Tiểu luận Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến xã hội và con người Việt Nam | Triết học Mác - Lênin | Học viện Ngân Hàng

Tiểu luận Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến xã hội và con người Việt Nam | Triết học Mác - Lênin | Học viện Ngân Hàng với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra. Mời bạn đọc đón xem!

lOMoARcPSD| 40419767
1
Tiu lun Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến
hội và con người Vit Nam
Phn A: m đầu
Đạo Pht mt trong nhng hc thuyết Triết hc - n giáo ln nht
trên thế gii, tn ti rất lâu đời. H thng giáo lý ca rất đ s và s ng
pht t đông đảo được phân b rng khắp. Đạo phật đưc truyn vào
c ta khong thế k II sau công nguyên và đã nhanh chóng tr thành mt
tôn giáo nh ng sâu sắc đến đời sng tinh thn của con người Vit
Nam, bên cạnhđó đạo Nho, đạo Lão, đạo Thiên chúa. Tu từng giai đoạn lch
s dân tộc ta đều có mt hc thuyết tư tưởng hoc mt tôn giáo nm vai trò
ch đạo, tác động mnh nhất đến nếp sng, thói quen, suy nghĩ của con
người, như Phật giáo thế k th X - XIV, Nho giáo thế k th XV - XIX, hc
thuyết Mác - Lênin t gia thp k 40 ca thế k XX cho đến nay. Tuy nhiên,
nhng hc thuyết này không được v trí độc tôn song song tn ti vi
vn các hc thuyết, tôn giáo khác tác động vào các hu vc khác nhau
của đời sng xã hi, đồng thời cũng tác đng tr li các hc thuyết ch đạo.
Ngày nay đã trải qua các cuc cách mng hi các cuc cách mng
trong h ý thc, tình hình vẫn như vậy.
Trong công cuc xây dựng đất nước quá độ lên CNXH, ch nghĩa Mác -
Lênin là tư tưng ch đạo, là vũ khí lý luận của chúng ta nhưng bên cạnh đó,
b phn kiến trúc thượng tng ca xã hội cũ vẫn có sc sng dai dng, trong
đó giáo nhà Phật đã ít nhiều in sâu vào tưởng tình cm ca mt s b
phn lớn dân cư Việt Nam. Vic xoá b hoàn toàn ảng hưởng ca không
th thc hiện đưc nên chúng ta cn vn dng mt cách hợp để góp
phần đạt được mục đích của thi k quá độ cũng như sau này. Vi vậy, vc
nghiên cu lch s, giáo lý, và s tác động ca đo Phật đi vi thế gii quan,
nhân sinh quan của con người hết sc cn thiết. Việc đi u nghiên cứu,
đánh giá những mt hn chế cũng như tiến b, nhân đạo ca Pht giáo giúp
lOMoARcPSD| 40419767
2
ta hiểu rõ tâm lý ngưi dân hơn và qua đó tìm ra đưc một phương cách để
ớng đạo cho h một nhân cách chính, đúng đắn. Theo đạo để làm điều
thiện, tránh cái ác, nh thành nhân cách con ngưi tốt hơn chứ không tr
nên tín d đoan, cúng bái, lên đồng, gây ảnh hưởng xấu đến sc kho,
nim tin ca qun chúng nhân dân..
Lĩnh vực nghiên cu Pht giáo hiện nay tương đối được m rng, ngoài
vic nghiên cứu giáo lý, kinh điển, lch s ... ca Phật giáo ra còn đ cập đến
các lĩnh vực Triết hc, S hc, Tâm hc, Kho c hc, Xã hi hc, Dân tc
học, Văn học, Ngh thut ... Pht học đã trở thành mt trong nhng khoa hc
tương đối quan trng trong khoa hc xã hội, trưc mt có quan h mt thiết
vi xã hi hc.
Hơn nữa quá trình, Pht giáo phát trin, truyn bá Vit Nam gn lin
vi quá trình hình thành, phát triển tư tưởng, đạo đức của con người. Vì vy
khi nghiên cu lch sử, tưởng, đạo đức Vit Nam không th không đ cp
đến Pht giáo và nhng mi quan hệ, tác động qua li gia chúng.
Tóm li, nghiên cu Pht giáo ảnh hưởng ca đến xã hi con
người Vit Nam là mt ni dung quan trng nhm tìm hiu lch s cũng như
định hướng cho s phát triển nhân cách, duy con người Vit Nam trong
tương lai.
Phn B: Ni dung
I. Khái quát v Pht giáo
1.1 Ngun gốc ra đời
Đạo Phật mang tên người sáng lập Đà ( hay buddha ). Đạo pht chính
giáo Phật Đà đã thuyết giảng. Sau khi ra đời ấn Độ vào thế k th
9 đến thế k th 6 trước Công nguyên, đo Phật được lưu hành rộng rãi
các quc gia trong khu vc á - Phi, gần đây được truyn tới các nước Âu M.
Trong quá trình truyn bá của minh, đo Phật đã kết hp với tín ngưỡng, tp
tục, dân gian, văn hoá bản địa để hình thành rt nhiu tông phái và hc phái,
lOMoARcPSD| 40419767
3
có tác động vô cùng quan trng vi đời sng xã hội và văn hoá của rt nhiu
quc gia.
Buddha vn là mt thái t tên là Tất Đạt Đa
( Siddharta), con trai ca Trnh Phạn Vương ( Suđhodana) vua nước Trnh
Phn, một nước nh thuc Bc ấn Độ ( nay thuộc đất Pan ) ông sinh ra vào
khoảng năm 623 trước công nguyên. Cuộc đời ca Phật Thích Ca được k li
trong truyn thuyết như sau:
Vào một đêm Mahamaia, người v chính của Suđhodana, Vua của
người Saia thấy mình được đưa tới h thiêng Anavatápta Himalaya. Sau
khi các thiên thn tm ra cho bà trong h thiêng, thì có mt con voi trng
khng l đoá hoa sen vòi bước tới chui vào n bà. Ngày hôm sau
các nhà thông thái được vi tới để giải của Hoàng hu. Các nthông thái
cho rng giấc đim Hoàng hậu đang mang sẽ sinh h đưc mt
Hoàng t tuyt vời, người sau này s tr thành v chúa t ca thế gii hoc
người thy ca thế giới. Đến ngày, đến tháng, Hoàng hu Mahamaia tr v
nhà cha mình đ sinh con. Thế nhưng vừa đến khu vườn Lumbini, cách th
đô Capilavastu của người Sakia không xa, Hoàng hu tr d và v Hoàng t đã
ra đời. Vừa ra đời, v Hoàng t hon đã đng ngay dậy, đi bảy bước và nói:
Đây kiếp cui cùng ca ta, t nay ta không phi luôn hi mt kiếp nào
nữa!”.
Đến ngày th năm một nghi thc trng th đưc t chc và Hoàng t
được đặt tên Siđhartha. Để ngăn cản Hoàng t không nghĩ tới vic tu hành,
đức vua cha đã tìm mọi cách tạo ra quanh người con trai mình mt cuc sng
vương giả. Hoàng t đưc hc mi kiến thức đ sau này tr thành mt v vua
tài ba anh minh tr một đất nước ấn Độ bao la. Thế ri, nhà vua qun
thần đã kén cho Hoàng tử một người v kiu diễm. Nhưng cuộc đời vương
gi không cán d đưc Hoàng t tr tui. Bn s vic do các thn tạo ra đã
làm thay đổi hn cuộc đời Hoàng t Siddhartha. Đó mt lần khi đang dạo
chơi trong n, Hoàng t thy mt ông già gày còm, m yếu ri nhn ra mt
điu rng mọi người ri ai cũng phải già yếu như thế. ít lâu sau Hoàng t li
lOMoARcPSD| 40419767
4
đưc chng kiến người ốm và người chết. Ba hoàn cnh trênm cho Hoàng
t băn khoăn, lo nghĩ về kiếp người và mun cứu con người khi nhng trm
luôn đau khổ ca kiếp luôn hi: Sinh, lão, bnh, t chính s vic th đã
đem đến cho Hoàng t nim hi vng an i. Lần đó, Hoàng tử nhìn thy mt
v hành kht dáng v bần hàn nhưng lại ung dung t ti. Va nhìn thy v hành
kht Hoàng t như bừng tnh và quyết đnh s ra đi trở thành nhà hành kht
như thế.
Được tin, đức vua Suddhôđana tìm mọi cách ngăn cn
Hoàng t. Thế nhưng Hoàng tử không th nào xua đi được bn s kin
mình đã chứng kiến khiến lòng d ca Hoàng t không lúc nào đưc thanh
thn. Ngay c tin mng công chúa Yashôdhara sinh cho chàng mt Hoàng
nam cũng không làm cho Hoàng tử Sidhartha vui. Ngày đêm khi đa con ra
đời, khi mọi người ng say, Hoàng t lng l đến nhìn v con ln cui ri
đánh thức người đánh xe dậy cùng minh cưỡi con nga Canthaca yêu quý ri
khỏi cung. Khi đã rời khỏi đô thành Hoàng tử trút b áo Hoàng tc và mc lên
người b quần áo thường dân. Hoàng t dùng kiếm ct b tóc dài ca mình
và nh người đánh xe mang mớ tóc và qun áo v trao lại cho đức vua. Còn
con ngựa Canthana vì đau khổ phi chia tay vi ông ch của nó nên đã lăn ra
chết ngay ti ch. Ri hoàng cung, dứt áo ra đi, Hoàng tử Sidhartha đã trở
thành nhà tu hành.
Thoạt đu, Hoàng t đi lang thang đây đó, sống theo kiu kh hnh.
Sau đó, ngài vào rng tu. Nhà hin triết Alara Calama dy cho chàng các phép
thiền định nhng triết ca upanishad. Hc thuyết thc hành gii thoát
cá nhân ca Upanishad không hp dn Hoàng tử. Chàng đi tiếp nhp vào
nhóm năm người tu kh hnh. Suốt sáu năm trường ép xác Hoàng t gần như
ch còn b xương khô mà vẫn chưa tìm ra chân lý của s gii thoát. Ngài bèn
b cuc sng tu hành kh hnh và tr lại ăn uống bình thường.
Khi Hoàng t Sidhartha 35 tui, một hôm ngài đến ngi i gc cây
b đ ngoi vi thành ph Gaia thuộc vùng đất của vua Bimbisura, vua nước
Magadha. Cho đến mt hôm nàng Sudjata, con gái ca mt nông dân trong
lOMoARcPSD| 40419767
5
vùng đem cho ngài một bát cơm to nấu bng sữa. Ăn xong, ngài xung sông
tm ra, ri tr li gc cây b đề. Ngài ngi thiền định nguyn s không
đứng dy nếu không tìm ra s gii thoát v điu n ca s đau khổ.
Hoàng t đã ngồi dưới gc cây b đề suốt 49 ngày đêm. Bảy tun l đó là cả
mt chuỗi ngày đy th thách. Đ phá s thiền định ca Hoàng t, con qu
d Mara tìm mi cách làm chàng nn chí. Thoạt đu, qu Mara biến thành
mt s gi đến báo cho Hoàng t mt tin bịa đặt em trai Hoàng t
Đevađatta nổi lon, bt nhốt đức vua cha vào ngc chiếm nàng Yashodrara
làm v. Thế nhưng tin d đó không làm cho Hoàng tử bn tâm. Mara bèn cho
gi các qu d tới làm ra mưa to, gió lớn gây ra động đất, lt lội nhưng Hoàng
t vn ngi bình thản i gc cây b đề, cm phục trước ý ckiên định ca
Hoàng t, rn thn Naga dùng thân làm tán cho mưa gió cho Hoàng tử ngi.
Thy thế qu d Mara bèn dùng bin pháp quyết lit và tinh tế hơn để công
phá vào thành trì kiên định ca Hoàng t Sidhartha. Nó cho gi ba cô con gái
xinh đẹp ca mình là các nàng Khát vng, khoái lc và Dc vng ti múa nhy
hoc nhà tu hành tr tui. Thế nhưng biện pháp cui cùng ca qu Mara
cũng thất bại quỷ phi di khi gc cây b đề. Rng sáng ngày 49,
Siddhartha đã tìm ra bí mật ca s đau kh, đã tìm ra được vì sao thế gii li
tràn đầy kh đau đã tìm ra được cách đ chiến thng s đau khổ.
Siddhartha đã hoàn toàn giác ngộ tr thành Buddha (Đấng giác ng). Sau
khi giác ng Đức pht còn ngi tiếp by ngày nữa dưới cây b đề suy ngm
v nhng chân lý diu k mà mình đã khám phá. Ngài phân vân không biết có
n ph biến đạo pháp ca mình cho thế gii không vì có huyn diu quá khó
hiểu quá đối vi mọi người. Chính thượng đế Brahma phi giáng trần đ khích
l Đức pht truyền bá đạo pháp ca mình cho thế gian. Ch khi đó Phật mi
di khi gc cây b đề đi đến khu n Lc Uyn gần Varanasi để ging bài
thuyết pháp đầu tiên cho năm người bn tu kh hnh ca mình. S kin này
đưc ghi chép lại như một s kin quan trng nht của Đạo phật và được gi
là Phật quay bánh xe Đạo pháp ( chuyn Pháp Luân ). Giáo pháp mi của Đạ
phật đã gây ấn tượng mạnh đối với năm nhà tu, họ nhanh chóng tr thành
lOMoARcPSD| 40419767
6
những môn đồ đầu tiên của Đức Pht. Vài ngày sau s môn đồ ca Phật đã
tăng lên 60 người, theo thi gian s môn đ Đạo Phật ngày càng tăng và các
t chức tăng gia đã ra đời.
Đến năm 80 tuổi, biết mình tui cao, sc yếu, Đức Pht cùng các môn
đồ tr v chân núi Hymalaya nơi ngài sinh ra và lớn lên. Trên đường Phật đã
chun b mi th cho các môn đồ để hth t lập được sau khi ngàu viên
tch. Và, ti mt nơi thuộc ngoi vi thành ph Cusinagara, Phật đã ra đi. Câu
nói cui cùng ca Phật là: “ Hỡi các tì kheo tt c những gì đang tồn ti ri s
qua đi. Vậy các người càng không nên ngng gng sức!”.
1.2 Ni dung ch yếu của tư tưởng triết hc Pht giáo.
tưởng triết Pht giáo đưc tp trung trong mt khối lượng kinh
đin rt lớn, được t chc thành ba b kinh ln gi là tam tng gm:
- Tng Lun: Gm toàn b nhng gii lut ca Phật giáoqui định
cho c năm bộ phái Phật giáo như: “ Tứ phn luật” của thượng to b, Maha
tăng kỷ lut của “Đại chúng bộ”, căn bản nht thiết hu b luật” ... Sau này
còn thêm các B lut của Đại Thừa như An lạc, Phm Võng.
- Tng kinh: Chép li Pht dy, trong thi k đầu tngkinh gm
nhiu tập dưới dng các tiền đề, mi tập được gi là mt Ahàm.
- Tng lun: Gm nhng bài bình chú, gii thích v giáopháp ca
Pht giáo. Tng lun gm by b th hin mt cách toàn diện các quan điểm
v giáo pháp ca Pht giáo.
Tư tưởng triết hc Phật giáo trên hai phương diện, v bn th lun và
nhân sinh quan, chứa đựng nhng tưởng duy vt bin chng cht phác.
Pht giáo cho rng các s vt hiện tượng trong trụ ( ch pháp )
vô thu, chung (cùng, tn). Tt c thế giới đều quá trình biến đổi
liên tục (vô thường ) không có mt v thn nào sáng to ra vn vt c. Tt c
các Pháp đu thuc v mt gii ( vn vật đều nằm trong trụ) gi Pháp
gii. Mi mt pháp ( mi mt s v ic hiện tượng, hay mt lp s vic hin
ợng) đều ảnh hưởng đến toàn Pháp. Như vậy các s vt, hiện tượng hay
lOMoARcPSD| 40419767
7
các quá trình ca thế gii là luôn luôn tn ti trong mi liên hệ, tác động qua
lại và qui định ln nhau.
Tác phẩm “ thanh dung thực luận” của kinh pht viết rằng: “ Có người
c chấp Đại t nhiên bn th chân thc bao khp cả, lúc nào cũng
thường đnh ra chu pháp
(
1
)
đạo Pht cho rng toàn b chư pháp đều chi chi
phi bi lut nhân qu, biến hoá thường, không cái bn ngã c định,
không cái thc th, không có hình thc nào tn tại vĩnh vin c. Tt c đều
theo lut nhân qu biến đổi không ngng và chs biến hoá ấy là thường
còn ( vĩnh viễn ). Cái nhân nh có cái duyên mới sinh ra được mà thành qu.
Qu li nhduyên thành nhân khác, nhân khác li thành qu. Qu li
nh duyên thành nhân khác, nhân khác li nh duyên thành qu
mi ... C thế ni nhau cùng tn thế gii, vn vt, muôn loài, c sinh
sinh, hoá hoá mãi.
Như vậy ngay t đầu Phật giáo đã đặt ra mục đích giải quyết vấn đề
bn ca Triết hc mt cách bin chng và duy vt. Phật giáo đã gạt b vai trò
sáng to thế gii ca các “đấng ti cao” của “Thượng đế” cho rng bn th
ca thế gii tn ti khách quan không do v thn nào sáng to ra c. Cái
bn th y chính là s thường hng trong vận động của vũ trụ, là muôn ngàn
hình thc ca vn vt trong vận đng, mt trong vn vật nhưng
không dng li bt k hình thc nào. muôn hình vn trạng nhưng li
tuân hành nghiêm ngt theo lut nhân qu.
Do qui lut nhân qu vn vt trong quá trình biến đổi không
ngng, thành, tr, hoi, dit ( sinh thành, biến đổi, tn ti, tan dit
vong). Quá trình đó phổ biến khp vn vật, trong vũ trụ, phương thc
thay đổi chất ng ca s vt và hiện tượng.
Pht giáo trong quá trình gii thích s biến hoá vô thường ca vn vt,
đã xây dựng nn thuyết nhân duyên”. trong thuyết “nhân duyên” ba khái
nim ch yếu là Nhân, Qu và Duyên.
1
(1) Dẫn theo Đoàn Chính - Lương Minh Cừ - LSTH ấn Độ c đại 1921
lOMoARcPSD| 40419767
8
- Cái phát đng ra vt gây ra mt hay nhiu kết quảnào đó,
đưc gi là Nhân.
- Cái gì tp li t Nhân được gi là Qu.
- Duyên: Là điều kin, mi liên h, giúp Nhân to ra
Qu. Duyên không phi một cái đó cụ thể, xác định s tương
hợp, điều kin đ giúp cho s biến chuyn ca vn Pháp.
Ví d ht lúa là cái qu của cây lúa đã thành, mà lại là cái nhân ca cây
lúa sp thành. Lúa mun thành cây lúa bông li phi nh điu kin
nhng mi liên h thích hợp như đất, nước, không khí, ánh sáng. Nhng yếu
t đó chính là Duyên.
Trong thế gii sinh vật, khi đã gii thích v nguyên nhân biến hoá
thường ca nó, t qkh đến hin ti, t hiện đại tới tương li. Pht giáo
đã trình bày thuyết “ Thập Nh Nhân Duyên” ( mười hai quan h nhân duyên)
được coi là cơ sở ca mi biến đi trong thế gii hin sinh, mt cách tt yếu
ca s liên kết nghip qu.
