Tiểu luận Phép biện chứng về phủ định - Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Mở Hà Nội

Tiểu luận Phép biện chứng về phủ định - Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Mở Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
KHOA TIẾNG ANH
=====000=====
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài: Phép biện chứng về phủ định và vận dụng
phân tích việc kế thừa và phát triển sáng tạo các
giá trị truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa
hiện nay
Sinh viên thực hiện: Trần Khánh Phương
Mã SV: 23A7101D0352
Lớp: 2371A10
Giảng viên hướng dẫn: TS Phạm Bá Điền
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU………………………………………………………
Chương I: PHÉP PHỦ ĐỊNH BIỆN CHỨNG…………………….
1.1 Khái niệm phủ định và phủ định biện chứng
1.1.1 Định nghĩa……………………
1.1.2 Các đặc trưng cơ bản của Phủ định biện chứng……………...
1.2 Quy luật phủ định của phủ định………………………………
1.3 Ý nghĩa phương pháp luận của phép biện chứng về phủ
định…………………………………………………………………..
Chương II: VẬN DỤNG PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ PHỦ ĐỊNH
TRONG VIỆC KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO CÁC
GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU
HÓA HIỆN NAY
…………………………………………………………………
2.1 Thực trạng toàn cầu hóa hiện nay ảnh hưởng đến kế thừa....
2.1.1 Bối cảnh toàn cầu hóa nói chung tại VN....................................
2.1.2 Quan niệm về giá trị và giá trị truyền thống..............................
2.1.3 Thời cơ và thách thức của toàn cầu hóa đối với việc xây dựng
hệ giá trị truyền thống Việt Nam.........................................................
2.2 Thực trạng việc kế thừa gìn giữ và phát huy truyền thống văn
hóa Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa những năm gần
đây..................................................................................................... 9
2.2.1 Những thành tựu và hạn chế đã đạt được trong quá trình vận
dụng phép biện chứng phủ định của phủ định vào việc kế thừa và
phát huy những giá trị văn hóa của dân tộc....................9
2.2.2 Vai trò của phép biện chứng phủ định của phủ định trong việc
kế thừa, và phát triển truyền thống văn hóa dân tộc ta hiện
nay...............................................................................................12
2.3 Phương hướng xây dựng và phát triển những giá trị truyền
thống Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa .......................... 12
2.3.1 Định vị hệ giá trị Việt Nam hiện nay...................................................12
2.3.2 Nghiên cứu dự báo những biến đổi của các giá trị văn hóa trước tác động
của toàn cầu……………………………………………………………………….13
2.3.3 Cần chủ động và tích cực xác lập hệ giá trị trên cơ sở kế thừa,
tiếp thu những giá trị văn hóa truyền thống, tích hợp giá trị của thời đại, phù
hợp với định hướng phát triển đất nước trong tình hình hiện nay ……….14
2.3.4 Hiện thực hóa các giá trị văn hóa truyền thống một cách hiệu
quả trong đời sống xã hội...................................................15
KẾT LUẬN …………………………………………………….16
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................16
LỜI NÓI ĐẦU
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, Việt Nam đã và đang không ngững hội
nhập, giao lưu với bạn bè quốc tế. Việc tham gia vào các tổ chức thế giới như WTO,
ASEAN, APEC… đã cho thấy Việt Nam đang hội nhập sâu hơn vào tiến trình toàn cầu
hóa một cách chủ động nhằm mục tiêu hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước với
phương châm đi tắt đón đầu, thu hẹp khoảng cách so với các nước phát triển, tạo tiền
đề cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, bất kì cái gì cũng có tính hai mặt. Toàn cầu hóa sẽ mang đến thời cơ
lớn để xây dựng, phát triển kinh tế xã hội. Những mặt khác chúng ta cũng phải đối mặt
với nhiều nguy cơ, nhất là nguy cơ bị “hòa tan”, đi lệch hướng xã hội chủ nghĩa và đánh
mất bản sắc văn hóa dân tộc. Một câu hỏi đặt ra là:
Làm thế nào để bảo tồn, kế thừa và phát triển sáng tạo những giá trị văn
hóa truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay?
Đó là một câu hỏi mang tính thời đại. Một trong những hướng tiếp cận để giải
quyết câu hỏi trên là dựa nào phương pháp luận phủ định biện chứng trong triết học Mác
– Lênin. Tính kế thừa của phủ định biện chứng cho thấy bất kỳ sự vật hiện tượng nào
cũng sinh ra từ sự vật hiện tượng cũ, là cái mới ra đời trên nền tảng cái cũ, phát triển
tiếp tục dựa trên cơ sở loại bỏ những mặt hạn chế, lỗi thời lạc hậu của cái cũ. Cái mới
phủ định cái cũ, cái mới hơn tiếp tục phủ định cái mới. Cứ như vậy, sự vật hiện tượng
phát triển dần lên một hình thái mới có hình thái giống với cái ban đầu nhưng ở một
trình độ cao hơn. Khi ấy, con đường phát triển của sự vật hiện tượng không phải là con
đường thẳng mà là con đường “xoắn ốc”. Mỗi vòng của đường “xoắn ốc” dường như
thể hiện sự lặp lại, nhưng cao hơn, thể hiện trình độ cao hơn của sự phát triển.
Từ những lý do trên, em quyết định chọn đề tài: Phép biện chứng về phủ định và vận
dụng phân tích việc kế thừa và phát triển sang tạo các giá trị truyền thống trong bối
cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Kính mong sự góp ý của cô và các bạn để em sẽ hoàn
thiện hơn trong các tiểu luận cùng như luận văn sau này.
Chương I: PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ PHỦ ĐỊNH
1.1 Khái niệm phủ định, phủ định biện chứng:
1.1.1 Định nghĩa
Trong đời sống thường ngày, khái niệm phủ định thường được biểu hiện bằng
từ “không”, phủ định có nghĩa là không, bác bỏ một cái gì đó. Còn theo triết học, trong thế
giới vật chất, mọi sự vật hiện tượng đều có quá trình sinh ra, tồn tại, phát triển rồi mất đi và
được thay thế bằng sự vật, hiện tượng khác; thay thế hình thái tồn tại này bằng hình thái
tồn tại khác của cùng một sự vật trong quá trình vận động và phát triển của nó. Sự thay thế
đó gọi là .phủ định
Phủ định bao gồm phủ định siêu hình phủ định biện chứng. Phủ định siêu
hình là phủ định do các nguyên nhân bên ngoài dẫn đến sự triệt tiêu sự vận động, phát triển
của sự vật, hiện tượng. Còn theo quan điểm duy vật biện chứng, phủ định biện chứng
quá trình tự thân phủ định, tự thân phát triển, mắt khâu trên con đường dẫn đến sự ra
đờii của cái mới, tiến bộ hơn so với cái bị phủ định. Phủ định biện chứng không bao hàm
mọi sự phủ định nói chung, chỉ bao hàm những phủ định là kết quả của việc giải quyết
mâu thuẫn bên trong của sự vật, tạo ra bước nhảy về chất, tạo tiền đề, điều kiện cho sự phát
triển, cái mới ra đời thay thế cái cũ.
1.1.2 Các đặc trưng của phủ định biện chứng :
Phủ định biện chứng có hai đặc trưng cơ bản là tính khách quan và tính kế thừa.
Thứ nhất, phủ định biện chứng tính khách quan nguyên nhân của sự phủ
định nằm trong chính bản thân sự vật hiện tượng. Nó là kết quả của quá trình đấy tranh giải
quyết mâu thuẫn tất yếu, bên trong của bản thân sự vật, tạo khả năng ra đời của cái mới
thay thế cái cũ. Nhờ việc giải quyết các mâu thuẫn sự vật luôn phát triển, thế phủ
định biện chứng một tất yếu khách quan trong quá trình vận động phát triển của sự
vật. Điều đó cũng nghĩa, phủ định biện chứng không phụ thuộc vào ý muốn, ý chí của
con người. Con người chỉ có thể tác động làm cho quá trình phủ định ấy diễn ra nhanh hay
chậm trên cơ sở nắm vững quy luật phát triển của sự vật.
