MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU :………………………………………………………………………….
B. NỘI DUNG :…………………………………………………………………………….
I. Khái niệm :…………………………………………………………………………….
II. Yếu tố giao tiếp và tập thể chi phối đến sự hình thành nhân cách :……………………..
1. Yếu tố giao tiếp:…………………………………………………………………………
2. Yếu tố tập thể:…………………………………………………………………………...
III. Liên hệ thực tiễn :………………………………………………………………………
C. KẾT LUẬN:……………………………………………………………………….
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………..
A. LỜI MỞ ĐẦU
Khi xem xét con người với tư cách một thành viên của một hội nhất định, chủ thể
của các mối quan hệ con người, của hoạt động ý thức giao tiếp thì chúng ta nói đến
nhân cách của họ. Sự hiểu biết về nhân cách con người là tiền đề để điều khiển hoạt động
của họ một cách có hiệu quả, đặc biệt là trong điều kiện hiện nay khi cuộc cách mạng khoa
học công nghệ đang xâm nhập vào mọi lĩnh vực đời sống hội, khiến cho điều kiện “Nhân
tố con người” trở nên cấp bách như trong Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần
thứ 7 đã xác định.
Do đó, việc nghiên cứu về quá trình hình thành nhân cách rất cần thiết. Được biết, quá
trình hình thành nhân cách chịu sự ảnh hưởng và chi phối của nhiều yếu tố, nhưng tác động
rõ nét và lớn nhất là hai yếu tố : giao tiếp và tập thể. Các yếu tố này có mc độ ảnh hưởng
khác nhau giữ các vai trò nhất định nhưng lại mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong
việc hình thành nhân cách.
Chính vì vậy, em đã chọn đề tài “Phân tích yếu tố giao tiếp và tập thể chi phối đến sự
hình thành nhân cách. Ví dụ minh họa ?” cho bài tập lần này.
Bài làm của em còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của cô để bài làm
của em được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn.
B. NỘI DUNG
I. Khái niệm :
1. Nhân cách :
Nhân cách là khái niệm chỉ bản sắc độc đáo, riêng biệt của mỗi cá nhân, là nội dung và
tính chất bên trong của mỗi cá nhân. Bởi vậy, nếu cá nhân là khái niệm chỉ sự khác biệt
giữa cá thể với giống loài thì nhân cách là khái niệm chỉ sự khác biệt giữa các cá nhân.
Cá nhân là phương thức biểu hiện của giống loài, còn nhân cách vừa là nội dung, vừa là
cách thức biểu hiện của mỗi cá nhân riêng biệt. Nhân cách biểu hiện thế giới cái tôi của
mỗi cá nhân, là sự tổng hợp của các yếu tố sinh học, tâm lý, xã hội, tạo nên đặc trưng
riêng về di truyền, về sinh lý thần kinh, về hoàn cảnh sống của cá nhân theo cách riêng
của mình. Mỗi cá nhân tiếp thu những giá trị phổ biến của văn hóa xã hội, từ đó, thông
qua sự lọc bỏ, tự tiếp nhận của bản thân để hình thành các giá trị định hướng của nhân
cách. Các giá trị như lý tưởng, niềm tin, quan hệ lợi ích, nhận thức và hành động được
mỗi cá nhân lựa chọn để xác lập hành vi cụ thể, hình thành nhân cách trong quan hệ xã
hội.
Trong cuốn Khoa học chẩn đoán tâm lý, PGS. TS Trần Trọng Thuđã cho biết ngay từ
năm 1949, G.Allpon đã dẫn ra 50 định nghĩa khác nhau về nhân cách. Ngày nay, đã có tới
hàng trăm định nghĩa. Nhưng nhân cách thường được xác định như một hệ thống các
quan hệ của con người đối với thế giới xung quanh và đối với bản thân mình. Quan hệ của
con người đối với thế giới xung quanh thể hiện ở niềm tin, thái độ cũng như thế giới quan
của họ đối với người khác, chủ yếu là trong hoạt động và giao tiếp. Quan hệ của con người
đối với bản thân nh thể hiện chỗ: Nhân cách đã được hình thành phát triển như
những quan hệ hội trong đó nhân lớn lên đang được biến đổi, bắt đầu quá trình
hoạt động sống của mình. Chính trong sự hình thành phát triển nhân cách các đặc
điểm của con người với cách tính được biến đổi trở thành những đặc điểm mang
tính người đích thực, tính xã hội đạo đức.
Từ đó có thể định nghĩa về nhân cách như sau:
“ Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lí của cá nhân, biểu hiện
bản sắc và giá trị xã hội của con người” [1]
2. Sự hình thành nhân cách :
Hình thành nhân cách được hiểu là một quá trình khách quan mang tính quy luật, trong đó
một người thể hiện mình vừa trong tư cách là đối tượng của sự tác động vừa trong tư cách
chủ thể của hoạt động giao tiếp. Giai đoạn hình thành nhân cách được tính ngay từ
khi chủ thể nhân cách còn nằm trong bào thai, giữ vai tò đặc biệt quan trọng – vai trò mang
tính tiền định nhân cách.
