và chúa phong kiến. Thêm vào đó, do tác động
của quy luật giá trị và các biện pháp tích lũy nguyên thủy của tư bản đã làm phá sản những
người sản xuất nhỏ, biến họ trở thành vô sản và tập trung tư liệu sản xuất vào trong tay
một số ít người. Việc mua bán sức lao dộng được thực hiện dưới hình thức thuê mướn.
Trong các hình thái trước tư bản chủ nghĩa, chỉ có sản phẩm của lao động mới là hàng
hóa. Chỉ đến khi sản xuất hàng hóa phát triển đến một mức độ nhất định nào đó, các hình
thái sản xuất xã hội cũ bị phá vỡ thì mới xuất hiện điều kiện để sức lao động trở thành
hàng hóa. Chính sự xuất hiện của hàng hóa sức lao động đã làm cho sản xuất hàng hóa
trở nên có tính phổ biến và đã báo hiệu sự ra đời của một thời đại mới trong lịch sử xã
hội – thời đại của chủ nghĩa tư bản. Sức lao động trở thành hàng hóa là điều kiện quyết
định để biến tiền thành tư bản.
II. Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động:
1. Giá trị hàng hóa sức lao động:
Giá trị hàng hóa sức lao động cũng giống như các hàng hóa khác được quy định bởi số
lượng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra và tái sản xuất ra sức lao động.
Nhưng sức lao động chỉ tồn tại như năng lực sống của con người. Để sản xuất ra và tái
sản xuất ra năng lực đó, người công nhân phải tiêu dùng một số lượng tư liệu sinh hoạt
nhất định. Ngoài ra, người lao động còn phải thỏa mãn những nhu cầu của gia đình và
con cái. Chỉ có như vậy thì sức lao động mới được sản xuất và tái sản xuất liên tục. Vậy
thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra sức lao động sẽ quy thành thời gian lao
động xã hội cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt ấy. Hay nói một cách khác,
số lượng giá trị sức lao động được xác định bằng giá trị của những tư liệu sinh hoạt để tái
sản xuất ra sức lao động.
Khác với hàng hóa thông thường, giá trị hàng hóa sức lao động bao hàm cả yếu tố tinh
thần và lịch sử. Điều đó thể hiện ở chỗ nhu cầu của công nhân không chỉ có nhu cầu về
vật chất mà còn gồm cả những nhu cầu về tinh thần (giải trí, học tập,…). Nhu cầu đó cả
về khối lượng lẫn cơ cấu những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho công nhân không phải lúc
nào và ở đâu cũng giống nhau. Nó tùy thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của từng nước, từng
thời kỳ, phụ thuộc vào trình độ văn minh đã đạt được của mỗi nước. Ngoài ra còn phụ
thuộc vào tập quán, điều kiện địa lý và khí hậu, điều kiện hình thành giai cấp công nhân.
Nhưng đối với một nước nhất định và trong một thời kỳ nhất định thì quy mô những tư
Downloaded by Di?p DN - Chuyên Viên R&D (diepdn@bibabo.vn) lOMoARcPSD|36212343
liệu sinh hoạt cần thiết cho người lao động là một đại lượng nhất định. Do đó có thể xác
định do những bộ phận sau đây hợp thành:
Một là, giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết để tái sản xuất
sức lao động, duy trì đời sống của bản thân người công nhân.
Hai là, phí tổn đào tạo người công nhân.
Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho gia đình người công nhân. Để nêu ra
được sự biến đổi của giá trị sức lao động trong một thời kỳ nhất định, cần nghiên cứu sự
tác động lẫn nhau của hai xu hướng đối lập nhau. Một mặt là sự tăng nhu cầu trung bình
xã hội về hàng hóa và dịch vụ, về học tập và trình độ lành nghề, do đó làm tăng giá trị
sức lao động. Mặt khác là sự tăng năng suất lao động xã hội, do đó làm giảm giá trị sức
lao động. Trong điều kiện tư bản hiện đại, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học –
kỹ thuật và những điều kiện khác, sự khác biệt của công nhân về trình độ lành nghề, về
sự phức tạp của lao động và mức độ sử dụng năng lực trí óc và tinh thần của họ tăng lên.