Thứ hai, phủ định biện chứng có tính kế thừa, Kế thừa là việc cái mới ra đời từ việc giữ lại
trong đó những yếu tố ích cực, tiến bộ từ cái cải tạo đi cho phù hợp. Phủ định biện
chứng kết quả của sự tự thân phát triển trên sở giải quyết mâu thuẫn vốn của sự
vật, hiện tượng. Sự phủ định ấy không chỉ đơn thuần là thủ tiêu, phá hủy cái cũ, mà con là
sự giữ lại phát triển những nhân tố tích cực đã có, tức kế thừa. Trong quá trình phát
triển, giữa cái cũ và cái mới bao giờ cũng có mối liên hệ ràng buộc, tương tác qua lại, xâm
nhập vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau làm tiền đề của nhau. Cái khi mất đi không
nghĩa mất đi hoàn toàn, mà trong nó vẫn được bảo tồn và giữ lại những yếu tố tích cực,
những “hạt nhân hợp lý” để tạo tiền đề, nền tảng cho sự phát triển tiếp theo. Ngược lại, cái
mới phát triển cao hơn không phải từ hư vô, trên mảng đất trống không, mà là kết quả phát
triển hợp quy luật từ những gì hợp lý của cái cũ; là kết quả của sự đấu tranh và kế thừa tất
cả những yếu tố còn tích cực của cái cũ.
Bởi vậy, phủ định biện chứng khuynh hướng tất yếu của mối liên hệ bên
trong giữa cái cũ và cái mới là sự tự khẳng định của các quá trình vận động, phát triển của
sự vật.
1.2. Quy luật phủ định của phủ định. Hình thức “xoắn ốc” của sự phát
triển:
Trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất, phủ định biện chứng là một
quá trình vô tận, cái mới phủ định cái cũ, nhưng rồi cái mới lại trở nên cũ và lại bị cái mới
khác phủ định... Cứ như vậy, sự phát triển của sự vật, hiện tượng diễn ra theo khuynh
hướng phủ định của phủ định, từ thấp đến cao một cách vô tận theo đường xoắn ốc.
Phủ định biện chứng mới nói lên một giai đoạn, một nấc thang trong quá trình
phát triển. Nói một cách khái quát, qua một số lần phủ định, sự vật hoàn thành một chu kỳ
phát triển. Phủ định lần thứ nhất tạo ra sự đối lập với cái ban đầu, đó một bước trung
gian trong sự phát triển. Sau những lần phủ định tiếp theo, tái lập cái ban đầu nhưng trên
cơ sở mới cao hơn, nó thể hiện rõ rệt bước tiến của sự vật. Những lần phủ định tiếp theo đó
được gọi là sự phủ định của phủ định. Phủ định của phủ định làm xuất hiện cái mới như là
kết quả tổng hợp tất cả những yếu tố tích cực đã được phát triển từ trong cái khẳng định
ban đầu cả trong những lần phủ định tiếp theo những yếu tố tích cực được khôi phục,
được duy trì phát triển. Cái tổng hợp này sự thống nhất biện chứng tất cả những cái
tích cực ở các giai đoạn trước và ở cái mới xuất hiện trong quá trình phủ định. Do vậy, cái
mới với tư cách là kết quả phủ định của phủ định có nội dung toàn diện và phong phú hơn
so với cái khẳng định ban đầu và cái kết quả của lần phủ định thứ nhất.
Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng là sự thống
nhất giữa loại bỏ, giữ lại (kế thừa) phát triển. Mỗi lần phủ định biện chứng được thực
hiện sẽ mang lại những nhân tố tích cực mới. Do đó, sự phát triển thông qua những lần phủ
định biện chứng sẽ tạo ra xu hướng tiến lên không ngừng. Sự phát triển đi lên đó không
phải diễn ra theo đường thẳng mà theo đường “xoáy ốc”. Đề cập tới con đường đó của sự
phát triển biện chứng,
V.I. Lênin viết: “Sự phát triển hình như diễn lại những giai đoạn đã qua, nhưng dưới một
hình thức khác, ở một trình độ cao hơn (“phủ định của phủ định”); sự phát triển có thể nói
là theo đường trôn ốc chứ không theo đường thẳng.”
Diễn tả quy luật phủ định của phủ định bằng đường “xoáy ốc” chính là hình thức cho phép
biểu đạt được rõ ràng nhất các đặc trưng của quá trình phát triển biện chứng: tính kế thừa,
tính chu kỳ, tính đi lêntính vô tận của sự phát triển. Mỗi vòng mới của đường xoáy ốc
thể hiện một trình độ cao hơn của sự phát triển, đồng thời dường như quay lại cái đã qua,
dường như lặp lại vòng trước. Sự nối tiếp nhau của các vòng thể hiện tính tận của s
phát triển, tính vô tận của sự tiến lên từ thấp đến cao của sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Trong quá trình phát triển của sự vật, phủ định biện chứng đã đóng vai trò những vòng
khâu của quá trình đó.
Tóm lại, quy luật phủ định của phủ định nói lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa cái
bị phủ định cái phủ định trong quá trình phát triển của sự vật. Phủ định biện chứng
điều kiện cho sự phát triển, cái mới ra đời kết quả của sự kế thừa những nội dung tích
cực từ trong sự vật cũ. phát huy trong sự vật mới tạo nên tính chu của sự phát
triển.
1.3 Ý nghĩa phương pháp luận:
Quy luật phủ định của phủ định làsở để chúng ta nhận thức một cách đúng
đắn về xu hướng vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Quá trình đó không diễn ra
theo đường thẳng, con đường quanh co, phức tạp, gồm nhiều giai đoạn, nhiều quá
trình khác nhau. Tuy nhiên, tính đa dạng và phức tạp của quá trình phát triển chỉ là sự biểu
hiện của khuynh hướng chung, khuynh hướng tiến lên theo quy luật. Cần phải nắm được
đặc điểm, bản chất, các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng để tác động đến sự phát triển,
phù hợp với yêu cầu hoạt động, nhận thức biểu hiện của thế giới quan khoa học nhân
sinh quan cách mạng trong mọi hoạt động của chúng ta trong thực tiễn. Khẳng định
niềm tin vào xu hướng tất yếu là phát triển tiến lên của cái tiến bộ, đó là biểu hiện của thế
giới quan khoa học và nhân sinh quan cách mạng.
Theo quy luật phủ định của phủ định, trong thế giới khách quan, cái mới tất
yếu ra đời để thay thế cái cũ. Trong tự nhiên, cái mới ra đời rên sở hoạt động mục
đích, ý thức tự giác và sang tạo của con người. Vì vậy, cần nâng cao tính tích cực của nhân
tố chủ quan trong mọi hoạt động, có niềm tin vào sự tất thắng của cái mới, ủng hộ cái mới
đấu tranh cho cái mới thắng lợi. Do đó, cần khắc phục tưởng bảo thủ, trì trệ, giáo
điều, kìm hãm sự phát triển của cái mới, làm trái với quy luật phủ định của phủ định.
Quan điểm biện chứng về sự phát triển đòi hỏi trong quá trình phủ định cái
phải theo nguyên tắc kế thừa phê phán, kế thừa những nhân tố hợp quy luật lọc bỏ,
vượt qua, cải tạo liên tục, trái quy luật nhằm thúc đẩy theo hướng tiến bộ.
Chương II: VẬN DỤNG PHÂN TÍCH VIỆC KẾ THỪA VÀ
PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO CÁC GIÁ TRỊ TRUYỀN
THỐNG TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HOÁ HIÊN
NAY.
1. Các giá trị truyền thống của nước ta hiện nay
1.1 Giá trị truyền thống là gì?
Truyền thống theo tiếng Latin “tradition”, nghĩa nối đời, nối truyền.
Theo nghĩa thông thường trong Từ điển Tiếng Việt, truyền thốngthói quan hình thành
đã lâu đời trong lối sống nếp nghĩ, được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Còn
dưới góc độ chính trị, trong truyền thống được định nghĩa là diTừ điển Chính trị vắn tắt,
sản về xã hội và văn hóa được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác và được duy trì trong
suốt thời gian dài. Qua những định nghĩa trên, có thể hiểu: truyền thống là tập hợp những
tư tưởng, tình cảm, thói quen, tập quán, lối sống và cách ứng xử của một cộng đồng người
nhất định, được hình thành và phát triển trong lịch sử, đã trở nên ổn định và lưu truyền từ
thế hệ này qua thế hệ khác.
