















Preview text:
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ HỌC PHẦN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC (PLT09A)
ĐỀ TÀI : Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về vấn đề dân tộc và chính
sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về việc giải quyết vấn đề dân tộc. Từ đó
liên hệ để xem xét vấn đề BREXIT (Anh tách khỏi liên minh Châu Âu) và vấn đề
chủ nghĩa dân tộc vắc xin hiện nay.
Giảng viên hướng dẫn : Nguyễn Lệ Thu
Sinh viên thực hiện : Trần Kiều Anh Lớp : K23CLC-QTA Mã sinh viên : 23A4050048
Hà Nội, ngày 26 tháng 12 năm 2021 2 MỤ ỤC L C
MỤC LỤC...................................................................................................................2
MỞ ĐẦU......................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................... 1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 1
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ............................................................ 2
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài ................................................................... 2
NỘI DUNG .................................................................................................................... 2
Phần 1. LÝ LUẬN CHUNG ........................................................................................ 2
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về vấn đề dân tộc ............................ 2
1.2. Chính sách của Đảng, nhà nước Việt Nam về vấn đề dân tộc ........................ 4
Phần 2. LIÊN HỆ ......................................................................................................... 6
2.1. Vấn đề dân tộc hiện nay trên thế giới ............................................................. 6
2.1.1. Hội nhập quốc tế là xu hướng tất yếu, khách quan .......................................... 6
2.1.2. Xung đột dân tộc .............................................................................................. 6
2.1.3. Vấn đề dân tộc tại Việt Nam ............................................................................. 7
2.2. Vai trò của Đảng và Nhà nước ta trong việc giải quyết vấn đề biển đảo giữa
Việt Nam với Trung Quốc trong thời gian qua ...................................................... 8
2.3. Vấn đề BREXIT ........................................................................................... 10
2.3.1. Khái niệm ....................................................................................................... 10
2.3.2. “Chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi?” hay là “lợi ích quốc gia là vĩnh viễn?” ........... 10
2.4. Vấn đề Chủ nghĩa dân tộc vắc xin hiện nay ................................................ 11
Phần 3. LIÊN HỆ SINH VIÊN .................................................................................. 12
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 13
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................ 14 MỞ ĐẦẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hóa đang trở thành xu thế tất yếu của sự phát triển thế
giới hiện đại, yếu tố dân tộc trở thành vấn đề cốt lõi trong quan hệ quốc tế. Vấn đề
dân tộc trở thành mối quan tâm đặc biệt của giới lãnh đạo khi mà các quốc gia
không chỉ đề ra những chính sách bảo vệ lợi ích dân tộc, gìn giữ chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ mà còn ra sức tìm cách hội nhập để không tách rời với thế giới. Ở Việt
Nam, việc giải quyết vấn đề dân tộc đã có quá trình lịch sử, gắn liền với công cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc ở một nước thuộc địa nửa phong kiến từ thế kỷ XIX
đến nay và đã có nhiều thành tựu sáng tạo.
Là một sinh viên của Học viện Ngân hàng, hơn hết nữa còn còn mang trong
mình dòng máu của dân tộc Việt Nam, những vấn đề về dân tộc nói chung và chính
sách giải quyết vấn đề dân tộc nói riêng luôn có sức hút đối với em. Nhận thức
được tầm quan trọng của việc tìm hiểu về vấn đề dân tộc đã thúc đẩy em chọn đề
tài tiểu luận: “Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân tộc và chính
sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về việc giải quyết vấn đề dân tộc. Từ đó
liên hệ để xem xét vấn đề BREXIT (Anh tách khỏi liên minh Châu
Âu) và vấn đề chủ nghĩa dân tộc vắc xin hiện nay.”
