BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA TÀI CHÍNH
--

--
BÀI TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
BỘ MÔN: TRIẾT HỌC MÁC- NIN
ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC--NIN
VỀ CON NGƯỜI BẢN CHẤT CON NGƯỜI.Ý NGHĨA LUẬN
THỰC TIỄN CỦA QUAN ĐIỂM TRÊN.
Giảng viên hướng dẫn: Phạm Thi Kiên
Sinh viên thực hiện: Phạm Minh Hằng
Mã lớp học phần: 21C1PHI51002331
MSSV: 31211026989
1
LỜI MỞ ĐẦU
Con người luôn tâm điểm của đường cầu triết học, cảm hứng của số
ngành khoa học bởi cái muôn hình vạn trạng những giá trị cốt lõi mọi thời đại.
Bởi sự đa chiều cũng nyếu tố phức tạp, những phái triết học đều các quan điểm
nội dung riêng biệt về con người các bối cảnh lịch sử, văn hóa, chính trị, nền văn
minh hội riêng biệt. Đã những quan điểm được xây dựng theo chủ nghĩa duy
tâm, mang tính siêu nhiên phi thể c của Hegel; quan điểm duy con người sản
phẩm của tự nhiên của Feuerbach. Hay đó quan niệm của triết học phương Đông
mang tính thô sơ, duy tâm, trực quan đơn giản; phương Tây với quan niệm con
người một bản nguyên hoặc do sự kết hợp của một số bản nguyên nào đó. Song
chỉ sự ra đời của triết học Marx Lenin mới giải quyết được các vấn đề cũng như bản
chất của con người một cách đầy đủ, hoàn thiện xây dựng trên chủ nghĩa duy vật.
Thấy được những thành tựu mục tiêu to lớn Đảng Nhà nước ta đã,
đang đề ra sẽ thực hiện, bên cạnh những yếu tố thực tiễn, chủ nghĩa Mác -nin
cũng đống vai trò là một yếu tố then chốt mang lại tiềm năng và sự hứa hẹn trong công
cuộc xây dựng con người mới của xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Sự kiên trì
theo đuổi định hướng hội chủ nghĩa “do dân, của dân, dân” của Việt Nam luôn
lấy nhân dân làm trọng, từ đó thể tối đa a phát triển con người toàn diện, nâng
cao năng lực công dân để xây dựnghiện đại hóa đất nước.
Nghị quyết Đại hội
Đại biểu toàn quốc VIII của Đảng đã chỉ rõ: Nâng cao dân trí, bồi
dưỡng phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam nhân
tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại
hóa
1. CON NGƯỜI DƯỚI CHỦ NGHĨA C. MÁC -NIN
a. Con người một thực thể thống nhất giữa mặt tự nhiên với mặt hội.
Xét trên phương diện sinh học, tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự hình thành,
tồn tại phát triển của con người chính giới tự nhiên. Con người tự nhiên mang
đầy đủ bản tính sinh học tính loài điều kiện tiên quyết của sự tồn tại của con
người. Vì vậy, giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của con người”. Song tác phẩm của tạo
2
hóa chỉ bộ khung để con người ơn lên, tách xa khỏi thế giới động vật, n minh
hóa xã hội, tìm tòi sáng tạo và xây dựng lịch sử dựa trên các quy luật khách quan.
Xét trên phương diện hội, con người là một thực thể hội, thực hiện
hoạt động hội. Hoạt động hội quan trọng nhất của con người lao động sản
xuất. Như C. Mác Ph. Ăngghen nhận định con người “là giống vật duy nhất thể
bằng lao động thoát khỏi trạng thái thuần túy loài vật”. Trong khi con vật phải
phụ thuộc vào bản năng bản chất tự nhiên, con người thể sống bằng việc cải tạo
tự nhiên bằng hoạt động lao động sáng tạo để phục vụ như cầu, thỏa mãn mong muốn
của mình. thể khẳng định rằng không chỉ dừng lại “một thực thể tự nhiên”, con
người đã phát triển n thành thực thể hội, thành chủ thể của “lịch sử tính tự
nhiên”, lý tính “bản năng hôi”. Nhờ lao động, giao tiếp hội bản chất
duy sáng tạo con người đã sinh động hóa các mối quan hệ, đó c cộng đồng: gia
đình, giai cấp, quốc gia, dân tộc, nhân loại.