Từ sự xác định trên, chúng ta thể đưa ra 4 nhân tố quan trọng nhất ảnh ởng đến sự
hình thành nhân cách, đó là: nhân tố giáo dục, nhân tố hoạt động, nhân tố giao tiếp nhân
tố tập thể.
II. Yếu tố giao tiếp và tập thể chi phối đến sự hình thành và phát triển nhân cách :
Nhân cách không có sẵn bằng cách bộc lộ dần các bản năng nguyên thủy, mà nhân cách
là các cấu tạo tâm lí mới được hình thành trong quá trình sống – giao tiếp, vui chơi, học
tập, lao động, … như V.I Lenin đã khẳng định : “Cùng với dòng sữa mẹ, con người hấp
thụ tâm lí, đạo đức của xã hội mà nó là thành viên”. Nhà tâm lí học người Xô Viết A.N
Leonchiev đã chỉ ra rằng : Nhân cách cụ thể là nhân cách của con người sinh thành và
phát triển theo con đường từ bên ngoài chuyển vào nội tâm, từ các quan hệ với thế giới tự
nhiên, thế giới đồ vật, nền văn hóa xã hội do các thế hệ trước tạo ra, các quan hệ xã hội
mà nó gắn bó.
Quá trình hình thành nhân cách chịu sự chi phối của nhiều yếu tố : yếu tố giáo dục, yếu tố
hoạt động, yếu tố giao lưu và yếu tố tập thể. Mỗi yếu tố đều có vai trò nhất định. Song
với tính cách là phương thức, là con đường thì giao tiếp và tập thể có vai trò quyết định
nhất trong quá trình hình thành nhân cách con người.
1. Yếu tố giao tiếp :
1.1 Khái niệm giao tiếp :
Giao tiếp là hình thức hoạt động đặc trưng cho mối quan hệ giữa con người với con người,
thông qua đó thực hiện sự tiếp xúc tâm được biểu hiện 3 quá trình: trao đổi thông
tin, hiểu biết lẫn nhau và tác động lẫn nhau.
1.2 Vai trò của yếu tố giao tiếp chi phối đến sự hình thành nhân cách :
Nhà tâm lí học Xô viết nổi tiếng B. Ph. Lomov cho rằng : “Khi chúng ta nghiên cứu lối
sống của một cá nhân cụ thể, chúng ta không thể chỉ giới hạn ở sự phân tích xem nó làm
cái gì và như thế nào, mà còn phải nghiên cứu xem nó giao tiếp với ai và như thế nào”
[2]
Vì thế cùng với hoạt động có đối tượng, giao tiếp có vai trò cơ bản trong việc hình thành
nhân cách :
- Giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội loài người. Nhu cầu
giao tiếp là một trong những nhu cầu xã hội cơ bản, xuất hiện sớm nhất
ở con người. C. Mác đã chỉ ra rằng : “Sự phát triển của một cá nhân
được quy định bởi sự phát triển của tất cả các cá nhân khác và nó giao
lưu một cách trực tiếp và gián tiếp với họ” [3] Chằng vậy mà có câu
ngạn ngữ rằng : “ Hãy cho tôi biết bạn của anh là ai tôi sẽ nói cho anh
biết anh là người thế nào ”.
Ví dụ : Những trường hợp trẻ con do động vật nuôi đã mất bản tính người, mất
nhân cách và chỉ còn lại những đặc điểm tâm lí, hành vi của con vật.
- Nhờ giao tiếp, con người gia nhập vào các quan hệ xã hội, lĩnh hội nền
văn hóa xã hội, chuẩn mực xã hội “tổng hòa các quan hệ xã hội” làm
thành bản chất con người, đồng thời thông qua giao tiếp, con người
đóng góp tài lực của mình vào kho tàng chung của nhân loại, của xã hội
Ví dụ : Con người không thể tự mình chứng minh các định lí, công thức toán học
mà phải thông qua giao tiếp dưới hình thức học tập, trao đổi các nghiên cứu của
những nhà toàn học thời trước để lĩnh hội kết quả nghiên cứu của họ.
- Qua giao tiếp con người hình thành năng lực tự ý thức.
Trong giao tiếp, con người không chỉ nhận thức người khác, nhận thức các quan
hệ xã hội, mà còn nhận thức được chính bản thân mình, tự đối chiếu so sánh mình
với người khác, với chuẩn mực xã hội, đánh giá bản thân mình như là một nhân
cách để hình thành một thái độ giá trị - cảm xúc nhất định đối với bản thân. Ví dụ
: Sinh viên trong quá trình học tập, nghiên cứu, nhờ giao tiếp, tiếp xúc, trao đổi
với bạn bè mà học hỏi được thêm nhiều kiến thức, cũng qua đó mà mỗi sinh viên
có được những đánh giá, thái độ với những người bạn mình tiếp xúc. Đồng thời
cũng hình thành sự đánh giá, xem xét lại bản thân, còn những gì cần khắc phục ở
bản thân, những gì cần hoàn thiện ..