Tất cả những điều kiện đó không thể không ảnh hưởng đến các giá trị sức lao động. Không
thể không dẫn đến sự khác biệt theo ngành và theo lĩnh vực của nền kinh tế bị che lấp
đằng sau đại lượng trung bình của giá trị sức lao động.
2. Giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động:
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động cũng giống như các hàng hóa khác chỉ thể
hiện ra trong quá trình tiêu dùng lao động, tức là quá trình người công nhân tiến hành lao động sản xuất.
Những tính chất đặc biệt của hàng hóa sức lao động được thể hiện đó là:
Thứ nhất, sự khác biệt giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động so với giá trị sử dụng
của các hàng hóa khác là ở chỗ: hàng hóa thông thường sau quá trình tiêu dùng hay sử
dụng thì cả giá trị và giá trị sử dụng của nó đều biến mất theo thời gian. Trái lại, quá trình
tiêu dùng hàng hóa sức lao động lại là quá trình sản xuất ra một loại hàng hóa nào đó,
đồng thời là quá trình tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của thân giá trị sức lao động. Phần
lớn hơn đó chính là giá trị thặng dư, Như vậy, hàng hóa sức lao động có thuộc tính là
nguồn gốc sinh ra giá trị. Đó là đặc điểm cơ bản nhất của giá trị sử dụng của hàng hóa
sức lao động so với các hàng hóa khác. Nó là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn của công
thức chung của tư bản. Như vậy, tiền chỉ thành tư bản khi sức lao động trở thành hàng hóa.
Thứ hai, con người là chủ thể của hàng hóa sức lao động. Vì vậy, việc cung ứng sức lao
động phụ thuộc vào những đặc điểm về tâm lý, kinh tế, xã hội của người lao động. Đối
với hầu hết các thị trường khác thì cầu phụ thuộc vào con người với những đặc điểm của
họ, nhưng đối với thị trường lao động thì con người lại có ảnh hưởng quyết định tới cung. PHẦN LIÊN HỆ
VẤN ĐỀ LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM TẠI VIỆT NAM
Downloaded by Di?p DN - Chuyên Viên R&D (diepdn@bibabo.vn) lOMoARcPSD|36212343
A - Thực trạng thị trường lao động ở Việt Nam hiện nay
I - Nguồn lao động - cung của thị trường lao động 1.Về số lượng:
Việt Nam hiện nay đang sở hữu một thế hệ dân số vàng. Do đó mà nguồn lao động của
nước ta rất dồi dào trong hiện tại và cả tương lai. Hiện nay, số lượng người lao động
chiếm khoảng 60% dân số. Hằng năm, nước ta lại được bổ sung thêm khoảng hơn 1 triệu
lao động mới. Nguyên nhân của sự gia tăng nhanh chóng về số lượng lao động ở nước ta
là do tốc độ tăng dân số cũng như hậu quả từ cuộc bùng nổ dân số trước đây và xu hướng
trẻ hóa dân số đang diễn ra. Năm 2013, dân số Việt Nam đã đạt khoảng 90 triệu người,
trong đó nhóm dân số có độ tuổi từ 15-64 chiếm 69% tổng số dân. 2. Về chất lượng:
Người lao động nước ta cần cù, có kinh nghiệm trong sản xuất gắn với truyền thống của
dân tộc được tích lũy qua nhiều thế hệ, đặc biệt là trong các ngành nông nghiệp, ngư
nghiệp, thủ công nghiệp. Nguồn lao động trẻ đang có xu hướng tăng, có khả năng ứng
dụng nhanh chóng các thành tựu khoa học-kĩ thuật vào sản xuất. Tuy nhiên, chất lượng
nguồn lao động của nước ta còn thấp. Năm 2012, số người lao động đã qua đào tạo chỉ
chiếm 17.6%. Nguyên nhân chủ yếu khiến
chất lượng nguồn lao động của nước ta còn hạn chế là do cơ cấu đào tạo chưa hợp lý (thừa
thầy thiếu thợ), chất lượng đào tạo chưa đạt tiêu chuẩn. Người lao động đã qua đào tạo
còn mỏng về số lượng, một số lượng lớn người lao động có trình độ lại đang có thiên
hướng ra nước ngoài làm ăn,…
3. Sự phân bố nguồn lao động:
Hiện nay, thị trường lao động đang có
sự phát triển không đồng đều, dẫn tới sự
chênh lệch về tỷ suất cung – cầu trong
thị trường lao động ở mỗi ngành nghề
và mỗi vùng miền khác nhau. Trong các
ngành kinh tế, tỉ trọng người lao động
hoạt động trong ngành nông lâm - ngư
nghiệp vẫn chiếm phần lớn với trên
50%. Trong khu vực nông thôn – thành
thị, tỉ trọng người lao động ở nông thôn
chiếm tới khoảng 70% nhưng người lao
động đã qua đào tạo lại tập trung chủ
yếu ở thành thị. Điều này làm cho thị
trường lao động của nước ta phát triển
không đồng đều giữa các ngành và các vùng với nhau, khiến nhịp độ phát triển kinh tế đất
nước cũng trở nên không đồng bộ, thống nhất.