+ Vô minh: ( là cái không sáng sut, mông mui, che lp cái bn nhiên
sáng t).
+ Hành: ( là suy nghĩ mà hành động, do hành động mà to nên kết qu,
to ra cái nghip, cái nếp. Do hành động mà có thc y là hành làm qu cho
vô minh và là nhân cho Thc).
+ Thc: ( Là ý thc là biết. Do thc mà có Danh sc, y là Thc làm qu
cho hành và làm nhân cho Danh sc).
+ Danh sắc: ( tên hành ta đã biết tên ta thì phi hình
tên ca ta. Do danh sc Lc x, y danh sc làm qu cho thc làm
nhân cho Lc x).
+ Lc x hay lc nhp: ( sáu ch, sáu cm giác: Mắt, mũi, i, tai,
thân và tri thức. Đã có hình hài có tên phải có Lc x để tiếp xúc vi vn vt.
Do Lc nhp xúc - tiếp xúc. y Lc x làm qu cho Danh sc làm
nhân cho
lOMoARcPSD| 40419767
9
Xúc.)
+ Xúc: ( tiếp xúc vi ngoi cảnh qua sáu quan xúc giác gây nên
cm rng xúc, cm giác. Do xúc th y xúc làm qu cho Lc x
làm nhân cho Th.)
+ Th: (Là tiếp thu, lĩnh nạp, những tác động bên ngoài tác đng vào
mình. Do th có ái. y là th làm qu cho Xúc và làm nhân cho ái.)
+ ái: (Là yêu, khát vng, mong mun, thích. Do ái mà có Th. Do y, ái
làm qu cho Th và làm nhân cho Th.)
+ Th: ( ly, chiếm đoạt cho minh. Do th Hu. Do vy Th
làm qu cho ái và làm nhân cho Hu.)
+ Hu: ( tn ti, hin hu, ham, mun, nên dc gây thành cái
nghip. Do Hữu mà có sinh, do đó Hu là qu ca Th và làm nhân ca Sinh).
+ Sinh: ( Hin hu ta sinh ra thế gian làm thần thánh, làm người,
làm súc sinh. Do sinh mà có T, y là sinh làm qu cho Hu và làm nhân cho
T).
+ Lão t: ( già chết, đã sinh ra phải già yếu đã già phải
chết. Nhưng chết - sng là hai mặt đối lp nhau không tách ri nhau. Th xác
tan đi là hết nhưng linh hồn vn trong vòng vô minh. Cho nên li mang cái
nghiệp rơi vào vòng luân hồi ( kh não).
Thp nh nhân duyên như nước chy kế tiếp nhau không bao gi cn,
không bao gi ngừng, nên đạo Pht Duyên Hà. Các nhân duyên t tp nhau
li mà sinh mãi mãi g là Duyên hà mãn. Đoạn này do các duyên làm qu
cho đoạn trước, ri lại do các duyên mà làm nhân cho đon sau.
Bi 12 nhân Duyên mà vn vt c sinh hoá vô thường.
- Mi quan h Nhân - Duyên mi quan h bin chngtrong
không gian thi gian gia vn vt. Mi quan h đó bao trùm lên toàn b
thế giới không tính đến cái ln nhỏ, không tính đến s giản đơn hay phức
tp. Mt ht cát nh đưc to thành trong mi quan h nhân qu ca toàn
vũ trụ. C vũ trụ hoà hơp tạo nên nó.ng như nó hoà hợp to nên c vũ trụ
lOMoARcPSD| 40419767
10
bao la. Trong mt tt c trong tt c mt. Do nhân Duyên vn vt
sinh hay dit. Duyên hp thì sinh, Duyên tan thì dit.
Vn vât sinh hoá vô cùng là do các duyên tan hp, hp tan ni nhau
mà ra. Nên vn vt ch tn ti dạng tương đối, trong dòng biến hoá tn
thường thc th, vô bn ngã, ch o. Ch s biến đổi thường
ca vn vt, vn s theo nhân duyên là thường còn không thay đi.
Do vy toàn b thế giới đa dạng, phong phú, nhiu hình, nhiu v cũng
ch dòng biến hoá ảo cùng, không tờng định, thc,
không thc sinh, diệt, người, mình, cnh, vt, không gian,
thời gian. Đó chính cái chân cho ta thấy được cái chân thế tuyệt đi
của trụ. Thấy được điều đó gọi “ chân như” là đạt ti cõi hnh phúc, cc
lc, không sinh, không dit, niết bàn.
Thế gii của chúng sinh (loài người) cũng do nhân duyên kết hp
thành. Đó là sự kết hp ca hai thành phn: Phn sinh lý và phn tâm lý.
- Cái tôi sinh tc th xác, hình cht vi yếu t “sắc” ( địa, thu,
hoá, phong ) tc là cái cảm giác đưc.
- Cái tôi tâm lý ( tinh thn ) linh hn tức “tâm” với 4 yếu t ch
có tên gi mà không có hình cht gọi là “ Danh”.
Trong “Sắc’ gồm nhng cái nhìn thấy được cũng nnhững th không
nhìn thấy được nếu nó nm trong quá trình biến đổi của “sắc” gọi là “vô biến
sắc” như vật cht chuyển hoá thành năng lượng chng hn.
Bn yếu t do nhân duyên to thành phn tâm lý ( tinh thn ) ca con
người là:
+ Th: Nhng cm giác, cm th v kh hay sướng, đưa đến s xúc
chạm lĩnh hội thân hay tâm.
+ Tưởng: Suy nghĩ, tư tưởng.
+ Hành: ý muốn thúc đẩy hành động.
+ Thc: Nhn thc, phân biệt đối tượng tâm lý ta là ta.
lOMoARcPSD| 40419767
11
Hai thành phn to nên t ngũ uẩn do Nhân - Duyên to thành mi
sinh vt c thdanh và sc. Duyên hp ngũ uẩn thì là ta. Duyên tan ngũ
un thì dit. Quá trình hp tan ngũ uẩn do Nhân - Duyên là vô cùng tn.
- Các yếu t của ngũ uẩn cũng luôn luôn biến hoá theo qui lut nhân
hoá không ngng không ngh, nên mi sinh vật cũng chỉ vt mt, vt còn.
Không s vt riêng bit, c đnh, không cái tôi, cái tôi hôm qua không
còn là cái tôi hôm nay. Kinh Phật có đoạn viết “ Sắc chng khác không, không
chng khác sc, sc là không, không là sc. Th, Tưởng, Hành, Thức cũng đều
như thế”.
Như vậy thế gii biến ảo thường, định. Ch những cái đó
mi là chân thực, vĩnh viễn, thường hng. Nếu không nhn thức được nó thì
con người s lầm tưởng ta tn tại mãi mãi, cái cũng thường định, cái
cũng của ta. Do đó, con người c khát ái, tham dc c mong mun
hành động chiếm đoạt to ra kết qu kết qu đó thể tt, có th xu
gây nên nghiệp báo, rơi vào bể kh trin miên không bao gi dt.
S nỗi kh do qui định ca Lut nhân qu. thế ta không
thấy được cái lut nhân bn ca mình ( bn th chân thực ). Khi đã mắc vào
s chi phi ca Lut Nhân Duyên, thì phi chu nghip báo kiếp luân hi,
luân chuyn tun hoàn không ngng, không dt.
Nghip luân hi không nhng ch nhng khái nim ca Triết hc
Pht giáo mà có t trong Upanishad.
Nghip ch phn Karma cái do nhng hoạt động ca ta, do hu
qu vic làm của ta, do hành đng ca thân th ta. Được gọi thân nghiệp”,
còn hu qu ca nhng li nói ca ta, phát ngôn của ta thì được gọi làg khẩu
nghiệp”. Hay những cái do ý nghĩ của ta, do tâm tue của ta gây nên được gi
là ‘ý nghiệp”. Tất c nhng thân nghip, khu nghip, ý nghip là do ta tham
dc thành, do ta mun tho mãn tham vng ca mình gây nên. S ta
tham dục ta chưa hiểu đươc chân bản vn của ta cũng như vn vt
luôn luôn biến đổi không có gì là thường định và vĩnh viễn c.
lOMoARcPSD| 40419767
12
Cuộc đời con người s ghánh chu hu qu ca nghiệp đương thời
và các kiếp sống trước ri nó tiếp tc chi phi c đời sau.
Nghip báo trong một đời s tng hp ca các nghip gây ra trong
hin ti cng vi các nghip gây ra trong quá kh, nó quyết định đời sau xu
hay tt, thin hay ác.
Luân hi: Ch phạn Samsara. nghĩa bánh xe quay tròn. Đo
pht cho rng, sau khi mt th xác sinh vật nào đó chết thì linh hn s ch
ra khi th xác và đầu thai vào mt sinh vt khác nhp vào mt th xác khác
(có th con người, loài vt thm chí c y). C thế mãi do kết qu, qu báo
hành đng ca nhng kiếp trước gây ra. Đó cũng cách giải căn nguyên
ni kh đời con người.
Sau khi lý giải đưc ni kh cuộc đời con nời là do “ thập nh nhân
duyên” làm cho con người rơi vào bể trầm luân. Đạo Phật đã chủ chương tìm
con đường dit khổ. Con đường giải thoát đó không những đòi hỏi ta nhn
thức được nó mà cao hơn ta phải hành động, phi thm nhun t diu đế.
T diệu đế: bn s tht chc chn, bn chân lớn, đòi hỏi chúng
sinh phi thu hiu và thc hin nó. T diu đế gm:
1. Kh đế: Con người vn vt sinh ra kh, ốm đaulà khổ, già
yếu kh, chết kh, ghét nhau phi sng gn nhau kh, yêu nhau
mà phi chia lìa nhau là kh, mt là kh mà được cũng là khổ. .... Nhng ni
kh y t đâu? chúng ta tiếp tc tìm hiu Tp đế.
2. Tập đế: Tp tp hp, t tp li thành. Vy donhng t
tp li mà to ra ni kh cho chúng sinh?
Đó là do con người có lòng tham, dâm (gin d ), si ( si mê, cung mê,
mui) và dc vng. Lòng tham dc vng của con người xâu do con
người không nắm được nhân duyên. Vn như là một định lut chi phi toàn
trụ. Chúng sinh khômg biết rng mi cái o nh, sc sc, không không.
Cái tôi tưởng là có nhưng thực là không. Vì không hiểu đưc ra ni kh trin
miên, t đời này qua đi khác.
lOMoARcPSD| 40419767
13
3. Diệt đế: phi thu hiểu được Thập nh nhânduyên” để tìm
ra được căn nguyên của s kh - để dt b t ngọn cho đến gc r ca cái
kh. Thc cht là thoát khi nghiệp chướng, luân hi, sinh t.
4. Đạo đế: Là con người ta phải theo đế dit kh, phảiđào sâu suy
nghĩ trong thế gii ni tâm ( thc nghim tâm linh ). Tuy luyn tâm trí, đặc
bit thực hành YOGA để đạt ti cõi siêu phàm cao nhất đt ti cõi
phận đạt tới trình độ giác ng bát nhã. Ti chừng đó s thấy được chân
như và thanh thản tuyệt đối, hết ham mun, hết tham vng tầm thường, tc
là đạt tới cói “niết bàn” không sinh, không diệt.
Thc hiện Đạo đếmt quá trình lâu dài, kiên trì, gi ngun gii lut
tập trung thiên định cao độ Phật giáo đã trình bày 8 con đường hay 8 nguyên
tắc ( Bát chính Đạo buc ta phi tuân th bát chính đạo gm:
- Chính kiến: Phi nhn thức đúng, phân biệt được phitrái, không
để cho nhng cái sai che lp s sáng sut.
- Chính tư duy: Suy nghĩ phi, phi chính, phải đúngđắn.
- Chính nghiệp: Hành động phi chân chính, phải đúngđắn.
- Chính ng: Nói phải đúng, không gian di, không vuoan cho
người khác.
- Chính mnh: Sng trung thc, không tham lam, v li,gian tà,
không được b điều nhân nghĩa.
- Chính tnh tiến: Phi n lực, siêng năng học tp, ýthức vươn
lên để đạt ti chân lý.
- Chính nim: Phải luôn luôn hướng v đo chânchính, không
nghĩ đến những điều bạo ngược gian ác.
- Chính định: Kiên định tập trung tưởng vào conđường chính,
không b thoái chí, lay chuyển trước mi cán d.
Mun thc hiện được Bát chính đạo” thì phải phương pháp đ
thc hin nhằm ngăn nga những điều gian ác gây thit hi cho mình
những người làm điu thin lợi ích cho mình cho người. Ni dung ca
lOMoARcPSD| 40419767
14
các phương pháp đó thực hiện Ngũ giới” ( năm điều răn ) Lục độ” (Sáu
phép tu ).
- “Ngũ giới” gồm:
+ Bt sát: Không sát sinh
+ Bất đạo: Không làm điều phi nghĩa.
+ Bt dâm: Không dâm dc.
+ Bt vng ng: Không bịa đặt, không vu oan giáo ho cho k
khác, không nói di.
- “Lc độ” gồm:
+ B thí: Đêm công sc, tài trí, ca cải đ giúp người mt cách
thành thc ch không để cu li hoặc ban ơn.
+ Trí gii: Trung thành với điều răn, kiên trì tu luyện.
+ Nhn nhc: Phi biết kiên nhẫn, nhường nhn, chịu đựng để
làm ch đưc mình.
+ Tnh tiến: C gng n lực vươn lên.
+ Thiền định: tưởng phi tập trung vào điều ngay, chính
không để cho cái xu cho lp.
+ Bát nhã: Trí tu thy rõ hết, hiu thu hết mi chuyn trên thế
gian.
Tóm li: Pht giáo cho rng ch có bng s kiên định đ thc hiện “Bát
hành đạo”, “Ngũ giới”, “Lc độ” thì chúng sinh mới có th gii thoát mình ra
khi ni kh. Pht giáo không ch trương giải phóng bng cách mng xã hi.
Mc dù Pht giáo lên án rt gay gt chế độ người bóc lột người, chng li ch
nghĩa duy tâm cua Bàlamôn giáo. Đó một trong những nhược điểm đng
thời cũng ưu điểm na vi của Đạo phật. Đứng trước b kh ca chúng
sinh Pht giáo ch trương cải to tâm linh ch không phi ci to thế gii
hin thực. Như vy Pht giáo nguyên thu tưởng thn, ph nhn
đấng sáng to ( vô ngã, vô to giả) và có tư ng bin chứng ( vô thưng, lý
thuyết Duyên khi ). Tuy nhiên, Triết hc Phật giáo cũng thể hin tính duy
lOMoARcPSD| 40419767
15
tâm ch quan khi coi thế gii hin thc o gi do cái tâm minh ca
con người to ra.
1.3 S truyn bá Pht giáo trên thế gii
Trước khi Thích ca Mâu Ni t thế, các khu vc truyền bá Đạo Pht ch
yếu miền Trung lưu vực Sông Hằng, đc bit xung quanh các khu vc thành
ph ln mi ni lên. Sau khi ngài t thế, các thế k trc tuyến ca ngài đã
đem Đạo Pht m rộng đến h lưu sông Hằng v phía Đông, phía Nam đến
b sng Caođaveri, phía Tây đến b bin Arp, phía Bc ti khu vc Thaiysiro.
thi k thng tr ca vua Asôca thuộc vương triều Maurya, Đo pht bt
đầu phát trin ti các ng bin ca th Đại lục, Đông tới Miama, Nam ti
Xrilanca, Tây ti Xyri, Aicp .... Nhanh chóng tr thành tôn giáo mang tính thế
giới. Sau khi vương triều Casan (kushan) hưng khởi li truyn tới Iran, các nơi
trung tâm Châu á, rồi qua con đường tơ lụa truyn vào Trung Quc.
Các nơi khác: Mấy năm gần đây mt s ớc như: Italya, Thuỵ s,
thu Đin, Tip .... Vic nghiên cu Đạo Phật cũng rất sôi nổi, đã xây dựng
nên không ít sở nghiên cu Pht giáo trung tâm nghiên cu Pht hc.
Ví d s nghiên cu Trung Đông, Viễn Đông Italia, dưới s ch trì của Đỗ K
đã biên tập xut bản sách La với Đông Phương” ( Đến năm 1977
đã xuất bản được 51 loại ) trong đó bao gm rt nhiều trước tác phm Pht
giáo.
Nhưng trong các quc gia này s tín đồ không nhiu lm ch chiếm
s ít phần trăm trong tổng s dân. Ngay c trong s người ni tiếng trên thế
giới ngày nay cũng chọn Phật giáo làm đạo tu hành cho mình như cầu th
bóng đá Rôbettô Bagiô, Erie Cantôna, siêu sao màn bạc Richard Gere.
1.4 Tình hình phát trin ca Pht giáo
Trước đây Phật giáo được coi mt trong ba tôn giáo ln ca thế gii,
nhưng trong những năm gần đây do s suy yếu ca mt s quc gia, s tín
đồ Phật giáo đã tt xuống đứng sau Đạo Đốc, Đạo Ixlam Đạo ấn Độ,
chiếm v trí th tư. Căn cứ thng của Bách khoa toàn thư Đc giáo
thế giới” xuất bn Oxford năm 1982, toàn thế gii hin có 295.570.780 tín
lOMoARcPSD| 40419767
16
đồ Pht giáo. Con s này so với năm 1972 đã tăng lên 50.000 người ( năm
1972 244.800.300 người ). Tín đ Pht giáo phát trin so vi tng s dân
trên toàn thế gii là rt nh bé. ới đây là tình hình phân bố của tín đồ Pht
giáo: ( s liệu năm 1982 )
S tín đồ Pht giáo
(người )
143.359.570 150.927.990
Bc M 189.850 0,11
Châu Âu 212.320
Châu Đại dương 17.190 0,1
Châu Phi 12.610 0,1
Tng cng 295.570.780
Trên thc tế hin nay s ợng tín đồ Pht giáo trên thế giới đã tăng
lên rt nhiều, ưc chng khong trên 50 triệu người.