2. Yếu tố tập thể :
2.1 Khái niệm tập thể :
Nhân cách con người được hình thành và phát triển trong môi trường xã hội. Song con
người lớn lên và trở thành có nhân cách không phải là trong môi trường xã hội trừu
tượng, chung chung, mà trong môi trường xã hội cụ thể : gia đình, làng xóm, quê hương,
khu phố; là các nhóm, cộng đồng và tập thể mà nó là thành viên. Gia đình là nhóm cơ sở,
là cái nôi đầu tiên mà nhân cách con người được hình thành từ ấu thơ.
Đây cũng là hình thức nhóm có sớm nhất trong lịch sử loài người. Tiếp theo đó, con
người là thành viên của các nhóm theo tên gọi khác nhau : nhóm chính thức, nhóm không
chính thức, nhóm lớn, nhóm nhỏ, nhóm chuẩn mực và nhóm quy chiếu,… Các nhóm có
thể đạt tới trình độ phát triển cao nhất được gọi là tập thể.
Tập thể là một nhóm người, một bộ phận của xã hội được thống nhất lại theo những mục
đích chung phục tùng các mục đích của xã hội.
2.2 Vai trò của yếu tố tập thể chi phối sự hình thành nhân cách :
Tập thể có vai trò rất lớn trong sự hình thành và phát triển nhân cách.
- Trước hết, tập thể giúp con người tìm thấy chỗ đứng của mình và thỏa
mãn nhu cầu hoạt động, giao tiếp vốn là những nhu cầu cơ bản và xuất
hiện rất sớm ở con người. Vì vậy, hoạt động tập thể là điều kiện, đồng
thời là phương thức thể hiện và hình thành những năng khiếu, năng lực
và các phẩm chất trong nhân cách. Ví dụ : Bố mẹ cho con cái tham gia
các trại hè năng khiếu hằng năm để những đứa trẻ được bộc lộ khả
năng, năng khiếu mà mình có. Hơn nữa, việc trải nghiệm sống cùng các
bạn đến từ nhiều vùng miền khác nhau trong một khoảng thời gian, dù
ngắn hay dài cũng tạo điều kiện cho các bé thể hiện và hình thành
những phẩm chất trong nhân cách.
- Tập thể tác động đến nhân cách qua hoạt động cùng nhau, qua dư luận
tập thể, truyền thống tập thể, bầu không khí tâm lí tập thể. Nhờ vậy,
nhân cách của mỗi thành viên liên tục được điều chỉnh, điều khiển cũng
như phải thay đổi để phù hợp với các quan hệ xã hội mà nó tham gia.
Ví dụ : Sinh viên khi sống trong kí túc xá có cơ hội được trải qua các hoạt động,
sinh hoạt tập thể chung với nhau, như là những người cùng một nhà. Vì thế, mỗi
cá nhân đều phải liên tục điều chỉnh, thay đổi nhân cách của mình để phù hợp với
môi trường sống cũng như với các quan hệ xã hội mà họ tham gia, từ đấy tạo nên
sự hòa hợp giữa các cá nhân với nhau trong một tập thể.
- Ngược lại, mỗi cá nhân tác động tới cộng đồng, xã hội, tới cá nhân khác
thông qua tập thể của mình. Chính vì thế, trong giáo dục, người ta
thường vận dụng nguyên tắc giáo dục trong tâp thể và bằng tập thể.
Ví dụ : Khi làm việc nhóm, chúng ta thường biết đến câu nói “Một người vì mọi
người, mọi người vì một người”. Tức là trong một tập thể, phải có sự thống nhất
và đoàn kết khi làm việc thì mới đem lại hiểu quả cao nhất có thể. Nếu có một cá
nhân không hợp tác sẽ làm ảnh hưởng đến kết quả của cả nhóm.
Tóm lại, bốn yếu tố : giáo dục, hoạt động, giao tiếp và tập thể tác động đan xen vào nhau,
bổ sung, hỗ trợ cho nhau trong việc hình thành và phát triển nhân cách.
III. Liên hệ thực tiễn :
Mỗi thời đại, mỗi đất nước đều có những chuẩn mực nhân cách của riêng mình và sự tác
động của các yếu tố liên quan đến sự hình thành của nhân cách cũng có sự khác nhau
giữa các thời đại, đất nước, bởi mỗi quốc gia đều có những vĩ nhân với những nhân cách
lớn. Việt Nam ta cũng thật tự hào biết bao khi có vị lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh. Ở nước
ta hiện nay đang trong quá trình đổi mới kinh tế, phát triển công nghiệp hóa và hiện đại
hóa. Có thể nói xã hội Việt Nam hiện nay là một xã hội của những sự chuyển đổi toàn
diện sâu sắc. Điều đó tác động tới mỗi thành viên trong xã hội, làm phong phú đa dạng
thêm đồng thời cũng phức tạp thêm lối sống của mỗi người, đặc biệt ảnh hưởng tới sự
hình thành của lớp trẻ. Thực tiễn cho thấy những năm qua, thang giá trị của xã hội đang
có sự thay đổi nhanh chóng. Chính sự thay đổi một số giá trị dẫn đến sự thay đổi đặc
điểm nhân cách của tuổi trẻ Việt Nam trong thời kì mới. Những giá trị truyền thống gia
đình, tình nghĩa, đề cao cái tâm, chữ tín và đạo hiếu, lễ nghĩa vẫn được duy trì nhằm hạn
chế, khắc phục tính ích kỉ, thờ ơ thậm chí lạnh lùng của một số người dưới cơ chế thị
trường. Mục tiêu, yêu cầu của mô hình nhân cách tuổi trẻ Việt Nam cần phải có sự kết
hợp những giá trị chuẩn mực truyền thống và mô hình phát triển của con người Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta hiện nay rất cần những nhân cách có đủ đức và tài để đạt được mục tiêu “ dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh ”. Bác Hồ cũng đã từng dạy: “ Có
tài mà không có đức là đồ vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó ”
thế một nhân cách hoàn thiện phải có đủ “ đức ” và “ tài ”. Để đạt được điều ấy thì cần có
sự tác động vào các yếu tố hình thành nhân cách một cách thích hợp.
