Tiểu luận Phân tích quan điểm của triết học - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

“Theo C. Mác, con người là một sinh vật có tính xã hội ở trình độ pháttriển cao nhất của giới tự nhiên và của lịch sử xã hội, là chủ thể của lịchsử, sáng tạo nên tất cả các thành tựu của văn minh và văn hóa. Về phươngdiện sinh học, con người là một thực thể sinh vật, là sản phẩm của giới tựnhiên, là một động vật xã hội”(1). Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Họ và tên: Trần Huyền Vy
MSSV: 31211021449
Mã lớp HP[1]: 21C1PHI51002321
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề bài: Phân tích quan điểm của triết học Mác Lênin về bản chất con
người. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
1. Khái niệm về con người và bản chất con người.
1.1. Khái niệm con người
“Theo C. Mác, con người là một sinh vật có tính xã hội ở trình độ phát
triển cao nhất của giới tự nhiên của lịch sử hội, chủ thể của lịch
sử, sáng tạo nên tất cả các thành tựu của văn minh và văn hóa. Về phương
diện sinh học, con người là một thực thể sinh vật, là sản phẩm của giới tự
nhiên, một động vật hội” . Điều đó nghĩa rằng con người cũng
(1)
như mọi động vật khác, phải “đấu tranh sinh tồn”, phải tìm kiếm thức ăn,
nước uống, phải sinh con đẻ cái để tồn tại phát triển. “Do đó, con
người một thực thể tự nhiên mang đặc tính hội; sự thống nhất
biện chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội” .
(2)
Không chỉ là một thực thể sinh học, mà con người còn là một thực thể
tự nhiên. giới tự nhiên chính tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự
hình thành, tồn tại và phát triển của con người, nên đối với con người, loài
người, bản tính tự nhiên phải một trong những phương diện bản.
Dựa vào đó, việc nghiên cứu khám phá khoa học về cấu tạo tự nhiên
nguồn gốc tự nhiên của con người đã trở thành cơ sở khoa học quan trọng.
Con người có thể hiểu biết về chính bản thân mình, tiến đến làm chủ bản
thân trong mọi hành vi và hoạt động sáng tạo ra lịch sử nhân loại.
Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai giác độ. “Thứ
nhất, con người kết quả tiến hóa phát triển lâu dài của giới tự
nhiên”
(3)
. Toàn bộ sự phát triển của chủ nghĩa duy vật khoa học tự
nhiên, đặc biệt là học thuyết Đác-uyn về sự tiến hóa của các loài đã chứng
minh được sở khoa học của kết luận này. “Thứ hai, con người một
bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng “là thân thể
của con người” . Về phương diện thực thể sinh học, con người phải
(4)
phục tùng các quy luật của giới tự nhiên, các quy luật sinh học như di
truyền, tiến hóa sinh học,… Nhưng lại thể dựa trên các quy luật khách
quan biến đổi giới tự nhiên chính bản thân mình. "Đây chính mối
1
quan hệ biện chứng giữa sự tồn tại của con người, loài người các tồn
tại khác của giới tự nhiên” .
(5)
Con người còn là một thực thể hội các hoạt động hội. Trong
đó, con người có hàng loạt các mối quan hệ của các cộng đồng xã hội, đó
các cộng đồng: gia đình, giai cấp, quốc gia, dân tộc, nhân loại. Theo
thời gian, những mối quan hệ đó ngày càng phát triển phong phú, đa dạng,
thể hiện những tác động qua lại giữa người với người.
Bản tính hội của con người cũng được phân tích từ hai giác độ.
“Một là, xét từ giác độ nguồn gốc hình thành con người, loài người thì
không phải chỉ nguồn gốc từ sự tiến hóa, phát triển của vật chất tự
nhiên mà còn nguồn gốc hội của nó,trước hết bản nhất
nhân tố lao động” . Lao động đã góp phần cải tạo bản năng sinh học của
(6)
con người, làm cho con người trở thành con người theo một cách đúng
nghĩa. “Hai là, xét từ giác độ tồn tại phát triển của con người, loài
người thì sự tồn tại của nó luôn luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội
các quy luật xã hội” . Xã hội biến đổi thì mỗi con người cũng sẽ thay đổi
(7)
ngược lại, sự phát triển của mỗi nhân sẽ tiền đề cho sự phát triển
của xã hội.