Như vậy, con người sự kết hợp hài hòa tổng thể giữa mặt tự nhiên mặt xã
hội. Bản nh sinh học cái khung của loài người trong khi nh xã hội bộ ơng
riêng biệt để phân biệt con người với loài vật.
b. Con người sản phẩm của lịch sử của chính bản thân con người
Từ các tiến bộ trong tưởng nhân loại nền văn minh khoa học ấn tượng, từ
khi tổ tiên loài người tìm ra kim loại cho đến những thành tựu y học, máy móc, điện tử
các nguồn ng ợng mới như vác-xin COVID-19, sự xuất hiện của máy tính
các nguồn năng lượng nguyên tử, chủ nghĩa Mác -nin khẳng định rằng con người
vừa là sản phẩm của sự phát triển lâu dài của tự nhiên, của lịch sử xã hội loài người
chủ thể con người. Tuy nhiên, lịch sử của loài người một quá trình chủ động xây
dựng, khám phá và chuyển mình không ngừng nghỉ khác với lịch sự của các con vật.
c. Con người vừa chủ thể của lịch sử, vừa sản phẩm của lịch sử
Yếu tố tự nhiên lịch sử xã hội nền tảng cho sự tồn tại của con người. Bởi
vậy, nói rằng con người là sản phẩm của lịch sử, là sự tiến hóa của giới hữu sinh. Song
con người luôn chủ thể của lịch sử - hội. C. Mác khẳng định rằng: “Cái học
thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người sản phẩm của những hoàn cảnh của
giáo dục… cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh
và bản thân nà giáo dục cũng cần phải được giáo dục”. Qua các hoạt động thực tiễn và
3
quá trình cải biến tự nhiên, con người đã thúc đẩy sự phát triển của lịch sử hội,
phong phú hóa thế giới bằng mục đích của mình. Hay nói chủ thể của lịch sử của
chính mình.
d. Bản chất con người tổng hòa các mối quan hệ hội
Để trả lời câu hỏi điều khiến loài người vượt trên các giống loài vật khác thì
điều tiên quyết ba phương diện: quan hệ tự nhiên hội bản thân chính con
người. Cả ba phương diện ấy suy cùng đều mang tính hội, trong đó quan hệ hội
giữa người với người quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác và mọi
hoạt động trong chừng mực liên quan đến con người. Các quan hệ hội rất nhiều
loại cả quá khứ, hiện tại, về vật chất tinh thần, trực tiếp gián tiếp, tất nhiên
ngẫu nhiên… chúng đều nhân tố quan trọng trong việc nh thành bản chất con
người. Sự thay đổi của các quan hệ hội ít hay nhiều, nhanh hay chậm đều tương
quan với sự thay đổi của bản chất con người.
Trong tác phẩm Luận cương về Feuerbach, C. Mác khẳng định rằng: “Bản chất
con người không một cái trừu tượng cố hữu của nhân riêng biệt. Trong tính hiện
thực của nó, bản chất con người tổng hòa những quan hệ hội”. nghĩa con
người khác với các giống loài khác rằng chúng ta hình thành thông qua các mối quan
hệ xã hội và con người thể hiện giá trị của mình mang tính đặc tính hội thuộc phạm
trù đạo đức, pháp luật, chính trị và tôn giáo….
Luận đề trên khẳng định không con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện,
hoàn cảnh lịch sử nền văn minh mỗi thời đại sống trong tổng hòa các điều kiện
nhất định ấy. Bởi con người sản phẩm cũng như chủ thể của lịch sử, điều đó giúp ta
có cái nhìn tổng quan về cách con người tổng hòa những quan hệ xã hội.
2. Ý NGHĨA LÝ LUẬN THỰC TIỄN
a. Ý nghĩa luận
Sự hình thành phát triển của nhân cách con người chịu ảnh hưởng bởi các
điều kiện kinh tế - hội, môi trường một người đang sống cũng như bối cảnh lịch
sử, không gian thời gian quy định then chốt ảnh ởng đến bản chất, nhân cách
của con người ấy. Chính vậy trong quá trình tồn tại, các mối quan hệ giữa lợi ích cá
nhân hội phải được kết hợp i hòa trong môi trường sống. Bên cạnh đó, nhân
4
cách con người còn tổng hòa của các yếu tđể hình thành giá trị mới, đó sự tổng
hòa giữa cả tri thức đạo đức. Như Hồ chủ tịch đã dạy: “Có tài không đức
người dụng, có đức không tài thì m việc cũng khó”, chỉ một trong hai
phẩm đức trên không thể thành công giá trị với bản thân cộng đồng. Tài
đức hai yếu tố tuy khác nhau nhưng thể hòa tan vào nhau để trọn vẹn một thể
con người, chính vì vậy nền giáo dục toàn diện là một phần quan trong trong việc hình
thành nhân cách con người.