Việc nhận thức được vai trò của các yếu tố đối với sự hình thành và phát triển nhân cách
là vô cùng cần thiết đặc biệt là thê hệ trẻ, những con người mong muốn vươn tới sự hoàn
thiện hoàn mỹ của nhân cách. Từ việc hiểu biết về nhân cách, về vai trò của các yếu tố
đối với sự hình thành và phát triển nhân cách, kết hợp với những kiến thức về thực tế đời
sống xã hội ta có thể liên hệ với bản thân và xác định phương hướng phát triển cho phù
hợp.
Khi đã có sự hiểu biết về vai trò của yếu tố sinh thể với nhân cách ta có thể có những biện
pháp để phát triển những mặt mạnh, kiềm chế những yếu tố không tốt thuộc về mặt bẩm
sinh di truyền trong khả năng có thể.
Đồng thời ta cũng cần tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội, tìm hiểu các kiến thức
về xã hội để xác định được những yêu cầu chuẩn mực của thời đại mới, từ đó có sự rèn
luyện bản thân theo hương đáp ứng một cách tốt nhất những yêu cầu đó.
Tích cực giao tiếp với bạn bè, thầy cô và mọi người tạo mối quan hệ rộng lớn, thu nhập
nhiều kiến thức lịch sử - xã hội giúp nhân cách được phát triển toàn diện.
Cần có sự năng động, hoạt động trên nhiều lĩnh vực. Làm một sinh viên, kiến thức về
chuyên môn là cần thiết nhưng kiến thức và kinh nghiệm đời sống cũng quan trọng
không kém. Vì thế để có đúc nhiều kinh nghiệm sống thì chúng ta cần hoạt bát hơn, năng
động hơn.
Tạo mội trường hoạt động tốt với những phương pháp học sáng tạo cũng là một giải pháp
tốt thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển nhân cách.
Cuối cùng phải luôn luôn nhìn nhận lại bản thân đánh giá đúng sai những việc đã làm,
vạch ra mục tiêu cần vươn tới, luôn luôn phải nghiêm khắc với chính mình, nhìn nhận,
đánh giá cuộc sống để giảm bớt nhưng hành vi sai lệch. Quá trình tự giáo dục phải được
xác định là thường xuyên liên tục thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi.
C. KẾT LUẬN :
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói : “ Mỗi con người đều có cái thiện và cái ác ở trong
lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và
phần xấu bị mất dần đi […]” [4]. Có nghĩa là, con người phải có ý thức rèn luyện nhân
cách của mình. Dựa vào việc nghiên cứu hai yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành nhân
cách con người, có thể kết luận vai trò quan trọng của hai yếu tố đó như sau: Cá nhân
giao tiếp và tập thể trong các mối quan hệ xã hội sẽ đưa tới hình thành một cấu trúc nhân
cách tương đối ổn định và đạt tới một trình độ phát triển nhất định. Trong cuộc sống nhân
cách tiếp tục biến đổi và hoàn thiện dần thông qua việc cá nhân tự ý thức, tự rèn luyện, tự
giáo dục, tự hoàn thiện nhân cách của mình ở trình độ phát triển cao hơn, đáp ứng những
yêu cầu ngày càng cao của cuộc sống, của xã hội.
Cá nhân có thể có những chệch hướng trong sự biến đổi những nét nhân cách so với
chuẩn mực chung, thang giá trị chung của xã hội, có thể đưa đến sự phân li, suy thoái
nhân cách, đòi hỏi cá nhân phải tự điều khiển, tự điều chỉnh, tự rèn luyện theo những
chuẩn mực chân chính, phù hợp với quy luật khách quan của xã hội để tự điều khiển, tự
điều chỉnh nhân cách của mình.
Vì vậy, con người phải thường xuyên xây dựng các kế hoạch cho bản thân, tự thân vận
động, không ngừng học tập và rèn luyện, không ngừng tham gia vào các hoạt động xã hội
và giao tiếp cộng đồng … để hoàn thiện dần nhân cách của mình.
Bài viết của em đến đây là hết. Em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm theo dõi của thầy
cô.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] GS.TS Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên), Giáo trình tâm lý học đại cương, Nxb. Đại
họcQuốc gia Hà Nội, 2013.
[2] B.Ph. Lomov, Những vấn đề phương pháp luận của tâm lí học xã hội, 1975.
[3] C.Mác, Ph. Ănghen, Toàn tập, tập 3, 1995.
[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, tập 12, 2002.