Sau chiến tranh thế gii th hai, Pht giáo các nơi trên thế giới đã
tri qua nhng biến đổi khác nhau, đã xut hin mt s đặc điểm mi.
lOMoARcPSD| 40419767
17
II. Mt s ảnh hưởng ca phật giáo đến xã hội và con ngưi Vit
Nam:
2.1 Pht giáo vi xã hội và con người Việt Nam xưa kia:
Đạo pht truyền vào nước ta khong thế k II sau công nguyênđã trở
thành mt trong nhng h tư tưởng. Tôn giáo có sc sng lâu i, tn ti cho
đến mãi ngày nay, đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sng hi và tinh thn ca
người Vit Nam
Vào lúc này, mặc đang phải chng li các thế lc thực dân phương
bc, nhân dân Vit Nam vẫn đủ thông minh, tỉnh táo đ tiếp nhận Đạo Pht
đến vi dân tc ta bng tinh thn hoà bình, hu ngh
S tiếp nhận đạo pht trong hoàn cảnh như vậy, không th b qua vn
đề ni dung của đạo phật. Điều đó nghĩa bản thân đạo pht phi
nhng nội dung nào đó mà nhân dân Vit Nam có th chp nhận được. đây
chính là ni dung ca hai nền n ngưỡng nét ging nhau, l do nhng
nét ging nhau mà có s hp nht tạo nên các chùa pháp vân, pháp vũ, pháp
nôi, pháp điện. Tức tín ngưỡng phật và tín ngưỡng thn ca Vit Nam khi
đó có sự hp nht. Hình nh phật đã trở thành hình nh bt
Một điều th hiện đặc bit ph quát nhiều người đã nhắc đến
pht giáo vn d hoà hp với tín ngưỡng dân gian những nơi được
truyền bá đến . bc Việt Nam đặc điểm đó càng nổi bt. Nếu đặc điểm tôn
giáo Vit Nam là s th cúng t tiên (linh hồn người thân đã khuất ) thì pht
hay quan âm cũng được coi là mt th t tiên ( trong tâm thc dân gian vit
c, pht hay quan âm không phải là người “ngoại quốc ‘người khác tc ). Nếu
đặc điểm ca tôn giáo Vit Nam s th thn ( thế lc siêu nhiên ) mà con
người cũng cầu để nh s “phù hộ độ trì” thì phật hay quan âm cũng trở
thành mt loi thn, phật điện cũng trở thành mt th thần điện, tính m
linh ấn đ nhường bước cho tính tính Việt Nam ( hơn đâu hết, tôn giáo Vit
Nam nng v tính tình cảm hơn là giáo lý, giỏi luật, đoàn thể, tôn giáo )
Bụt ngưi Vit Nam không phi thun tuý vic phiên âm thut ng
Bonddha. Hình nh bt của người Vit Nam là s sáng to t hai nguyên liu
lOMoARcPSD| 40419767
18
tín ngưỡng phật tín ngưỡng thần linh đương thời ca người Vit Nam. Bt
có nhng nét ging và khác pht.Bt gig pht lòng t bi, bác ái, v tha đối
vi những ngưi b áp bc bóc lột.Nhưng bụt khác pht ch bt k người
nghèo nào gp tai nn, gp áp bc bt công mà cn ti bt, bt lp tc xut
hiện ngay để cu vt các v thần trong n nhưng lại có cái oai lc, uy quyn
hơn cả tri. Đối vi nhng người b áp bc tri quá xa, kêu tri khó thu,
còn các thn linh gần nhưng lại yếu đuối, bt lực trước nhng vic quá sc
ca mình qu là gần gũi ,công bằng vì pht không h chia cp bc. Có l ngày
xưa chưa có một người dân bình thường nào nghĩ đến khái niệm bình đẳng.
Nhưng đối vi pht h cũng thể mc cm sâu sa rng pht cái nhìn
ngang bng vi tt c chúng sinh. Vi pht, không ai tiu nhân, không ai quân
tử. Cũng không quân, không dân, chia cắt nhau bng các hàng rào cp
bc giai cp. Vi pht, còn c mt nim t bi bác ái, không hn hc, oán
ghét, phục thù. Đó cũng là điều phù hp vi bn cht dân tc Vit Nam. Tiếp
đó phật kêu gi s t giác, giac tha không những để gii quyết ni kh ca
mình còn phi cu nhân đ thế . Chăc chắn trong duy của người dân
bình thường, chưa ai băn khoăn tìm hiu thế nào bn ngã chân theo
nghĩa sâu xa của pht học. Người ta ch thy đây một ch nghĩa nhân đạo
ln lao và phn tích cc. thc hiện đưc hay không là vấn đề khác mà
chúng ta cần xem xét, để phê phán giá tr ca hc thuyết này. Nhưng đây
thì ràng đó những điểm chính yếu m cho pht giáo gắn đưc vi
qun chúng.
Tâm lý dân gian Vit Nam ta thiên v s cân bng, s đắp. Ni kh
hôm nay phải được đền bng s sung ng ngày mai. tm trong c
tích tri qua bao gian nan cui cùng vẫn được hưởng hnh phúc.Phật giá cũng
ha hn với con người s đền không do quyn phép nào, ch da nào ca
nho giáo, cũng không do cán cân phúc tội của đạo gia, do chính n lc ca
bản thân mình. Người dân bình thường x ta phn bn chất cũng quan
nim nhn thức như vậy, chăc chắn không phi vì do h quán trit thuyết
bát chánh đo ca nhà thin. Mặc bát chánh đo không thn bí,
lOMoARcPSD| 40419767
19
nhưng dễ đã mấy ông nhớ đủ tám đường mà pht t đã đề ra.Vấn đ
cái tinh thn quàn xuyến rút t bát chánh đạo.Tinh thn y là s c gng
tu dưỡng, vun thêm cho bn thân mình. h cũng mong mỏi mt s đền
bù này, khi thy pht t vch ra cho h và khẳng định điều tt nhiên s đến .
Tuy nhiên, không phi phật giáo đi được vào qun chúng,mt s gn
sâu sa nhất đnh, mà không mt s thẩm định, chn la nào la chọn để
chi b hoặc đng hoá nữa. Đối vi pht giáo s la chn này bao hàm c ý
nghĩa phê phán. Ngày nay, chúng ta th ch ra được nhiu khuyết điểm ca
nho, pht, lão góc độ chính tr hay tưởng triết học.Dân gian a không
điều kiện hay trình độ để làm vic y, song khi h chp nhn, chi b hoc
biến hóa những giáo để thích nghi vi trình đ duy, với các sinh hot ca
h tc h đã lộ cái ý đồng hay không đồng. th nói rằng văn hoá Việt
Nam hoá phật hơn hoá phật hoá. Phật giáo đến Vit Nam dù là pht giáo
nguyên thu hay đa dạng sau này bi tiu thừa hay đo tha thì vn nht
phi nhp với tín ngưỡng bản địa. Để biến man nương thành phật mu, lan
thành quan âm không cn phi to ra xung quanh nhân vt y nhng
huyn bí thn k cho lm.
Pht giáo còn mt s kiện văn hoá, phật giáo t ấn đ đưc truyn
vào Vit Nam vn không phi mt s kiện đơn độc mà kéo theo nó là cái nh
ng ca tng th văn hoá ấn đ đối vi Vit Nam c. Mc dù chúng ta còn
ít nghiên cu hiu biết v văn hoá việt- ấn nhưng chắc chn ảnh hưởng
của văn hoá ấn độ lên Vit Nam din ra trên nhiều lĩnh vc :
Nông nghiệp, ydưc, âm nhạc vũ đạo ngôn ng.
Điu quan trọng văn hoá Việt Nam c tiếp thu mt liều lượng quan
trọng văn hấn độ qua ng đưng pht giáo, vào sut thi bc thuc
chng bc thuc, khi ảnh hưởng văn minh trung hoa tràn lan đất nước Vit
Nam và mang khuynh hướng đồng hoà rõ rt.
V khách quan, ảnh hưởng của văn hoá ấn độ là một đối trng của văn
hoá trung hoa trên đất vit. Nó có tác dng trung hoà ảnh hưởng quá mnh
m của văn hoá trung hoa; góp sc cùng nền văn hoá Việt Nam c ngăn
lOMoARcPSD| 40419767
20
chn s đồng hoá của văn minh trung hoa, nó hi nhp làm giàu làm nên
cái khác của văn hoá việt với văn hoá trung hoa.
dụ: Như thăng long thời lý: Hoàng thành Long Phượng m bn ca
nếu ca phía bc th thành trần trn mt v thn linh trung hoa
đưc nhp nội vào đất vit, thì của tây long thành được mang tên “quảng
phúc môn mở ra phía tây để mong phúc ln rng “phúc đng hà sa của Đức
Pht Tây Thiên
Cũng vậy, Đạo Pht t n Độ đưc truyền bá vào đt Vit bui đầu thi k
Bc thuc v khách quan nói mt đối tượng ca Nho giáo. Đạo nho
cũng bắt đầu phát huy ảnh hưởng đất Vit t buổi đầu công nguyên vi
vic m trường nhằm giáo lễ nghĩa Trung Hoa” cho người Vit. Ta không
th ph nhn các mt tích cc ca Nho giáo, góp phần làm tăng tri thức người
dân, nhn mnh o Nhân, Nghĩa, ái. Nhưng sao đi nữa Nho giáo vn
mt công c ca tng lp thng tr Trung Hoa nhm nô dịch người nông dân
Trung Quc và các dân tc vùng ngoại vi để chế Trung Hoa lấn áp. Sao chăng
nữa, đề cao Nhân, Trí, Dũng những giá tr con người muôn tha thì
Nho giáo vẫn đặt cược bản vào L, Lgì nếu không phi thc cht
trt t “ Tiên học l hu học văn”, nghĩa là trước hết và trên hết phi hc tp
để tôn trng và duy trì trt t đng cp, trt t trên dưới: Vua - tôi, cha - con,
chng - v ( tam cương). Nếu hoàn toàn chp nhn Nho giáo trong thi Bc
thuc thì nói chung chng còn chng Bc thuc cả. Hãy cúi mình trước
thin mệnh trìu ng và thiên t Trung hoa c th:
Song ngưi Vit c, t tiên chúng ta vn mt ni lc t sinh qut
ng, bt khut, thích li sng riêng t do thun phác t thi Bc thuc,
mt li sống không quá ngăn cách giữa vua dân, mt li sng khá bình
đẳng giữa cha và con, bình đẳng gia v và chng. Bi vậy ngưi Vit c khó
lòng chp nhn ni trt t “ Cương thường “ của Nho gia. Nhưng người Vit
bình dân cũng khó lòng “ cãi lý” nổi vi những nho sĩ, Nho gia “Bụng đầy ch
nghĩa”. Họ ch còn biết dựa vào các sư sãi va có chữa nghĩa va bo v h,
Sao chăng nữa, đo Phật đã chủ trương bình đẳng, Phật đc Phật đã thành,
lOMoARcPSD| 40419767
21
chúng sinh là Đức Pht s thành, chúng sinh đều có Phật tính, đều bình đng
trước Pht. Nếu như Nho giáo Việt Nam dựng ra cái Đình ở làng quê vi mt
tiểu triều đình” trọng nam khinh n thì dân quê Vit Nam dng bo v
chùa, chùa làng của dân gian trưc hết giới đàn được loi khi sinh
hot Đình thể sinh hot thm chí tr thành lực lượng quan trng trong
sinh hot chùa làng.
Mặt khác, điu kin hội con người xưa kia cũng mở rng cho Pht
giáo d dàng du nhp so vi Trung Quc. Pht giáo khi du nhp Trung Quc
đã bị phn ng mãnh lit ca tâm lý dân tc, truyn thống văn hoá, đặc bit
là ý thc h Nho giáo. Trong khi đó Pht giáo vào Việt Nam tương đối thun
li, phát trin nhanh chóng, hầu như không bị phn ng sâu sc tr mt s ít
Nho s thi Trn, H. hi Vit Nam khi tiếp nhn Pht giáo t ấn Độ hay
Trung Quốc sang chưa sự phân chia gay gắt đối kháng kch lit, mi
quan h ca Tông tộc gia đình chưa chịu ảnh hưởng ca lý thuyết Tam cương
nng nề. Điều này khiến Pht giáo khi thâm nhp không b phản đối. Song lý
do chính l do Phật gia khi vào đây chưa gây một đảo ln, mt biến cách,
không ph nhn nhng giá tr tinh thn, phong tc tp quán ca từng người,
từng gia đình, của xã hi. Vì vậy người Việt bình dân đã khá dễ dàng hp th
cái triết lý nhân sinh quan của Đạo Pht, không biết có quá không nhưng một
nhà Pht hc ca Vit Nam đã nói phần đúng rằng thi Bc thuộc Đạo
Phật đã thấm vào lòng người dân Việt n nước thấm vào lòng đt.
Dòng Pht giáo có ảnh hưởng sâu sc và lâu dài trong xã hi Vit Nam
là Thin Tông. Thin Tông có mt s đặc điểm mà dân gian d chp nhn.
+ Pht giáo Thin Tông ít bàn v lun chuyn sang tông phong
phong cách tu hành. Thin Tông ch trương “ Bt lập văn tự, giáo ngoi bit
truyn trc ch nhân tâm, kiến tính thành pht, tc tâm th Phật”. Như vy
ch chương của Thin tông là lôi kéo thế giới Tây Phương cực lc v trn thế,
đặt nó trong lòng con người, tâm th Pht.
+ Thin tông ch trương lao động theo thanh qui của Bách Trượng (
720-814) : Nhất nht bt tác, nht nht bt thực” ( một ngày không làm,
lOMoARcPSD| 40419767
22
một ngày không ăn) ly vic phc v hội làm điều kiện tu hành. Điều
này khiến cho các tăng nhân không phải là mt tng lớn ăn bám xã hội.
Thin tông li chp nhn s bn kh coi s chịu đựng bn kh cũng là
cách tu hành.
Chp nhn bn kh lao động điều khiến Thin Tông d đi vào nông
thôn, d bám vào làng xã, đứng được trong làng quê.
+ Thiền tông khi còn đi xa hơn na, cho phép sát sinh, giết người,
giết mội người cứu được muôn người qu điều phúc. Pht t không
hoàn toàn là người b động mà có th vùng lên chng áp bc bóc lt. Do vy
Vit Nam thi phong kiến cũng có nhiều cuc ni dy giành chính quyn do
nhà sư lãnh đạo.
Pht giáo li biết m ly làng bng nhiu hoạt động c th t
chc, kết hp với tín ngưỡng bản đa, hội hè. Nhà và ngôi chùa có vai trò
quan trng trong đời sng dân gian c truyn. Bc B trước đây hầu như
làng nào cũng chùa. Ngoài th Pht, chùa còn thêm tín ngưng dân gian
th thn tiên, th các v ng công với nước. Ngôi chùa tr thành mt
trung tâm văn hoá ở nông thôn. Có th nói Phật giáo đã góp phần làm phong
phú thêm nền văn hoá dân tộc. Nho giáo v mặt nào đó làm cho tưởng
văn hoá khô cng thì Pht giáo phn làm mền hơn, phong phú sinh
động hơn. Hội chùa cũng như hội làng là tiêu biu cho s h hi ca công xã,
mt dịp để con người được gii phóng tình cm, hoà cái ta ca mình vào
cái ta ca làng xã, không b giáo khuôn phép to chiết tâm hn.
i mái nhà chùa vẫn được phép giao lưu tình cm. Bao nhiêu câu
chuyện tình duyên đằm thắm đã xảy ra bên cnh ca thin. Thế ra ca t bi
không h nghiêm ngặt như chốn sân Trình ca Khng. Pht chng nhn cho
cuc sng hn nhiên ca làng xã.
Do Pht giáo bám sâu vào làng nên sc sng lâu bền tương đối
ổn đnh. Vào thi k Trn Pht giáo thịnh vượng nhất, được nhà nước nâng
đỡ, t thi H và Lê sơ về sau Pht giáo b gim sút ( Nho giáo v trí thng
lOMoARcPSD| 40419767
23
tr chi phối), nhưng Phật giáo vn c duy trì m rng khp nông thôn,
bi l Phật giáo có sơ sở làng xã vng vàng.
Pht giáo Việt Nam đã trải qua mt vn mnh thnh suy, Nhà Phật đâu
s thịnh suy” mà “thịnh” theo cái nghĩa được nhà c quân ch Trn
nâng đỡ bo tr .... Cũng chính vì Phật gia được chính quyền quá ưu ái
sinh hot nhà chùa tr nên xa hoa, sa đoạ, trái ngược với đời sống Đức Pht
chi b sinh hoạt cung đình, trái ngưc vi giới luât Bách Trưng t lao động
sinh sng gin d để d b gi phút đến ng thành Phật”. “Suy” theo
nghĩa bản mt s ng h ca chính quyền. Nhưng suy thượng tng thì
li to ra dân chúng làng quê các cơ sở h tng, nếu đừng quá kht khe
cứng độ trong nguyên lý thì th khái quát rng Pht giáo Lý Trn Pht
giáo quý tc, còn Pht giáo - Nguyên v sau Pht giáo dân gian. T ch
tr thành dân tc t trước, sau thế k X, Pht giáo Việt Nam đã trở thành dân
gian, nhân gian - hay là đã được dân gian hoá sau thế k XV.
Đạo pht có th mất đi, như mọi hiện tượng thường. Song cái tinh
tuý của văn hoá Phật giáo đã được dân tc hoá dân gian hoá thì mãi mãi
trường tn.
2.2 Pht giáo vi xã hội và con người Vit Nam ngày nay.
Ngày nay, mc rt nhiu tôn giáo xut hin Vit Nam nThiên
chúa giáo, Đạo Cao Đài, Hoà Hảo, Cơ đc giáo, ... ngoài ba tôn giáo chính t
xưa. Nhưng Phật giáo vn gi mt vai trò hết sc quan trọng trong đi sng
hi tinh thần người Việt Nam. Nhìn vào đi sng hi tinh thn
người Vit Nam trong thi gian qua, ta thy qua nhiu biu hin Pht giáo
đang được phc hi và phát trin. nhiều vùng đất nước s người theo Pht
giáo ngày càng đông, s gia đình Phật t xut hin ngày càng nhiu, l hi
Pht giáo sinh hot Pht giáo ngày mt v trí cao trong đời sng tinh
thn xã hi, s sãi được đào tạo t các trường Pht hc ngày càng nhiu,
s kinh sách xut bản hàng năm cũng tăng, ta có thể tham kho bng s liu
sau:
Bng s liệu năm 1999.
lOMoARcPSD| 40419767
24
Hơn lúc nào hết trong my chục năm lại đây người Pht t Vit Nam
rất chăm lo đến vic thc hin các nghi l của đạo mình. H hay lên chùa
trong các ngày c, cng, h trân trng thành kính trong khi thi hành l, h
siêng năng trong vic thiền định, gi gii, làm vic thin. Việc ăn chay hàng
tháng tr thành thói quen không th thiếu của người theo Đạo pht. Mt
khác nhà chùa sn ng thc hin các yêu cu ca h như cầu siêu, gin oan,...
Tt c những điều này cng c nim tin vào giáo lý, vừa qui định duy
hành động ca h, tạo cơ sở để hình thành nhng nhân cách riêng bit.
Thời đại ngày nay, thời đại phát triển. Nước ta va tri qua my chc
năm chiến tranh và hàng chục năm sống dưi chế độ quan liêu bao cấp, đi
sng còn nghèo nàn, lc hu vn cần đến s phát trin. Phát triển có nghĩa
s tăng trưởng nhanh chóng v kinh tế, đời sng vt chất văn hoá. Đảng
nhà nước đã chỉ ra nhim v trưc mắt làm dân giàu, nước mnh, xã hi
công bằng văn minh. Để đạt mục tiêu này nước ta cn nhng người
tham vng lớn, năng đng, lạc quan, tin tưởng, dũng cmở rng sáng to.
Nhng phm cht này phn ln trái vi giáo nhà Pht, tham vng trái vi
lOMoARcPSD| 40419767
25
cm dc, dc, ly dc ca Nhà Pht ... vy vic cn làm hin nay phi
xác định Pht giáo ảnh hưởng đến h tưởng của người Việt Nam như
thế nào đ t đó đưa ra những chính sách phát trin phù hp vi lòng dân,
làm cho xã hi ngày càng phát trin tiến b và tốt đẹp hơn.