II -Vấn đề việc làm và sự mâu thuẫn cung - cầu trong thị trường lao động:
Downloaded by Di?p DN - Chuyên Viên R&D (diepdn@bibabo.vn) lOMoARcPSD|36212343
Với nguồn lao động đông đảo về số lượng nhưng chất lượng lại hạn chế, tình trạng thất
nghiệp và thiếu việc làm hoặc phải làm trái ngành nghề đào tạo đang diễn ra phổ biến và
dần trở thành một vấn nạn của xã hội ở nước ta, gây lãng phí nguồn lao động.
Theo số liệu điều tra của Tổng cục
thống kê, sáu tháng đầu năm 2013,
tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong
độ tuổi ước tính là 2.28% (tăng
0.32% so với năm 2012), còn tỷ lệ
thiếu việc làm là 2.95% (tăng 0.21%
so với năm 2012). Như vậy, tỷ lệ thất
nghiệp và thiếu việc làm ở nước ta
đang có xu hướng gia tăng. Điều này
đồng nghĩa với hiện nay trong thị
trường lao động, cung đang lớn hơn cầu.
Mặt khác, hằng năm, nước ta lại
được bổ sung thêm khoảng 1 triệu
lao động mới, trong đó có khoảng
trên 200 nghìn sinh viên đại học, cao đẳng tốt nghiệp, cung cấp một lượng lớn nguồn nhân
lực cho xã hội nhưng các công ty, doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nước ngoài vẫn
kêu ca “khan hiếm nguồn lực” dẫn đến tình trạng “vừa thiếu vừa thừa” nguồn lao động.
Nguyên nhân của tình trạng này là do sự mất cân đối về cung – cầu lao động. Nguồn lao
động quá lớn trong điều kiện các ngành sản xuất chưa thể tạo ra đủ việc làm. Thêm nữa,
người lao động chưa qua đào tạo hoặc có tay nghề thấp quá nhiều, trong khi số người lao
động có trình độ, chuyên môn lại quá ít.
Ngoài ra còn do nền kinh tế nước ta trong một vài năm trở lại đây gặp phải nhiều biến
động bất lợi, các công ty, doanh nghiệp nhà nước cơ cấu lại tổ chức, sa thải bớt nhân viên,
các doanh nghiệp nhỏ làm ăn thua lỗ, phá sản. Chính vì thế, mặc dù đã đạt được khá nhiều
thành tích trong công tác kiểm soát và điều tiết tỷ lệ tăng lao động nhưng vấn đề việc làm
vẫn diễn biến rất khó khăn, phức tạp. B Liên hệ bản thân
SINH VIÊN CẦN CHUẨN BỊ NHỮNG GÌ ĐỂ CÓ THỂ GIA NHẬP THỊ TRƯỜNG
LAO ĐỘNG MỘT CÁCH THUẬN LỢI HOẶC KHỞI NGHIỆP THÀNH CÔNG.