Preview text:

MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU :………………………………………………………………………….
B. NỘI DUNG :…………………………………………………………………………….
I. Khái niệm :…………………………………………………………………………….
II. Yếu tố giao tiếp và tập thể chi phối đến sự hình thành nhân cách :……………………..
1. Yếu tố giao tiếp:…………………………………………………………………………
2. Yếu tố tập thể:…………………………………………………………………………...
III. Liên hệ thực tiễn :……………………………………………………………………… C.
KẾT LUẬN:………………………………………………………………………. D.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………………….. A. LỜI MỞ ĐẦU
Khi xem xét con người với tư cách là một thành viên của một xã hội nhất định, là chủ thể
của các mối quan hệ con người, của hoạt động có ý thức và giao tiếp thì chúng ta nói đến
nhân cách của họ. Sự hiểu biết về nhân cách con người là tiền đề để điều khiển hoạt động
của họ một cách có hiệu quả, đặc biệt là trong điều kiện hiện nay khi cuộc cách mạng khoa
học công nghệ đang xâm nhập vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội, khiến cho điều kiện “Nhân
tố con người” trở nên cấp bách như trong Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 7 đã xác định.
Do đó, việc nghiên cứu về quá trình hình thành nhân cách là rất cần thiết. Được biết, quá
trình hình thành nhân cách chịu sự ảnh hưởng và chi phối của nhiều yếu tố, nhưng tác động
rõ nét và lớn nhất là hai yếu tố : giao tiếp và tập thể. Các yếu tố này có mức độ ảnh hưởng
khác nhau và giữ các vai trò nhất định nhưng lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong
việc hình thành nhân cách.
Chính vì vậy, em đã chọn đề tài “Phân tích yếu tố giao tiếp và tập thể chi phối đến sự
hình thành nhân cách. Ví dụ minh họa ?” cho bài tập lần này.
Bài làm của em còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của cô để bài làm
của em được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn. B. NỘI DUNG I. Khái niệm : 1. Nhân cách :
Nhân cách là khái niệm chỉ bản sắc độc đáo, riêng biệt của mỗi cá nhân, là nội dung và
tính chất bên trong của mỗi cá nhân. Bởi vậy, nếu cá nhân là khái niệm chỉ sự khác biệt
giữa cá thể với giống loài thì nhân cách là khái niệm chỉ sự khác biệt giữa các cá nhân.
Cá nhân là phương thức biểu hiện của giống loài, còn nhân cách vừa là nội dung, vừa là
cách thức biểu hiện của mỗi cá nhân riêng biệt. Nhân cách biểu hiện thế giới cái tôi của
mỗi cá nhân, là sự tổng hợp của các yếu tố sinh học, tâm lý, xã hội, tạo nên đặc trưng
riêng về di truyền, về sinh lý thần kinh, về hoàn cảnh sống của cá nhân theo cách riêng
của mình. Mỗi cá nhân tiếp thu những giá trị phổ biến của văn hóa xã hội, từ đó, thông
qua sự lọc bỏ, tự tiếp nhận của bản thân để hình thành các giá trị định hướng của nhân
cách. Các giá trị như lý tưởng, niềm tin, quan hệ lợi ích, nhận thức và hành động được
mỗi cá nhân lựa chọn để xác lập hành vi cụ thể, hình thành nhân cách trong quan hệ xã hội.
Trong cuốn Khoa học chẩn đoán tâm lý, PGS. TS Trần Trọng Thuỷ đã cho biết ngay từ
năm 1949, G.Allpon đã dẫn ra 50 định nghĩa khác nhau về nhân cách. Ngày nay, đã có tới
hàng trăm định nghĩa. Nhưng nhân cách thường được xác định như là một hệ thống các
quan hệ của con người đối với thế giới xung quanh và đối với bản thân mình. Quan hệ của
con người đối với thế giới xung quanh thể hiện ở niềm tin, thái độ cũng như thế giới quan
của họ đối với người khác, chủ yếu là trong hoạt động và giao tiếp. Quan hệ của con người
đối với bản thân mình thể hiện ở chỗ: Nhân cách đã được hình thành và phát triển như
những quan hệ xã hội mà trong đó cá nhân lớn lên và đang được biến đổi, bắt đầu quá trình
hoạt động sống của mình. Chính trong sự hình thành và phát triển nhân cách mà các đặc
điểm của con người với tư cách là cá tính được biến đổi và trở thành những đặc điểm mang
tính người đích thực, tính xã hội – đạo đức.
Từ đó có thể định nghĩa về nhân cách như sau:
“ Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lí của cá nhân, biểu hiện
bản sắc và giá trị xã hội của con người” [1]
2. Sự hình thành nhân cách :
Hình thành nhân cách được hiểu là một quá trình khách quan mang tính quy luật, trong đó
một người thể hiện mình vừa trong tư cách là đối tượng của sự tác động vừa trong tư cách
là chủ thể của hoạt động và giao tiếp. Giai đoạn hình thành nhân cách được tính ngay từ
khi chủ thể nhân cách còn nằm trong bào thai, giữ vai tò đặc biệt quan trọng – vai trò mang
tính tiền định nhân cách.