2.3 ảnh hưởng ca Pht giáo ti thế h tr.
Ngày nay c ta Pht giáo không còn v trí chính thống Nhà trường
các cp hc ph thông không có chương trình ging dy lch s, triết lý, đạo
đức Pht giáo mt cách h thng. S gia đình Phật t cũng không còn đông
như trước đây. Sinh viên các trường Đại hc ch nhận được rt ít kiến thức
b v Pht giáo thông qua b môn “lịch s triết học Phương Đông”, trừ nhng
khoa chuyên ngành Triết hc. thế phn ln nhng hiu biết ca chúng ta
v Phật giáo trước hết là chu ảnh hưởng t nhiên của gia đình, sau đó từ
bn bè, thy cô nhng mi quan h xã hội khác. Trong đó ảnh hưởng ca
gia đình có tác động ln lên mi chúng ta. Nếu trong mỗi gia đình mọi người
đều theo đạo pht hoc không theo một tôn giáo nào nhưng vẫn gi tp tc
quan trọng đi lễ chùa vào nhng ngày âm quan trọng như ngày Tết, l, rm
... Người già thường nói chuyn vi con cháu v Đức Pht, B Tát, v đạo
làm người da vào các giáo Pht giáo. Những suy nghĩ quan nim này
th phai nht, thậm chí đi ngược li khi ta gp một trào lưu ng mi,
đem li mt thế gii quan mi t trong môi trường gia đình chúng ta phần
nào đó chịu ảnh hưởng của đạo phật nhưng không sâu sắc như các triều đi
trước mục đích tìm đến Đạo phật không còn mang tính hướng đo chân
chính như trước kia na. Do nhiu nguyên nhân nhưng trước hết do s xâm
nhp ca nhiều trào lưu tư ng, hc thuyết Phương Tây vào nước ta cách
đây vài ba thế kỷ. Đặc bit là s giác ng lý lun Mác - Lênin, ch nghĩa cộng
sn ca giai cp công nhân quần chúng nhân dân lao động đã tạo tiền đề
xây dng h thống tưởng, nguyên tắc hành động cho phong trào cách
mng ca nhân dân Vit Nam, lấy đó làm khí chính tr kết hp với đấu
tranh vũ trang. Đảng ta rt chú trng vic truyn bá hc thuyết này cho qun
chúng nhân dân nhất là đối tượng thanh thiếu niên, những người ch tương
lOMoARcPSD| 40419767
26
lai của đất c. Chính vy, thanh thiếu niên, chúng ta ngày nay khi ri ghế
nhà trường được trang b không nhng kiến thc để làm vic mà còn c kiến
thc v lý lun chính trị. Điều này giúp ta nhn thức được v cơ bản gia
hình tưởng nhân đo ca Pht giáo ch nghĩa cộng sn là: Mt bên
duy tâm, mt bên duy vt. Mt bên dit dc triệt để bng ý chí và coi dc là
căn nguyên của mi ti li, bên kia thì c gng tho mãn nhu cu ngày càng
tăng của con người bằng lao động với năng suất và chất lưng cao nhm ci
to thế gii, coi nhm ci to thế giới, coi đó là tiêu chuẩn đánh giá tính nhân
đạo thc s tiến b ca xã hi, mt bên ha hn mt mô hình niết bàn bình
đẳng t do cho tt c mọi người, t bi bác ái như nhau, không còn bị ràng
buc bi các nhu cu trn tc, còn bên kia khẳng định mô hình tưởng cho
mọi người lao động, coi lao động nhu cu sng ch không phải phương
tin sống, lao động không còn ngun gc ca kh đau, qua lao đng con
người hoàn thin c bn thân và hoàn thin c xã hi.
Đấy là những tư tưng tiến b ca ch nghĩa Mác - Lê nin. Nó phù hp
vi xu thế phát trin ca thời đại, ca hội. Do đó, nhanh chóng được
thanh niên ng h, tiếp thu. Do mt s quan điểm ngược li nên tt yếu
Pht giáo không còn gi một vai trò như trước đây nữa.
Mt khác, vi s phát trin mnh m ca khoa hc công ngh, mọi lĩnh
vực trong đời sống con người đều có bước nhar vt. Xu thế toàn cu hoá th
hiện ngày càng nét. Điều kiện đó đòi hỏi con người phi hết sức năng động,
nhanh nhy nm bt vấn đ trong cuc sng. Trong khi đó, theo giáo lý nhà
Phật con người tr nên không tham vng tiến thân, bng lòng vi nhng
mình đã có, sống nhn nhục, không đấu tranh, ng ti cõi niết n khi
cuc sng trần gian đã chấm dứt. Như vậy đạo đức Phật giáo đã tách con
người ra khỏi điều kin thc tin của con người xã hội, làm cho con người có
thái độ chp nhn ch không phi ci to thế giới. Đạo đức xut th ca
Pht giáo chy trn nhu cu bản năng ch không phi chế ng thiên nhiên,
bt phc v cho mình. Các chương trình hội ca Pht giáo không phi
ci to lại điều kin sng ch để c san bng hi bằng đạo đức, trong
lOMoARcPSD| 40419767
27
xã hội đó ai cũng từ bi, bác ái, h x, nhn nhục ... Đạo đức nhà Pht b gim
rng mt giá tr nhân đạo nh chính thái độ yếu thế này, khi nhng nhu cu
v th xác b coi là trn tục, kém đạo đức. Nht là trong cuc sng ngày nay,
khi mà con người đã đạt được mt trình độ nhất đnh, quan nim trên càng
không th chp nhận được.
Do đó, ảnh hưng ca Pht giáo càng xa ri thế h tr.
Chúng ta cũng nhận thy rng, ngày ngay nhng người đi chùa hầu hết
không có đ tri thc v Pht giáo cho nên khó có th giáo dục đạo Pht mt
cách t giác, tích cc trong hội và gia đình. Phật giáo bác học cũng b mai
mt nhiều, không còn phát huy vai trò hướng đạo. Các cao tăng chưa ý thức
đưc hết vai trò ca h trong vic xây dng hoàn thin nhân cách con người
Vit Nam. Chng hn các bui giảng kinh đàm đo các bui l trên chùa chưa
đưc t chc theo tinh thn khai thác nhng tinh thuý của đạo lý Pht giáo,
phn nhiu theo th hiếu: Cu an, gii hn, cu lc ... ca gii bình dân.
Phật giáo bình dân cũng sa sút. Người dân lên chùa thường quá chú trng
đến l vật, đến các ham mun tầm thường. Do không được giáo dc đầy đủ,
đúng đắn giáo lý nhà Pht, s đông thanh thiếu niên đã đua theo thị hiếu ca
mọi người. H đến chùa cúng bái, thắp hương i xin phật, B Tát, La Hán
phù h độ trì cho h đạt được mong mun ca mình. Nhng mong mun y
thường chuyn hc hành, tình cm, sc kho, vt cht ... hoặc hơn nữa, h
coi đến chùa ch hình thức đi chơi, gii trí vi bạn kèm theo đó sự
thiếu nghiêm túc trong ăn mặc, đi đứng, nói năng. Số ng hc sinh, sinh
viên nói riêng cũng như số ợng người dân đi chùa gần đây càng đông, song
xem ra ý thc cu thin, cu mnh v ni tâm còn quá ít so vi nhng mong
muốn lợi. rất ít người đến chùa để tìm s thanh thn trong tâm hn,
để tu dưỡng nghin ngẫm đạo lý làm ngưi, v thin - ác. Như vậy mục đích
đến chùa của người dân đã sai lầm, tầm thường hoá so với điều giáo
nhà Pht muốn hướng con người ta vào.
Nhưng ta cũng có thể thy rng những tư ng Phật giáo cũng nh
ng ít nhiều đến đời sng ca thanh thiếu niên hiện nay. Như các trưng
lOMoARcPSD| 40419767
28
ph thông, các t chức đoàn, đội luôn phát động các phong trào nhân đo
như lành đùm lá rách”., quỹ giúp bạn nghèo vượt khó” , quỹ viên gch
hồng” ... Chính vy ngay t nh các em học sinh đã được giáo dục tưởng
nhân đo, bác ái, giúp đỡ người khác mà sở ca nn tng y tưởng
giáo lý nhà Phật đã hoà tan với giá tr truyn thng của con ngưi Vit Nam.
Lên đến cấp III vào Đại hc, nhng thanh thiếu niên nhng hoạt động
thiết thực hơn. Việc giúp đỡ người khác không phi hn chế vic xin b m
tin đ đóng góp mà có th bng chính kiến thc, sc lc ca mình. S đồng
cm vi những con người gặp khó khăn, những s phn bt hạnh đơn,
cng vi truyn thng t bi, bác ái đã giúp chúng ta, những hc sinh, sinh
viên còn ngi trên ghế nhà trường đ ngh lc tâm huyết để lp ra
nhng kế hoch, tham gia vào nhng hoạt động thiết thực như hội ch thp
đỏ, hội tình thương, các chương trình phổ cập văn hoá cho tr em nghèo,
chăm nom các mẹ Vit Nam nghèo ... Hình nh hàng đoàn thanh niên, sinh
viên hàng ngày vẫn lăn lội trên mi nẻo đường t quc góp phn xây dng
đất nước, t quc ngày càng giàu mnh thật đáng xúc đng và t hào. Tt c
những điều đó chứng t thanh niên, sinh viên ngày nay không ch năng động,
sáng tạo đầy tham vng trong cuc sng còn thừa hưởng nhng giá tr
đạo đức tốt đẹp của ông cha, đó sự thương yêu, đùm bọc ln nhau gia
mọi người, lòng thương yêu giúp đỡ mọi người qua cơn hoạn nn mà không
chút nghĩ suy, tính toán. ta không thể ph nhn Phật giáo đã góp phần to
nên nhng giá tr tốt đẹp y. ta càng phi nhắc đến giá tr đó trong khi
cuc sng ngày nay ngày càng xut hin nhng hiện tượng tiêu cc. Trong
khi những sinh viên còn khó khăn đã dồn hết sc mình đ hc tp cng
hiến cho đất nước thì vn còn mt s b phận thanh niên ăn chơi, đua đòi,
làm tiêu tn tin bc ca cha m đất nước. Tối đến, người ta bt gp các
quán Bar, sàn nhy nhng chiêu, cu ấm đang đốt tin ca b m vào
nhng thú vui b. Ri nhng hc sinh, sinh viên lầm đường l c vào
ma tuý, khiến cho bao gia đình tan nát, biết bao ông bm cay đắng nhìn
những đứa con ca mình b chu hình phạt trước pháp lut. Thế h tr ngày
lOMoARcPSD| 40419767
29
nay nhiều người ch biết chy theo vt cht, b cun hút bi nhng th ăn
chơi sau đoạ làm hại đến gia đình cộng đồng. Hơn bao gi hết vic giáo
dc nhân cách cho thế h tr tr nên rt quan trng mt trong nhng
phương pháp hữu ích là nêu cao truyn bá tinh thần cũng như tư tưởng nhà
Pht trong thế h trẻ. Đó thực s là công vic cn thiết cn làm ngay.
Phn C: kết lun
Qua vic nghiên cứu đề tài này chúng ta phn nào hiểu thêm được
ngun gốc ra đi ca Pht giáo, h tư tưởng ca Pht giáo ảnh hưởng ca
đến hội người dân ta, đồng thi hiu thêm v lch s c ta. Đặc
biệt đề tài này cho chúng ta thy vấn đề ý nghĩa quan trọng, đó vn
đề xây dng hình thành nhân cách duy con người Việt Nam trong tương
lai vi s h tr ca nhng giá tr đạo đức nhân văn của Phật giáo, cũng n
mt s tư tưởng tôn giáo khác.
còn nhng khuyết điểm, hn chế song chúng ta không th ph nhn
nhng giá tr đạo đc to ln mà Phật giáo đã mang lại. Đặc trưng hướng ni
ca Phật giáo giúp con người t suy ngm v bn thân, cân nhc các hành
động của mình đ không gây ra đau kh bt hạnh cho người khác. giúp
con người sống thân ái, yêu thương nhau, xã hội yên bình. Tuy nhiên, đ giáo
dục nhân cách đạo đức ca thế h tr thì như thế vẫn chưa đủ. Bước sang
thế k XXI, chun mc nhân cách mt thanh niên cần đòi hỏi phi hoàn
thin c v mt th xác ln tinh thn, phải có đủ kh năng chinh phục c thế
gii khách quan ln thế gii nội tâm. Đạo đức thế k XXI do vy th khai
thác s đóng góp tích cực ca Phật giáo để xây dựng đạo đức nhân văn toàn
thiện hơn, tự giác cao hơn vì sang thế k XXI, bên cnh s phát trin k diu
ca khoa hc, nhng mâu thun, chiến tranh giành quyn lc rt th s
n ra và dưới s hu thun ca khoa hc, các loại khí s đưc chế to hin
đại, tàn nhẫn hơn, dễ dàng tho mãn cái ác ca vài cá nhân và nguy cơ gây ra
s hu dit s khng khiếp hơn. Khi đó đòi hỏi con người phải đạo đc,
lOMoARcPSD| 40419767
30
nhân cách cao hơn đ nhận ra được cái ác dưới mt lp v tinh vi hơn, sch
sẽ” hơn.
Như vậy trong c quá kh, hin tại tương lai, Phật giáo luôn luôn tn
ti và gn lin vi cuc sng của con người Vit Nam. Vic khai thác ht nhân
tích cc hp của Đạo Pht nhm xây dựng nhân cách con ni Vit Nam,
đặc bit là thế h tr, là mt mc tiêu chiến lược đòi hỏi s kết hp giáo dc
tng hp ca xã hi - gia đình - ntrường bn thân cá nhân, mt s kết hp
t giác tích cc c truyn thng và hiện đại. Chúng ta tin tưng vào mt thế
h tr hôm nay mai sau cường tráng v th cht, phát trin v trí tu,
phong phú v tinh thần, đạo đức tác phong trong sáng kế tha truyn thng
cha ông cũng như những giá tr nhân bn Pht giáo s góp phn bo v xây
dng xã hi ngày càng n đnh, phát trin.
Tài liu tham kho
1. Nguyn Duy Cn - Tinh hoa Pht giáo ( NXB thànhph HCM) -
1997
2. Thích N Trí Hi dch - Đức Phật đã dạy những ( conđưng
thoát kh) ( NNXB Tôn giáo - 2000 )
3. PGS Nguyễn Tài Thư
- ảnh hưởng ca các h ởng tôn giáo đối với conngười
Vit Nam hin nay ( Nhà xut bn chính tr quc gia 1997).
- Lch s Pht giáo Vit Nam tp 1 ( NXB quc gia 1993)
4.Thích thin Siêu dch - Li Pht dy ( NXB Tôn giáo -
2000)
5. PTS. Phương Kỳ Sơn - Lch s Triết hc ( NXB chính trquc gia -
1999)
lOMoARcPSD| 40419767
31
6. Lý Khôi Vit - Hai nghìn năm Việt Nam và Pht giáo.
7. Vin triết hc - Lch s Pht giáo Vit Nam ( NXB khoahc xã hi
Hà Ni - 1988 )
8. Nhiu tác gi - i tôn giáo ln trên thế gii ( 1999)
Mc lc
Trang
Phn A: Lý do chọn đề tài
1
Phn B: Ni dung
1
I. Khái quát v Pht Giáo
1.1 Ngun gốc ra đời
1.2 Ni dung ch yéu của tư tưởng Triết hc
Pht giáo
1.3 S truyền bá đạo trên thế gii
1.4 Tình hình phát trin ca Pht giáo
II. Mt s ảnh hưởng ca Phật giáo đến xã hội và con người Vit
Nam
2.1 Pht giáo vi xã hội và con người Vit
Nam xưa kia
2.2 Pht giáo vi xã hội và con người Vit
Nam ngày nay
2.3 nh hưng ca Phật giáo đến thế h tr
| 1/31

Preview text:

lOMoAR cPSD| 40419767
Tiểu luận Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến xã
hội và con người Việt Nam Phần A: mở đầu
Đạo Phật là một trong những học thuyết Triết học - tôn giáo lớn nhất
trên thế giới, tồn tại rất lâu đời. Hệ thống giáo lý của nó rất đồ sộ và số lượng
phật tử đông đảo được phân bố rộng khắp. Đạo phật được truyền bá vào
nước ta khoảng thế kỷ II sau công nguyên và đã nhanh chóng trở thành một
tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của con người Việt
Nam, bên cạnhđó đạo Nho, đạo Lão, đạo Thiên chúa. Tuỳ từng giai đoạn lịch
sử dân tộc ta đều có một học thuyết tư tưởng hoặc một tôn giáo nắm vai trò
chủ đạo, có tác động mạnh nhất đến nếp sống, thói quen, suy nghĩ của con
người, như Phật giáo ở thế kỷ thứ X - XIV, Nho giáo thế kỷ thứ XV - XIX, học
thuyết Mác - Lênin từ giữa thập kỷ 40 của thế kỷ XX cho đến nay. Tuy nhiên,
những học thuyết này không được ở vị trí độc tôn mà song song tồn tại với
nó vẫn có các học thuyết, tôn giáo khác tác động vào các hu vực khác nhau
của đời sống xã hội, đồng thời cũng tác động trở lại các học thuyết chủ đạo.
Ngày nay dù đã trải qua các cuộc cách mạng xã hội và các cuộc cách mạng
trong hệ ý thức, tình hình vẫn như vậy.
Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên CNXH, chủ nghĩa Mác -
Lênin là tư tưởng chủ đạo, là vũ khí lý luận của chúng ta nhưng bên cạnh đó,
bộ phận kiến trúc thượng tầng của xã hội cũ vẫn có sức sống dai dẳng, trong
đó giáo lý nhà Phật đã ít nhiều in sâu vào tư tưởng tình cảm của một số bộ
phận lớn dân cư Việt Nam. Việc xoá bỏ hoàn toàn ảng hưởng của nó là không
thể thực hiện được nên chúng ta cần vận dụng nó một cách hợp lý để góp
phần đạt được mục đích của thời kỳ quá độ cũng như sau này. Vi vậy, vịc
nghiên cứu lịch sử, giáo lý, và sự tác động của đạo Phật đối với thế giới quan,
nhân sinh quan của con người là hết sức cần thiết. Việc đi sâu nghiên cứu,
đánh giá những mặt hạn chế cũng như tiến bộ, nhân đạo của Phật giáo giúp 1 lOMoAR cPSD| 40419767
ta hiểu rõ tâm lý người dân hơn và qua đó tìm ra được một phương cách để
hướng đạo cho họ một nhân cách chính, đúng đắn. Theo đạo để làm điều
thiện, tránh cái ác, hình thành nhân cách con người tốt hơn chứ không trở
nên mê tín dị đoan, cúng bái, lên đồng, gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ,
niềm tin của quần chúng nhân dân..