Tuy nhiên, dựa trên quan điểm biện chứng, truyền thống bao giờ cũng có tính
hai mặt, đómặt tích cựcmặt tiêu cực. Mặc tích cực bao gồm những yếu tố ưu việt,
tiến bộ, phù hợp với sự phát triển của hội, góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Mặt tiêu cực hiện thân của sức ỳ, của sự bảo thủ, lạc hậu, ảnh hướng xấu đến sự phát
triển của xã hội.
Hai mặt mâu thuẫn đó cùng song song tồn tại trong truyền thống, khi còn
đan xen, chồng chéo lên nhau. Chính vì vậy, khi nói đến giá trị truyền thống là muốn nói
đến những mặt tốt đẹp, mặt tích cực,đặc trưng cho bản sắc văn hóa dân tộc. Hơn nữa,
không phải cái tốt cũng được gọi giá trị truyền thống, còn phả tính phổ
biến, cơ bản, có ảnh hưởng tích cực trong đời sống xã hội. Như vậy, giá trị truyền thống là
tập hợp những nhân tố tích cực, phổ biến về tưởng, tình cảm, thói quan tập quán lối
sống, được hình thành phát triển trong lịch sử, đã trở nên ổn định lâu bền khả
năng lưu truyền trong không gian thời gian, những con người cần giữ gìn
phát triển.
1.2. Các giá trị truyền thống của Việt Nam
Trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc, có biết bao các giá trị truyền thống của con người
Việt Nam được hình thành, được dư luận xã hội cổ vũ, trở thành bản sắc văn hóa của dân
tộc. Có thể kể đến một số giá trị truyền thống điển hình như tinh thần yêu nước; tinh thần tự
chủ, tự lực, tự cường, ý thức độc lập tự do; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tinhfm
đọa lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong
lối sống; tinh thần hiếu học, tôn sư trọng đạo...Đó là những giá trị truyền thống cơ bản, vô
cùng quý báu, đã tạo nên cốt cách của con người Việt Nam. Các giá trị văn hóa truyền thống
không chỉ có ý nghĩa trong lịch sử, mà còn có tầm quan trọng trong hiện tại và tương lai. Vì
thế, việc kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống được đặt ra như một tất yếu mang tính
khách quan và cấp thiết, đặc biệt là trong thời kỳ hiện nay, nước ta đang trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2. Vai trò của phủ định biện chứng trong việc kế thừa và phát triển
sáng tạo các giá trị truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện
nay
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trong quá trình lãnh đạo đất nước,
Đảng ta luôn kế thừa, tiếp thu chọn lọc những di sản quý báu của dân tộcnhân loại.
Trong đó, truyền thống văn hóa của dân tộc được Đảng ta kế thừa và phát huy triệt để, góp
phần trực tiếp nâng truyền thống văn hóa của dân tộc và các giá trị của nó lên một tầm cao
mới, với một chất lượng mới. Những thành tựu đạt được qua 25 năm đổi mới đã chứng
minh sự đúng đắn trong quan điểm của Đảng ta nhằm khai thác, kế thừa, phát huy các giá
trị truyền thống văn hóa của dân tộc vào xây dựng đất nước bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN. Phát biểu khai mạc Hội nghị Trung ương năm khóa VIII, Tổng thư Khả
Phiêu khẳng định: “Phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng
nhân lên sức mạnh của nhân dân ta để vượt qua khó khăn, thử thách, xây dựngphát
triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, tạo ra thế
và lực mới cho đất nước ta bước vào thế kỷ 21”.
Trước bối cảnh phức tạp của tình hình thế giới, khu vực trong nước hiện
nay, dưới sự tác động mạnh mẽ của toàn cầu hóa, của cuộc cách mạng khoa học - công
nghệ, của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã, đang sẽ đặt ra cho chúng ta
những khó khăn, thách thức lớn đối với việc kế thừa các giá trị truyền thống văn hóa của
dân tộc. Vì vậy, nhiệm vụ giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc
trong công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN thời kỳ mới càng trở nên
cấp thiết và nặng nề hơn bao giờ hết.
2.1. Kế thừa truyền thống văn hoá của dân tộc ở nước ta hiện nay là sự
thống nhất của hai quá trình giữ lại và lọc bỏ.
Kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc nước ta hiện nay, về thực chất
một quá trình phủ định biện chứng các mặt, các yếu tố, thuộc tính và các bộ phận cấu thành
của nó. Sự kế thừa đó không phải là loại bỏ hoàn toàn hay phủ định sạch trơn truyền thống
văn hóa, cắt đứt sợi dây liên hệ giữa quá khứ, truyền thống với hiện tại tương lại:
cũng không phải là bê nguyên xi hoàn toàn truyền thống văn hóa mà là sự kế thừa có chọn
lọc, kế thừa có điều kiện, tức là chỉ giữ lại những “hạt nhân hợp lý”, những yếu tố còn tích
cực, tiến bộ, đồng thời loại bỏ những yếu tố tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu trong truyền thống
văn hóa.
Do điều kiện đặc thù của sự sinh tồn, truyền thống văn hóa của dân tộc Việt
Nam từng bước được hình thành và phát triển. Truyền thống đó đã đồng hành và phát huy
sức mạnh của trong suốt chiều dài lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của
dân tộc Việt Nam. Truyền thống ấy cũng thường xuyên được các thế hệ người Việt Nam kế
tiếp tuyển chọn sàng lọc, loại bỏ những yếu tố không còn phù hợp, giữ lại những nhân
tố tích cực, tiến bộ, những “hạt nhân hợp lý”. Nhờ đó, dân tộc Việt Nam luôn đứng vững
trước muôn vàn thử thách, chiến thắng tất cả các thế lực ngoại xâm, bảo vệ vững chắc nền
độc lập, chủ quyền của dân tộc, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc cuộc sống hòa bình,
hạnh phúc của nhân dân.
Vì vậy, khi nhận thức và hành động, các chủ thể văn hóa cần thái độ khách
quan, khoa học trong giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc. Tích cực đi sâu nghiên cứu, tìm
hiểu, thông qua điều tra, khảo sát, đánh giá phân loại một cách có hệ thống, đồng bộ để lưu
giữ những truyền thống văn hóa còn tiến bộ, còn phát huy tác dụng. Kiên quyết loại bỏ
những của truyền thống văn hóa đã trở nên lỗi thời, lạc hậu, không còn phát huy tác
dụng. Xây dựng một thái độ đúng mục đối với những gì cần được bảo tồn, giữ gìn. Cái
cần được bảo tồn, giữ gìn thì phải bảo tồn, giữ gìn ngay từ khi còn đang tồn tại. Hiện
nay, trong hệ các giá trị truyền thống văn hóa của dân tộcrất nhiều giá trị độc đáo, đặc
sắc cần phải được giữ gìn, kế thừaphát huy. Đó là những giá trị tiêu biểu mang tính ổn
định, lâu dài và là điểm tựa đề Việt Nam phát triển đi lên
2.2. Kế thừa truyền thống văn hoá của dân tộc ở nước ta hiện nay
cần phải chống hai khuynh hướng sai lầm: khuynh hướng bảo thủ và
khuynh hướng phủ định sạch trơn đối với truyền thống văn hoá của
dân tộc.
Trong hai khuynh hướng này, khuynh hướng bảo thủ thực chất là khuynh
hướng đề cao, tuyệt đối hóa truyền thống văn hóa dân tộc. Coi truyền thống văn hóa dân
tộc là cái bất biến, không thể thay đổi được và vì vậy kế thừa nguyên xi, không cần phải bố
sung, sửa đổi và phát triển. Việc bao thu, khép kín trước yêu cầu hiện đại hoá, hội nhập tạo
nên sự trì trệ trong đời sống, sự đông cứng văn hoá. Việc đó đồng nghĩa với việc đưa văn
hoá dân tộc đến chỗ suy thoái, chỗ bế tắc, tự trói buộc bản thân mình.