Từ sự xác định trên, chúng ta có thể đưa ra 4 nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến sự
hình thành nhân cách, đó là: nhân tố giáo dục, nhân tố hoạt động, nhân tố giao tiếp và nhân tố tập thể.
II. Yếu tố giao tiếp và tập thể chi phối đến sự hình thành và phát triển nhân cách :
Nhân cách không có sẵn bằng cách bộc lộ dần các bản năng nguyên thủy, mà nhân cách
là các cấu tạo tâm lí mới được hình thành trong quá trình sống – giao tiếp, vui chơi, học
tập, lao động, … như V.I Lenin đã khẳng định : “Cùng với dòng sữa mẹ, con người hấp
thụ tâm lí, đạo đức của xã hội mà nó là thành viên”
. Nhà tâm lí học người Xô Viết A.N
Leonchiev đã chỉ ra rằng : Nhân cách cụ thể là nhân cách của con người sinh thành và
phát triển theo con đường từ bên ngoài chuyển vào nội tâm, từ các quan hệ với thế giới tự
nhiên, thế giới đồ vật, nền văn hóa xã hội do các thế hệ trước tạo ra, các quan hệ xã hội mà nó gắn bó.
Quá trình hình thành nhân cách chịu sự chi phối của nhiều yếu tố : yếu tố giáo dục, yếu tố
hoạt động, yếu tố giao lưu và yếu tố tập thể. Mỗi yếu tố đều có vai trò nhất định. Song
với tính cách là phương thức, là con đường thì giao tiếp và tập thể có vai trò quyết định
nhất trong quá trình hình thành nhân cách con người.
1. Yếu tố giao tiếp :
1.1 Khái niệm giao tiếp :
Giao tiếp là hình thức hoạt động đặc trưng cho mối quan hệ giữa con người với con người,
thông qua đó thực hiện sự tiếp xúc tâm lí và được biểu hiện ở 3 quá trình: trao đổi thông
tin, hiểu biết lẫn nhau và tác động lẫn nhau.
1.2 Vai trò của yếu tố giao tiếp chi phối đến sự hình thành nhân cách :
Nhà tâm lí học Xô viết nổi tiếng B. Ph. Lomov cho rằng : “Khi chúng ta nghiên cứu lối
sống của một cá nhân cụ thể, chúng ta không thể chỉ giới hạn ở sự phân tích xem nó làm
cái gì và như thế nào, mà còn phải nghiên cứu xem nó giao tiếp với ai và như thế nào”
[2]
Vì thế cùng với hoạt động có đối tượng, giao tiếp có vai trò cơ bản trong việc hình thành nhân cách :
- Giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội loài người. Nhu cầu
giao tiếp là một trong những nhu cầu xã hội cơ bản, xuất hiện sớm nhất
ở con người. C. Mác đã chỉ ra rằng : “Sự phát triển của một cá nhân
được quy định bởi sự phát triển của tất cả các cá nhân khác và nó giao
lưu một cách trực tiếp và gián tiếp với họ”
[3] Chằng vậy mà có câu
ngạn ngữ rằng : “ Hãy cho tôi biết bạn của anh là ai tôi sẽ nói cho anh
biết anh là người thế nào ”.
Ví dụ : Những trường hợp trẻ con do động vật nuôi đã mất bản tính người, mất
nhân cách và chỉ còn lại những đặc điểm tâm lí, hành vi của con vật.
- Nhờ giao tiếp, con người gia nhập vào các quan hệ xã hội, lĩnh hội nền
văn hóa xã hội, chuẩn mực xã hội “tổng hòa các quan hệ xã hội” làm
thành bản chất con người, đồng thời thông qua giao tiếp, con người
đóng góp tài lực của mình vào kho tàng chung của nhân loại, của xã hội
Ví dụ : Con người không thể tự mình chứng minh các định lí, công thức toán học
mà phải thông qua giao tiếp dưới hình thức học tập, trao đổi các nghiên cứu của
những nhà toàn học thời trước để lĩnh hội kết quả nghiên cứu của họ.
- Qua giao tiếp con người hình thành năng lực tự ý thức.
Trong giao tiếp, con người không chỉ nhận thức người khác, nhận thức các quan
hệ xã hội, mà còn nhận thức được chính bản thân mình, tự đối chiếu so sánh mình
với người khác, với chuẩn mực xã hội, đánh giá bản thân mình như là một nhân
cách để hình thành một thái độ giá trị - cảm xúc nhất định đối với bản thân. Ví dụ
: Sinh viên trong quá trình học tập, nghiên cứu, nhờ giao tiếp, tiếp xúc, trao đổi
với bạn bè mà học hỏi được thêm nhiều kiến thức, cũng qua đó mà mỗi sinh viên
có được những đánh giá, thái độ với những người bạn mình tiếp xúc. Đồng thời
cũng hình thành sự đánh giá, xem xét lại bản thân, còn những gì cần khắc phục ở
bản thân, những gì cần hoàn thiện ..