Con người còn chịu sự ảnh hưởng bởi n hóa - hội, mỗi thể sống nền
văn hóa nào cũng đều mang đậm những tính chất, những phong tục, tập quán, lối suy
nghĩ của nền văn hóa đó. văn hóa được định hình từ kinh tế, văn hóa, chính trị,
hội thời đại, không gian, thời gian chúng ta sống, chính vậy trong quá trình
chúng ta hình thành những yếu tố thuộc về nhân cách hay bản chất thì các yếu tố tri
thức, niềm tin, tưởng, pháp luật, thẩm mỹ và đạo đức phải được xác lập dựa trên các
mối quan hệ hội, nền văn hóa văn minh hiện hành để hình thành định hình bản
thân chúng ta. Con người “là một thực thể hội” nhưng nhân cách bản chất hội
không phải là nhân cách riêng của mỗi cá nhân.
b. Ý nghĩa thực tiễn
Con người sản phẩm của hội, con người nào thì hội đó. Chính vậy
con người với cách nguồn nhân lực của đất nước hay quốc gia, muốn phát triển
về mặt con người hay nói cách khác là nguồn nhân lực thì chúng ta cần phải:
Thứ nhất, nâng cao ngôn ngữ chất lượng nguồn nhân lực về giáo dục đạo đức,
chú trong sức khỏe, giáo dục thẩm mỹ, vật chất, đời sống để đảm bảo con người chúng
ta được phát triển toàn diện. Với mục tiêu trên, Đảng Nhà nước ta đã vận dụng
tưởng Mác -nin để xây dựng những khía cạnh nêu trên cụ thể tại Đại hội đại
biểu toàn cuối lần thứ XIII của Đảng đã nhấn mạnh việc khơi dậy khát vọng phát triển
đất ớc phồn vinh, hạnh phúc, phát huy sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân tộc để
xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Phát huy nhân tố con người coi con người trung
tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển.
Thứ hai, chú trọng chính sách thu hút sử dụng phát triển nguồn nhân lực để
phát triển các chínhch về tiên lương, chính sách trọng dụng nhân tài mỗi quan,
đơn vị thể hiện theo nghị định số 140/2017/NĐ-CP ngày 05/12/2017 của Chính phủ về
5
chính sách thu hút tạo nguồn n bộ từ những sinh viên xuất sắc, cán bộ khoa học
trẻ…
Thứ ba, chính sách quản nhà nước về nguồn nhân lực để không bị chảy máu
chất xám để đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực xây dựng phát triển đất nước. Theo số
liệu thì 70% trong số 60.000 nghìn người du học quyết định định nước ngoài.
Chính vậy, Nnước đã những chính sách như các nkhoa học trẻ i năng
được xét tuyển dụng đặc cách không qua thi vào tổ chức khoa học công nghê,
hưởng hệ số lương 5,08 (Nghị định 40/2014/NĐ-CP), …
Thứ tư, giải quyết môi trường làm việc thực tiễn để cân bằng giữa kiến thức
học thuật hay thuyết với kiến thức thực tiễn, thực hành để tối đa chất ợng làm việc
và học tập.
“Con người tổng hòa của các mối quan hệ hội”. Chính vì vậy, sinh viên nói
chung sinh viên UEH nói riêng phải tự biết chăm sóc bản thân, bảo vệ bản thân
khỏi những mối nguy hại trong môi trường sống xung quanh như tệ nạn hội (rượu
bia, cờ bạc, …). Đặc biệt với bối cảnh tình hình dịch bệnh COVID-19 phức tạp, mỗi
sinh viên chúng ta phải nâng cao ý thức bảo vệ bản thân, gia đình hội cũng như
tuyên truyền mọi người thực hiện đầy đủ các biện pháp 5K. Đồng thời, chúng ta phải
những chuẩn mực vquan hệ hội để cùng xây dựng một môi trường lành mạnh
cho Đất nước phát triển, phải sống xanh, sốngmôi trườngcộng đồng nói chung vì
một cuộc sống không ô nhiễm. cuối cùng, những thế hệ trcủa đất nước, sinh
viên nên chủ động, sáng tạo trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, chủ động tích cực
xây dựng kế hoạch tìm tòi thông tin, cũng như tự chủ động chất lượng tốt;
khắc phục thói thụ động, lại để đáp ứng nhu cầu nhân lực cho quốc gia cả thế
giới.