Khuynh hướng phủ định sạch trơn là khuynh hướng xuất hiện ngay từ những năm đầu xây
dựng CNXH ở nước Nga. Những người theo khuynh hướng phủ định sạch trơn tập hợp
trong phải “văn hóa vô sản” chủ trương xây dựng một nền văn hóa mới từ đầu, đoạn tuyệt
hẳn với văn hóa của chế độ Nga hoàng cũ. V.I.Lênin đã kịch liệt phê phán những người
theo khuynh hướng này. Người viết: “Văn hóa vô sản không phải bỗng nhiên mà có, nó
không phải do những người tự cho mình là chuyên gia về văn hóa vô sản, phát minh ra. Đó
hoàn toàn là điều ngu ngốc. Văn hóa vô sản phải là sự phát triển hợp quy luật của tổng số
những kiến thức mà loài người đã tích lũy được dưới ách thống trị của xã hội tư bản, xã hội
của bọn địa chủ và xã hội của bọn quan liêu". Ở Việt Nam, khuynh hướng phủ định sạch
trơn đã từng xuất hiện trong cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa trước đây. Hậu quả của
khuynh hướng này là nhiều giá trị truyền thống văn hóa và những phong tục, tập quán tốt
đẹp của dân tộc bị xóa bỏ hoặc lãng quên; nhiều di tích lịch sử, văn hóa bị tàn phá nặng nề
hoặc bị xuống cấp nghiêm trọng: nhiều phong tục, tập quán tốt đẹp không được bảo tồn,
lưu giữ, dần dần bị mai một.
2.3. Kế thừa truyền thống văn hoá của dân tộc ở nước ta hiện nay gắn
với quá trình mở rộng giao lưu và tiếp biến những giá trị văn hoá của
dân tộc khác.
Mở rộng giao lưu và tiếp biến văn hóa giữa các quốc gia, dân tộc với nhau là
một vấn đề có tính quy luật của mọi nền văn hóa, đồng thời cũng là một trong những động
lực cơ bản thúc đẩy sự phát triển văn hóa của mỗi dân tộc. Đảng ta chỉ rõ: “Văn hóa Việt
Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và
giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thụ tinh hoa của
nhiều nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình”. Trong lịch sử dân tộc Việt
Nam trước đây, tuy đã từng có thời kỳ cha ông ta thực hiện chính sách “bế quan tỏa cảng”,
đóng cửa tự ru ngủ mình, không giao lưu với bên ngoài, từ chối con đường tiếp cận văn
minh của nhân loại nhằm giữ cho được “nếp nhà”, giữ được thuần phong mỹ tục của dân
tộc. Thực tế, hậu quả của chính sách này đã không tự bảo vệ được mình, mà Tổ quốc còn
bị rơi vào tay kẻ khác. Nhưng, xét một cách khách quan, trong suốt chiều dài lịch sử, thì
Việt Nam là đất nước có một nền văn hóa mở với một tư duy văn hóa mở. Người Việt Nam
không có tư tưởng kỳ thị dân tộc, không cực đoan trong giao lưu và tiếp biến văn hóa với
các quốc gia, dân tộc khác. Trong quá trình dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam luôn
tiếp thụ có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của các nước có quan hệ với Việt Nam để bổ
sung và làm giàu truyền thống văn hóa của dân tộc.
Ngày nay, dưới sự tác động của xu thế toàn cầu hóa, của cuộc cách mạng khoa
học
- công nghệ, cùng với đó là công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đang đi vào chiều sâu.
nên việc mở rộng giao lưu và tiếp biến với những giá trị văn hóa của các dân tộc khác trên
thế giới được đặt ra như một tất yếu. Thông qua đó, truyền thống văn hóa của dân tộc được
truyền bá ra bên ngoài, được khẳng định lại, được tiếp xúc nhiều hơn với các nền văn hóa
khác để học hỏi, trao đổi, so sánh, tiếp nhận, tiếp biển, làm phong phú thêm truyền thống
văn hóa của dân tộc, đồng thời truyền thống văn hoá Việt Nam cũng có cơ hội thẩm định
lại. cải tạo cho phù hợp với hoàn cảnh hiện nay của đất nước Đó là một tất yếu khách quan.
Chẳng hạn, tỉnh thần cộng đồng đề cao văn hoá làng, xã trong truyền thống con người Việt
Nam là một nét đẹp quan trọng trong bản sắc văn hoá dân tộc. Chính vì vậy, việc tiếp thu
tinh thần cạnh tranh, đề cao pháp luật, coi trọng tác phong công nghiệp từ các dân tộc khác
trên thế giới để thẩm định, bổ sung và đổi mới các giá trị truyền thống của con người Việt
Nam là hết sức cần thiết.
Tuy nhiên. hội nhập nền văn hoá thế giới là con dao hai lưỡi. Song song với
những mặt tích cực là những mặt tiêu cực, mà điển hình là nguy cơ nền văn hóa đang dần
bị “hoà tan". Chúng ta đang đứng trước thử thách rất lớn về văn hoá trước xu thế và những
tác động của văn hoá thế giới, làm sao để “hoà nhập” mà không “hoà tan” đang ngày trở
thành thách thức của văn hoá nước nhà. Trước thực trạng đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
rút ra kinh nghiệm: Trong bất kì tình huống nào, đặc biệt là thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá phải “tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” nhưng phải “giữ vững
truyền thống và bản sắc văn hoá dân tộc” Hội nhập văn hoá phải trên cơ sở định hướng với
sự lựa chọn tối ưu, làm sao để tích hợp nhiều tinh hoa đặc sắc của nhiều nền văn hoá khác
nhau. Nếu sự tiếp thu ấy là bê nguyên xi những cái bên ngoài vào thì văn hoá sẽ bị mất
gốc, sẽ bị đồng hoá. Tiếp thu trong tư thế chủ động là điều kiện của việc xử lý mối quan hệ
biện chứng nội sinh, ngoại sinh. Nguyên tắc tiếp thu là lấy bản sắc văn hoá của mình làm
gốc, lấy tiêu chí văn hoá làm bộ lọc, tiếp thu các văn hoá hiện đại của thế giới, lấy cái tiến
bộ bổ sung cho cái thiếu hụt trong văn hoá truyền thống, tạo thuận lợi cho văn hoá dân tộc
phát triển.
Tóm lại, việc kế thừa và phát triển sáng tạo các giá trị truyền thống là một tất
yếu khách quan. Đó là một quá trình lọc bỏ và giữ lại những "hạt nhân hợp lý, bổ sung,
phát triển và tạo ra các giá trị truyền thống mới đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của xã hội hiện
nay. Đặc biệt, hiện nay, trong bởi cạnh toàn cầu hoá, việc kế thừa và phát triển văn hoá còn
là sự giao lưu, học hỏi và tiếp biến với các nền văn hoá khác trên thế giới một cách có chọn
lọc nhằm làm phong phú và hiện đại hóa truyền thống văn hoá Việt Nam. Làm đậm đà và
bền vững thêm bản sắc văn hóa của mình.
KẾT LUẬN
Trước bối cảnh toàn cầu hóa hội nhập quốc tế, hầu như dân tộc nào cũng
đứng trước thử thách của phát triển luôn tìm kiếm con đường phát triển riêng phù hợp
với đặc điểm lịch sử, văn hóa truyền thống vốn của dân tộc mình. Đối với dân tộc Việt
Nam, trong quá trình đổi mới, để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, nhất định phải giữa gìn phát huy các giá trị truyền thống của con người
Việt Nam đã được hình thành và hun đúc trong hàng ngàn năm lịch sử.
Dưới góc nhìn của phương pháp phủ định biện chứng, chủ trương lớn nhất, bao
quát nhất để đối phó với những thách thức của hội nhập là “Xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ
đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng cộng đồng, vào mọi lĩnh
vực sinh hoạt và quan hệ con người. Chỉ trên cơ sở có một nền văn hóa như vậy, xã hội ta
mới thể nguồn lực nội sinh to lớn, để từ đó có sức đề kháng, khả năng “miễn dịch”
mạnh mẽ trước những yếu tố văn hóa tiêu cực du nhập từ bên ngoài nảy sinh ngay từ
bên trong, từ mặt trái của nền kinh tế thị trường.
| 1/14

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI KHOA TIẾNG ANH =====000=====
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài: Phép biện chứng về phủ định và vận dụng
phân tích việc kế thừa và phát triển sáng tạo các
giá trị truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay
Sinh viên thực hiện: Trần Khánh Phương Mã SV: 23A7101D0352 Lớp: 2371A10
Giảng viên hướng dẫn: TS Phạm Bá Điền MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU………………………………………………………
Chương I: PHÉP PHỦ ĐỊNH BIỆN CHỨNG…………………….