Lĩnh vực nghiên cứu Phật giáo hiện nay tương đối được mở rộng, ngoài
việc nghiên cứu giáo lý, kinh điển, lịch sử ... của Phật giáo ra còn đề cập đến
các lĩnh vực Triết học, Sử học, Tâm lý học, Khảo cổ học, Xã hội học, Dân tộc
học, Văn học, Nghệ thuật ... Phật học đã trở thành một trong những khoa học
tương đối quan trọng trong khoa học xã hội, trước mắt có quan hệ mật thiết với xã hội học.
Hơn nữa quá trình, Phật giáo phát triển, truyền bá ở Việt Nam gắn liền
với quá trình hình thành, phát triển tư tưởng, đạo đức của con người. Vì vậy
khi nghiên cứu lịch sử, tư tưởng, đạo đức Việt Nam không thể không đề cập
đến Phật giáo và những mối quan hệ, tác động qua lại giữa chúng.
Tóm lại, nghiên cứu Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến xã hội và con
người Việt Nam là một nội dung quan trọng nhằm tìm hiểu lịch sử cũng như
định hướng cho sự phát triển nhân cách, tư duy con người Việt Nam trong tương lai. Phần B: Nội dung
I. Khái quát về Phật giáo
1.1 Nguồn gốc ra đời
Đạo Phật mang tên người sáng lập là Đà ( hay buddha ). Đạo phật chính
là giáo lý mà Phật Đà đã thuyết giảng. Sau khi ra đời ở ấn Độ vào thế kỷ thứ
9 đến thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên, đạo Phật được lưu hành rộng rãi ở
các quốc gia trong khu vực á - Phi, gần đây được truyền tới các nước Âu Mỹ.
Trong quá trình truyền bá của minh, đạo Phật đã kết hợp với tín ngưỡng, tập
tục, dân gian, văn hoá bản địa để hình thành rất nhiều tông phái và học phái, 2 lOMoAR cPSD| 40419767
có tác động vô cùng quan trọng với đời sống xã hội và văn hoá của rất nhiều quốc gia.
Buddha vốn là một thái tử tên là Tất Đạt Đa
( Siddharta), con trai của Trịnh Phạn Vương ( Suđhodana) vua nước Trịnh
Phạn, một nước nhỏ thuộc Bắc ấn Độ ( nay thuộc đất Nê Pan ) ông sinh ra vào
khoảng năm 623 trước công nguyên. Cuộc đời của Phật Thích Ca được kể lại
ở trong truyền thuyết như sau:
“ Vào một đêm Mahamaia, người vợ chính của Suđhodana, Vua của
người Saia mơ thấy mình được đưa tới hồ thiêng Anavatápta ở Himalaya. Sau
khi các thiên thần tắm rửa cho bà ở trong hồ thiêng, thì có một con voi trắng
khổng lồ có đoá hoa sen ở vòi bước tới và chui vào sườn bà. Ngày hôm sau
các nhà thông thái được vời tới để giải mơ của Hoàng hậu. Các nhà thông thái
cho rằng giấc mơ là điềm Hoàng hậu đang có mang và sẽ sinh hạ được một
Hoàng tử tuyệt vời, người sau này sẽ trở thành vị chúa tể của thế giới hoặc
người thầy của thế giới. Đến ngày, đến tháng, Hoàng hậu Mahamaia trở về
nhà cha mình để sinh con. Thế nhưng vừa đến khu vườn Lumbini, cách thủ
đô Capilavastu của người Sakia không xa, Hoàng hậu trở dạ và vị Hoàng tử đã
ra đời. Vừa ra đời, vị Hoàng tử tí hon đã đứng ngay dậy, đi bảy bước và nói:
“ Đây là kiếp cuối cùng của ta, từ nay ta không phải luôn hồi một kiếp nào nữa!”.
Đến ngày thứ năm một nghi thức trọng thể được tổ chức và Hoàng tử
được đặt tên là Siđhartha. Để ngăn cản Hoàng tử không nghĩ tới việc tu hành,
đức vua cha đã tìm mọi cách tạo ra quanh người con trai mình một cuộc sống
vương giả. Hoàng tử được học mọi kiến thức để sau này trở thành một vị vua
tài ba anh minh trị vì một đất nước ấn Độ bao la. Thế rồi, nhà vua và quần
thần đã kén cho Hoàng tử một người vợ kiều diễm. Nhưng cuộc đời vương
giả không cán dỗ được Hoàng tử trẻ tuổi. Bốn sự việc do các thần tạo ra đã
làm thay đổi hẳn cuộc đời Hoàng tử Siddhartha. Đó là một lần khi đang dạo
chơi trong vườn, Hoàng tử thấy một ông già gày còm, ốm yếu rồi nhận ra một
điều rằng mọi người rồi ai cũng phải già yếu như thế. ít lâu sau Hoàng tử lại 3 lOMoAR cPSD| 40419767
được chứng kiến người ốm và người chết. Ba hoàn cảnh trên làm cho Hoàng
tử băn khoăn, lo nghĩ về kiếp người và muốn cứu con người khỏi những trầm
luôn đau khổ của kiếp luôn hồi: Sinh, lão, bệnh, tử chính sự việc thứ tư đã
đem đến cho Hoàng tử niềm hi vọng và an ủi. Lần đó, Hoàng tử nhìn thấy một
vị hành khất dáng vẻ bần hàn nhưng lại ung dung tự tại. Vừa nhìn thấy vị hành
khất Hoàng tử như bừng tỉnh và quyết định sẽ ra đi trở thành nhà hành khất như thế.
Được tin, đức vua Suddhôđana tìm mọi cách ngăn cản
Hoàng tử. Thế nhưng Hoàng tử không thể nào xua đi được bốn sự kiện mà
mình đã chứng kiến khiến lòng dạ của Hoàng tử không lúc nào được thanh
thản. Ngay cả tin mừng công chúa Yashôdhara sinh cho chàng một Hoàng
nam cũng không làm cho Hoàng tử Sidhartha vui. Ngày đêm khi đứa con ra
đời, khi mọi người ngủ say, Hoàng tử lặng lẽ đến nhìn vợ và con lần cuối rối
đánh thức người đánh xe dậy cùng minh cưỡi con ngựa Canthaca yêu quý rời
khỏi cung. Khi đã rời khỏi đô thành Hoàng tử trút bộ áo Hoàng tộc và mặc lên
người bộ quần áo thường dân. Hoàng tử dùng kiếm cắt bộ tóc dài của mình
và nhờ người đánh xe mang mớ tóc và quần áo về trao lại cho đức vua. Còn
con ngựa Canthana vì đau khổ phải chia tay với ông chủ của nó nên đã lăn ra
chết ngay tại chỗ. Rời hoàng cung, dứt áo ra đi, Hoàng tử Sidhartha đã trở thành nhà tu hành.
Thoạt đầu, Hoàng tử đi lang thang đây đó, sống theo kiểu khổ hạnh.
Sau đó, ngài vào rừng tu. Nhà hiền triết Alara Calama dạy cho chàng các phép
thiền định và những triết lý của upanishad. Học thuyết và thực hành giải thoát
cá nhân của Upanishad không hấp dẫn Hoàng tử. Chàng đi tiếp và nhập vào
nhóm năm người tu khổ hạnh. Suốt sáu năm trường ép xác Hoàng tử gần như
chỉ còn bộ xương khô mà vẫn chưa tìm ra chân lý của sự giải thoát. Ngài bèn
bỏ cuộc sống tu hành khổ hạnh và trở lại ăn uống bình thường.
Khi Hoàng tử Sidhartha 35 tuổi, một hôm ngài đến ngồi dưới gốc cây
bồ đề ở ngoại vi thành phố Gaia thuộc vùng đất của vua Bimbisura, vua nước
Magadha. Cho đến một hôm có nàng Sudjata, con gái của một nông dân trong 4 lOMoAR cPSD| 40419767
vùng đem cho ngài một bát cơm to nấu bằng sữa. Ăn xong, ngài xuống sông
tắm rửa, rồi trở lại gốc cây bồ đề. Ngài ngồi thiền định và nguyện sẽ không
đứng dậy nếu không tìm ra sự giải thoát về điều bí ẩn của sự đau khổ. Và
Hoàng tử đã ngồi dưới gốc cây bồ đề suốt 49 ngày đêm. Bảy tuần lễ đó là cả
một chuỗi ngày đầy thử thách. Để phá sự thiền định của Hoàng tử, con quỹ
dữ Mara tìm mọi cách làm chàng nản chí. Thoạt đầu, quỷ Mara biến thành
một sứ giả đến báo cho Hoàng tử một tin bịa đặt là em trai Hoàng tử là
Đevađatta nổi loạn, bắt nhốt đức vua cha vào ngục và chiếm nàng Yashodrara
làm vợ. Thế nhưng tin dữ đó không làm cho Hoàng tử bận tâm. Mara bèn cho
gọi các quỷ dữ tới làm ra mưa to, gió lớn gây ra động đất, lụt lội nhưng Hoàng
tử vẫn ngồi bình thản dưới gốc cây bồ đề, cảm phục trước ý chí kiên định của
Hoàng tử, rắn thần Naga dùng thân làm tán cho mưa gió cho Hoàng tử ngồi.
Thấy thế quỷ dữ Mara bèn dùng biện pháp quyết liệt và tinh tế hơn để công
phá vào thành trì kiên định của Hoàng tử Sidhartha. Nó cho gọi ba cô con gái
xinh đẹp của mình là các nàng Khát vọng, khoái lạc và Dục vọng tới múa nhảy
mê hoặc nhà tu hành trẻ tuổi. Thế nhưng biện pháp cuối cùng của quỷ Mara
cũng thất bại và lũ quỷ phải dời khỏi gốc cây bồ đề. Rạng sáng ngày 49,
Siddhartha đã tìm ra bí mật của sự đau khổ, đã tìm ra được vì sao thế giới lại
tràn đầy khổ đau và đã tìm ra được cách để chiến thắng sự đau khổ.
Siddhartha đã hoàn toàn giác ngộ và trở thành Buddha (Đấng giác ngộ). Sau
khi giác ngộ Đức phật còn ngồi tiếp bảy ngày nữa dưới cây bồ đề suy ngẫm
về những chân lý diệu kỳ mà mình đã khám phá. Ngài phân vân không biết có
nên phổ biến đạo pháp của mình cho thế giới không vì có huyền diệu quá khó
hiểu quá đối với mọi người. Chính thượng đế Brahma phải giáng trần để khích
lệ Đức phật truyền bá đạo pháp của mình cho thế gian. Chỉ khi đó Phật mới
dời khỏi gốc cây bồ đề đi đến khu vườn Lộc Uyển gần Varanasi để giảng bài
thuyết pháp đầu tiên cho năm người bạn tu khổ hạnh của mình. Sự kiện này
được ghi chép lại như một sự kiện quan trọng nhất của Đạo phật và được gọi
là Phật quay bánh xe Đạo pháp ( chuyển Pháp Luân ). Giáo pháp mới của Đạ
phật đã gây ấn tượng mạnh đối với năm nhà tu, họ nhanh chóng trở thành 5 lOMoAR cPSD| 40419767
những môn đồ đầu tiên của Đức Phật. Vài ngày sau số môn đồ của Phật đã
tăng lên 60 người, theo thời gian số môn đồ Đạo Phật ngày càng tăng và các
tổ chức tăng gia đã ra đời.
Đến năm 80 tuổi, biết mình tuổi cao, sức yếu, Đức Phật cùng các môn
đồ trở về chân núi Hymalaya nơi ngài sinh ra và lớn lên. Trên đường Phật đã
chuẩn bị mọi thứ cho các môn đồ để họ có thể tự lập được sau khi ngàu viên
tịch. Và, tại một nơi thuộc ngoại vi thành phố Cusinagara, Phật đã ra đi. Câu
nói cuối cùng của Phật là: “ Hỡi các tì kheo tất cả những gì đang tồn tại rồi sẽ
qua đi. Vậy các người càng không nên ngừng gắng sức!”.
1.2 Nội dung chủ yếu của tư tưởng triết học Phật giáo.
Tư tưởng triết lý Phật giáo được tập trung trong một khối lượng kinh
điển rất lớn, được tổ chức thành ba bộ kinh lớn gọi là tam tạng gồm: -
Tạng Luận: Gồm toàn bộ những giới luật của Phật giáoqui định
cho cả năm bộ phái Phật giáo như: “ Tứ phần luật” của thượng toạ bộ, Maha
tăng kỷ luật của “Đại chúng bộ”, căn bản nhất thiết hữu bộ luật” ... Sau này
còn thêm các Bộ luật của Đại Thừa như An lạc, Phạm Võng. -
Tạng kinh: Chép lời Phật dạy, trong thời kỳ đầu tạngkinh gồm
nhiều tập dưới dạng các tiền đề, mỗi tập được gọi là một Ahàm. -
Tạng luận: Gồm những bài bình chú, giải thích về giáopháp của
Phật giáo. Tạng luận gồm bảy bộ thể hiện một cách toàn diện các quan điểm
về giáo pháp của Phật giáo.
Tư tưởng triết học Phật giáo trên hai phương diện, về bản thể luận và
nhân sinh quan, chứa đựng những tư tưởng duy vật và biện chứng chất phác.
Phật giáo cho rằng các sự vật và hiện tượng trong vũ trụ ( chử pháp )
là vô thuỷ, vô chung (vô cùng, vô tận). Tất cả thế giới đều ở quá trình biến đổi
liên tục (vô thường ) không có một vị thần nào sáng tạo ra vạn vật cả. Tất cả
các Pháp đều thuộc về một giới ( vạn vật đều nằm trong vũ trụ) gọi là Pháp
giới. Mỗi một pháp ( mỗi một sự v iệc hiện tượng, hay một lớp sự việc hiện
tượng) đều ảnh hưởng đến toàn Pháp. Như vậy các sự vật, hiện tượng hay 6 lOMoAR cPSD| 40419767
các quá trình của thế giới là luôn luôn tồn tại trong mối liên hệ, tác động qua
lại và qui định lẫn nhau.
Tác phẩm “ thanh dung thực luận” của kinh phật viết rằng: “ Có người
cố chấp là có Đại tự nhiên là bản thể chân thực bao khắp cả, lúc nào cũng
thường định ra chu pháp(1) đạo Phật cho rằng toàn bộ chư pháp đều chi chi
phối bởi luật nhân quả, biến hoá vô thường, không có cái bản ngã cố định,
không có cái thực thể, không có hình thức nào tồn tại vĩnh viễn cả. Tất cả đều
theo luật nhân quả biến đổi không ngừng và chỉ có sự biến hoá ấy là thường
còn ( vĩnh viễn ). Cái nhân nhờ có cái duyên mới sinh ra được mà thành quả.
Quả lại nhờ có duyên mà thành nhân khác, nhân khác lại thành quả. Quả lại
nhờ có duyên mà thành nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà thành quả
mới ... Cứ thế nối nhau vô cùng vô tận mà thế giới, vạn vật, muôn loài, cứ sinh sinh, hoá hoá mãi.
Như vậy ngay từ đầu Phật giáo đã đặt ra mục đích giải quyết vấn đề cơ
bản của Triết học một cách biện chứng và duy vật. Phật giáo đã gạt bỏ vai trò
sáng tạo thế giới của các “đấng tối cao” của “Thượng đế” và cho rằng bản thể
của thế giới tồn tại khách quan và không do vị thần nào sáng tạo ra cả. Cái
bản thể ấy chính là sự thường hằng trong vận động của vũ trụ, là muôn ngàn
hình thức của vạn vật trong vận động, nó có mặt trong vạn vật nhưng nó
không dừng lại ở bất kỳ hình thức nào. Nó muôn hình vạn trạng nhưng lại
tuân hành nghiêm ngặt theo luật nhân quả.
Do qui luật nhân quả mà vạn vật ở trong quá trình biến đổi không
ngừng, thành, trụ, hoại, diệt ( sinh thành, biến đổi, tồn tại, tan rã và diệt
vong). Quá trình đó phổ biến khắp vạn vật, trong vũ trụ, nó là phương thức
thay đổi chất lượng của sự vật và hiện tượng.
Phật giáo trong quá trình giải thích sự biến hoá vô thường của vạn vật,
đã xây dựng nền thuyết “ nhân duyên”. trong thuyết “nhân duyên” có ba khái
niệm chủ yếu là Nhân, Quả và Duyên.
1 (1) Dẫn theo Đoàn Chính - Lương Minh Cừ - LSTH ấn Độ cổ đại 1921 7 lOMoAR cPSD| 40419767 -
Cái gì phát động ra ở vật gây ra một hay nhiều kết quảnào đó, được gọi là Nhân. -
Cái gì tập lại từ Nhân được gọi là Quả. -
Duyên: Là điều kiện, mối liên hệ, giúp Nhân tạo ra
Quả. Duyên không phải là một cái gì đó cụ thể, xác định mà nó là sự tương
hợp, điều kiện để giúp cho sự biến chuyển của vạn Pháp.
Ví dụ hạt lúa là cái quả của cây lúa đã thành, mà lại là cái nhân của cây
lúa sắp thành. Lúa muốn thành cây lúa có bông lại phải nhờ có điều kiện và
những mối liên hệ thích hợp như đất, nước, không khí, ánh sáng. Những yếu tố đó chính là Duyên.
Trong thế giới sinh vật, khi đã giải thích về nguyên nhân biến hoá vô
thường của nó, từ quá khứ đến hiện tại, từ hiện đại tới tương lại. Phật giáo
đã trình bày thuyết “ Thập Nhị Nhân Duyên” ( mười hai quan hệ nhân duyên)
được coi là cơ sở của mọi biến đổi trong thế giới hiền sinh, một cách tất yếu
của sự liên kết nghiệp quả.
+ Vô minh: ( là cái không sáng suốt, mông muội, che lấp cái bản nhiên sáng tỏ).
+ Hành: ( là suy nghĩ mà hành động, do hành động mà tạo nên kết quả,
tạo ra cái nghiệp, cái nếp. Do hành động mà có thức ấy là hành làm quả cho
vô minh và là nhân cho Thức).
+ Thức: ( Là ý thức là biết. Do thức mà có Danh sắc, ấy là Thức làm quả
cho hành và làm nhân cho Danh sắc).
+ Danh sắc: ( Là tên và hành ta đã biết tên ta là gì thì phải có hình và
tên của ta. Do danh sắc mà có Lục xứ, ấy danh sắc làm quả cho thức và làm nhân cho Lục xứ).
+ Lục xứ hay lục nhập: ( Là sáu chỗ, sáu cảm giác: Mắt, mũi, lưỡi, tai,
thân và tri thức. Đã có hình hài có tên phải có Lục xứ để tiếp xúc với vạn vật.
Do Lục nhập mà có xúc - tiếp xúc. ấy là Lục xứ làm quả cho Danh sắc và làm nhân cho 8 lOMoAR cPSD| 40419767 Xúc.)
+ Xúc: ( Là tiếp xúc với ngoại cảnh qua sáu cơ quan xúc giác gây nên
cmở rộng xúc, cảm giác. Do xúc mà có thụ ấy là xúc làm quả cho Lục xứ và làm nhân cho Thụ.)
+ Thụ: (Là tiếp thu, lĩnh nạp, những tác động bên ngoài tác động vào
mình. Do thụ mà có ái. ấy là thụ làm quả cho Xúc và làm nhân cho ái.)