Nhìn chung, con người một thực thể trong sự thống nhất, quy định
lẫn nhau, tác động lẫn nhau, làm biến đối lẫn nhau giữa hai phương diện
tự nhiên và xã hội. Dựa vào đó, con người có thể tạo nên những hoạt động
sáng tạo trong quá trình làm ra lịch sử của loài người.
1.2. Bản chất của con người
Trong tác phẩm Luận cương về Phoi-ơ-bắc (1845), C. Mác đã viết nên
luận điểm nổi tiếng về con người: “Bản chất con người không phải là một
cái gì trừu tượng, cố hữu của nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của
nó, bản chất con người tổng hòa những quan hệ hội” . Luận đề
(8)
khẳng định rằng không con người trừu tượng, con người luôn luôn
cụ thể trong những điều kiện lịch sử cụ thể. “Các quan hệ hội tạo nên
bản chất của con người, nhưng không phảisự kết hợp giản đơn hoặc
tổng cộng chúng lại với nhau mà là sự tổng hòa chúng” . Thông qua hoạt
(9)
động thực tiễn, các quan hệ hội thay đổi thì ít nhiều cũng sẽ làm thay
đổi bản chất con người. Bởi nếu xét bản chất con người trên phương diện
tính hiện thực của thì bản chất con người chính “tổng hòa của các
quan hệ xã hội”, bởi xã hội chính là xã hội của con người, được tạo nên từ
toàn bộ các quan hệ giữa người với người trên các mặt kinh tế, chính trị,
văn hóa,… Tất cả các quan hệ đó đều góp phần vào việc hình thành bản
2
chất con người, tùy theo thời gian mức độ ảnh hưởng sẽ khác nhau.
Tuy nhiên trong thời điểm hiện tại, dự định các quan hệ kinh tế sẽ giữ vai
trò quyết định trong việc hình thành bản chất con người đây mối
quan hệ sản xuất. Trong điều kiện đó, sự tác động giữa con người và hoàn
cảnh cụ thể sẽ tạo nên những bản sắc rất riêng của loài người trong từng
thời đại.
“Theo quan điểm duy vật biện chứng về bản chất hội của con
người thì sự hình thànhphát triển của con người cùng những khả năng
sáng tạo lịch sử của cần phải được tiếp cận từ giác độ phân tích
giải sự hình thành phát triển của những quan hệ hội của trong
lịch sử” . Chính thế, sự giải phóng những quan hệ kinh tế, chính trị,
(10)
văn hóa hội cần được sự giải phóng bản chất con người hướng vào.
Qua đó, khả năng sáng tạo lịch sử của con người có thể phát huy một cách
tốt nhất.
Như vậy, con người luôn gắn liền với những điều kiện hoàn cảnh lịch
sử nhất định. “Với cách thực thể hội, con người trong hoạt động
thực tiễn, thông qua hoạt động thực tiễn, tác động vào giới tự nhiên, làm
cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn phát triển của thì đồng
thời con người cũng sáng tạo ra lịch sử của chính nó, thực hiện sự phát
triển của lịch sử đó”
(11)
.