1. Thực trạng thị trường lao động
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (CMCN 4.0) đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới
và ảnh hưởng trực tiếp tới Việt Nam. Đây là cơ hội lớn trong quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, việc thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng
cao, năng suất lao động thấp đang là vấn đề thách thức của Việt Nam để sẵn sàng cho một
giai đoạn mới dựa trên nền tảng khoa học công nghiệp 4.0. Cuộc cách mạng công nghiệp
Downloaded by Di?p DN - Chuyên Viên R&D (diepdn@bibabo.vn) lOMoARcPSD|36212343
4.0 dựa trên 3 lĩnh vực chính: Kỹ thuật số, Cơng nghệ sinh học; Robot thế hệ mới, xe tự
lái, các vật liệu mới... Theo dự báo của các chuyên gia, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0
sẽ là nền tảng để kinh tế chuyển đổi mạnh mẽ từ mơ hình dựa vào tài ngun, lao động chi
phí thấp sang kinh tế tri thức; làm thay đổi cơ bản khái niệm đổi mới công nghệ, trang thiết
bị trong các dây chuyền sản xuất. Đặc biệt, nền công nghiệp 4.0 sẽ tạo ra những thay đổi
lớn về cung-cầu lao động. Các nhà kinh tế và khoa học cảnh báo, trong cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0, thị trường lao động sẽ bị thách thức nghiêm trọng giữa cung và cầu lao
động cũng như cơ cấu lao động. Trong một số lĩnh vực, với sự xuất hiện của Robot, số
lượng nhân viên cần thiết sẽ chỉ còn 1/10 so với hiện nay. Như vậy, 9/10 nhân lực còn lại
sẽ phải chuyển nghề hoặc thất nghiệp. Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO), Việt Nam là
một trong những nước chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ cách mạng công nghiệp 4.0. Hiện Việt
Nam sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức về chất lượng nguồn nhân lực như trình độ chun
mơn kỹ thuật của lao động còn thấp, chỉ chiếm hơn 20% lực lượng lao động; năng suất lao
động thấp hơn nhiều nước trong khu vực ASEAN… Như vậy, những ngành nghề sử dụng
lao động phổ thông ở mức độ đào tạo đơn giản sẽ chịu tác động lớn và nguy cơ thất nghiệp
do sự phát triển của cơng nghệ tự động và trí tuệ nhân tạo. Trong cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0, nhiều ngành nghề sẽ biến mất nhưng lại có những cơng việc mới ra đời. Trước
xu thế máy móc tự động hóa thay thế con người, nguồn nhân lực phải trang bị kiến thức,
kỹ năng phù hợp để đáp ứng nhu cầu công việc trong tình hình mới. 2. Vị trí của sinh viên
2.1. Thực trạng tình hình việc làm của sinh viên
Sinh viên sau khi tốt nghiệp đại học tìm được việc làm do từ nhiều nguồn:
-Các doanh nghiệp tuyển dụng trực tiếp tại các trường, kể cả doanh nghiệp chọn
lọc, hỗ trợ học bổng sinh viên còn đi học để tuyển chọn sinh viên xuất sắc, giỏi,
khá, có kỹ năng ngoại ngữ.
- Thông qua các ngày hội nghề nghiệp - việc làm cho sinh viên, sàn giao dịch việc làm.
-Các trung tâm dịch vụ việc làm, đặc biệt vai trò các trung tâm hỗ trợ sinh viên và
quan hệ doanh nghiệp của các trường đại học đã giúp nhiều sinh viên tốt nghiệp
nhanh chóng có việc làm tương đối phù hợp.
-Các mạng thông tin việc làm, các trang tuyển dụng nhân lực trực tuyến.
-Thông tin tuyển dụng của doanh nghiệp niêm yết, trên hệ thống website, Internet,
báo, đài, cơ quan thông tin.
-Gia đình, thân nhân những người quen giới thiệu.
- Tự tìm việc qua những việc thời vụ, bán thời gian khi còn đi học.
Downloaded by Di?p DN - Chuyên Viên R&D (diepdn@bibabo.vn) lOMoARcPSD|36212343
Sinh viên tự tạo việc làm và khởi nghiệp bằng cách bỏ vốn từ tích lũy làm thêm, từ gia
đình, các nguồn quỹ tín dụng việc làm, quỹ hỗ trợ khởi nghiệp để tự tạo việc làm. Khởi
nghiệp bằng hình thức tổ chức doanh nghiệp hoặc kinh doanh dịch vụ cá nhân, tập thể.