LỜI KẾT
luận thực tiễn cần phải thống nhất với nhau để không thực tiễn
quáng vàthuyết suông. Có thể nói rằng, các Luận điểm của C. Mác về bản chất con
người vẫn duy giá trị cho đến ngày nay. Việc vận dụng những vấn đề triết học của ông
cũng đường lối Đảng và đất nước chúng ta đang duy trì và phát huy, đó những
6
kiến thức qbáu để xây dựng một Việt Nam với những con người vừa hồng vừa
chuyên, để đáp ứng nhu cầu phát triển Đất nước hùng mạnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1,
Bộ
Giáo
dục
&
Đào
tạo
(2006),
Giáo
trình
Triết
học,
(Dùng
cho
NCS
và Cao học không chuyên ngành Triết học) NXB Lý luận chính trị Hà Nội)
2, Trần Hải Sơn (28/07/2014), Tiểu luận con ngườicác bản chất
3, TS. Văn Thị Thanh Mai (01/04/2020), Giáo dục tưởng cách mạng cho sinh viên
tại nhà trường.
4,
C.Mác - Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Nội.
5, Hội đồng luận Trung ương, Những điểm mới trong các Văn kiện Đại hội XIII
của Đảng (NSB Lý luận chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội - 202).
6, Bài giảng môn triết chương 9 Vấn đề con người trong Triết học Mác -nin
7, Ths. Chu Thị Liễu (28/09/2019), hình thành phát triển nhân cách sinh viên Phân
hiệu ĐHTN tại tỉnh Lào Cai thông qua giảng dạy triết học Mác -nin, Phân hiệu đại
học Thái Nguyên tại tỉnh Lào Cai.
8, Nguyễn Duy Đăng (16/08/2017), Quan điểm triết học Mác -nin về con người
với việc xây dựng nhân các sinh viên Việt Nam hiện nay.
7

Preview text:


BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM KHOA TÀI CHÍNH -- -
BÀI TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
BỘ MÔN: TRIẾT HỌC MÁC-LÊ NIN
ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊ-NIN
VỀ CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI.Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN CỦA QUAN ĐIỂM TRÊN.
Giảng viên hướng dẫn: Phạm Thi Kiên
Sinh viên thực hiện: Phạm Minh Hằng
Mã lớp học phần: 21C1PHI51002331 MSSV: 31211026989 1 LỜI MỞ ĐẦU
Con người luôn là tâm điểm của đường cầu triết học, là cảm hứng của vô số
ngành khoa học bởi cái muôn hình vạn trạng và những giá trị cốt lõi ở mọi thời đại.
Bởi sự đa chiều cũng như yếu tố phức tạp, những phái triết học đều có các quan điểm
và nội dung riêng biệt về con người ở các bối cảnh lịch sử, văn hóa, chính trị, nền văn
minh và xã hội riêng biệt. Đã có những quan điểm được xây dựng theo chủ nghĩa duy
tâm, mang tính siêu nhiên và phi thể xác của Hegel; quan điểm duy con người là sản
phẩm của tự nhiên của Feuerbach. Hay đó là quan niệm của triết học phương Đông
mang tính thô sơ, duy tâm, trực quan và đơn giản; phương Tây với quan niệm con
người là một bản nguyên hoặc là do sự kết hợp của một số bản nguyên nào đó. Song
chỉ sự ra đời của triết học Marx – Lenin mới giải quyết được các vấn đề cũng như bản
chất của con người một cách đầy đủ, hoàn thiện xây dựng trên chủ nghĩa duy vật.