2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
2.1. Ý nghĩa lý luận
Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về con người bản chất của
con người là cơ sở phương pháp luận cho mọi hoạt động của con người
được biểu hiện qua ba giác độ. “Một là, trong nhận thức, đánh giá con
người thì cần phải xem xét cả phương diện bản tính tự nhiên lẫn phương
diện bản tính hội, song song đó, phải coi trọng hơn việc xem xét con
người từ phương diện bản thính xã hội” . Mặt khác, trong việc xây dựng
(12)
thái độ sống vừa phải biết tính đến nhu cầu sinh học, vừa phải coi trọng
rèn luyện phẩm chất hội, tránh rơi vào thái độ sống chạy theo nhu cầu
bản năng tầm thường. “Hai là, trong cuộc sống vừa phải biết phát huy vai
trò chủ thể tích cực sáng tạo của con người lại vừa phải ý thức tự giác
vượt ra khỏi tác động tiêu cực từ hoàn cảnh lịch sử” . “Ba là, cần chú
(13)
trọng việc xây dựng môi trường hội tốt đẹp, với những quan hệ hội
tốt đẹp thể xây dựng, phát triển được những con người tốt đẹp, hoàn
thiện”
(14)
. Mặt khác, trong hoạt động nhận thứcthực tiễn phải luôn chú
ý giải quyết đúng đắn mối quan hệ cá nhân - xã hội, tránh khuynh hướng
3
đề cao quá mức cá nhân hoặc xã hội con người là tổng thể các quan hệ xã
hội.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trong mối quan hệ tác động với kinh tế, con người tạo ra giá trị mới
tác động đến con người cá nhân và con người xã hội. Bên cạnh đó, yếu tố
văn hóa cũng góp một phần không nhỏ trong quá trình hình thành con
người. “Văn hóa là nền tảng tinh thần củahội, là mục tiêu và động lực
phát triển đất nước. Văn hóa vai trò quan trọng trong việc hình thành
nhân cách bản sắc, cốt cách dân tộc. Ngày nay, văn hóa còn được xác
định một trong những yếu tố vai trò quyết định sức mạnh vị thế
của mỗi quốc gia, dân tộc trên đấu trường quốc tế. thế, xây dựng văn
hóa Việt Nam trước yêu cầu phát triển bền vững đất nước một trong
những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cách mạng Việt Nam hiện
nay”
(15)
.
Để phát triển con người Việt Nam hiện nay, con người cần nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực bằng các biện pháp nâng cao giáo dục đạo
đức, giáo dục thẩm mỹ, chú trọng đến sức khỏe nhân cộng đồng,
nâng cao chất lượng cuộc sống,… Về phía nhà nước cần xây dựng cơ chế
chính sách thu hút nguồn nhân lực nhằm thu hút nhân tài, xây dựng chính
sách quan, địa phương, ra sức hỗ trợ nguồn nhân lực. Trong lĩnh vực
đào tạo, bồi dưỡng, nhà nước cần những chính sách về tăng cường
quản lí nhà nước và phát triển nguồn nhân lực. Không những thế, việc giải
quyết mối quan hệ giữa môi trường làm việc thực tiễn nền kinh tế đất
nước cũng cùng quan trọng. Môi trường làm việc sẽ quyết định thúc
đẩy đến mỗi cá nhân đóng góp vào xã hội, đồng thời thể hiện tính chuyên
nghiệp và tác phong công việc nghiêm túc. Nói tóm lại, Đảng và nhà nước
cần phát huy những yếu tố liên quan đến thúc đẩy yếu tố sở hạ tầng,
nâng cao tri thức cho người lao động, xây dựng môi trường tự do phát
triển và tiếp tục dựng xây nền văn hóa Việt Nam trong quá trình phát triển
đất nước.