+ ái: (Là yêu, khát vọng, mong muốn, thích. Do ái mà có Thủ. Do ấy, ái
làm quả cho Thụ và làm nhân cho Thủ.)
+ Thủ: ( Là lấy, chiếm đoạt cho minh. Do thủ mà có Hữu. Do vậy mà Thủ
làm quả cho ái và làm nhân cho Hữu.)
+ Hữu: ( Là tồn tại, hiện hữu, ham, muốn, nên có dục gây thành cái
nghiệp. Do Hữu mà có sinh, do đó Hữu là quả của Thủ và làm nhân của Sinh).
+ Sinh: ( Hiện hữu là ta sinh ra ở thế gian làm thần thánh, làm người,
làm súc sinh. Do sinh mà có Tử, ấy là sinh làm quả cho Hữu và làm nhân cho Tử).
+ Lão tử: ( Là già và chết, đã sinh ra là phải già yếu mà đã già là phải
chết. Nhưng chết - sống là hai mặt đối lập nhau không tách rời nhau. Thể xác
tan đi là hết nhưng linh hồn vẫn ở trong vòng vô minh. Cho nên lại mang cái
nghiệp rơi vào vòng luân hồi ( khổ não).
Thập nhị nhân duyên như nước chảy kế tiếp nhau không bao giờ cạn,
không bao giờ ngừng, nên đạo Phật là Duyên Hà. Các nhân duyên tự tập nhau
lại mà sinh mãi mãi gọ là Duyên hà mãn. Đoạn này do các duyên mà làm quả
cho đoạn trước, rồi lại do các duyên mà làm nhân cho đoạn sau.
Bởi 12 nhân Duyên mà vạn vật cứ sinh hoá vô thường. -
Mối quan hệ Nhân - Duyên là mối quan hệ biện chứngtrong
không gian và thời gian giữa vạn vật. Mối quan hệ đó bao trùm lên toàn bộ
thế giới không tính đến cái lớn nhỏ, không tính đến sự giản đơn hay phức
tạp. Một hạt cát nhỏ được tạo thành trong mối quan hệ nhân quả của toàn
vũ trụ. Cả vũ trụ hoà hơp tạo nên nó. Cũng như nó hoà hợp tạo nên cả vũ trụ 9 lOMoAR cPSD| 40419767
bao la. Trong một có tất cả trong tất cả có một. Do nhân Duyên mà vạn vật
sinh hay diệt. Duyên hợp thì sinh, Duyên tan thì diệt.
Vạn vât sinh hoá vô cùng là do ở các duyên tan hợp, hợp tan nối nhau
mà ra. Nên vạn vật chỉ tồn tại ở dạng tương đối, trong dòng biến hoá vô tận
vô thường vô thực thể, vô bản ngã, chỉ là hư ảo. Chỉ có sự biến đổi vô thường
của vạn vật, vạn sự theo nhân duyên là thường còn không thay đổi.
Do vậy toàn bộ thế giới đa dạng, phong phú, nhiều hình, nhiều vẻ cũng
chỉ là dòng biến hoá hư ảo vô cùng, không có gì là thường định, là thực, là
không thực có sinh, có diệt, có người, có mình, có cảnh, có vật, có không gian,
có thời gian. Đó chính là cái chân lý cho ta thấy được cái chân thế tuyệt đối
của vũ trụ. Thấy được điều đó gọi là “ chân như” là đạt tới cõi hạnh phúc, cực
lạc, không sinh, không diệt, niết bàn.
Thế giới của chúng sinh (loài người) cũng do nhân duyên kết hợp mà
thành. Đó là sự kết hợp của hai thành phần: Phần sinh lý và phần tâm lý. -
Cái tôi sinh lý tức là thể xác, hình chất với yếu tố “sắc” ( địa, thuỷ,
hoá, phong ) tức là cái cảm giác được. -
Cái tôi tâm lý ( tinh thần ) linh hồn tức là “tâm” với 4 yếu tố chỉ
có tên gọi mà không có hình chất gọi là “ Danh”.
Trong “Sắc’ gồm những cái nhìn thấy được cũng như những thứ không
nhìn thấy được nếu nó nằm trong quá trình biến đổi của “sắc” gọi là “vô biến
sắc” như vật chất chuyển hoá thành năng lượng chẳng hạn.
Bốn yếu tố do nhân duyên tạo thành phần tâm lý ( tinh thần ) của con người là:
+ Thụ: Những cảm giác, cảm thụ về khổ hay sướng, đưa đến sự xúc
chạm lĩnh hội thân hay tâm.
+ Tưởng: Suy nghĩ, tư tưởng.
+ Hành: ý muốn thúc đẩy hành động.
+ Thức: Nhận thức, phân biệt đối tượng tâm lý ta là ta. 10 lOMoAR cPSD| 40419767
Hai thành phần tạo nên từ ngũ uẩn do Nhân - Duyên tạo thành mỗi
sinh vật cụ thể có danh và có sắc. Duyên hợp ngũ uẩn thì là ta. Duyên tan ngũ
uẩn thì là diệt. Quá trình hợp tan ngũ uẩn do Nhân - Duyên là vô cùng tận.
- Các yếu tố của ngũ uẩn cũng luôn luôn biến hoá theo qui luật nhân
hoá không ngừng không nghỉ, nên mọi sinh vật cũng chỉ là vụt mất, vụt còn.
Không có sự vật riêng biệt, cố định, không có cái tôi, cái tôi hôm qua không
còn là cái tôi hôm nay. Kinh Phật có đoạn viết “ Sắc chẳng khác không, không
chẳng khác sắc, sắc là không, không là sắc. Thụ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều như thế”.
Như vậy thế giới là biến ảo vô thường, vô định. Chỉ có những cái đó
mới là chân thực, vĩnh viễn, thường hằng. Nếu không nhận thức được nó thì
con người sẽ lầm tưởng ta tồn tại mãi mãi, cái gì cũng thường định, cái gì
cũng của ta. Do đó, mà con người cứ khát ái, tham dục cứ mong muốn và
hành động chiếm đoạt tạo ra kết quả mà kết quả đó có thể tốt, có thể xấu
gây nên nghiệp báo, rơi vào bể khổ triền miên không bao giờ dứt.
Sở dĩ có nỗi khổ là do qui định của Luật nhân quả. Vì thế mà ta không
thấy được cái luật nhân bản của mình ( bản thể chân thực ). Khi đã mắc vào
sự chi phối của Luật Nhân Duyên, thì phải chịu nghiệp báo và kiếp luân hồi,
luân chuyển tuần hoàn không ngừng, không dứt.
Nghiệp và luân hồi không những chỉ là những khái niệm của Triết học
Phật giáo mà có từ trong Upanishad.
Nghiệp chữ phạn và Karma là cái do những hoạt động của ta, do hậu
quả việc làm của ta, do hành động của thân thể ta. Được gọi là “ thân nghiệp”,
còn hậu quả của những lời nói của ta, phát ngôn của ta thì được gọi làg “ khẩu
nghiệp”. Hay những cái do ý nghĩ của ta, do tâm tue của ta gây nên được gọi
là ‘ý nghiệp”. Tất cả những thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp là do ta tham
dục mà thành, do ta muốn thoả mãn tham vọng của mình gây nên. Sở dĩ ta
tham dục vì ta chưa hiểu đươc chân bản vốn có của ta cũng như vạn vật là
luôn luôn biến đổi không có gì là thường định và vĩnh viễn cả. 11 lOMoAR cPSD| 40419767
Cuộc đời con người là sự ghánh chịu hậu quả của nghiệp đương thời
và các kiếp sống trước rồi nó tiếp tục chi phối cả đời sau.
Nghiệp báo trong một đời là sự tổng hợp của các nghiệp gây ra trong
hiện tại cộng với các nghiệp gây ra trong quá khứ, nó quyết định đời sau xấu hay tốt, thiện hay ác.
Luân hồi: Chữ phạn là Samsara. Có nghĩa là bánh xe quay tròn. Đạo
phật cho rằng, sau khi một thể xác sinh vật nào đó chết thì linh hồn sẽ tách
ra khỏi thể xác và đầu thai vào một sinh vật khác nhập vào một thể xác khác
(có thể là con người, loài vật thậm chí cỏ cây). Cứ thế mãi do kết quả, quả báo
hành động của những kiếp trước gây ra. Đó cũng là cách lý giải căn nguyên
nỗi khổ ở đời con người.
Sau khi lý giải được nỗi khổ ở cuộc đời con người là do “ thập nhị nhân
duyên” làm cho con người rơi vào bể trầm luân. Đạo Phật đã chủ chương tìm
con đường diệt khổ. Con đường giải thoát đó không những đòi hỏi ta nhận
thức được nó mà cao hơn ta phải hành động, phải thấm nhuần tứ diệu đế.
Tứ diệu đế: Là bốn sự thật chắc chắn, bốn chân lý lớn, đòi hỏi chúng
sinh phải thấu hiểu và thực hiện nó. Tứ diệu đế gồm: 1.
Khổ đế: Con người và vạn vật sinh ra là khổ, ốm đaulà khổ, già
yếu là khổ, chết là khổ, ghét nhau mà phải sống gần nhau là khổ, yêu nhau
mà phải chia lìa nhau là khổ, mất là khổ mà được cũng là khổ. .... Những nỗi
khổ ấy từ đâu? chúng ta tiếp tục tìm hiểu Tập đế. 2.
Tập đế: Tập là tập hợp, tụ tập lại mà thành. Vậy donhững gì tụ
tập lại mà tạo ra nỗi khổ cho chúng sinh?
Đó là do con người có lòng tham, dâm (giận dữ ), si ( si mê, cuồng mê,
mê muội) và dục vọng. Lòng tham và dục vọng của con người xâu xé là do con
người không nắm được nhân duyên. Vốn như là một định luật chi phối toàn
vũ trụ. Chúng sinh khômg biết rằng mọi cái là ảo ảnh, sắc sắc, không không.
Cái tôi tưởng là có nhưng thực là không. Vì không hiểu được ra nỗi khổ triền
miên, từ đời này qua đời khác. 12 lOMoAR cPSD| 40419767 3.
Diệt đế: Là phải thấu hiểu được “ Thập nhị nhânduyên” để tìm
ra được căn nguyên của sự khổ - để dứt bỏ từ ngọn cho đến gốc rễ của cái
khổ. Thực chất là thoát khỏi nghiệp chướng, luân hồi, sinh tử. 4.
Đạo đế: Là con người ta phải theo đế diệt khổ, phảiđào sâu suy
nghĩ trong thế giới nội tâm ( thực nghiệm tâm linh ). Tuy luyện tâm trí, đặc
biệt là thực hành YOGA để đạt tới cõi siêu phàm mà cao nhất là đạt tới cõi
phận là đạt tới trình độ giác ngộ bát nhã. Tới chừng đó sẽ thấy được chân
như và thanh thản tuyệt đối, hết ham muốn, hết tham vọng tầm thường, tức
là đạt tới cói “niết bàn” không sinh, không diệt.
Thực hiện Đạo đế là một quá trình lâu dài, kiên trì, giữ nguyên giới luật
tập trung thiên định cao độ Phật giáo đã trình bày 8 con đường hay 8 nguyên
tắc ( Bát chính Đạo buộc ta phải tuân thủ bát chính đạo gồm: -
Chính kiến: Phải nhận thức đúng, phân biệt được phảitrái, không
để cho những cái sai che lấp sự sáng suốt. -
Chính tư duy: Suy nghĩ phải, phải chính, phải đúngđắn. -
Chính nghiệp: Hành động phải chân chính, phải đúngđắn. -
Chính ngữ: Nói phải đúng, không gian dối, không vuoan cho người khác. -
Chính mệnh: Sống trung thực, không tham lam, vụ lợi,gian tà,
không được bỏ điều nhân nghĩa. -
Chính tịnh tiến: Phải nỗ lực, siêng năng học tập, có ýthức vươn
lên để đạt tới chân lý. -
Chính niệm: Phải luôn luôn hướng về đạo lý chânchính, không
nghĩ đến những điều bạo ngược gian ác. -
Chính định: Kiên định tập trung tư tưởng vào conđường chính,
không bị thoái chí, lay chuyển trước mọi cán dỗ.
Muốn thực hiện được “ Bát chính đạo” thì phải có phương pháp để
thực hiện nhằm ngăn ngừa những điều gian ác gây thiệt hại cho mình và
những người làm điều thiện có lợi ích cho mình và cho người. Nội dung của 13 lOMoAR cPSD| 40419767
các phương pháp đó là thực hiện “ Ngũ giới” ( năm điều răn ) và “Lục độ” (Sáu phép tu ). - “Ngũ giới” gồm: + Bất sát: Không sát sinh + Bất đạo:
Không làm điều phi nghĩa. + Bất dâm: Không dâm dục.
+ Bất vọng ngữ: Không bịa đặt, không vu oan giáo hoạ cho kẻ khác, không nói dối. - “Lục độ” gồm:
+ Bố thí: Đêm công sức, tài trí, của cải để giúp người một cách
thành thực chứ không để cầu lợi hoặc ban ơn.
+ Trí giới: Trung thành với điều răn, kiên trì tu luyện.
+ Nhẫn nhục: Phải biết kiên nhẫn, nhường nhịn, chịu đựng để làm chủ được mình.
+ Tịnh tiến: Cố gắng nỗ lực vươn lên.
+ Thiền định: Tư tưởng phải tập trung vào điều ngay, chính
không để cho cái xấu cho lấp.
+ Bát nhã: Trí tuệ thấy rõ hết, hiểu thấu hết mọi chuyện trên thế gian.
Tóm lại: Phật giáo cho rằng chỉ có bằng sự kiên định để thực hiện “Bát
hành đạo”, “Ngũ giới”, “Lục độ” thì chúng sinh mới có thể giải thoát mình ra
khỏi nỗi khổ. Phật giáo không chủ trương giải phóng bằng cách mạng xã hội.
Mặc dù Phật giáo lên án rất gay gắt chế độ người bóc lột người, chống lại chủ
nghĩa duy tâm cua Bàlamôn giáo. Đó là một trong những nhược điểm đồng
thời cũng là ưu điểm nửa vời của Đạo phật. Đứng trước bể khổ của chúng
sinh Phật giáo chủ trương cải tạo tâm linh chứ không phải cải tạo thế giới
hiện thực. Như vậy Phật giáo nguyên thuỷ có tư tưởng vô thần, phủ nhận
đấng sáng tạo ( vô ngã, vô tạo giả) và có tư tưởng biện chứng ( vô thường, lý
thuyết Duyên khởi ). Tuy nhiên, Triết học Phật giáo cũng thể hiện tính duy 14 lOMoAR cPSD| 40419767
tâm chủ quan khi coi thế giới hiện thực là ảo giả và do cái tâm vô minh của con người tạo ra.
1.3 Sự truyền bá Phật giáo trên thế giới
Trước khi Thích ca Mâu Ni tạ thế, các khu vực truyền bá Đạo Phật chủ
yếu ở miền Trung lưu vực Sông Hằng, đặc biệt xung quanh các khu vực thành
phố lớn mới nổi lên. Sau khi ngài tạ thế, các thế kỷ trực tuyến của ngài đã
đem Đạo Phật mở rộng đến hạ lưu sông Hằng về phía Đông, phía Nam đến
bờ sống Caođaveri, phía Tây đến bờ biển Arập, phía Bắc tới khu vực Thaiysiro.
ở thời kỳ thống trị của vua Asôca thuộc vương triều Maurya, Đạo phật bắt
đầu phát triển tới các cùng biển của thứ Đại lục, Đông tới Miama, Nam tới
Xrilanca, Tây tới Xyri, Aicập .... Nhanh chóng trở thành tôn giáo mang tính thế
giới. Sau khi vương triều Casan (kushan) hưng khởi lại truyền tới Iran, các nơi
ở trung tâm Châu á, rồi qua con đường tơ lụa truyền vào Trung Quốc.
Các nơi khác: Mấy năm gần đây ở một số nước như: Italya, Thuỵ sỹ,
thuỵ Điển, Tiệp .... Việc nghiên cứu Đạo Phật cũng rất sôi nổi, đã xây dựng
nên không ít cơ sở nghiên cứu Phật giáo và trung tâm nghiên cứu Phật học.
Ví dụ sở nghiên cứu Trung Đông, Viễn Đông Italia, dưới sự chủ trì của Đỗ Kỳ
đã biên tập và xuất bản “ Tư sách La mã với Đông Phương” ( Đến năm 1977
đã xuất bản được 51 loại ) trong đó bao gồm rất nhiều trước tác phẩm Phật giáo.
Nhưng ở trong các quốc gia này số tín đồ không nhiều lắm chỉ chiếm
số ít phần trăm trong tổng số dân. Ngay cả trong số người nổi tiếng trên thế
giới ngày nay cũng chọn Phật giáo làm đạo tu hành cho mình như cầu thủ
bóng đá Rôbettô Bagiô, Erie Cantôna, siêu sao màn bạc Richard Gere.