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích chính của đề tài này là nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lê-nin về vấn đề dân tộc để từ đó sẽ rút ra những liên hệ thực tiễn đến vấn đề dân
tộc trên thế giới cũng như vai trò của Nhà nước Việt Nam trong việc giải quyết vấn
đề này, đồng thời liên hệ với nhiều biến động lịch sử trên thế giới gắn với vấn đề này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề dân tộc theo quan điểm chủ nghĩa
Mác – Lê-nin, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về việc giải
quyết vấn đề dân tộc, từ đó liên hệ để xem xét vấn đề BREXIT (Anh tách khỏi liên
minh Châu Âu) và vấn đề chủ nghĩa dân tộc vắc xin hiện nay. Về phạm vi, đề tài
tập trung phân tích các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng trong
giai đoạn từ trước đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên quan điểm triết học của chủ nghĩa Mác – Lê-nin và sử dụng
phương pháp luận biện chứng duy vật với các phương pháp như: logic và lịch sử,
phương pháp tổng kết thực tiễn lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa và hệ thống hóa.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Đề tài sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về vấn đề dân tộc theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lê-nin, từ đó liên hệ tới thực tiễn về chính sách giải quyết vấn đề dân
tộc tại Việt Nam, đồng thời đưa đến góc nhìn đa chiều về vấn đề BREXIT (Anh rời
khỏi liên minh châu Âu) và vấn đề chủ nghĩa dân tộc vắc xin hiện nay. NỘI DUNG Phần 1. LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về vấn đề dân tộc
* Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lê-nin
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác về mối quan hệ giữa dân tộc với giai
cấp; kết hợp phân tích hai xu hướng khách quan trong sự phát triển dân tộc; dựa
vào kinh nghiệm của phong trào cách mạng thế giới và thực tiễn cách mạng Nga
trong việc giải quyết vấn đề dân tộc những năm đầu thế kỷ XX, Cương lĩnh dân tộc
của V.I.Le-nin đã khái quát: “Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc được
quyền tự quyết, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại”.
Một là, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng. Đây là quyền thiêng liêng của các
dân tộc, không phân biệt dân tộc lớn hay nhỏ, ở trình độ phát triển cao hay thấp.
Các dân tộc đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội, không dân tộc nào được giữ đặc quyền, đặc lợi về kinh tế, chính trị, văn hóa.
Trong quan hệ xã hội cũng như trong quan hệ quốc tế, không một dân tộc nào
có quyền đi áp bức, bóc lột dân tộc khác. Trong một quốc gia có nhiều dân tộc,
quyền bình đẳng dân tộc phải được thể hiện trên cơ sở pháp lý, nhưng quan tọng
hơn là phải được thực hiện trên thực tế. Đẻ thực hiện được quyền bình đẳng dân
tộc, trước hết phải thủ tiêu tình trạng áp bức giai cấp, trên cơ sở đó xóa bỏ tình
trạng áp bức dân tộc; phải đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc cực đoan.
Quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết
và xây dân tộcựng mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các dân tộc.
Hai là, các dân tộc được quyền tự quyết. Đó là quyền của các dân tộc tự quyết
định lấy vận mệnh của dt mình, quyền tự lựa chọn chế độ chính trị và con đường
phát triển của dân tộc mình. Quyền tự quyết dân tộc bao gồm quyền tách ra thành
lập một quốc gia dân tộc độc lập, đồng thời có quyền tự nguyện liên hiệp với dân
tộc khác trên cơ sở bình đẳng. Tuy nhiên, việc thực hiện quyền dân tộc tự quyết
phải xuất phát từ thực tiễn – cụ thể và phải đứng vững trên lập trường của giai cấp
công nhân, đảm bảo sự thống nhất giữa lợi ích dân tộc và lợi ích của giai cấp công
nhân. V.I.Lenin đặc biệt chú trọng quyền tự quyết cảu các dân tộc bị áp bức, các dân tộc phụ thuộc.
Quyền tự quyết dân tộc không đồng nhất với “quyền” của các tộc người thiểu
số trong một quốc gia đa tộc người, nhất là việc phân lập thành quốc gia độc lập.
Kiên quyết đấu tranh chống lại mọi âm mưu, thủ đônạ của các thế lực phản động.
thù địch lợi dân tộcụng chiêu bài “dân tộc tự quyết” để can thiệp và ocogn việc nội
bộ của các nước, hoặc kích động đòi ly khai dân tộc.
Ba là, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc. Liên hiệp công nhân các dân
tộc phản ánh sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp; phản
ánh sự gắn bó chặt chẽ giữa tinh thần của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế chân chính.