Trong môi trường học tập tại Đại học UEH, chúng ta hội
(16)
được tiếp cận rất gần với sự tiến bộ vượt bậc của thời đại kỷ nguyên số, từ
đó sinh viên UEH trở nên năng động, sáng tạo, phát triển nhiều hơn về trí
tuệ, khả năng tư duy, phân tích logic,… Trong đại dịch Covid-19, việc học
online tại nhà cũng góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy học tập
cho giảng viên sinh viên, qua đó cho thấy nguồn kiến thức luôn
cách vận hành riêng của theo rất nhiều ngã rẽ khác nhau không bị
4
cản trở bởi những khó khăn, chông gai hay thử thách. Về khía cạnh chất
lượng giảng dạy của Đại học UEH, với sứ mạng nâng tầm tri thức, đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao, hội nhập và chuyển giao toàn cầu, thể
thấy phía nhà trường luôn chú trọng đến việc phát triển con người trở nên
toàn diện. Bên cạnh đó, việc nhà trường chuyển giao kết quả nghiên cứu
khoa học cho các tổ chức doanh nghiệp cũng góp phần thúc đẩy tinh thần
cống hiến kích thích sự tìm tòi, sáng tạo, khám phá của sinh viên. Đại
học UEH cũng thường xuyên quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ
chuyên môn cao, năng động, tinh thần trách nhiệm đạo đức nghề
nghiệp; khuyến khích sử dụng công nghệ một cách sáng tạo trong môi
trường làm việc, giảng dạy học tập nhằm đưa con người đến gần hơn
với sự tiến bộ vượt bậc về công nghệ, bắt kịp với bạn bè quốc tế. Cụ thể,
với Đại học UEH sáng tạo, năng động hội nhập yếu tố tiên phong.
Mọi thành viên UEH đều trách nhiệm với hội, cộng đồng, công
việc, sản phẩm, đồng nghiệp bản thân. Mọi sự khác biệt đều được tôn
trọng, cộng đồng UEH làm việc với lòng tin cậy tôn trọng lẫn nhau,
xem trọng sự đa dạng về văn hóa tính cách của mỗi con người. Bên
cạnh đó, con người UEH một khối thống nhất, luôn cùng chí hướng,
chung sức, đồng lòng trong đổi mới, hội nhập sẵn sàng chia sẻ, cảm
thông, hỗ trợ và giúp đỡ lẫn nhau.
45 năm hình thành và phát triển, Đại học UEH đã khẳng định được
(17)
vị thế quan trọng trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam. Trong suốt
chặng đường phát triển đó, văn hóa của nhà trường luôn được gìn giữ, bồi
đắp phát huy mỗi ngày. Văn hóa UEH vốn những điều thật giản dị
từ lâu đã thấm nhuần vào tưởng của mỗi nhân trong cộng đồng
UEH. Nét đẹp văn hóa này thể hiện qua những hành động nhỏ nhặt nhất
trong cách ứng xử, trong việc giao tiếp hằng ngày với nhau, thể hiện tấm
lòng tương thân tương ái, sống nghĩa tình, đoàn kết, tương trợ lẫn
nhau, tôn sư trọng đạo, tự hào và phát huy truyền thống. Với gốc rễ là văn
hóa, UEH sở để tạo dựng môi trường học tập, làm việc chuyên
nghiệp, thân thiện, hiện đại, kỷ cương hiệu quả. Chính thế, đội ngũ
viên chức cùng toàn thể học viên/sinh viên đang học tập tại UEH luôn
được định hướng các chuẩn mực ứng xử với mục đích nâng cao ý thức,
tinh thần trách nhiệm, đảm bảo sự liêm chính, tính chính trực, tôn trọng
bản thân mọi người trong quá trình học tập làm việc tại UEH. Qua
đó, bản chất con người nơi đây không những góp phần phát triển nhà
trường mà còn định hình bản chất con người.
5
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1)
Theo Giáo trình Triết học Mác – Lênin, GS. TS. Phạm Văn Đức chủ biên,
tr. 247.
(2)
https://luatminhkhue.vn/ban-luan-mot-so-quan-diem-triet-hoc-ve-con-
nguoi.aspx
(3), (4), (5), (6), (7), (10), (12)
Theo Giáo trình Triết học Mác – Lênin, Khoa lý luận
chính trị - Trường ĐH UEH chủ biên, tr. 204.
(8)
C.Mác - Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
(9), (13), (14)
Theo Giáo trình Triết học Mác – Lênin, Khoa lý luận chính trị -
Trường ĐH UEH chủ biên, tr. 86.