1.1 Khái niệm phủ định và phủ định biện chứng
1.1.1 Định nghĩa……………………
1.1.2 Các đặc trưng cơ bản của Phủ định biện chứng……………...
1.2 Quy luật phủ định của phủ định………………………………
1.3 Ý nghĩa phương pháp luận của phép biện chứng về phủ
định…………………………………………………………………..
Chương II: VẬN DỤNG PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ PHỦ ĐỊNH
TRONG VIỆC KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO CÁC
GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA HIỆN NAY
…………………………………………………………………
2.1 Thực trạng toàn cầu hóa hiện nay ảnh hưởng đến kế thừa....
2.1.1 Bối cảnh toàn cầu hóa nói chung tại VN....................................
2.1.2 Quan niệm về giá trị và giá trị truyền thống..............................
2.1.3 Thời cơ và thách thức của toàn cầu hóa đối với việc xây dựng
hệ giá trị truyền thống Việt Nam.........................................................
2.2 Thực trạng việc kế thừa gìn giữ và phát huy truyền thống văn
hóa Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa những năm gần
đây.....................................................................................................
9
2.2.1 Những thành tựu và hạn chế đã đạt được trong quá trình vận
dụng phép biện chứng phủ định của phủ định vào việc kế thừa và
phát huy những giá trị văn hóa của dân tộc....................9
2.2.2 Vai trò của phép biện chứng phủ định của phủ định trong việc
kế thừa, và phát triển truyền thống văn hóa dân tộc ta hiện
nay...............................................................................................12
2.3 Phương hướng xây dựng và phát triển những giá trị truyền
thống Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa .......................... 12
2.3.1 Định vị hệ giá trị Việt Nam hiện nay...................................................12
2.3.2 Nghiên cứu dự báo những biến đổi của các giá trị văn hóa trước tác động
của toàn cầu……………………………………………………………………….13

2.3.3 Cần chủ động và tích cực xác lập hệ giá trị trên cơ sở kế thừa,
tiếp thu những giá trị văn hóa truyền thống, tích hợp giá trị của thời đại, phù
hợp với định hướng phát triển đất nước trong tình hình hiện nay ……….14

2.3.4 Hiện thực hóa các giá trị văn hóa truyền thống một cách hiệu
quả trong đời sống xã hội...................................................15
KẾT LUẬN …………………………………………………….16
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................16 LỜI NÓI ĐẦU
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, Việt Nam đã và đang không ngững hội
nhập, giao lưu với bạn bè quốc tế. Việc tham gia vào các tổ chức thế giới như WTO,
ASEAN, APEC… đã cho thấy Việt Nam đang hội nhập sâu hơn vào tiến trình toàn cầu
hóa một cách chủ động nhằm mục tiêu hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước với
phương châm đi tắt đón đầu, thu hẹp khoảng cách so với các nước phát triển, tạo tiền
đề cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, bất kì cái gì cũng có tính hai mặt. Toàn cầu hóa sẽ mang đến thời cơ
lớn để xây dựng, phát triển kinh tế xã hội. Những mặt khác chúng ta cũng phải đối mặt
với nhiều nguy cơ, nhất là nguy cơ bị “hòa tan”, đi lệch hướng xã hội chủ nghĩa và đánh
mất bản sắc văn hóa dân tộc. Một câu hỏi đặt ra là:
Làm thế nào để bảo tồn, kế thừa và phát triển sáng tạo những giá trị văn
hóa truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay?
Đó là một câu hỏi mang tính thời đại. Một trong những hướng tiếp cận để giải
quyết câu hỏi trên là dựa nào phương pháp luận phủ định biện chứng trong triết học Mác
– Lênin. Tính kế thừa của phủ định biện chứng cho thấy bất kỳ sự vật hiện tượng nào
cũng sinh ra từ sự vật hiện tượng cũ, là cái mới ra đời trên nền tảng cái cũ, phát triển
tiếp tục dựa trên cơ sở loại bỏ những mặt hạn chế, lỗi thời lạc hậu của cái cũ. Cái mới
phủ định cái cũ, cái mới hơn tiếp tục phủ định cái mới. Cứ như vậy, sự vật hiện tượng
phát triển dần lên một hình thái mới có hình thái giống với cái ban đầu nhưng ở một
trình độ cao hơn. Khi ấy, con đường phát triển của sự vật hiện tượng không phải là con
đường thẳng mà là con đường “xoắn ốc”. Mỗi vòng của đường “xoắn ốc” dường như
thể hiện sự lặp lại, nhưng cao hơn, thể hiện trình độ cao hơn của sự phát triển.
Từ những lý do trên, em quyết định chọn đề tài: Phép biện chứng về phủ định và vận
dụng phân tích việc kế thừa và phát triển sang tạo các giá trị truyền thống trong bối
cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Kính mong sự góp ý của cô và các bạn để em sẽ hoàn
thiện hơn trong các tiểu luận cùng như luận văn sau này.
Chương I: PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ PHỦ ĐỊNH
1.1 Khái niệm phủ định, phủ định biện chứng: 1.1.1 Định nghĩa
Trong đời sống thường ngày, khái niệm phủ định thường được biểu hiện bằng
từ “không”, phủ định có nghĩa là không, bác bỏ một cái gì đó. Còn theo triết học, trong thế
giới vật chất, mọi sự vật hiện tượng đều có quá trình sinh ra, tồn tại, phát triển rồi mất đi và
được thay thế bằng sự vật, hiện tượng khác; thay thế hình thái tồn tại này bằng hình thái
tồn tại khác của cùng một sự vật trong quá trình vận động và phát triển của nó. Sự thay thế
đó gọi là phủ định.
Phủ định bao gồm phủ định siêu hình và phủ định biện chứng. Phủ định siêu
hình là phủ định do các nguyên nhân bên ngoài dẫn đến sự triệt tiêu sự vận động, phát triển
của sự vật, hiện tượng. Còn theo quan điểm duy vật biện chứng, phủ định biện chứng là
quá trình tự thân phủ định, tự thân phát triển, là mắt khâu trên con đường dẫn đến sự ra
đờii của cái mới, tiến bộ hơn so với cái bị phủ định. Phủ định biện chứng không bao hàm
mọi sự phủ định nói chung, nó chỉ bao hàm những phủ định là kết quả của việc giải quyết
mâu thuẫn bên trong của sự vật, tạo ra bước nhảy về chất, tạo tiền đề, điều kiện cho sự phát
triển, cái mới ra đời thay thế cái cũ.
1.1.2 Các đặc trưng của phủ định biện chứng :
Phủ định biện chứng có hai đặc trưng cơ bản là tính khách quan và tính kế thừa.
Thứ nhất, phủ định biện chứng có tính khách quan vì nguyên nhân của sự phủ
định nằm trong chính bản thân sự vật hiện tượng. Nó là kết quả của quá trình đấy tranh giải
quyết mâu thuẫn tất yếu, bên trong của bản thân sự vật, tạo khả năng ra đời của cái mới
thay thế cái cũ. Nhờ việc giải quyết các mâu thuẫn mà sự vật luôn phát triển, vì thế phủ
định biện chứng là một tất yếu khách quan trong quá trình vận động và phát triển của sự
vật. Điều đó cũng có nghĩa, phủ định biện chứng không phụ thuộc vào ý muốn, ý chí của
con người. Con người chỉ có thể tác động làm cho quá trình phủ định ấy diễn ra nhanh hay
chậm trên cơ sở nắm vững quy luật phát triển của sự vật.