Đoàn kết, liên hiệp công nhân các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoàn kết các
tầng lớp nhân dân lao động thuộc các dân tộc trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa
đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy, nội dung này vừa là nội dung
chủ yếu, vừa là giải pháp quan trọng để liên kết các nội dung của Cương lĩnh dân
tộc thành một chỉnh thể.
Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lê-nin là cơ sở lý luận quan trọng để
các Đảng Cộng sản vận dụng thực hiện chính sách dân tộc trong quá trình đấu tranh
giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
1.2. Chính sách của Đảng, nhà nước Việt Nam về vấn đề dân tộc
Về chính trị: Thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát
triển giữa các dân tộc. Chính sách dân tộc góp phần nâng cao tính tích cực chính
trị của công dân; nâng cao nhận thức của đồng bào cấc dân tộc thiểu số về tầm quan
trọng của vấn đề dân tộc, đoàn kết các dân tộc, thống nhất mục tiêu chung là độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Về kinh tế: Nội dung, nhiệm vụ kinh tế trong chính sách dân tộc là các chủ
trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng đồng bào các dân tộc
thiểu số nhằm phát huy tiềm năng phát triển, từng bước khắc phục khoảng cách
chênh lệch giữa các vùng, giữa các dân tộc. Thực hiện các nội dung kinh tế thông
qua các chương trình, dự án phát triển kinh tế ở các vùng dân tộc thiểu số, thúc đẩy
quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện tốt
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới,
vùng căn cứ địa cách mạng.
Về văn hóa: Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc. Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các tộc người, phát triển
ngôn ngữ xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, nâng cao trình độ văn hóa cho nhân
dân các dân tộc. Đào tạo cán bộ văn hóa, xây dựng môi trường, thiết chế văn hóa
phù hợp với điều kiện của các tộc người trong quốc gia đa dân tộc. Đồng thời, mở
rộng giao lưu văn hóa với các quốc gia, các khu vực và trên thế giới. Đấu tranh
chống tệ nạn xã hội, chống “diễn biến hòa bình” trên mặt trận tư tưởng – văn hóa ở nước ta hiện nay.
Về xã hội: Thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo an sinh xã hội trong vùng
đồng bào dân tộc thiểu số. Từng bước thực hiện bình đẳng xã hội, công bằng thông
qua việc thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, dân
số, y tế, giáo dục trên cơ sở chú ý đến tính đặc thù mỗi vùng, mỗi dân tộc. Phát huy
vai trò của hệ thoogns chính trị cơ sở và các tổ chức chính trị - xã hội ở miền núi,
vùng dân tộc thiểu số.
Về an ninh - quốc phòng: Tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc trên cơ sở
đảm bảo ổn định chính trị, thực hiện tốt an ninh chính trị, trật tự - an toàn xã hội.
Phối hợp chặt chẽ các lực lượng trên từng địa bàn. Tăng cường quan hệ quân dân,
tạo thế trận quốc phòng toàn dân trong vùng đồng bào dân tộc sinh sống.
Thực hiện đúng chính sách dân tộc hiện nay ở Việt Nam là phải phát triển toàn
diện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh – quốc phòng các địa bàn vùng
dân tộc thiểu số, vùng biên giới, rừng núi, hải đảo của Tổ quốc.
Như vậy, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta mang tính chất toàn
diện, tổng hợp, bao trùm tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, liên quan đến
mỗi dân tộc và quan hệ giữa các dân tộc trong cộng đồng quốc gia. Phát triển
kinh tế - xã hội của các dân tộc là nền tảng để tăng cường đoàn kết và thực hiện
quyền bình đẳng dân tộc, là cơ sở để từng bước khắc phục sự chênh lệch về trình
độ phát triển giữa các dân tộc. Do vậy, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà
nước ta mang tính cách mạng và tiến bộ, đồng thời còn mang tính nhân văn sâu
sắc, không bỏ sót bất kỳ dân tộc nào, không cho phép bất cứ tư tưởng kỳ thị, chia
rẽ dân tộc nào; đồng thời phát huy nội lực của mỗi dân tộc kết hợp với sự giúp
đỡ có hiệu quả của các dân tộc anh em trong cả nước. Phần 2. LIÊN HỆ
2.1. Vấn đề dân tộc hiện nay trên thế giới
2.1.1. Hội nhập quốc tế là xu hướng tất yếu, khách quan
Cựu thủ tướng Anh - Winston Churchill đã từng khẳng định: “Không có bạn
bè vĩnh viễn, không có kẻ thù vĩnh viễn. Chỉ có lợi ích quốc gia là vĩnh viễn.”