(15)
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/82372
9/xay-dung-van-hoa%2C-con-nguoi-viet-nam-dap-ung-yeu-cau-phat-trien-
ben-vung-dat-nuoc.aspx
(16)
https://www.ueh.edu.vn/gioi-thieu/su-mang-tam-nhin
(17)
https://emagazine.ueh.edu.vn/van-hoa-ueh/
6
| 1/6

Preview text:

Họ và tên: Trần Huyền Vy MSSV: 31211021449
Mã lớp HP[1]: 21C1PHI51002321
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề bài: Phân tích quan điểm của triết học Mác – Lênin về bản chất con
người. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn.

1. Khái niệm về con người và bản chất con người.
1.1. Khái niệm con người
“Theo C. Mác, con người là một sinh vật có tính xã hội ở trình độ phát
triển cao nhất của giới tự nhiên và của lịch sử xã hội, là chủ thể của lịch
sử, sáng tạo nên tất cả các thành tựu của văn minh và văn hóa. Về phương
diện sinh học, con người là một thực thể sinh vật, là sản phẩm của giới tự
nhiên, là một động vật xã hội”(1). Điều đó có nghĩa rằng con người cũng
như mọi động vật khác, phải “đấu tranh sinh tồn”, phải tìm kiếm thức ăn,
nước uống, phải sinh con đẻ cái để tồn tại và phát triển. “Do đó, con
người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội; có sự thống nhất
biện chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội”(2).
Không chỉ là một thực thể sinh học, mà con người còn là một thực thể
tự nhiên. Vì giới tự nhiên chính là tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự
hình thành, tồn tại và phát triển của con người, nên đối với con người, loài
người, bản tính tự nhiên phải là một trong những phương diện cơ bản.
Dựa vào đó, việc nghiên cứu khám phá khoa học về cấu tạo tự nhiên và
nguồn gốc tự nhiên của con người đã trở thành cơ sở khoa học quan trọng.
Con người có thể hiểu biết về chính bản thân mình, tiến đến làm chủ bản
thân trong mọi hành vi và hoạt động sáng tạo ra lịch sử nhân loại.
Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai giác độ. “Thứ
nhất, con người là kết quả tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự
nhiên”(3). Toàn bộ sự phát triển của chủ nghĩa duy vật và khoa học tự
nhiên, đặc biệt là học thuyết Đác-uyn về sự tiến hóa của các loài đã chứng
minh được cơ sở khoa học của kết luận này. “Thứ hai, con người là một
bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng “là thân thể vô
cơ của con người” ”(4). Về phương diện thực thể sinh học, con người phải
phục tùng các quy luật của giới tự nhiên, các quy luật sinh học như di
truyền, tiến hóa sinh học,… Nhưng lại có thể dựa trên các quy luật khách
quan biến đổi giới tự nhiên và chính bản thân mình. "Đây chính là mối 1
quan hệ biện chứng giữa sự tồn tại của con người, loài người và các tồn
tại khác của giới tự nhiên”(5).
Con người còn là một thực thể xã hội có các hoạt động xã hội. Trong
đó, con người có hàng loạt các mối quan hệ của các cộng đồng xã hội, đó
là các cộng đồng: gia đình, giai cấp, quốc gia, dân tộc, nhân loại. Theo
thời gian, những mối quan hệ đó ngày càng phát triển phong phú, đa dạng,
thể hiện những tác động qua lại giữa người với người.
Bản tính xã hội của con người cũng được phân tích từ hai giác độ.
“Một là, xét từ giác độ nguồn gốc hình thành con người, loài người thì
không phải chỉ có nguồn gốc từ sự tiến hóa, phát triển của vật chất tự
nhiên mà còn có nguồn gốc xã hội của nó, mà trước hết và cơ bản nhất là
nhân tố lao động”(6). Lao động đã góp phần cải tạo bản năng sinh học của
con người, làm cho con người trở thành con người theo một cách đúng
nghĩa. “Hai là, xét từ giác độ tồn tại và phát triển của con người, loài
người thì sự tồn tại của nó luôn luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và
các quy luật xã hội”(7). Xã hội biến đổi thì mỗi con người cũng sẽ thay đổi
và ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân sẽ là tiền đề cho sự phát triển của xã hội.