Thứ hai, phủ định biện chứng có tính kế thừa, Kế thừa là việc cái mới ra đời từ việc giữ lại
trong đó những yếu tố ích cực, tiến bộ từ cái cũ và cải tạo đi cho phù hợp. Phủ định biện
chứng là kết quả của sự tự thân phát triển trên cơ sở giải quyết mâu thuẫn vốn có của sự
vật, hiện tượng. Sự phủ định ấy không chỉ đơn thuần là thủ tiêu, phá hủy cái cũ, mà con là
sự giữ lại và phát triển những nhân tố tích cực đã có, tức là kế thừa. Trong quá trình phát
triển, giữa cái cũ và cái mới bao giờ cũng có mối liên hệ ràng buộc, tương tác qua lại, xâm
nhập vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau và làm tiền đề của nhau. Cái cũ khi mất đi không có
nghĩa là mất đi hoàn toàn, mà trong nó vẫn được bảo tồn và giữ lại những yếu tố tích cực,
những “hạt nhân hợp lý” để tạo tiền đề, nền tảng cho sự phát triển tiếp theo. Ngược lại, cái
mới phát triển cao hơn không phải từ hư vô, trên mảng đất trống không, mà là kết quả phát
triển hợp quy luật từ những gì hợp lý của cái cũ; là kết quả của sự đấu tranh và kế thừa tất
cả những yếu tố còn tích cực của cái cũ.
Bởi vậy, phủ định biện chứng là khuynh hướng tất yếu của mối liên hệ bên
trong giữa cái cũ và cái mới là sự tự khẳng định của các quá trình vận động, phát triển của sự vật.
1.2. Quy luật phủ định của phủ định. Hình thức “xoắn ốc” của sự phát triển:
Trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất, phủ định biện chứng là một
quá trình vô tận, cái mới phủ định cái cũ, nhưng rồi cái mới lại trở nên cũ và lại bị cái mới
khác phủ định... Cứ như vậy, sự phát triển của sự vật, hiện tượng diễn ra theo khuynh
hướng phủ định của phủ định, từ thấp đến cao một cách vô tận theo đường xoắn ốc.
Phủ định biện chứng mới nói lên một giai đoạn, một nấc thang trong quá trình
phát triển. Nói một cách khái quát, qua một số lần phủ định, sự vật hoàn thành một chu kỳ
phát triển. Phủ định lần thứ nhất tạo ra sự đối lập với cái ban đầu, đó là một bước trung
gian trong sự phát triển. Sau những lần phủ định tiếp theo, tái lập cái ban đầu nhưng trên
cơ sở mới cao hơn, nó thể hiện rõ rệt bước tiến của sự vật. Những lần phủ định tiếp theo đó
được gọi là sự phủ định của phủ định. Phủ định của phủ định làm xuất hiện cái mới như là
kết quả tổng hợp tất cả những yếu tố tích cực đã được phát triển từ trong cái khẳng định
ban đầu và cả trong những lần phủ định tiếp theo những yếu tố tích cực được khôi phục,
được duy trì và phát triển. Cái tổng hợp này là sự thống nhất biện chứng tất cả những cái
tích cực ở các giai đoạn trước và ở cái mới xuất hiện trong quá trình phủ định. Do vậy, cái
mới với tư cách là kết quả phủ định của phủ định có nội dung toàn diện và phong phú hơn
so với cái khẳng định ban đầu và cái kết quả của lần phủ định thứ nhất.
Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng là sự thống
nhất giữa loại bỏ, giữ lại (kế thừa) và phát triển. Mỗi lần phủ định biện chứng được thực
hiện sẽ mang lại những nhân tố tích cực mới. Do đó, sự phát triển thông qua những lần phủ
định biện chứng sẽ tạo ra xu hướng tiến lên không ngừng. Sự phát triển đi lên đó không
phải diễn ra theo đường thẳng mà theo đường “xoáy ốc”. Đề cập tới con đường đó của sự phát triển biện chứng,
V.I. Lênin viết: “Sự phát triển hình như diễn lại những giai đoạn đã qua, nhưng dưới một
hình thức khác, ở một trình độ cao hơn (“phủ định của phủ định”); sự phát triển có thể nói
là theo đường trôn ốc chứ không theo đường thẳng.”
Diễn tả quy luật phủ định của phủ định bằng đường “xoáy ốc” chính là hình thức cho phép
biểu đạt được rõ ràng nhất các đặc trưng của quá trình phát triển biện chứng: tính kế thừa,
tính chu kỳ, tính đi lên và tính vô tận của sự phát triển. Mỗi vòng mới của đường xoáy ốc
thể hiện một trình độ cao hơn của sự phát triển, đồng thời dường như quay lại cái đã qua,
dường như lặp lại vòng trước. Sự nối tiếp nhau của các vòng thể hiện tính vô tận của sự
phát triển, tính vô tận của sự tiến lên từ thấp đến cao của sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Trong quá trình phát triển của sự vật, phủ định biện chứng đã đóng vai trò là những vòng khâu của quá trình đó.
Tóm lại, quy luật phủ định của phủ định nói lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa cái
bị phủ định và cái phủ định trong quá trình phát triển của sự vật. Phủ định biện chứng là
điều kiện cho sự phát triển, cái mới ra đời là kết quả của sự kế thừa những nội dung tích
cực từ trong sự vật cũ. phát huy nó trong sự vật mới và tạo nên tính chu kì của sự phát triển.
1.3 Ý nghĩa phương pháp luận:
Quy luật phủ định của phủ định là cơ sở để chúng ta nhận thức một cách đúng
đắn về xu hướng vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Quá trình đó không diễn ra
theo đường thẳng, mà là con đường quanh co, phức tạp, gồm nhiều giai đoạn, nhiều quá
trình khác nhau. Tuy nhiên, tính đa dạng và phức tạp của quá trình phát triển chỉ là sự biểu
hiện của khuynh hướng chung, khuynh hướng tiến lên theo quy luật. Cần phải nắm được
đặc điểm, bản chất, các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng để tác động đến sự phát triển,
phù hợp với yêu cầu hoạt động, nhận thức biểu hiện của thế giới quan khoa học và nhân
sinh quan cách mạng trong mọi hoạt động của chúng ta và trong thực tiễn. Khẳng định
niềm tin vào xu hướng tất yếu là phát triển tiến lên của cái tiến bộ, đó là biểu hiện của thế
giới quan khoa học và nhân sinh quan cách mạng.
Theo quy luật phủ định của phủ định, trong thế giới khách quan, cái mới tất
yếu ra đời để thay thế cái cũ. Trong tự nhiên, cái mới ra đời rên cơ sở hoạt động có mục
đích, ý thức tự giác và sang tạo của con người. Vì vậy, cần nâng cao tính tích cực của nhân
tố chủ quan trong mọi hoạt động, có niềm tin vào sự tất thắng của cái mới, ủng hộ cái mới
và đấu tranh cho cái mới thắng lợi. Do đó, cần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, giáo
điều, kìm hãm sự phát triển của cái mới, làm trái với quy luật phủ định của phủ định.
Quan điểm biện chứng về sự phát triển đòi hỏi trong quá trình phủ định cái cũ
phải theo nguyên tắc kế thừa có phê phán, kế thừa những nhân tố hợp quy luật và lọc bỏ,
vượt qua, cải tạo liên tục, trái quy luật nhằm thúc đẩy theo hướng tiến bộ.
Chương II: VẬN DỤNG PHÂN TÍCH VIỆC KẾ THỪA VÀ
PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO CÁC GIÁ TRỊ TRUYỀN
THỐNG TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HOÁ HIÊN NAY.
1. Các giá trị truyền thống của nước ta hiện nay
1.1 Giá trị truyền thống là gì?
Truyền thống theo tiếng Latin là “tradition”, có nghĩa là nối đời, nối truyền.
Theo nghĩa thông thường trong Từ điển Tiếng Việt, truyền thống là thói quan hình thành
đã lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ, được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Còn
dưới góc độ chính trị, trong Từ điển Chính trị vắn tắt, truyền
thống được định nghĩa là di
sản về xã hội và văn hóa được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác và được duy trì trong
suốt thời gian dài. Qua những định nghĩa trên, có thể hiểu: truyền thống là tập hợp những
tư tưởng, tình cảm, thói quen, tập quán, lối sống và cách ứng xử của một cộng đồng người
nhất định, được hình thành và phát triển trong lịch sử, đã trở nên ổn định và lưu truyền từ
thế hệ này qua thế hệ khác.