Trong bối cảnh xu thế toàn cầu hóa trở thành xu thế khách quan tất yếu trong thế
giới hiện đại, vấn đề dân tộc luôn là mối quan tâm đặc biệt của các nhà cầm quyền
khi hiện nay không có một quốc gia nào đứng ngoài những mối liên kết khu vực
nói riêng cũng như thế giới nói chung. Hội nhập quốc tế trở thành cơ hội để các
quốc gia giao lưu và học tập.
Trong quá khứ, thực dân Pháp hay đế quốc Mỹ đã từng xâm lược và trở thành
kẻ thù của đất nước Việt Nam. Nhưng ngày nay trong xu thế hội nhập, mối quan hệ
ngoại giao Việt Nam với Mỹ và Pháp đang có những chiều hướng thay đổi tích cực.
Từ sau năm 1975, lãnh đạo cao cấp giữa các nước đã có nhiều chuyến viếng thăm
hàn gắn vết thương chiến tranh. Người đứng đầu Nhà Trắng đã có lời chính thức
mời tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sang thăm nước Mỹ. Trong bài phát biểu trong
chuyến thăm vào tháng 5 năm 2016 Tổng thống Obama đã có những lời đánh giá
tích cực trong mối quan hệ Việt Nam và Hoa Kỳ: “Trong chuyến thăm này lòng tốt
của các bạn Việt Nam đã chạm đến trái tim tôi...”. Thế giới ngày nay càng trở nên
phẳng, mọi biên giới quốc gia đã bị phá vỡ, mỗi quốc gia đều phải linh hoạt hơn
trong mối quan hệ hợp tác và luôn quan tâm đến lợi ích quốc gia. Nhờ vào việc mở
rộng mối quan hệ ngoại giao hợp tác, chúng ta đã tiếp cận đối với nền khoa học kĩ
thuật hiện đại trên thế giới và hướng đến nền kinh tế tri thức đang phát triển.
2.1.2. Xung đột dân tộc
Tuy chiến tranh đã lùi xa hàng thế kỷ nhưng hiện nay tại nhiều khu vực trên
thế giới vẫn còn tồn đọng xung đột dân tộc. Tại châu Phi: Xung đột dân tộc luôn là
một vấn đề nhức nhối tại châu lục này khi mà nơi đây thường xảy ra mâu thuẫn
trong nội bộ một quốc gia đa dân tộc hoặc nhiều bộ tộc. Tại đó, quyền uy và tín
nhiệm nằm hoàn toàn trong tay những người tộc trưởng các bộ tộc. Tại các nước
thuộc Liên Xô trước đây. Năm 1991, sự tan rã của Liên Xô đã dẫn tới việc hình
thành một số quốc gia với biết bao vấn đề dân tộc, sắc tộc vốn đã chứa chất lại nảy
sinh thêm. Ở Liên Bang Nga, với 25 triệu người không phải người Nga ở trong 20
khu vực tự trị, cũng là mối đe dọa tiềm tàng về sự phân cách. Biểu hiện rõ nhất là
diễn ra việc xua đuổi người dân tộc khác, sắc tộc khác ra khỏi nơi cư trú trên đất
đai của dân tộc chính gốc. Từ năm 1990 đến nay đã có hơn một triệu người Nga
phải rời các vùng đất khác mà họ đã từng sinh sống, gắn bó hàng thập kỷ để về nước Nga.
2.1.3. Vấn đề dân tộc tại Việt Nam
Đại gia đình dân tộc Việt Nam thống nhất hiện có 54 dân tộc anh em, được
hình thành và phát triển lâu dài trong lịch sử. Tuy số dân có sự chênh lệch đáng kể,
nhưng các dân tộc luôn luôn coi nhau như anh em một nhà, quý trọng, thương yêu
đùm bọc và gắn bó với nhau.