2. Yếu tố tập thể :
2.1 Khái niệm tập thể :
Nhân cách con người được hình thành và phát triển trong môi trường xã hội. Song con
người lớn lên và trở thành có nhân cách không phải là trong môi trường xã hội trừu
tượng, chung chung, mà trong môi trường xã hội cụ thể : gia đình, làng xóm, quê hương,
khu phố; là các nhóm, cộng đồng và tập thể mà nó là thành viên. Gia đình là nhóm cơ sở,
là cái nôi đầu tiên mà nhân cách con người được hình thành từ ấu thơ.
Đây cũng là hình thức nhóm có sớm nhất trong lịch sử loài người. Tiếp theo đó, con
người là thành viên của các nhóm theo tên gọi khác nhau : nhóm chính thức, nhóm không
chính thức, nhóm lớn, nhóm nhỏ, nhóm chuẩn mực và nhóm quy chiếu,… Các nhóm có
thể đạt tới trình độ phát triển cao nhất được gọi là tập thể.
Tập thể là một nhóm người, một bộ phận của xã hội được thống nhất lại theo những mục
đích chung phục tùng các mục đích của xã hội.
2.2 Vai trò của yếu tố tập thể chi phối sự hình thành nhân cách :
Tập thể có vai trò rất lớn trong sự hình thành và phát triển nhân cách.
- Trước hết, tập thể giúp con người tìm thấy chỗ đứng của mình và thỏa
mãn nhu cầu hoạt động, giao tiếp vốn là những nhu cầu cơ bản và xuất
hiện rất sớm ở con người. Vì vậy, hoạt động tập thể là điều kiện, đồng
thời là phương thức thể hiện và hình thành những năng khiếu, năng lực
và các phẩm chất trong nhân cách. Ví dụ : Bố mẹ cho con cái tham gia
các trại hè năng khiếu hằng năm để những đứa trẻ được bộc lộ khả
năng, năng khiếu mà mình có. Hơn nữa, việc trải nghiệm sống cùng các
bạn đến từ nhiều vùng miền khác nhau trong một khoảng thời gian, dù
ngắn hay dài cũng tạo điều kiện cho các bé thể hiện và hình thành
những phẩm chất trong nhân cách.
- Tập thể tác động đến nhân cách qua hoạt động cùng nhau, qua dư luận
tập thể, truyền thống tập thể, bầu không khí tâm lí tập thể. Nhờ vậy,
nhân cách của mỗi thành viên liên tục được điều chỉnh, điều khiển cũng
như phải thay đổi để phù hợp với các quan hệ xã hội mà nó tham gia.
Ví dụ : Sinh viên khi sống trong kí túc xá có cơ hội được trải qua các hoạt động,
sinh hoạt tập thể chung với nhau, như là những người cùng một nhà. Vì thế, mỗi
cá nhân đều phải liên tục điều chỉnh, thay đổi nhân cách của mình để phù hợp với
môi trường sống cũng như với các quan hệ xã hội mà họ tham gia, từ đấy tạo nên
sự hòa hợp giữa các cá nhân với nhau trong một tập thể.
- Ngược lại, mỗi cá nhân tác động tới cộng đồng, xã hội, tới cá nhân khác
thông qua tập thể của mình. Chính vì thế, trong giáo dục, người ta
thường vận dụng nguyên tắc giáo dục trong tâp thể và bằng tập thể.
Ví dụ : Khi làm việc nhóm, chúng ta thường biết đến câu nói “Một người vì mọi
người, mọi người vì một người”. Tức là trong một tập thể, phải có sự thống nhất
và đoàn kết khi làm việc thì mới đem lại hiểu quả cao nhất có thể. Nếu có một cá
nhân không hợp tác sẽ làm ảnh hưởng đến kết quả của cả nhóm.
Tóm lại, bốn yếu tố : giáo dục, hoạt động, giao tiếp và tập thể tác động đan xen vào nhau,
bổ sung, hỗ trợ cho nhau trong việc hình thành và phát triển nhân cách.
III. Liên hệ thực tiễn :
Mỗi thời đại, mỗi đất nước đều có những chuẩn mực nhân cách của riêng mình và sự tác
động của các yếu tố liên quan đến sự hình thành của nhân cách cũng có sự khác nhau
giữa các thời đại, đất nước, bởi mỗi quốc gia đều có những vĩ nhân với những nhân cách
lớn. Việt Nam ta cũng thật tự hào biết bao khi có vị lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh. Ở nước
ta hiện nay đang trong quá trình đổi mới kinh tế, phát triển công nghiệp hóa và hiện đại
hóa. Có thể nói xã hội Việt Nam hiện nay là một xã hội của những sự chuyển đổi toàn
diện sâu sắc. Điều đó tác động tới mỗi thành viên trong xã hội, làm phong phú đa dạng
thêm đồng thời cũng phức tạp thêm lối sống của mỗi người, đặc biệt ảnh hưởng tới sự
hình thành của lớp trẻ. Thực tiễn cho thấy những năm qua, thang giá trị của xã hội đang
có sự thay đổi nhanh chóng. Chính sự thay đổi một số giá trị dẫn đến sự thay đổi đặc
điểm nhân cách của tuổi trẻ Việt Nam trong thời kì mới. Những giá trị truyền thống gia
đình, tình nghĩa, đề cao cái tâm, chữ tín và đạo hiếu, lễ nghĩa vẫn được duy trì nhằm hạn
chế, khắc phục tính ích kỉ, thờ ơ thậm chí lạnh lùng của một số người dưới cơ chế thị
trường. Mục tiêu, yêu cầu của mô hình nhân cách tuổi trẻ Việt Nam cần phải có sự kết
hợp những giá trị chuẩn mực truyền thống và mô hình phát triển của con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta hiện nay rất cần những nhân cách có đủ đức và tài để đạt được mục tiêu “ dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh ”. Bác Hồ cũng đã từng dạy: “ Có
tài mà không có đức là đồ vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó ” Vì
thế một nhân cách hoàn thiện phải có đủ “ đức ” và “ tài ”. Để đạt được điều ấy thì cần có
sự tác động vào các yếu tố hình thành nhân cách một cách thích hợp.