Thấy được những thành tựu và mục tiêu to lớn mà Đảng và Nhà nước ta đã,
đang đề ra và sẽ thực hiện, bên cạnh những yếu tố thực tiễn, chủ nghĩa Mác – Lê-nin
cũng đống vai trò là một yếu tố then chốt mang lại tiềm năng và sự hứa hẹn trong công
cuộc xây dựng con người mới của xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Sự kiên trì
theo đuổi định hướng xã hội chủ nghĩa “do dân, của dân, vì dân” của Việt Nam luôn
lấy nhân dân làm trọng, từ đó có thể tối đa hóa phát triển con người toàn diện, nâng
cao năng lực công dân để xây dựng và hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết Đại hội
Đại biểu toàn quốc VIII của Đảng đã chỉ rõ: “Nâng cao dân trí, bồi
dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân
tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa”
1. CON NGƯỜI DƯỚI CHỦ NGHĨA C. MÁC – LÊ-NIN
a. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt tự nhiên với mặt xã hội.
Xét trên phương diện sinh học, tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự hình thành,
tồn tại và phát triển của con người chính là giới tự nhiên. Con người tự nhiên mang
đầy đủ bản tính sinh học và tính loài – điều kiện tiên quyết của sự tồn tại của con
người. Vì vậy, giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của con người”. Song tác phẩm của tạo 2
hóa chỉ là bộ khung để con người vươn lên, tách xa khỏi thế giới động vật, văn minh
hóa xã hội, tìm tòi sáng tạo và xây dựng lịch sử dựa trên các quy luật khách quan.
Xét trên phương diện xã hội, con người là một thực thể xã hội, và thực hiện
hoạt động xã hội. Hoạt động xã hội quan trọng nhất của con người là lao động sản
xuất. Như C. Mác và Ph. Ăngghen nhận định con người “là giống vật duy nhất có thể
bằng lao động mà thoát khỏi trạng thái thuần túy là loài vật”. Trong khi con vật phải
phụ thuộc vào bản năng và bản chất tự nhiên, con người có thể sống bằng việc cải tạo
tự nhiên bằng hoạt động lao động sáng tạo để phục vụ như cầu, thỏa mãn mong muốn
của mình. Có thể khẳng định rằng không chỉ dừng lại là “một thực thể tự nhiên”, con
người đã phát triển lên thành thực thể xã hội, thành chủ thể của “lịch sử có tính tự
nhiên”, có lý tính và “bản năng xã hôi”. Nhờ lao động, giao tiếp xã hội và bản chất tư
duy sáng tạo con người đã sinh động hóa các mối quan hệ, đó là các cộng đồng: gia
đình, giai cấp, quốc gia, dân tộc, nhân loại.
Như vậy, con người là sự kết hợp hài hòa tổng thể giữa mặt tự nhiên và mặt xã
hội. Bản tính sinh học là cái khung của loài người trong khi tính xã hội là bộ xương
riêng biệt để phân biệt con người với loài vật.
b. Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người
Từ các tiến bộ trong tư tưởng nhân loại và nền văn minh khoa học ấn tượng, từ
khi tổ tiên loài người tìm ra kim loại cho đến những thành tựu y học, máy móc, điện tử
và các nguồn năng lượng mới như vác-xin COVID-19, sự xuất hiện của máy tính và
các nguồn năng lượng nguyên tử, chủ nghĩa Mác – Lê-nin khẳng định rằng con người
vừa là sản phẩm của sự phát triển lâu dài của tự nhiên, của lịch sử xã hội loài người và
chủ thể con người. Tuy nhiên, lịch sử của loài người là một quá trình chủ động xây
dựng, khám phá và chuyển mình không ngừng nghỉ khác với lịch sự của các con vật.
c. Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử
Yếu tố tự nhiên và lịch sử xã hội là nền tảng cho sự tồn tại của con người. Bởi
vậy, nói rằng con người là sản phẩm của lịch sử, là sự tiến hóa của giới hữu sinh. Song
con người luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội. C. Mác khẳng định rằng: “Cái học
thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và của
giáo dục… cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh
và bản thân nà giáo dục cũng cần phải được giáo dục”. Qua các hoạt động thực tiễn và 3
quá trình cải biến tự nhiên, con người đã thúc đẩy sự phát triển của lịch sử xã hội,
phong phú hóa thế giới bằng mục đích của mình. Hay nói là chủ thể của lịch sử của chính mình.
d. Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội
Để trả lời câu hỏi điều gì khiến loài người vượt trên các giống loài vật khác thì
điều tiên quyết là ba phương diện: quan hệ tự nhiên – xã hội – bản thân chính con
người. Cả ba phương diện ấy suy cùng đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội
giữa người với người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác và mọi
hoạt động trong chừng mực liên quan đến con người. Các quan hệ xã hội ở rất nhiều
loại ở cả quá khứ, hiện tại, về vật chất – tinh thần, trực tiếp – gián tiếp, tất nhiên –
ngẫu nhiên… và chúng đều là nhân tố quan trọng trong việc hình thành bản chất con
người. Sự thay đổi của các quan hệ xã hội dù ít hay nhiều, nhanh hay chậm đều tương
quan với sự thay đổi của bản chất con người.