Mặt khác, cơ cấu ngành nghề đào tạo chun mơn kỹ thuật cịn nhiều bất cập, cụ thể trong cơ
cấu đào tạo đại học nhóm ngành kỹ thuật – công nghệ và khoa học tự nhiên chiếm tỷ trọng
khoảng 30%, các nhóm ngành kinh tế – tài chính – khoa học xã hội – y tế – giáo dục chiếm
tỷ trọng 70% trong khi nhu cầu nhân lực của các doanh nghiệp thì nhóm ngành kỹ thuật
công nghệ - khoa học tự nhiên chiếm tỷ trọng 45%; vì vậy thị trường lao động đang thiếu
nhiều nhân lực các ngành nghề như: cơ khí, cơng nghệ thông tin – truyền thông, công nghệ
nông – lâm… đồng thời, có nhiều ngành học thuộc nhóm kinh tế – tài chính – khoa học –
xã hội – y dược được các trường mở ra với số lượng tuyển sinh khá lớn trong những năm
gần đầy theo thị hiếu xã hội nhưng chưa đầu tư đảm bảo đúng yêu cầu chất lượng chuyên
ngành nên không được doanh nghiệp đánh giá cao khi tuyển dụng dù số lượng nhiều với
nhu cầu nhân lực nhưng chất lượng thì khơng phù hợp. Do đó, tình trạng thị trường lao
động ln thể hiện “vừa thừa vừa thiếu”. Thực trạng chung là phần lớn sinh viên tốt nghiệp
ra trường vẫn cịn gặp nhiều khó khăn trong tìm kiếm việc làm phù hợp và ổn định, do chưa
định hướng đúng mức về nghề nghiệp – việc làm, vì một số sinh viên chọn ngành học chưa
phù hợp năng lực, sở trường và xu hướng phát triển thị trường lao động. Mặt khác, các
doanh nghiệp rất quan tâm tuyển chọn đối với sinh viên tốt nghiệp về kiến thức ngoại ngữ,
khả năng hợp tác, kỹ năng làm việc, kỹ năng giao tiếp, những hiểu biết về môi trường văn
hóa doanh nghiệp và tác phong làm việc công nghiệp. Sự hạn chế lớn của sinh viên khi ra trường, đa số chưa
định hướng được cụ thể để chọn một ngành chuyên môn phù hợp với khả năng, đồng thời,
do hệ thống thông tin thị trường lao động; hoạt động tư vấn giới thiệu việc làm thành phố
chưa cập nhật kịp thời để gắn kết sinh viên và doanh nghiệp đạt hiệu quả cao. Theo khảo
sát của Trung tâm dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao động TP.HCM thuộc
Sở lao động – thương binh và xã hội TP.HCM về nhu cầu tìm việc làm của trên 200.000
sinh viên từ năm 2010 - 2016, có khoảng 80% sinh viên sau khi tốt nghiệp là tìm được việc
làm, còn 20% tìm việc rất khó khăn hoặc không tìm được việc làm, phải chuyển đổi ngành
học hoặc làm những công việc thấp hơn trình độ đào tạo.
Trong tổng số sinh viên tìm được việc làm, chỉ có 50% là có việc làm phù hợp năng lực và
phát triển tốt, 50% vẫn phải làm việc trái ngành nghề, thu nhập thấp; việc làm chưa
thật sự ổn định và có thể phải chuyển việc làm khác. Nổi cộm nhất của thị trường lao động
hiện nay và những năm tới đó là nguồn nhân lực có tay nghề cao, có trình độ chuyên môn
giỏi vẫn không đủ đáp ứng thị trường lao động. Điều này cũng đồng nghĩa, một bộ phận
nhân lực phải thất nghiệp và khó tìm được việc làm ổn định nếu chưa đủ điều kiện nghề
nghiệp, kỹ năng chuyên môn và khả năng thích nghi thực tế thị trường lao động. Một thực
trạng dễ thấy, các doanh nghiệp rất cần đội ngũ nhân sự chất lượng cao, nhưng ngược lại
nhiều sinh viên tốt nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu tuyển dụng, đặc biệt phần kỹ năng.