Ở Việt Nam, vấn đề dân tộc có quan hệ mật thiết tới an ninh quốc gia và phát
triển. Hiện nay, vấn đề dân chủ, nhân quyền và các vấn đề về dân tộc, quan hệ dân
tộc và tự do tôn giáo tín ngưỡng đang được các thế lực thù địch sử dụng trong chiến
lược “diễn biến hoà bình” hòng kích động, lôi kéo các phần tử bất đồng chính kiến,
gây mất ổn định chính trị ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số người Mông ở Tây Bắc,
đồng bào Khmer Rôm ở Tây Nam Bộ. Vì vậy, vấn đề đặt ra cho sự phát triển bền
vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trước hết là cần tăng cường sự ổn định
chính trị không để tái diễn những vụ gây rối như đã xảy ra trong thời gian vừa qua
ở Tây Nguyên và một số nơi khác. Nhà nước cần tăng cường đầu tư cho việc phát
triển các khu kinh tế quốc phòng, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa gần biên giới,
nâng cao đời sống của đồng bào các tộc người thiểu số.
2.2. Vai trò của Đảng và Nhà nước ta trong việc giải quyết vấn đề biển
đảo giữa Việt Nam với Trung Quốc trong thời gian qua.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò to lớn của biển đảo:
“Đồng bằng là nhà, mà biển là cửa. Giữ nhà mà không giữ cửa có được
không?...” Chính vì vậy, vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo càng trở nên quan
trọng, đòi hỏi chúng ta phải thấm nhuần sâu sắc và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ
Chí Minh về bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo. Đảng và Nhà nước ta đã thể
hiện vai trò to lớn của mình trong việc giải quyết vấn đề biển đảo giữa Việt Nam
với Trung Quốc thời gian qua thông qua những chính sách, hành động cụ thể vừa
mang tính sách lược vừa mang tính chiến lược.
Thứ nhất, đề ra chính sách, xây dựng hệ thống luật pháp phù hợp, chỉ
đạo nhiều biện pháp cụ thể.
Năm 2007 Hội nghị Trung ương 4 khóa X đã thông qua chiến lược biển tới
năm 2020. Năm 2003, Quốc hội thông qua Luật biên giới quốc gia và năm 2012 tại
Kỳ họp thứ 3 (ngày 21/6/2012) Quốc hội thông qua Luật biển Việt Nam. Đây là cơ
sở pháp lý quan trọng khẳng định chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam trên
cùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam theo quy định của luật pháp quốc tế.
Ta cũng đang tích cực tìm kiếm, sưu tầm các tài liệu chứng cứ pháp lý lịch sử
khẳng định chủ quyền biển đảo Việt Nam. Về mặt quốc tế, tháng 5/2009 ta hoàn
thành và trình lên Liên hợp quốc báo cáo quốc gia của Việt Nam và báo cáo chung
với Malaysia về ranh giới ngoài thềm lục địa. Việc xây dựng báo cáo quốc gia xác
định ranh giới ngoài của thềm lục địa Việt Nam đã được tiến hành khẩn trương dưới
sự chỉ đạo sát sao của Đảng, Nhà nước và Chính phủ trên cơ sở khoa học và theo
đúng quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 về quyền và
nghĩa vụ của quốc gia ven biển.
Thứ hai, xây dựng đường lối ngoại giao “cứng rắn về nguyên tắc”.
Tháng 10/2011, ta đã ký kết với Trung Quốc “thỏa thuận về những nguyên tắc
cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển”, trong đó, xác định giải quyết tranh
chấp ở Biển Đông trên cơ sở luật pháp quốc tế, Công ước của Liên hợp quốc về
Luật biển năm 1982, những tranh chấp liên quan đến hai nước thì giải quyết song
phương. Đây là những nội dung hết sức quan trọng tạo cơ sở cho việc bàn bạc giải
quyết vấn đề trên biển giữa ta với Trung Quốc và các bên liên quan.