Trong tác phẩm Luận cương về Feuerbach, C. Mác khẳng định rằng: “Bản chất
con người không là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện
thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”. Có nghĩa là con
người khác với các giống loài khác rằng chúng ta hình thành thông qua các mối quan
hệ xã hội và con người thể hiện giá trị của mình mang tính đặc tính xã hội thuộc phạm
trù đạo đức, pháp luật, chính trị và tôn giáo….
Luận đề trên khẳng định không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện,
hoàn cảnh lịch sử và nền văn minh mỗi thời đại mà sống trong tổng hòa các điều kiện
nhất định ấy. Bởi con người là sản phẩm cũng như chủ thể của lịch sử, điều đó giúp ta
có cái nhìn tổng quan về cách con người tổng hòa những quan hệ xã hội.
2. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
a. Ý nghĩa lý luận
Sự hình thành và phát triển của nhân cách con người chịu ảnh hưởng bởi các
điều kiện kinh tế - xã hội, môi trường mà một người đang sống cũng như bối cảnh lịch
sử, không gian và thời gian là quy định then chốt ảnh hưởng đến bản chất, nhân cách
của con người ấy. Chính vì vậy trong quá trình tồn tại, các mối quan hệ giữa lợi ích cá
nhân và xã hội phải được kết hợp hài hòa trong môi trường sống. Bên cạnh đó, nhân 4
cách con người còn là tổng hòa của các yếu tố để hình thành giá trị mới, đó là sự tổng
hòa giữa cả tri thức và đạo đức. Như Hồ chủ tịch đã dạy: “Có tài mà không có đức là
người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”, chỉ một trong hai
phẩm đức trên không thể thành công và có giá trị với bản thân và cộng đồng. Tài và
đức là hai yếu tố tuy khác nhau nhưng có thể hòa tan vào nhau để trọn vẹn một cá thể
con người, chính vì vậy nền giáo dục toàn diện là một phần quan trong trong việc hình
thành nhân cách con người.
Con người còn chịu sự ảnh hưởng bởi văn hóa - xã hội, mỗi cá thể sống ở nền
văn hóa nào cũng đều mang đậm những tính chất, những phong tục, tập quán, lối suy
nghĩ của nền văn hóa đó. Mà văn hóa được định hình từ kinh tế, văn hóa, chính trị, xã
hội ở thời đại, không gian, thời gian mà chúng ta sống, chính vì vậy trong quá trình
chúng ta hình thành những yếu tố thuộc về nhân cách hay bản chất thì các yếu tố tri
thức, niềm tin, lý tưởng, pháp luật, thẩm mỹ và đạo đức phải được xác lập dựa trên các
mối quan hệ xã hội, nền văn hóa văn minh hiện hành để hình thành và định hình bản
thân chúng ta. Con người “là một thực thể xã hội” nhưng nhân cách và bản chất xã hội
không phải là nhân cách riêng của mỗi cá nhân.
b. Ý nghĩa thực tiễn
Con người là sản phẩm của xã hội, con người nào thì xã hội đó. Chính vì vậy
con người với tư cách là nguồn nhân lực của đất nước hay quốc gia, muốn phát triển
về mặt con người hay nói cách khác là nguồn nhân lực thì chúng ta cần phải:
Thứ nhất, nâng cao ngôn ngữ chất lượng nguồn nhân lực về giáo dục đạo đức,
chú trong sức khỏe, giáo dục thẩm mỹ, vật chất, đời sống để đảm bảo con người chúng
ta được phát triển toàn diện. Với mục tiêu trên, Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng tư
tưởng Mác – Lê-nin để xây dựng những khía cạnh nêu trên cụ thể là tại Đại hội đại
biểu toàn cuối lần thứ XIII của Đảng đã nhấn mạnh việc khơi dậy khát vọng phát triển
đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân tộc để
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy nhân tố con người và coi con người là trung
tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển.