Nhìn nhận một cách thẳng thắn thì có đến 70% sinh viên tốt nghiệp chưa trang bị tốt về
chuyên môn cũng như các kỹ năng mềm và trình độ ngoại ngữ. Ngồi vấn đề vừa nêu, một
số ngành nghề cũng đang mất cân đối giữa các cấp đào tạo và nhu cầu tuyển dụng. Sự
Downloaded by Di?p DN - Chuyên Viên R&D (diepdn@bibabo.vn) lOMoARcPSD|36212343
chênh lệch về thu nhập trong từng ngành nghề dẫn đến sự lựa chọn khác nhau trong nhu
cầu tuyển dụng và tìm việc, cũng là một trong số nguyên nhân.
2.2. Ưu điểm của sinh viên
Thông thường các nhà tuyển dụng thường ưa thích sinh viên mới ra trường bởi vì:
+ Sự nhiệt huyết và sáng tạo
Sự sáng tạo luôn giúp ta máu lửa & nhiệt huyết sẽ kích thích tính sáng tạo trong mỗi con
người. Từ hai điều này thường dẫn đến nhiều ưu điểm tương quan khác của người trẻ là
nắm bắt xu hướng nhanh lại ham tìm tịi, học hỏi và hết sức chăm chỉ, chịu khó. Cũng chính
từ nhiệt huyết và sáng tạo, họ là những người đưa ra quan điểm và góc nhìn mới mẻ, khác
với cách những người đi trước nhận định.
+ Dễ quản lý và đào tạo
Do khác biệt giữa môi trường doanh nghiệp và nhà trường, ứng viên mới ra trường có xu
hướng ít bị ảnh hưởng bởi chính trị nơi công sở hay những mâu thuẫn thường gặp nơi công
sở. Những người đã đi làm lâu năm thường có nhiều vấn đề và mối quan tâm xung quanh
trong khi ứng viên mới ra trường chỉ tập trung hoàn thành công việc. Cái họ cần nhiều nhất
từ người quản lý là đào tạo và hướng dẫn.
+ Khả năng nắm bắt xu hướng và công nghệ
Người trẻ có khả năng học hỏi tốt và nhanh hơn rất nhiều so với người đã đi làm lâu năm.
Và họ cũng chủ động cập nhật đón đầu xu hướng và công nghệ mà không cần sự yêu cầu
nào từ sếp. Rõ ràng, nắm bắt xu hướng phát triển và công nghệ thông tin chính là yếu tố
quyết định sự thành công và phát triển của doanh nghiệp.
2.3 Phát triển các yếu tố trong tam giác ASK: thái độ - kỹ năng - kiến thức
ASK (viết tắt của Attitude - Skill - Knowledge) là mơ hình tiêu chuẩn nghề
nghiệp được sử dụng phổ biến nhất trên thế giới. Từ những ý tưởng nền tảng của
Benjamin Bloom (1956), hiện nay ASK này đã được chuẩn hố thành một mơ hình đánh
giá năng lực nhân sự đầy đủ, gồm 3 nhóm chính:
Knowledge – Kiến thức: là những năng lực về thu thập tin dữ liệu, năng lực hiểu
các vấn đề (comprehension), năng lực ứng dụng (application), năng lực phân tích
(analysis), năng lực tổng hợp (synthethis), năng lực đánh giá (evaluation). Kiến thức là
nền tảng cho năng lực và thành tích của một người. Nó bao gồm các sự kiện, khái niệm
cũng như sự hiểu biết thông tin. Sự khởi đầu của kiến thức chính là sự khám phá ra điều
gì đó mà chúng ta không hiểu Kiến thức của một người là tổng số năng lực học tập của
người đó trong một khoảng thời gian nhất định. Bằng cách thức của mình, họ có được
kiến thức, mức độ thông minh và khả năng hiểu các khái niệm khác nhau từ đó cải thiện
năng lực. Nói một cách khác, học càng nhiều họ càng có thể áp dụng việc học vào tương lai của chính mình.