1.4 Tình hình phát triển của Phật giáo
Trước đây Phật giáo được coi là một trong ba tôn giáo lớn của thế giới,
nhưng trong những năm gần đây do sự suy yếu của một số quốc gia, số tín
đồ Phật giáo đã tụt xuống đứng sau Đạo Cơ Đốc, Đạo Ixlam và Đạo ấn Độ,
chiếm vị trí thứ tư. Căn cứ thống kê của “ Bách khoa toàn thư Cơ Đốc giáo
thế giới” xuất bản ở Oxford năm 1982, toàn thế giới hiện có 295.570.780 tín 15 lOMoAR cPSD| 40419767
đồ Phật giáo. Con số này so với năm 1972 đã tăng lên 50.000 người ( năm
1972 có 244.800.300 người ). Tín đồ Phật giáo phát triển so với tổng số dân
trên toàn thế giới là rất nhỏ bé. Dưới đây là tình hình phân bố của tín đồ Phật
giáo: ( số liệu năm 1982 )
Số tín đồ Phật giáo (người ) 143.359.570 150.927.990 Bắc Mỹ 189.850 0,11 Châu Âu 212.320 Châu Đại dương 17.190 0,1 Châu Phi 12.610 0,1 Tổng cộng 295.570.780
Trên thực tế hiện nay số lượng tín đồ Phật giáo trên thế giới đã tăng
lên rất nhiều, ước chừng khoảng trên 50 triệu người.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Phật giáo ở các nơi trên thế giới đã
trải qua những biến đổi khác nhau, đã xuất hiện một số đặc điểm mới. 16 lOMoAR cPSD| 40419767
II. Một số ảnh hưởng của phật giáo đến xã hội và con người Việt Nam:
2.1 Phật giáo với xã hội và con người Việt Nam xưa kia:
Đạo phật truyền vào nước ta khoảng thế kỷ II sau công nguyên và đã trở
thành một trong những hệ tư tưởng. Tôn giáo có sức sống lâu dài, tồn tại cho
đến mãi ngày nay, đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội và tinh thần của người Việt Nam
Vào lúc này, mặc dù đang phải chống lại các thế lực thực dân phương
bắc, nhân dân Việt Nam vẫn đủ thông minh, tỉnh táo để tiếp nhận Đạo Phật
đến với dân tộc ta bằng tinh thần hoà bình, hữu nghị
Sự tiếp nhận đạo phật trong hoàn cảnh như vậy, không thể bỏ qua vấn
đề nội dung của đạo phật. Điều đó có nghĩa là bản thân đạo phật phải có
những nội dung nào đó mà nhân dân Việt Nam có thể chấp nhận được.ở đây
chính là nội dung của hai nền tín ngưỡng có nét giống nhau, có lẽ do những
nét giống nhau mà có sự hợp nhất tạo nên các chùa pháp vân, pháp vũ, pháp
nôi, pháp điện. Tức là tín ngưỡng phật và tín ngưỡng thần của Việt Nam khi
đó có sự hợp nhất. Hình ảnh phật đã trở thành hình ảnh bụt
Một điều thể hiện đặc biệt phổ quát mà nhiều người đã nhắc đến là
phật giáo vốn dễ hoà hợp với tín ngưỡng dân gian ở những nơi nó được
truyền bá đến . ở bắc Việt Nam đặc điểm đó càng nổi bật. Nếu đặc điểm tôn
giáo Việt Nam là sự thờ cúng tổ tiên (linh hồn người thân đã khuất ) thì phật
hay quan âm cũng được coi là một thứ tổ tiên ( trong tâm thức dân gian việt
cổ, phật hay quan âm không phải là người “ngoại quốc ‘người khác tộc ). Nếu
đặc điểm của tôn giáo Việt Nam là sự thờ thần ( thế lực siêu nhiên ) mà con
người cũng cầu để nhờ sự “phù hộ độ trì” thì phật hay quan âm cũng trở
thành một loại thần, phật điện cũng trở thành một thứ thần điện, tính tâm
linh ấn độ nhường bước cho tính tính Việt Nam ( hơn đâu hết, tôn giáo Việt
Nam nặng về tính tình cảm hơn là giáo lý, giỏi luật, đoàn thể, tôn giáo )
Bụt người Việt Nam không phải thuần tuý là việc phiên âm thuật ngữ
Bonddha. Hình ảnh bụt của người Việt Nam là sự sáng tạo từ hai nguyên liệu 17 lOMoAR cPSD| 40419767
tín ngưỡng phật và tín ngưỡng thần linh đương thời của người Việt Nam. Bụt
có những nét giống và khác phật.Bụt giốg phật ở lòng từ bi, bác ái, vị tha đối
với những người bị áp bức bóc lột.Nhưng bụt khác phật ở chỗ bất kỳ người
nghèo nào gặp tai nạn, gặp áp bức bất công mà cần tới bụt, bụt lập tức xuất
hiện ngay để cứu vớt các vị thần trong nhà nhưng lại có cái oai lực, uy quyền
hơn cả trời. Đối với những người bị áp bức trời ở quá xa, kêu trời khó thấu,
còn các thần linh gần nhưng lại yếu đuối, bất lực trước những việc quá sức
của mình quả là gần gũi ,công bằng vì phật không hề chia cấp bậc. Có lẽ ngày
xưa chưa có một người dân bình thường nào nghĩ đến khái niệm bình đẳng.
Nhưng đối với phật họ cũng có thể có mặc cảm sâu sa rằng phật có cái nhìn
ngang bằng với tất cả chúng sinh. Với phật, không ai tiểu nhân, không ai quân
tử. Cũng không có quân, không có dân, chia cắt nhau bằng các hàng rào cấp
bậc giai cấp. Với phật, còn cả một niềm từ bi bác ái, không có hằn học, oán
ghét, phục thù. Đó cũng là điều phù hợp với bản chất dân tộc Việt Nam. Tiếp
đó phật kêu gọi sự tự giác, giac tha không những để giải quyết nỗi khổ của
mình mà còn phải cứu nhân độ thế . Chăc chắn trong tư duy của người dân
bình thường, chưa ai băn khoăn tìm hiểu thế nào là bản ngã là chân theo
nghĩa sâu xa của phật học. Người ta chỉ thấy ở đây một chủ nghĩa nhân đạo
lớn lao và có phần tích cực. Có thực hiện được hay không là vấn đề khác mà
chúng ta cần xem xét, để phê phán giá trị của học thuyết này. Nhưng ở đây
thì rõ ràng đó là những điểm chính yếu làm cho phật giáo gắn bó được với quần chúng.
Tâm lý dân gian Việt Nam ta thiên về sự cân bằng, sự bù đắp. Nỗi khổ
hôm nay phải được đền bù bằng sự sung sướng ngày mai. Cô tấm trong cổ
tích trải qua bao gian nan cuối cùng vẫn được hưởng hạnh phúc.Phật giá cũng
hứa hẹn với con người sự đền bù không do quyền phép nào, chỗ dựa nào của
nho giáo, cũng không do cán cân phúc tội của đạo gia, mà do chính nỗ lực của
bản thân mình. Người dân bình thường ở xứ ta ở phần bản chất cũng có quan
niệm nhận thức như vậy, mà chăc chắn không phải vì do họ quán triệt thuyết
bát chánh đạo của nhà thiền. Mặc dù bát chánh đạo không có gì là thần bí, 18 lOMoAR cPSD| 40419767
nhưng dễ đã có mấy ông sư nhớ đủ tám đường mà phật tổ đã đề ra.Vấn đề
là ở cái tinh thần quàn xuyến rút từ bát chánh đạo.Tinh thần ấy là sự cố gắng
tu dưỡng, vun thêm cho bản thân mình. Và họ cũng mong mỏi một sự đền
bù này, khi thấy phật tổ vạch ra cho họ và khẳng định điều tất nhiên sẽ đến .
Tuy nhiên, không phải phật giáo đi được vào quần chúng,có một sự gắn bó
sâu sa nhất định, mà không một sự thẩm định, chọn lựa nào có lựa chọn để
chối bỏ hoặc đồng hoá nữa. Đối với phật giáo sự lựa chọn này bao hàm cả ý
nghĩa phê phán. Ngày nay, chúng ta có thể chỉ ra được nhiều khuyết điểm của
nho, phật, lão ở góc độ chính trị hay tư tưởng triết học.Dân gian xưa không
có điều kiện hay trình độ để làm việc ấy, song khi họ chấp nhận, chối bỏ hoặc
biến hóa những giáo lý để thích nghi với trình độ tư duy, với các sinh hoạt của
họ tức là họ đã lộ cái ý đồng hay không đồng. Có thể nói rằng văn hoá Việt
Nam hoá phật hơn là hoá phật hoá. Phật giáo đến Việt Nam dù là phật giáo
nguyên thuỷ hay đa dạng sau này bởi tiểu thừa hay đạo thừa thì vẫn nhất
phải nhập với tín ngưỡng bản địa. Để biến man nương thành phật mẫu, ỷ lan
thành quan âm mà không cần phải tạo ra xung quanh nhân vật ấy những gì
huyền bí thần kỳ cho lắm.
Phật giáo còn là một sự kiện văn hoá, phật giáo từ ấn độ được truyền
vào Việt Nam vốn không phải một sự kiện đơn độc mà kéo theo nó là cái ảnh
hưởng của tổng thể văn hoá ấn độ đối với Việt Nam cổ. Mặc dù chúng ta còn
ít nghiên cứu và hiểu biết về văn hoá việt- ấn nhưng chắc chắn ảnh hưởng
của văn hoá ấn độ lên Việt Nam diễn ra trên nhiều lĩnh vực :
Nông nghiệp, ydược, âm nhạc vũ đạo ngôn ngữ.
Điều quan trọng là văn hoá Việt Nam cổ tiếp thu một liều lượng quan
trọng văn hoá ấn độ qua ngả đường phật giáo, vào suốt thời bắc thuộc và
chống bắc thuộc, khi ảnh hưởng văn minh trung hoa tràn lan đất nước Việt
Nam và mang khuynh hướng đồng hoà rõ rệt.
Về khách quan, ảnh hưởng của văn hoá ấn độ là một đối trọng của văn
hoá trung hoa trên đất việt. Nó có tác dụng trung hoà ảnh hưởng quá mạnh
mẽ của văn hoá trung hoa; Nó góp sức cùng nền văn hoá Việt Nam cổ ngăn 19 lOMoAR cPSD| 40419767
chặn sự đồng hoá của văn minh trung hoa, nó hội nhập và làm giàu làm nên
cái khác của văn hoá việt với văn hoá trung hoa.
Ví dụ: Như ở thăng long thời lý: Hoàng thành Long Phượng mở bốn cửa
nếu cửa phía bắc thờ thành trần vũ – trần võ là một vị thần linh trung hoa
được nhập nội vào đất việt, thì của tây long thành được mang tên “quảng
phúc môn “ mở ra phía tây để mong phúc lớn rộng “phúc đẳng hà sa của Đức Phật ở Tây Thiên
Cũng vậy, Đạo Phật từ ấn Độ được truyền bá vào đất Việt ở buổi đầu thời kỳ
Bắc thuộc về khách quan mà nói là một đối tượng của Nho giáo. Đạo nho
cũng bắt đầu phát huy ảnh hưởng ở đất Việt từ buổi đầu công nguyên với
việc mở trường nhằm “ giáo lễ nghĩa Trung Hoa” cho người Việt. Ta không
thể phủ nhận các mặt tích cực của Nho giáo, góp phần làm tăng tri thức người
dân, nhấn mạnh vào Nhân, Nghĩa, ái. Nhưng dù sao đi nữa Nho giáo vẫn là
một công cụ của tầng lớp thống trị Trung Hoa nhằm nô dịch người nông dân
Trung Quốc và các dân tộc vùng ngoại vi để chế Trung Hoa lấn áp. Sao chăng
nữa, dù có đề cao Nhân, Trí, Dũng là những giá trị con người muôn thủa thì
Nho giáo vẫn đặt cược cơ bản vào Lễ, mà Lễ là gì nếu không phải thực chất là
trật tự “ Tiên học lễ hậu học văn”, nghĩa là trước hết và trên hết phải học tập
để tôn trọng và duy trì trật tự đẳng cấp, trật tự trên dưới: Vua - tôi, cha - con,
chồng - vợ ( tam cương). Nếu hoàn toàn chấp nhận Nho giáo trong thời Bắc
thuộc thì nói chung chẳng còn gì là chống Bắc thuộc cả. Hãy cúi mình trước
thiện mệnh trìu tượng và thiên tử Trung hoa cụ thể:
Song người Việt cổ, tổ tiên chúng ta vốn có một nội lực tự sinh quật
cường, bất khuất, thích lối sống riêng tự do thuần phác từ thời Bắc thuộc,
một lối sống không quá ngăn cách giữa vua và dân, một lối sống khá bình
đẳng giữa cha và con, bình đẳng giữa vợ và chồng. Bởi vậy người Việt cổ khó
lòng chấp nhận nổi trật tự “ Cương thường “ của Nho gia. Nhưng người Việt
bình dân cũng khó lòng “ cãi lý” nổi với những nho sĩ, Nho gia “Bụng đầy chữ
nghĩa”. Họ chỉ còn biết dựa vào các sư sãi vừa có chữa nghĩa vừa bảo vệ họ,
Sao chăng nữa, đạo Phật đã chủ trương bình đẳng, Phật là đức Phật đã thành, 20 lOMoAR cPSD| 40419767
chúng sinh là Đức Phật sẽ thành, chúng sinh đều có Phật tính, đều bình đẳng
trước Phật. Nếu như Nho giáo Việt Nam dựng ra cái Đình ở làng quê với một
“ tiểu triều đình” trọng nam khinh nữ thì dân quê Việt Nam dựng và bảo vệ
chùa, chùa làng của dân gian và trước hết là giới đàn bà được loại khỏi sinh
hoạt ở Đình có thể sinh hoạt thậm chí trở thành lực lượng quan trọng trong sinh hoạt chùa làng.
Mặt khác, điều kiện xã hội con người xưa kia cũng mở rộng cho Phật
giáo dễ dàng du nhập so với Trung Quốc. Phật giáo khi du nhập Trung Quốc
đã bị phản ứng mãnh liệt của tâm lý dân tộc, truyền thống văn hoá, đặc biệt
là ý thức hệ Nho giáo. Trong khi đó Phật giáo vào Việt Nam tương đối thuận
lợi, phát triển nhanh chóng, hầu như không bị phản ứng sâu sắc trừ một số ít
Nho sỹ thời Trần, Hồ. Xã hội Việt Nam khi tiếp nhận Phật giáo từ ấn Độ hay
Trung Quốc sang chưa có sự phân chia gay gắt và đối kháng kịch liệt, mối
quan hệ của Tông tộc gia đình chưa chịu ảnh hưởng của lý thuyết Tam cương
nặng nề. Điều này khiến Phật giáo khi thâm nhập không bị phản đối. Song lý
do chính có lẽ là do Phật gia khi vào đây chưa gây một đảo lộn, một biến cách,
không phủ nhận những giá trị tinh thần, phong tục tập quán của từng người,
từng gia đình, của xã hội. Vì vậy người Việt bình dân đã khá dễ dàng hấp thụ
cái triết lý nhân sinh quan của Đạo Phật, không biết có quá không nhưng một
nhà Phật học của Việt Nam đã nói có phần đúng rằng ở thời Bắc thuộc Đạo
Phật đã thấm vào lòng người dân Việt như nước thấm vào lòng đất.
Dòng Phật giáo có ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài trong xã hội Việt Nam
là Thiền Tông. Thiền Tông có một số đặc điểm mà dân gian dễ chấp nhận.
+ Phật giáo Thiền Tông ít bàn về lý luận mà chuyển sang tông phong
phong cách tu hành. Thiền Tông chủ trương “ Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt
truyền trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành phật, tức tâm thị Phật”. Như vậy
chủ chương của Thiền tông là lôi kéo thế giới Tây Phương cực lạc về trần thế,
đặt nó trong lòng con người, tâm thị Phật.
+ Thiền tông chủ trương lao động theo thanh qui của Bách Trượng (
720-814) : “ Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực” ( một ngày không làm, 21 lOMoAR cPSD| 40419767
một ngày không ăn) và lấy việc phục vụ xã hội làm điều kiện tu hành. Điều
này khiến cho các tăng nhân không phải là một tầng lớn ăn bám xã hội.
Thiền tông lại chấp nhận sự bần khổ coi sự chịu đựng bần khổ cũng là cách tu hành.
Chấp nhận bần khổ và lao động là điều khiến Thiền Tông dễ đi vào nông
thôn, dễ bám vào làng xã, đứng được trong làng quê.
+ Thiền tông có khi còn đi xa hơn nữa, cho phép sát sinh, giết người,
giết mội người mà cứu được muôn người quả là điều phúc. Phật tử không
hoàn toàn là người bị động mà có thể vùng lên chống áp bức bóc lột. Do vậy
ở Việt Nam thời phong kiến cũng có nhiều cuộc nổi dậy giành chính quyền do nhà sư lãnh đạo.
Phật giáo lại biết bám lấy làng xã bằng nhiều hoạt động cụ thể có tổ
chức, kết hợp với tín ngưỡng bản địa, hội hè. Nhà sư và ngôi chùa có vai trò
quan trọng trong đời sống dân gian cổ truyền. ở Bắc Bộ trước đây hầu như
làng nào cũng có chùa. Ngoài thờ Phật, chùa còn thêm tín ngưỡng dân gian
thờ thần tiên, thờ các vị tướng có công với nước. Ngôi chùa trở thành một
trung tâm văn hoá ở nông thôn. Có thể nói Phật giáo đã góp phần làm phong
phú thêm nền văn hoá dân tộc. Nho giáo về mặt nào đó làm cho tư tưởng
văn hoá khô cứng thì Phật giáo có phần làm mền hơn, phong phú và sinh
động hơn. Hội chùa cũng như hội làng là tiêu biểu cho sự hồ hởi của công xã,
là một dịp để con người được giải phóng tình cảm, hoà cái ta của mình vào
cái ta của làng xã, không bị giáo lý khuôn phép gò bó và toả chiết tâm hồn.
Dưới mái nhà chùa mà vẫn được phép giao lưu tình cảm. Bao nhiêu câu
chuyện tình duyên đằm thắm đã xảy ra bên cạnh cửa thiền. Thế ra cửa từ bi
không hề nghiêm ngặt như chốn sân Trình cửa Khổng. Phật chứng nhận cho
cuộc sống hồn nhiên của làng xã.
Do Phật giáo bám sâu vào làng xã nên có sức sống lâu bền và tương đối
ổn định. Vào thời kỳ Lý Trần Phật giáo thịnh vượng nhất, được nhà nước nâng
đỡ, từ thời Hồ và Lê sơ về sau Phật giáo bị giảm sút ( Nho giáo ở vị trí thống 22 lOMoAR cPSD| 40419767
trị và chi phối), nhưng Phật giáo vẫn cứ duy trì và mở rộng khắp nông thôn,
bởi lẽ Phật giáo có sơ sở làng xã vững vàng.
Phật giáo Việt Nam đã trải qua một vận mệnh thịnh suy, Nhà Phật đâu
có sợ “ thịnh suy” mà “thịnh” theo cái nghĩa được nhà nước quân chủ Lý Trần
nâng đỡ bảo trợ .... Cũng chính vì nó Phật gia được chính quyền quá ưu ái mà
sinh hoạt nhà chùa trở nên xa hoa, sa đoạ, trái ngược với đời sống Đức Phật
chối bỏ sinh hoạt cung đình, trái ngược với giới luât Bách Trượng tự lao động
mà sinh sống giản dị để dự bị giờ phút “ đến ngộ thành Phật”. “Suy” theo
nghĩa cơ bản mất sự ủng hộ của chính quyền. Nhưng suy ở thượng tầng thì
lại toả ra dân chúng ở làng quê ở các cơ sở hạ tầng, nếu đừng quá khắt khe
và cứng độ trong nguyên lý thì có thể khái quát rằng Phật giáo Lý Trần là Phật
giáo quý tộc, còn Phật giáo Lê - Nguyên về sau là Phật giáo dân gian. Từ chỗ
trở thành dân tộc từ trước, sau thế kỷ X, Phật giáo Việt Nam đã trở thành dân
gian, nhân gian - hay là đã được dân gian hoá sau thế kỷ XV.
Đạo phật có thể mất đi, như mọi hiện tượng vô thường. Song cái tinh
tuý của văn hoá Phật giáo đã được dân tộc hoá và dân gian hoá thì mãi mãi trường tồn.
2.2 Phật giáo với xã hội và con người Việt Nam ngày nay.
Ngày nay, mặc dù có rất nhiều tôn giáo xuất hiện ở Việt Nam như Thiên
chúa giáo, Đạo Cao Đài, Hoà Hảo, Cơ đốc giáo, ... ngoài ba tôn giáo chính từ
xưa. Nhưng Phật giáo vẫn giữ một vai trò hết sức quan trọng trong đời sống
xã hội và tinh thần người Việt Nam. Nhìn vào đời sống xã hội và tinh thần
người Việt Nam trong thời gian qua, ta thấy qua nhiều biểu hiện Phật giáo
đang được phục hồi và phát triển. ở nhiều vùng đất nước số người theo Phật
giáo ngày càng đông, số gia đình Phật tử xuất hiện ngày càng nhiều, lễ hội
Phật giáo và sinh hoạt Phật giáo ngày một có vị trí cao trong đời sống tinh
thần xã hội, số sư sãi được đào tạo từ các trường Phật học ngày càng nhiều,
số kinh sách xuất bản hàng năm cũng tăng, ta có thể tham khảo bảng số liệu sau: Bảng số liệu năm 1999. 23 lOMoAR cPSD| 40419767
Hơn lúc nào hết trong mấy chục năm lại đây người Phật tử Việt Nam
rất chăm lo đến việc thực hiện các nghi lễ của đạo mình. Họ hay lên chùa
trong các ngày sóc, cọng, họ trân trọng thành kính trong khi thi hành lễ, họ
siêng năng trong việc thiền định, giữ giới, làm việc thiện. Việc ăn chay hàng
tháng trở thành thói quen không thể thiếu của người theo Đạo phật. Mặt
khác nhà chùa sẵn sàng thực hiện các yêu cầu của họ như cầu siêu, giản oan,...