Thứ hai, chú trọng chính sách thu hút sử dụng phát triển nguồn nhân lực để
phát triển các chính sách về tiên lương, chính sách trọng dụng nhân tài ở mỗi cơ quan,
đơn vị thể hiện theo nghị định số 140/2017/NĐ-CP ngày 05/12/2017 của Chính phủ về 5
chính sách thu hút tạo nguồn cán bộ từ những sinh viên xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ…
Thứ ba, chính sách quản lý nhà nước về nguồn nhân lực để không bị chảy máu
chất xám để đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực xây dựng và phát triển đất nước. Theo số
liệu thì 70% trong số 60.000 nghìn người du học và quyết định định cư ở nước ngoài.
Chính vì vậy, Nhà nước đã có những chính sách như các nhà khoa học trẻ tài năng
được xét tuyển dụng đặc cách không qua thi vào tổ chức khoa học và công nghê,
hưởng hệ số lương 5,08 (Nghị định 40/2014/NĐ-CP), …
Thứ tư, giải quyết môi trường làm việc và thực tiễn để cân bằng giữa kiến thức
học thuật hay lý thuyết với kiến thức thực tiễn, thực hành để tối đa chất lượng làm việc và học tập.
“Con người là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội”. Chính vì vậy, sinh viên nói
chung và sinh viên UEH nói riêng phải tự biết chăm sóc bản thân, bảo vệ bản thân
khỏi những mối nguy hại trong môi trường sống xung quanh như tệ nạn xã hội (rượu
bia, cờ bạc, …). Đặc biệt với bối cảnh tình hình dịch bệnh COVID-19 phức tạp, mỗi
sinh viên chúng ta phải nâng cao ý thức bảo vệ bản thân, gia đình và xã hội cũng như
tuyên truyền mọi người thực hiện đầy đủ các biện pháp 5K. Đồng thời, chúng ta phải
có những chuẩn mực về quan hệ xã hội để cùng xây dựng một môi trường lành mạnh
cho Đất nước phát triển, phải sống xanh, sống vì môi trường vì cộng đồng nói chung vì
một cuộc sống không ô nhiễm. Và cuối cùng, là những thế hệ trẻ của đất nước, sinh
viên nên chủ động, sáng tạo trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, chủ động tích cực
xây dựng kế hoạch và tìm tòi thông tin, cũng như tự chủ động và có chất lượng tốt;
khắc phục thói thụ động, ỷ lại để đáp ứng nhu cầu nhân lực cho quốc gia và cả thế giới. LỜI KẾT
Lý luận và thực tiễn cần phải thống nhất với nhau để không là thực tiễn mù
quáng và lý thuyết suông. Có thể nói rằng, các Luận điểm của C. Mác về bản chất con
người vẫn duy giá trị cho đến ngày nay. Việc vận dụng những vấn đề triết học của ông
cũng là đường lối mà Đảng và đất nước chúng ta đang duy trì và phát huy, đó là những 6
kiến thức quý báu để xây dựng một Việt Nam với những con người vừa hồng vừa
chuyên, để đáp ứng nhu cầu phát triển Đất nước hùng mạnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Bộ Giáo dục & Đào tạo (2006), Giáo trình Triết học, (Dùng cho NCS
và Cao học không chuyên ngành Triết học) – NXB Lý luận chính trị Hà Nội)
2, Trần Hải Sơn (28/07/2014), Tiểu luận con người và các bản chất
3, TS. Văn Thị Thanh Mai (01/04/2020), Giáo dục lý tưởng cách mạng cho sinh viên tại nhà trường.
4, C.Mác - Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5, Hội đồng Lý luận Trung ương, “Những điểm mới trong các Văn kiện Đại hội XIII
của Đảng (NSB Lý luận chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội - 202).
6, Bài giảng môn triết chương 9 – Vấn đề con người trong Triết học Mác – Lê-nin
7, Ths. Chu Thị Liễu (28/09/2019), hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Phân
hiệu ĐHTN tại tỉnh Lào Cai thông qua giảng dạy triết học Mác – Lê-nin, Phân hiệu đại
học Thái Nguyên tại tỉnh Lào Cai.
8, Nguyễn Duy Đăng (16/08/2017), Quan điểm triết học Mác – Lê-nin về con người
với việc xây dựng nhân các sinh viên Việt Nam hiện nay. 7