Nhìn chung, con người là một thực thể trong sự thống nhất, quy định
lẫn nhau, tác động lẫn nhau, làm biến đối lẫn nhau giữa hai phương diện
tự nhiên và xã hội. Dựa vào đó, con người có thể tạo nên những hoạt động
sáng tạo trong quá trình làm ra lịch sử của loài người.
1.2. Bản chất của con người
Trong tác phẩm Luận cương về Phoi-ơ-bắc (1845), C. Mác đã viết nên
luận điểm nổi tiếng về con người: “Bản chất con người không phải là một
cái gì trừu tượng, cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của
nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”(8). Luận đề
khẳng định rằng không có con người trừu tượng, mà con người luôn luôn
cụ thể trong những điều kiện lịch sử cụ thể. “Các quan hệ xã hội tạo nên
bản chất của con người, nhưng không phải là sự kết hợp giản đơn hoặc là
tổng cộng chúng lại với nhau mà là sự tổng hòa chúng”(9). Thông qua hoạt
động thực tiễn, các quan hệ xã hội thay đổi thì ít nhiều cũng sẽ làm thay
đổi bản chất con người. Bởi nếu xét bản chất con người trên phương diện
tính hiện thực của nó thì bản chất con người chính là “tổng hòa của các
quan hệ xã hội”, bởi xã hội chính là xã hội của con người, được tạo nên từ
toàn bộ các quan hệ giữa người với người trên các mặt kinh tế, chính trị,
văn hóa,… Tất cả các quan hệ đó đều góp phần vào việc hình thành bản 2
chất con người, tùy theo thời gian mà mức độ ảnh hưởng sẽ khác nhau.
Tuy nhiên trong thời điểm hiện tại, dự định các quan hệ kinh tế sẽ giữ vai
trò quyết định trong việc hình thành bản chất con người vì đây là mối
quan hệ sản xuất. Trong điều kiện đó, sự tác động giữa con người và hoàn
cảnh cụ thể sẽ tạo nên những bản sắc rất riêng của loài người trong từng thời đại.
“Theo quan điểm duy vật biện chứng về bản chất xã hội của con
người thì sự hình thành và phát triển của con người cùng những khả năng
sáng tạo lịch sử của nó cần phải được tiếp cận từ giác độ phân tích và lý
giải sự hình thành và phát triển của những quan hệ xã hội của nó trong
lịch sử”(10). Chính vì thế, sự giải phóng những quan hệ kinh tế, chính trị,
văn hóa xã hội cần được sự giải phóng bản chất con người hướng vào.
Qua đó, khả năng sáng tạo lịch sử của con người có thể phát huy một cách tốt nhất.
Như vậy, con người luôn gắn liền với những điều kiện hoàn cảnh lịch
sử nhất định. “Với tư cách là thực thể xã hội, con người trong hoạt động
thực tiễn, thông qua hoạt động thực tiễn, tác động vào giới tự nhiên, làm
cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn và phát triển của nó thì đồng
thời con người cũng sáng tạo ra lịch sử của chính nó, thực hiện sự phát
triển của lịch sử đó”(11).