Việc nhận thức được vai trò của các yếu tố đối với sự hình thành và phát triển nhân cách
là vô cùng cần thiết đặc biệt là thê hệ trẻ, những con người mong muốn vươn tới sự hoàn
thiện hoàn mỹ của nhân cách. Từ việc hiểu biết về nhân cách, về vai trò của các yếu tố
đối với sự hình thành và phát triển nhân cách, kết hợp với những kiến thức về thực tế đời
sống xã hội ta có thể liên hệ với bản thân và xác định phương hướng phát triển cho phù hợp.
Khi đã có sự hiểu biết về vai trò của yếu tố sinh thể với nhân cách ta có thể có những biện
pháp để phát triển những mặt mạnh, kiềm chế những yếu tố không tốt thuộc về mặt bẩm
sinh di truyền trong khả năng có thể.
Đồng thời ta cũng cần tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội, tìm hiểu các kiến thức
về xã hội để xác định được những yêu cầu chuẩn mực của thời đại mới, từ đó có sự rèn
luyện bản thân theo hương đáp ứng một cách tốt nhất những yêu cầu đó.
Tích cực giao tiếp với bạn bè, thầy cô và mọi người tạo mối quan hệ rộng lớn, thu nhập
nhiều kiến thức lịch sử - xã hội giúp nhân cách được phát triển toàn diện.
Cần có sự năng động, hoạt động trên nhiều lĩnh vực. Làm một sinh viên, kiến thức về
chuyên môn là cần thiết nhưng kiến thức và kinh nghiệm đời sống cũng quan trọng
không kém. Vì thế để có đúc nhiều kinh nghiệm sống thì chúng ta cần hoạt bát hơn, năng động hơn.
Tạo mội trường hoạt động tốt với những phương pháp học sáng tạo cũng là một giải pháp
tốt thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển nhân cách.
Cuối cùng phải luôn luôn nhìn nhận lại bản thân đánh giá đúng sai những việc đã làm,
vạch ra mục tiêu cần vươn tới, luôn luôn phải nghiêm khắc với chính mình, nhìn nhận,
đánh giá cuộc sống để giảm bớt nhưng hành vi sai lệch. Quá trình tự giáo dục phải được
xác định là thường xuyên liên tục thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi. C. KẾT LUẬN :
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói : “ Mỗi con người đều có cái thiện và cái ác ở trong
lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và
phần xấu bị mất dần đi […]” [4]. Có nghĩa là, con người phải có ý thức rèn luyện nhân
cách của mình. Dựa vào việc nghiên cứu hai yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành nhân
cách con người, có thể kết luận vai trò quan trọng của hai yếu tố đó như sau: Cá nhân
giao tiếp và tập thể trong các mối quan hệ xã hội sẽ đưa tới hình thành một cấu trúc nhân
cách tương đối ổn định và đạt tới một trình độ phát triển nhất định. Trong cuộc sống nhân
cách tiếp tục biến đổi và hoàn thiện dần thông qua việc cá nhân tự ý thức, tự rèn luyện, tự
giáo dục, tự hoàn thiện nhân cách của mình ở trình độ phát triển cao hơn, đáp ứng những
yêu cầu ngày càng cao của cuộc sống, của xã hội.
Cá nhân có thể có những chệch hướng trong sự biến đổi những nét nhân cách so với
chuẩn mực chung, thang giá trị chung của xã hội, có thể đưa đến sự phân li, suy thoái
nhân cách, đòi hỏi cá nhân phải tự điều khiển, tự điều chỉnh, tự rèn luyện theo những
chuẩn mực chân chính, phù hợp với quy luật khách quan của xã hội để tự điều khiển, tự
điều chỉnh nhân cách của mình.
Vì vậy, con người phải thường xuyên xây dựng các kế hoạch cho bản thân, tự thân vận
động, không ngừng học tập và rèn luyện, không ngừng tham gia vào các hoạt động xã hội
và giao tiếp cộng đồng … để hoàn thiện dần nhân cách của mình.
Bài viết của em đến đây là hết. Em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm theo dõi của thầy cô.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] GS.TS Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên), Giáo trình tâm lý học đại cương, Nxb. Đại
họcQuốc gia Hà Nội, 2013.
[2] B.Ph. Lomov, Những vấn đề phương pháp luận của tâm lí học xã hội, 1975.
[3] C.Mác, Ph. Ănghen, Toàn tập, tập 3, 1995.
[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, tập 12, 2002.