Tất cả những điều này củng cố niềm tin vào giáo lý, vừa qui định tư duy và
hành động của họ, tạo cơ sở để hình thành những nhân cách riêng biệt.
Thời đại ngày nay, là thời đại phát triển. Nước ta vừa trải qua mấy chục
năm chiến tranh và hàng chục năm sống dưới chế độ quan liêu bao cấp, đời
sống còn nghèo nàn, lạc hậu vẫn cần đến sự phát triển. Phát triển có nghĩa là
sự tăng trưởng nhanh chóng về kinh tế, đời sống vật chất và văn hoá. Đảng
và nhà nước đã chỉ ra nhiệm vụ trước mắt làm dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng văn minh. Để đạt mục tiêu này nước ta cần có những người có
tham vọng lớn, năng động, lạc quan, tin tưởng, dũng cmở rộng sáng tạo.
Những phẩm chất này phần lớn trái với giáo lý nhà Phật, vì tham vọng trái với 24 lOMoAR cPSD| 40419767
cấm dục, vô dục, ly dục của Nhà Phật ... Vì vậy việc cần làm hiện nay là phải
xác định rõ Phật giáo có ảnh hưởng đến hệ tư tưởng của người Việt Nam như
thế nào để từ đó đưa ra những chính sách phát triển phù hợp với lòng dân,
làm cho xã hội ngày càng phát triển tiến bộ và tốt đẹp hơn.
2.3 ảnh hưởng của Phật giáo tới thế hệ trẻ.
Ngày nay ở nước ta Phật giáo không còn ở vị trí chính thống Nhà trường
ở các cấp học phổ thông không có chương trình giảng dạy lịch sử, triết lý, đạo
đức Phật giáo một cách hệ thống. Số gia đình Phật tử cũng không còn đông
như trước đây. Sinh viên các trường Đại học chỉ nhận được rất ít kiến thức sơ
bộ về Phật giáo thông qua bộ môn “lịch sử triết học Phương Đông”, trừ những
khoa chuyên ngành Triết học. Vì thế phần lớn những hiểu biết của chúng ta
về Phật giáo trước hết là chịu ảnh hưởng tự nhiên của gia đình, sau đó là từ
bạn bè, thầy cô và những mối quan hệ xã hội khác. Trong đó ảnh hưởng của
gia đình có tác động lớn lên mỗi chúng ta. Nếu trong mỗi gia đình mọi người
đều theo đạo phật hoặc không theo một tôn giáo nào nhưng vẫn giữ tập tục
quan trọng đi lễ chùa vào những ngày âm quan trọng như ngày Tết, lễ, rằm
... Người già thường nói chuyện với con cháu về Đức Phật, Bồ Tát, về đạo lý
làm người dựa vào các giáo lý Phật giáo. Những suy nghĩ quan niệm này có
thể phai nhạt, thậm chí đi ngược lại khi ta gặp một trào lưu tư tưởng mới,
đem lại một thế giới quan mới từ trong môi trường gia đình chúng ta phần
nào đó chịu ảnh hưởng của đạo phật nhưng không sâu sắc như các triều đại
trước và mục đích tìm đến Đạo phật không còn mang tính hướng đạo chân
chính như trước kia nữa. Do nhiều nguyên nhân nhưng trước hết do sự xâm
nhập của nhiều trào lưu tư tưởng, học thuyết Phương Tây vào nước ta cách
đây vài ba thế kỷ. Đặc biệt là sự giác ngộ lý luận Mác - Lênin, chủ nghĩa cộng
sản của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động đã tạo tiền đề
xây dựng hệ thống tư tưởng, nguyên tắc hành động cho phong trào cách
mạng của nhân dân Việt Nam, lấy đó làm vũ khí chính trị kết hợp với đấu
tranh vũ trang. Đảng ta rất chú trọng việc truyền bá học thuyết này cho quần
chúng nhân dân nhất là đối tượng thanh thiếu niên, những người chủ tương 25 lOMoAR cPSD| 40419767
lai của đất nước. Chính vì vậy, thanh thiếu niên, chúng ta ngày nay khi rời ghế
nhà trường được trang bị không những kiến thức để làm việc mà còn cả kiến
thức về lý luận chính trị. Điều này giúp ta nhận thức được về cơ bản giữa mô
hình lý tưởng nhân đạo của Phật giáo và chủ nghĩa cộng sản là: Một bên là
duy tâm, một bên duy vật. Một bên diệt dục triệt để bằng ý chí và coi dục là
căn nguyên của mọi tội lỗi, bên kia thì cố gắng thoả mãn nhu cầu ngày càng
tăng của con người bằng lao động với năng suất và chất lượng cao nhằm cải
tạo thế giới, coi nhằm cải tạo thế giới, coi đó là tiêu chuẩn đánh giá tính nhân
đạo thực sự tiến bộ của xã hội, một bên hứa hẹn một mô hình niết bàn bình
đẳng tự do cho tất cả mọi người, từ bi bác ái như nhau, không còn bị ràng
buộc bởi các nhu cầu trần tục, còn bên kia khẳng định mô hình lý tưởng cho
mọi người lao động, coi lao động là nhu cầu sống chứ không phải phương
tiện sống, lao động không còn là nguồn gốc của khổ đau, qua lao động con
người hoàn thiện cả bản thân và hoàn thiện cả xã hội.
Đấy là những tư tưởng tiến bộ của chủ nghĩa Mác - Lê nin. Nó phù hợp
với xu thế phát triển của thời đại, của xã hội. Do đó, nó nhanh chóng được
thanh niên ủng hộ, tiếp thu. Do có một số quan điểm ngược lại nên tất yếu
Phật giáo không còn giữ một vai trò như trước đây nữa.
Mặt khác, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, mọi lĩnh
vực trong đời sống con người đều có bước nhar vọt. Xu thế toàn cầu hoá thể
hiện ngày càng rõ nét. Điều kiện đó đòi hỏi con người phải hết sức năng động,
nhanh nhạy nắm bắt vấn đề trong cuộc sống. Trong khi đó, theo giáo lý nhà
Phật con người trở nên không có tham vọng tiến thân, bằng lòng với những
gì mình đã có, sống nhẫn nhục, không đấu tranh, hướng tới cõi niết bàn khi
cuộc sống trần gian đã chấm dứt. Như vậy đạo đức Phật giáo đã tách con
người ra khỏi điều kiện thực tiễn của con người xã hội, làm cho con người có
thái độ chấp nhận chứ không phải là cải tạo thế giới. Đạo đức xuất thể của
Phật giáo là chạy trốn nhu cầu bản năng chứ không phải chế ngự thiên nhiên,
bắt nó phục vụ cho mình. Các chương trình xã hội của Phật giáo không phải
cải tạo lại điều kiện sống mà chỉ để cố san bằng xã hội bằng đạo đức, trong 26 lOMoAR cPSD| 40419767
xã hội đó ai cũng từ bi, bác ái, hỉ xả, nhẫn nhục ... Đạo đức nhà Phật bị gimở
rộng mất giá trị nhân đạo nhờ chính thái độ yếu thế này, khi những nhu cầu
về thể xác bị coi là trần tục, kém đạo đức. Nhất là trong cuộc sống ngày nay,
khi mà con người đã đạt được một trình độ nhất định, quan niệm trên càng
không thể chấp nhận được.
Do đó, ảnh hưởng của Phật giáo càng xa rời thế hệ trẻ.
Chúng ta cũng nhận thấy rằng, ngày ngay những người đi chùa hầu hết
không có đủ tri thức về Phật giáo cho nên khó có thể giáo dục đạo Phật một
cách tự giác, tích cực trong xã hội và gia đình. Phật giáo bác học cũng bị mai
một nhiều, không còn phát huy vai trò hướng đạo. Các cao tăng chưa ý thức
được hết vai trò của họ trong việc xây dựng hoàn thiện nhân cách con người
Việt Nam. Chẳng hạn các buổi giảng kinh đàm đạo các buổi lễ trên chùa chưa
được tổ chức theo tinh thần khai thác những tinh thuý của đạo lý Phật giáo,
mà phần nhiều theo thị hiếu: Cầu an, giải hạn, cầu lộc ... của giới bình dân.
Phật giáo bình dân cũng sa sút. Người dân lên chùa thường quá chú trọng
đến lễ vật, đến các ham muốn tầm thường. Do không được giáo dục đầy đủ,
đúng đắn giáo lý nhà Phật, số đông thanh thiếu niên đã đua theo thị hiếu của
mọi người. Họ đến chùa cúng bái, thắp hương vái xin phật, Bồ Tát, La Hán
phù hộ độ trì cho họ đạt được mong muốn của mình. Những mong muốn ấy
thường là chuyện học hành, tình cảm, sức khoẻ, vật chất ... hoặc hơn nữa, họ
coi đến chùa chỉ là hình thức đi chơi, giải trí với bạn bè kèm theo đó là sự
thiếu nghiêm túc trong ăn mặc, đi đứng, nói năng. Số lượng học sinh, sinh
viên nói riêng cũng như số lượng người dân đi chùa gần đây càng đông, song
xem ra ý thức cầu thiện, cầu mạnh về nội tâm còn quá ít so với những mong
muốn tư lợi. Có rất ít người đến chùa để tìm sự thanh thản trong tâm hồn,
để tu dưỡng nghiền ngẫm đạo lý làm người, về thiện - ác. Như vậy mục đích
đến chùa của người dân đã sai lầm, tầm thường hoá so với điều mà giáo lý
nhà Phật muốn hướng con người ta vào.
Nhưng ta cũng có thể thấy rằng những tư tưởng Phật giáo cũng có ảnh
hưởng ít nhiều đến đời sống của thanh thiếu niên hiện nay. Như ở các trường 27 lOMoAR cPSD| 40419767
phổ thông, các tổ chức đoàn, đội luôn phát động các phong trào nhân đạo
như “ Lá lành đùm lá rách”., “ quỹ giúp bạn nghèo vượt khó” , “ quỹ viên gạch
hồng” ... Chính vì vậy ngay từ nhỏ các em học sinh đã được giáo dục tư tưởng
nhân đạo, bác ái, giúp đỡ người khác mà cơ sở của nền tảng ấy là tư tưởng
giáo lý nhà Phật đã hoà tan với giá trị truyền thống của con người Việt Nam.
Lên đến cấp III và vào Đại học, những thanh thiếu niên có những hoạt động
thiết thực hơn. Việc giúp đỡ người khác không phải hạn chế ở việc xin bố mẹ
tiền để đóng góp mà có thể bằng chính kiến thức, sức lực của mình. Sự đồng
cảm với những con người gặp khó khăn, những số phận bất hạnh cô đơn,
cộng với truyền thống từ bi, bác ái đã giúp chúng ta, những học sinh, sinh
viên còn ngồi trên ghế nhà trường có đủ nghị lực và tâm huyết để lập ra
những kế hoạch, tham gia vào những hoạt động thiết thực như hội chữ thập
đỏ, hội tình thương, các chương trình phổ cập văn hoá cho trẻ em nghèo,
chăm nom các bà mẹ Việt Nam nghèo ... Hình ảnh hàng đoàn thanh niên, sinh
viên hàng ngày vẫn lăn lội trên mọi nẻo đường tổ quốc góp phần xây dựng
đất nước, tổ quốc ngày càng giàu mạnh thật đáng xúc động và tự hào. Tất cả
những điều đó chứng tỏ thanh niên, sinh viên ngày nay không chỉ năng động,
sáng tạo đầy tham vọng trong cuộc sống mà còn thừa hưởng những giá trị
đạo đức tốt đẹp của ông cha, đó là sự thương yêu, đùm bọc lẫn nhau giữa
mọi người, lòng thương yêu giúp đỡ mọi người qua cơn hoạn nạn mà không
chút nghĩ suy, tính toán. Và ta không thể phủ nhận Phật giáo đã góp phần tạo
nên những giá trị tốt đẹp ấy. Và ta càng phải nhắc đến giá trị đó trong khi
cuộc sống ngày nay ngày càng xuất hiện những hiện tượng tiêu cực. Trong
khi có những sinh viên còn khó khăn đã dồn hết sức mình để học tập cống
hiến cho đất nước thì vẫn còn một số bộ phận thanh niên ăn chơi, đua đòi,
làm tiêu tốn tiền bạc của cha mẹ và đất nước. Tối đến, người ta bắt gặp ở các
quán Bar, sàn nhảy những cô chiêu, cậu ấm đang đốt tiền của bố mẹ vào
những thú vui vô bổ. Rồi những học sinh, sinh viên lầm đường lỡ bước vào
ma tuý, khiến cho bao gia đình tan nát, biết bao ông bố bà mẹ cay đắng nhìn
những đứa con của mình bị chịu hình phạt trước pháp luật. Thế hệ trẻ ngày 28 lOMoAR cPSD| 40419767
nay nhiều người chỉ biết chạy theo vật chất, bị cuốn hút bởi những thứ ăn
chơi sau đoạ làm hại đến gia đình và cộng đồng. Hơn bao giờ hết việc giáo
dục nhân cách cho thế hệ trẻ trở nên rất quan trọng và một trong những
phương pháp hữu ích là nêu cao truyền bá tinh thần cũng như tư tưởng nhà
Phật trong thế hệ trẻ. Đó thực sự là công việc cần thiết cần làm ngay. Phần C: kết luận
Qua việc nghiên cứu đề tài này chúng ta phần nào hiểu thêm được
nguồn gốc ra đời của Phật giáo, hệ tư tưởng của Phật giáo và ảnh hưởng của
nó đến xã hội và người dân ta, đồng thời hiểu thêm về lịch sử nước ta. Đặc
biệt đề tài này cho chúng ta thấy rõ vấn đề có ý nghĩa quan trọng, đó là vấn
đề xây dựng hình thành nhân cách và tư duy con người Việt Nam trong tương
lai với sự hỗ trợ của những giá trị đạo đức nhân văn của Phật giáo, cũng như
một số tư tưởng tôn giáo khác.
Dù còn những khuyết điểm, hạn chế song chúng ta không thể phủ nhận
những giá trị đạo đức to lớn mà Phật giáo đã mang lại. Đặc trưng hướng nội
của Phật giáo giúp con người tự suy ngẫm về bản thân, cân nhắc các hành
động của mình để không gây ra đau khổ bất hạnh cho người khác. Nó giúp
con người sống thân ái, yêu thương nhau, xã hội yên bình. Tuy nhiên, để giáo
dục nhân cách đạo đức của thế hệ trẻ thì như thế vẫn chưa đủ. Bước sang
thế kỷ XXI, chuẩn mực nhân cách mà một thanh niên cần có đòi hỏi phải hoàn
thiện cả về mặt thể xác lẫn tinh thần, phải có đủ khả năng chinh phục cả thế
giới khách quan lẫn thế giới nội tâm. Đạo đức thế kỷ XXI do vậy có thể khai
thác sự đóng góp tích cực của Phật giáo để xây dựng đạo đức nhân văn toàn
thiện hơn, tự giác cao hơn vì sang thế kỷ XXI, bên cạnh sự phát triển kỳ diệu
của khoa học, những mâu thuẫn, chiến tranh giành quyền lực rất có thể sẽ
nổ ra và dưới sự hậu thuẫn của khoa học, các loại vũ khí sẽ được chế tạo hiện
đại, tàn nhẫn hơn, dễ dàng thoả mãn cái ác của vài cá nhân và nguy cơ gây ra
sự huỷ diệt sẽ khủng khiếp hơn. Khi đó đòi hỏi con người phải có đạo đức, 29 lOMoAR cPSD| 40419767
nhân cách cao hơn để nhận ra được cái ác dưới một lớp vỏ tinh vi hơn, “ sạch sẽ” hơn.
Như vậy trong cả quá khứ, hiện tại và tương lai, Phật giáo luôn luôn tồn
tại và gắn liền với cuộc sống của con người Việt Nam. Việc khai thác hạt nhân
tích cực hợp lý của Đạo Phật nhằm xây dựng nhân cách con người Việt Nam,
đặc biệt là thế hệ trẻ, là một mục tiêu chiến lược đòi hỏi sự kết hợp giáo dục
tổng hợp của xã hội - gia đình - nhà trường bản thân cá nhân, một sự kết hợp
tự giác tích cực cả truyền thống và hiện đại. Chúng ta tin tưởng vào một thế
hệ trẻ hôm nay và mai sau cường tráng về thể chất, phát triển về trí tuệ,
phong phú về tinh thần, đạo đức tác phong trong sáng kế thừa truyền thống
cha ông cũng như những giá trị nhân bản Phật giáo sẽ góp phần bảo vệ và xây
dựng xã hội ngày càng ổn định, phát triển.
Tài liệu tham khảo 1.
Nguyễn Duy Cần - Tinh hoa Phật giáo ( NXB thànhphố HCM) - 1997 2.
Thích Nữ Trí Hải dịch - Đức Phật đã dạy những gì ( conđường
thoát khổ) ( NNXB Tôn giáo - 2000 ) 3. PGS Nguyễn Tài Thư -
ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với conngười
Việt Nam hiện nay ( Nhà xuất bản chính trị quốc gia 1997). -
Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập 1 ( NXB quốc gia 1993)
4.Thích thiện Siêu dịch - Lời Phật dạy ( NXB Tôn giáo - 2000) 5.
PTS. Phương Kỳ Sơn - Lịch sử Triết học ( NXB chính trịquốc gia - 1999) 30 lOMoAR cPSD| 40419767 6.
Lý Khôi Việt - Hai nghìn năm Việt Nam và Phật giáo. 7.
Viện triết học - Lịch sử Phật giáo Việt Nam ( NXB khoahọc xã hội Hà Nội - 1988 ) 8.
Nhiều tác giả - Mười tôn giáo lớn trên thế giới ( 1999) Mục lục Trang
Phần A: Lý do chọn đề tài 1 Phần B: Nội dung 1
I. Khái quát về Phật Giáo 1.1 Nguồn gốc ra đời
1.2 Nội dung chủ yéu của tư tưởng Triết học Phật giáo
1.3 Sự truyền bá đạo trên thế giới
1.4 Tình hình phát triển của Phật giáo
II. Một số ảnh hưởng của Phật giáo đến xã hội và con người Việt Nam
2.1 Phật giáo với xã hội và con người Việt Nam xưa kia
2.2 Phật giáo với xã hội và con người Việt Nam ngày nay
2.3 ảnh hưởng của Phật giáo đến thế hệ trẻ 31