2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 2.1. Ý nghĩa lý luận
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về con người và bản chất của
con người là cơ sở phương pháp luận cho mọi hoạt động của con người và
được biểu hiện qua ba giác độ. “Một là, trong nhận thức, đánh giá con
người thì cần phải xem xét cả phương diện bản tính tự nhiên lẫn phương
diện bản tính xã hội, song song đó, phải coi trọng hơn việc xem xét con
người từ phương diện bản thính xã hội”(12). Mặt khác, trong việc xây dựng
thái độ sống vừa phải biết tính đến nhu cầu sinh học, vừa phải coi trọng
rèn luyện phẩm chất xã hội, tránh rơi vào thái độ sống chạy theo nhu cầu
bản năng tầm thường. “Hai là, trong cuộc sống vừa phải biết phát huy vai
trò chủ thể tích cực sáng tạo của con người lại vừa phải có ý thức tự giác
vượt ra khỏi tác động tiêu cực từ hoàn cảnh lịch sử”(13). “Ba là, cần chú
trọng việc xây dựng môi trường xã hội tốt đẹp, với những quan hệ xã hội
tốt đẹp có thể xây dựng, phát triển được những con người tốt đẹp, hoàn
thiện”(14). Mặt khác, trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải luôn chú
ý giải quyết đúng đắn mối quan hệ cá nhân - xã hội, tránh khuynh hướng 3
đề cao quá mức cá nhân hoặc xã hội con người là tổng thể các quan hệ xã hội.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trong mối quan hệ tác động với kinh tế, con người tạo ra giá trị mới
tác động đến con người cá nhân và con người xã hội. Bên cạnh đó, yếu tố
văn hóa cũng góp một phần không nhỏ trong quá trình hình thành con
người. “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu và động lực
phát triển đất nước. Văn hóa có vai trò quan trọng trong việc hình thành
nhân cách và bản sắc, cốt cách dân tộc. Ngày nay, văn hóa còn được xác
định là một trong những yếu tố có vai trò quyết định sức mạnh và vị thế
của mỗi quốc gia, dân tộc trên đấu trường quốc tế. Vì thế, xây dựng văn
hóa Việt Nam trước yêu cầu phát triển bền vững đất nước là một trong
những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cách mạng Việt Nam hiện nay”(15).
Để phát triển con người Việt Nam hiện nay, con người cần nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực bằng các biện pháp nâng cao giáo dục đạo
đức, giáo dục thẩm mỹ, chú trọng đến sức khỏe cá nhân và cộng đồng,
nâng cao chất lượng cuộc sống,… Về phía nhà nước cần xây dựng cơ chế
chính sách thu hút nguồn nhân lực nhằm thu hút nhân tài, xây dựng chính
sách cơ quan, địa phương, ra sức hỗ trợ nguồn nhân lực. Trong lĩnh vực
đào tạo, bồi dưỡng, nhà nước cần có những chính sách về tăng cường
quản lí nhà nước và phát triển nguồn nhân lực. Không những thế, việc giải
quyết mối quan hệ giữa môi trường làm việc và thực tiễn nền kinh tế đất
nước cũng vô cùng quan trọng. Môi trường làm việc sẽ quyết định thúc
đẩy đến mỗi cá nhân đóng góp vào xã hội, đồng thời thể hiện tính chuyên
nghiệp và tác phong công việc nghiêm túc. Nói tóm lại, Đảng và nhà nước
cần phát huy những yếu tố liên quan đến thúc đẩy yếu tố cơ sở hạ tầng,
nâng cao tri thức cho người lao động, xây dựng môi trường tự do phát
triển và tiếp tục dựng xây nền văn hóa Việt Nam trong quá trình phát triển đất nước.
(16) Trong môi trường học tập tại Đại học UEH, chúng ta có cơ hội
được tiếp cận rất gần với sự tiến bộ vượt bậc của thời đại kỷ nguyên số, từ
đó sinh viên UEH trở nên năng động, sáng tạo, phát triển nhiều hơn về trí
tuệ, khả năng tư duy, phân tích logic,… Trong đại dịch Covid-19, việc học
online tại nhà cũng góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập
cho giảng viên và sinh viên, qua đó cho thấy nguồn kiến thức luôn có
cách vận hành riêng của nó theo rất nhiều ngã rẽ khác nhau mà không bị 4
cản trở bởi những khó khăn, chông gai hay thử thách. Về khía cạnh chất
lượng giảng dạy của Đại học UEH, với sứ mạng nâng tầm tri thức, đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao, hội nhập và chuyển giao toàn cầu, có thể
thấy phía nhà trường luôn chú trọng đến việc phát triển con người trở nên
toàn diện. Bên cạnh đó, việc nhà trường chuyển giao kết quả nghiên cứu
khoa học cho các tổ chức doanh nghiệp cũng góp phần thúc đẩy tinh thần
cống hiến và kích thích sự tìm tòi, sáng tạo, khám phá của sinh viên. Đại
học UEH cũng thường xuyên quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ có
chuyên môn cao, năng động, có tinh thần trách nhiệm và đạo đức nghề
nghiệp; khuyến khích sử dụng công nghệ một cách sáng tạo trong môi
trường làm việc, giảng dạy và học tập nhằm đưa con người đến gần hơn
với sự tiến bộ vượt bậc về công nghệ, bắt kịp với bạn bè quốc tế. Cụ thể,
với Đại học UEH sáng tạo, năng động và hội nhập là yếu tố tiên phong.