Skill - Kỹ năng: là năng lực thực hiện các công việc, biến kiến thức thành hành động.
Thông thường kỹ năng được chia thành các cấp độ chính như: bắt chước (quan sát và
hành vi khuôn mẫu), ứng dụng (thực hiện một số hành động bằng cách làm theo hướng
dẫn), vận dụng (chính xác hơn với mỗi hoàn cảnh), vận dụng sáng tạo (trở thành phản xạ
Downloaded by Di?p DN - Chuyên Viên R&D (diepdn@bibabo.vn) lOMoARcPSD|36212343 tự nhiên) (Dave, 1975).
Kỹ năng của một cá nhân được thiết lập từ một phần khả năng tự nhiên của người đó.
Tuy nhiên, năng lực và sự thành thạo trong cơng việc địi hỏi họ phải thực hành, kinh
nghiệm và được đào tạo. Người ta càng thực hành nhiều kỹ năng thì họ càng giỏi hơn.
Kỹ năng là những năng lực được học thông qua chuyển giao kiến thức, thành thạo thực
hành,...Thông thường, một người có được kiến thức về cách thực hiện một công việc hay
nhiệm vụ nào đó thì họ sẽ bắt đầu thực hiện trong thực tế. Kỹ năng khác kiến thức vì kiến
hức sẽ là điều kiện tiên quyết cho kỹ năng. Bạn phải có kiến thức về nhiệm vụ đó trước
thì bạn mới có kỹ năng để thực hiện nhiệm vụ.
Attitude – Thái độ: được hiểu là một cách để suy nghĩ hay cảm nhận về một ai đó, một
điều gì đó, Nó bao gồm cách mà con người ta đối phó với cảm xúc của mình như thế nào.
Đồng thời, nó cũng phản ứng bằng hành vi của người đó. Thái độ của một người ảnh
hưởng đến cảm xúc, giá trị, sự đánh giá cao và động lực đối với một cái gì đó. Do đó, thái
độ của một người đối với một nhiệm vụ nhất định sẽ ảnh hưởng đến hiệu suất làm việc
của họ. Suy nghĩ của một người thúc đẩy hành động của họ và hành động của họ ảnh
hưởng đến hiệu suất của toàn bộ một quá trình nào đó. Một thái độ tích cực sẽ giúp thúc
đẩy một người cố gắng hết sức và tối đa hóa hiệu suất của bản thân. C Kết luận
Có thể nói thị trường lao động khá mới mẻ đối với Việt Nam bới lẽ việc hình thành thị
trường lao động còn khá nhỏ lẻ ở những khu công nghiệp hoặc ở những thành phố lớn.
Việt Nam đã gia nhập vào WTO, đây là cơ hội và cũng là thách thức lớn đối với Việt
Nam. Vì vậy, để tồn tại và phát triển, trong thị trường thế giới đầy khắc nghiệt, các nhà
kinh tế Việt Nam cần có những chiến lược cụ thể nhằm nâng cao sức cạnh trạnh của hàng
hóa, đặc biệt là hàng hóa sức lao động. Do vậy, cần áp dụng triệt để lý luận về hàng hóa
sức lao động của C. Mác vào thực tế Việt Nam một cách có hiệu quả để mang lại nguồn
nhân lực có chất lượng tay nghề, phẩm chất tốt để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa của đất nước trong thời đại mới. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế chính trị
2. Tạp chí Lý luận chính trị số 2-2002
3. Tạp chí Lý luận chính trị số 12-2002
4. Tạp chí Lý luận chính trị số 1-2003
5. https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/tinh-hinh-nhan-luc-viet-nam-hien-nay-va-cac-
giai-phap-nang-cao-chat-luong-nguon-nhan-luc-53860.htm
6. https://vov.vn/tin-24h/chat-luong-lao-dong-viet-nam-dang-o-dau-729777.vov
7. https://blog.vnresource.vn/thuc-trang-nguon-nhan-luc-cua-viet-nam-hien-nay/
Downloaded by Di?p DN - Chuyên Viên R&D (diepdn@bibabo.vn)