Tuy nhiên, dựa trên quan điểm biện chứng, truyền thống bao giờ cũng có tính
hai mặt, đó là mặt tích cực và mặt tiêu cực. Mặc tích cực bao gồm những yếu tố ưu việt,
tiến bộ, phù hợp với sự phát triển của xã hội, góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Mặt tiêu cực là hiện thân của sức ỳ, của sự bảo thủ, lạc hậu, ảnh hướng xấu đến sự phát triển của xã hội.
Hai mặt mâu thuẫn đó cùng song song tồn tại trong truyền thống, có khi còn
đan xen, chồng chéo lên nhau. Chính vì vậy, khi nói đến giá trị truyền thống là muốn nói
đến những mặt tốt đẹp, mặt tích cực, là đặc trưng cho bản sắc văn hóa dân tộc. Hơn nữa,
không phải cái gì tốt cũng được gọi là giá trị truyền thống, mà nó còn phả có tính phổ
biến, cơ bản, có ảnh hưởng tích cực trong đời sống xã hội. Như vậy, giá trị truyền thống là
tập hợp những nhân tố tích cực, phổ biến về tư tưởng, tình cảm, thói quan tập quán lối
sống, được hình thành và phát triển trong lịch sử, đã trở nên ổn định và lâu bền có khả
năng lưu truyền trong không gian và thời gian, là những gì mà con người cần giữ gìn và phát triển.
1.2. Các giá trị truyền thống của Việt Nam
Trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc, có biết bao các giá trị truyền thống của con người
Việt Nam được hình thành, được dư luận xã hội cổ vũ, trở thành bản sắc văn hóa của dân
tộc. Có thể kể đến một số giá trị truyền thống điển hình như tinh thần yêu nước; tinh thần tự
chủ, tự lực, tự cường, ý thức độc lập tự do; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tinhfm
đọa lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong
lối sống; tinh thần hiếu học, tôn sư trọng đạo...Đó là những giá trị truyền thống cơ bản, vô
cùng quý báu, đã tạo nên cốt cách của con người Việt Nam. Các giá trị văn hóa truyền thống
không chỉ có ý nghĩa trong lịch sử, mà còn có tầm quan trọng trong hiện tại và tương lai. Vì
thế, việc kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống được đặt ra như một tất yếu mang tính
khách quan và cấp thiết, đặc biệt là trong thời kỳ hiện nay, nước ta đang trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2. Vai trò của phủ định biện chứng trong việc kế thừa và phát triển
sáng tạo các giá trị truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trong quá trình lãnh đạo đất nước,
Đảng ta luôn kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những di sản quý báu của dân tộc và nhân loại.
Trong đó, truyền thống văn hóa của dân tộc được Đảng ta kế thừa và phát huy triệt để, góp
phần trực tiếp nâng truyền thống văn hóa của dân tộc và các giá trị của nó lên một tầm cao
mới, với một chất lượng mới. Những thành tựu đạt được qua 25 năm đổi mới đã chứng
minh sự đúng đắn trong quan điểm của Đảng ta nhằm khai thác, kế thừa, phát huy các giá
trị truyền thống văn hóa của dân tộc vào xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN. Phát biểu khai mạc Hội nghị Trung ương năm khóa VIII, Tổng bí thư Lê Khả
Phiêu khẳng định: “Phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng
là nhân lên sức mạnh của nhân dân ta để vượt qua khó khăn, thử thách, xây dựng và phát
triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, tạo ra thế
và lực mới cho đất nước ta bước vào thế kỷ 21”.
Trước bối cảnh phức tạp của tình hình thế giới, khu vực và trong nước hiện
nay, dưới sự tác động mạnh mẽ của toàn cầu hóa, của cuộc cách mạng khoa học - công
nghệ, của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã, đang và sẽ đặt ra cho chúng ta
những khó khăn, thách thức lớn đối với việc kế thừa các giá trị truyền thống văn hóa của
dân tộc. Vì vậy, nhiệm vụ giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN thời kỳ mới càng trở nên
cấp thiết và nặng nề hơn bao giờ hết.
2.1. Kế thừa truyền thống văn hoá của dân tộc ở nước ta hiện nay là sự
thống nhất của hai quá trình giữ lại và lọc bỏ.

Kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc ở nước ta hiện nay, về thực chất là
một quá trình phủ định biện chứng các mặt, các yếu tố, thuộc tính và các bộ phận cấu thành
của nó. Sự kế thừa đó không phải là loại bỏ hoàn toàn hay phủ định sạch trơn truyền thống
văn hóa, cắt đứt sợi dây liên hệ giữa quá khứ, truyền thống với hiện tại và tương lại: nó
cũng không phải là bê nguyên xi hoàn toàn truyền thống văn hóa mà là sự kế thừa có chọn
lọc, kế thừa có điều kiện, tức là chỉ giữ lại những “hạt nhân hợp lý”, những yếu tố còn tích
cực, tiến bộ, đồng thời loại bỏ những yếu tố tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu trong truyền thống văn hóa.
Do điều kiện đặc thù của sự sinh tồn, truyền thống văn hóa của dân tộc Việt
Nam từng bước được hình thành và phát triển. Truyền thống đó đã đồng hành và phát huy
sức mạnh của nó trong suốt chiều dài lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của
dân tộc Việt Nam. Truyền thống ấy cũng thường xuyên được các thế hệ người Việt Nam kế
tiếp tuyển chọn và sàng lọc, loại bỏ những yếu tố không còn phù hợp, giữ lại những nhân
tố tích cực, tiến bộ, những “hạt nhân hợp lý”. Nhờ đó, dân tộc Việt Nam luôn đứng vững
trước muôn vàn thử thách, chiến thắng tất cả các thế lực ngoại xâm, bảo vệ vững chắc nền
độc lập, chủ quyền của dân tộc, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc và cuộc sống hòa bình, hạnh phúc của nhân dân.
Vì vậy, khi nhận thức và hành động, các chủ thể văn hóa cần có thái độ khách
quan, khoa học trong giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc. Tích cực đi sâu nghiên cứu, tìm
hiểu, thông qua điều tra, khảo sát, đánh giá phân loại một cách có hệ thống, đồng bộ để lưu
giữ những truyền thống văn hóa còn tiến bộ, còn phát huy tác dụng. Kiên quyết loại bỏ
những gì của truyền thống văn hóa đã trở nên lỗi thời, lạc hậu, không còn phát huy tác
dụng. Xây dựng một thái độ đúng mục đối với những gì cần được bảo tồn, giữ gìn. Cái gì
cần được bảo tồn, giữ gìn thì phải bảo tồn, giữ gìn ngay từ khi nó còn đang tồn tại. Hiện
nay, trong hệ các giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc có rất nhiều giá trị độc đáo, đặc
sắc cần phải được giữ gìn, kế thừa và phát huy. Đó là những giá trị tiêu biểu mang tính ổn
định, lâu dài và là điểm tựa đề Việt Nam phát triển đi lên
2.2. Kế thừa truyền thống văn hoá của dân tộc ở nước ta hiện nay
cần phải chống hai khuynh hướng sai lầm: khuynh hướng bảo thủ và
khuynh hướng phủ định sạch trơn đối với truyền thống văn hoá của dân tộc.
Trong hai khuynh hướng này, khuynh hướng bảo thủ thực chất là khuynh
hướng đề cao, tuyệt đối hóa truyền thống văn hóa dân tộc. Coi truyền thống văn hóa dân
tộc là cái bất biến, không thể thay đổi được và vì vậy kế thừa nguyên xi, không cần phải bố
sung, sửa đổi và phát triển. Việc bao thu, khép kín trước yêu cầu hiện đại hoá, hội nhập tạo
nên sự trì trệ trong đời sống, sự đông cứng văn hoá. Việc đó đồng nghĩa với việc đưa văn
hoá dân tộc đến chỗ suy thoái, chỗ bế tắc, tự trói buộc bản thân mình.