Mọi thành viên UEH đều có trách nhiệm với xã hội, cộng đồng, công
việc, sản phẩm, đồng nghiệp và bản thân. Mọi sự khác biệt đều được tôn
trọng, cộng đồng UEH làm việc với lòng tin cậy và tôn trọng lẫn nhau,
xem trọng sự đa dạng về văn hóa và tính cách của mỗi con người. Bên
cạnh đó, con người ở UEH là một khối thống nhất, luôn cùng chí hướng,
chung sức, đồng lòng trong đổi mới, hội nhập và sẵn sàng chia sẻ, cảm
thông, hỗ trợ và giúp đỡ lẫn nhau.
(17) 45 năm hình thành và phát triển, Đại học UEH đã khẳng định được
vị thế quan trọng trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam. Trong suốt
chặng đường phát triển đó, văn hóa của nhà trường luôn được gìn giữ, bồi
đắp và phát huy mỗi ngày. Văn hóa UEH vốn là những điều thật giản dị
mà từ lâu đã thấm nhuần vào tư tưởng của mỗi cá nhân trong cộng đồng
UEH. Nét đẹp văn hóa này thể hiện qua những hành động nhỏ nhặt nhất
trong cách ứng xử, trong việc giao tiếp hằng ngày với nhau, thể hiện tấm
lòng tương thân tương ái, sống có nghĩa tình, đoàn kết, tương trợ lẫn
nhau, tôn sư trọng đạo, tự hào và phát huy truyền thống. Với gốc rễ là văn
hóa, UEH có cơ sở để tạo dựng môi trường học tập, làm việc chuyên
nghiệp, thân thiện, hiện đại, kỷ cương và hiệu quả. Chính vì thế, đội ngũ
viên chức cùng toàn thể học viên/sinh viên đang học tập tại UEH luôn
được định hướng các chuẩn mực ứng xử với mục đích nâng cao ý thức,
tinh thần trách nhiệm, đảm bảo sự liêm chính, tính chính trực, tôn trọng
bản thân và mọi người trong quá trình học tập và làm việc tại UEH. Qua
đó, bản chất con người nơi đây không những góp phần phát triển nhà
trường mà còn định hình bản chất con người. 5 TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Theo Giáo trình Triết học Mác – Lênin, GS. TS. Phạm Văn Đức chủ biên, tr. 247.
(2) https://luatminhkhue.vn/ban-luan-mot-so-quan-diem-triet-hoc-ve-con- nguoi.aspx
(3), (4), (5), (6), (7), (10), (12) Theo Giáo trình Triết học Mác – Lênin, Khoa lý luận
chính trị - Trường ĐH UEH chủ biên, tr. 204.
(8) C.Mác - Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
(9), (13), (14) Theo Giáo trình Triết học Mác – Lênin, Khoa lý luận chính trị -
Trường ĐH UEH chủ biên, tr. 86. (15)
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/82372
9/xay-dung-van-hoa%2C-con-nguoi-viet-nam-dap-ung-yeu-cau-phat-trien- ben-vung-dat-nuoc.aspx
(16) https://www.ueh.edu.vn/gioi-thieu/su-mang-tam-nhin
(17) https://emagazine.ueh.edu.vn/van-hoa-ueh/ 6