Khuynh hướng phủ định sạch trơn là khuynh hướng xuất hiện ngay từ những năm đầu xây
dựng CNXH ở nước Nga. Những người theo khuynh hướng phủ định sạch trơn tập hợp
trong phải “văn hóa vô sản” chủ trương xây dựng một nền văn hóa mới từ đầu, đoạn tuyệt
hẳn với văn hóa của chế độ Nga hoàng cũ. V.I.Lênin đã kịch liệt phê phán những người
theo khuynh hướng này. Người viết: “Văn hóa vô sản không phải bỗng nhiên mà có, nó
không phải do những người tự cho mình là chuyên gia về văn hóa vô sản, phát minh ra. Đó
hoàn toàn là điều ngu ngốc. Văn hóa vô sản phải là sự phát triển hợp quy luật của tổng số
những kiến thức mà loài người đã tích lũy được dưới ách thống trị của xã hội tư bản, xã hội
của bọn địa chủ và xã hội của bọn quan liêu". Ở Việt Nam, khuynh hướng phủ định sạch
trơn đã từng xuất hiện trong cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa trước đây. Hậu quả của
khuynh hướng này là nhiều giá trị truyền thống văn hóa và những phong tục, tập quán tốt
đẹp của dân tộc bị xóa bỏ hoặc lãng quên; nhiều di tích lịch sử, văn hóa bị tàn phá nặng nề
hoặc bị xuống cấp nghiêm trọng: nhiều phong tục, tập quán tốt đẹp không được bảo tồn,
lưu giữ, dần dần bị mai một.
2.3. Kế thừa truyền thống văn hoá của dân tộc ở nước ta hiện nay gắn
với quá trình mở rộng giao lưu và tiếp biến những giá trị văn hoá của dân tộc khác.
Mở rộng giao lưu và tiếp biến văn hóa giữa các quốc gia, dân tộc với nhau là
một vấn đề có tính quy luật của mọi nền văn hóa, đồng thời cũng là một trong những động
lực cơ bản thúc đẩy sự phát triển văn hóa của mỗi dân tộc. Đảng ta chỉ rõ: “Văn hóa Việt
Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và
giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thụ tinh hoa của
nhiều nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình”. Trong lịch sử dân tộc Việt
Nam trước đây, tuy đã từng có thời kỳ cha ông ta thực hiện chính sách “bế quan tỏa cảng”,
đóng cửa tự ru ngủ mình, không giao lưu với bên ngoài, từ chối con đường tiếp cận văn
minh của nhân loại nhằm giữ cho được “nếp nhà”, giữ được thuần phong mỹ tục của dân
tộc. Thực tế, hậu quả của chính sách này đã không tự bảo vệ được mình, mà Tổ quốc còn
bị rơi vào tay kẻ khác. Nhưng, xét một cách khách quan, trong suốt chiều dài lịch sử, thì
Việt Nam là đất nước có một nền văn hóa mở với một tư duy văn hóa mở. Người Việt Nam
không có tư tưởng kỳ thị dân tộc, không cực đoan trong giao lưu và tiếp biến văn hóa với
các quốc gia, dân tộc khác. Trong quá trình dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam luôn
tiếp thụ có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của các nước có quan hệ với Việt Nam để bổ
sung và làm giàu truyền thống văn hóa của dân tộc.
Ngày nay, dưới sự tác động của xu thế toàn cầu hóa, của cuộc cách mạng khoa học
- công nghệ, cùng với đó là công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đang đi vào chiều sâu.
nên việc mở rộng giao lưu và tiếp biến với những giá trị văn hóa của các dân tộc khác trên
thế giới được đặt ra như một tất yếu. Thông qua đó, truyền thống văn hóa của dân tộc được
truyền bá ra bên ngoài, được khẳng định lại, được tiếp xúc nhiều hơn với các nền văn hóa
khác để học hỏi, trao đổi, so sánh, tiếp nhận, tiếp biển, làm phong phú thêm truyền thống
văn hóa của dân tộc, đồng thời truyền thống văn hoá Việt Nam cũng có cơ hội thẩm định
lại. cải tạo cho phù hợp với hoàn cảnh hiện nay của đất nước Đó là một tất yếu khách quan.
Chẳng hạn, tỉnh thần cộng đồng đề cao văn hoá làng, xã trong truyền thống con người Việt
Nam là một nét đẹp quan trọng trong bản sắc văn hoá dân tộc. Chính vì vậy, việc tiếp thu
tinh thần cạnh tranh, đề cao pháp luật, coi trọng tác phong công nghiệp từ các dân tộc khác
trên thế giới để thẩm định, bổ sung và đổi mới các giá trị truyền thống của con người Việt
Nam là hết sức cần thiết.
Tuy nhiên. hội nhập nền văn hoá thế giới là con dao hai lưỡi. Song song với
những mặt tích cực là những mặt tiêu cực, mà điển hình là nguy cơ nền văn hóa đang dần
bị “hoà tan". Chúng ta đang đứng trước thử thách rất lớn về văn hoá trước xu thế và những
tác động của văn hoá thế giới, làm sao để “hoà nhập” mà không “hoà tan” đang ngày trở
thành thách thức của văn hoá nước nhà. Trước thực trạng đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
rút ra kinh nghiệm: Trong bất kì tình huống nào, đặc biệt là thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá phải “tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” nhưng phải “giữ vững
truyền thống và bản sắc văn hoá dân tộc” Hội nhập văn hoá phải trên cơ sở định hướng với
sự lựa chọn tối ưu, làm sao để tích hợp nhiều tinh hoa đặc sắc của nhiều nền văn hoá khác
nhau. Nếu sự tiếp thu ấy là bê nguyên xi những cái bên ngoài vào thì văn hoá sẽ bị mất
gốc, sẽ bị đồng hoá. Tiếp thu trong tư thế chủ động là điều kiện của việc xử lý mối quan hệ
biện chứng nội sinh, ngoại sinh. Nguyên tắc tiếp thu là lấy bản sắc văn hoá của mình làm
gốc, lấy tiêu chí văn hoá làm bộ lọc, tiếp thu các văn hoá hiện đại của thế giới, lấy cái tiến
bộ bổ sung cho cái thiếu hụt trong văn hoá truyền thống, tạo thuận lợi cho văn hoá dân tộc phát triển.
Tóm lại, việc kế thừa và phát triển sáng tạo các giá trị truyền thống là một tất
yếu khách quan. Đó là một quá trình lọc bỏ và giữ lại những "hạt nhân hợp lý, bổ sung,
phát triển và tạo ra các giá trị truyền thống mới đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của xã hội hiện
nay. Đặc biệt, hiện nay, trong bởi cạnh toàn cầu hoá, việc kế thừa và phát triển văn hoá còn
là sự giao lưu, học hỏi và tiếp biến với các nền văn hoá khác trên thế giới một cách có chọn
lọc nhằm làm phong phú và hiện đại hóa truyền thống văn hoá Việt Nam. Làm đậm đà và
bền vững thêm bản sắc văn hóa của mình. KẾT LUẬN
Trước bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, hầu như dân tộc nào cũng
đứng trước thử thách của phát triển và luôn tìm kiếm con đường phát triển riêng phù hợp
với đặc điểm lịch sử, văn hóa truyền thống vốn có của dân tộc mình. Đối với dân tộc Việt
Nam, trong quá trình đổi mới, để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, nhất định phải giữa gìn và phát huy các giá trị truyền thống của con người
Việt Nam đã được hình thành và hun đúc trong hàng ngàn năm lịch sử.
Dưới góc nhìn của phương pháp phủ định biện chứng, chủ trương lớn nhất, bao
quát nhất để đối phó với những thách thức của hội nhập là “Xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ
đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng cộng đồng, vào mọi lĩnh
vực sinh hoạt và quan hệ con người. Chỉ trên cơ sở có một nền văn hóa như vậy, xã hội ta
mới có thể có nguồn lực nội sinh to lớn, để từ đó có sức đề kháng, khả năng “miễn dịch”
mạnh mẽ trước những yếu tố văn hóa tiêu cực du nhập từ bên ngoài và nảy sinh ngay từ
bên trong, từ mặt trái của nền kinh tế thị trường.