Ta đã đấu tranh kiên quyết, phù hợp trên thực địa và trên mặt trận ngoại giao,
dư luận trước các vi phạm của Trung Quốc đối với chủ quyền biển đảo Việt Nam,
chủ động nêu vấn đề Biển Đông trong các cuộc tiếp xúc ở tất cả các cấp với nhiều
nước, tại các diễn đàn đa phương như Hội nghị các cấp ASEAN, diễn đàn an ninh
khu vực (ARF), Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS),... Đáng chú ý là, ngày 20/7/2012,
lần đầu tiên kể từ năm 1995 các nước ASEAN đã tuyên bố 6 điểm, tái khẳng định
cam kết của các nước Đông Nam Á trong việc giải quyết các tranh chấp ở Biển
Đông, tập hợp những điểm mà các nước ASEAN đã đạt được đồng thuận, bao gồm
các vấn đề tranh chấp chủ quyền trên biển. Ngoài ra, tại Hội nghị cấp cao ASEAN
tháng 11/2012, ASEAN và Trung Quốc đã thông qua tuyên bố chung kỷ niệm 10
năm ký kết DOC, khẳng định giá trị và và nguyên tắc DOC, hường tới xây dựng COC.
Từ năm 2009, học viện ngoại giao, Bộ Ngoại giao đã phối hợp với Hội luật
gia Việt Nam tổ chức thành công năm hội thảo khoa học quốc tế lớn về biển đông
tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Mỗi hội thảo đã thu hút hàng trăm học giả hàng
đầu thế giới nghiên cứu về Biển Đông từ các nước.
Thứ ba, quan tâm đến việc bảo đảm an toàn tính mạng, tài sản và hoạt
động sản xuất bình thường của ngư dân ta trong các vùng biển của Việt Nam.
Chính phủ đã triển khai nhiều biện pháp vừa hỗ trợ ngư dân, vừa để bảo vệ
hoạt động của ngư dân ta trong vùng biển Việt Nam. Khi có vấn đề phức tạp nảy
sinh trên biển, ta đã kiên quyết đấu tranh với các bên liên quan để bảo vệ quyền lợi
chính đáng của ngư dân ta. Bộ Ngoại giao luôn phối hợp chặt chẽ với Bộ Quốc
phòng, Bộ Công an, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong việc bảo vệ hoạt
động nghề cá của ngư dân ta trên thực địa. 2.3. Vấn đề BREXIT 2.3.1. Khái niệm
Brexit là một thuật ngữ được gộp lại bởi hai từ trong tiếng Anh là Britain (Liên
hiệp Vương quốc Anh) và Exit (rời khỏi, thoát ra). Brexit là từ dùng để nói về sự
kiện Liên hiệp Vương quốc Anh rời khỏi Liên minh châu Âu (EU).
2.3.2. “Chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi?” hay là “lợi ích quốc gia là vĩnh viễn?”
Nước Anh rời khỏi Liên minh châu Âu (EU), hay còn gọi là Brexit, là ví dụ
điển hình nhất của chủ nghĩa dân tộc, nơi chính phủ quốc gia coi rằng việc rút lui
khỏi các mối liên kết trên toàn cầu là cách thức tốt nhất để bảo vệ lợi ích dân tộc
trước những biến động của thị trường kinh tế tự do. Trong khi đó, một khảo sát do
Yes Foundation thực hiện tại 15 quốc gia cho thấy, ¼ dân số có xu hướng chấp nhận
và ủng hộ chủ nghĩa dân tộc. Thực tế, chủ nghĩa dân tộc hoạt động mạnh mẽ nhất
tại các quốc gia nơi cử tri cảm thấy không hạnh phúc, không hài lòng với cuộc sống
hiện tại. Lịch sử cho thấy, chủ nghĩa dân tộc thường tạo nên những hệ quả đáng lo ngại.
Đây là một tiền lệ xấu ít nhiều đang chứng minh cho sự đúng đắn của chủ
nghĩa hiện thực trong quan hệ quốc tế (lợi ích quốc gia). Trong khi EU tin vào chủ
nghĩa tự do, đề cao hợp tác mang về lợi ích chung kể từ khi sáu nước Tây Âu ủy
thác một phần chủ quyền của mình, lờ đi những nhà hiện thực, cùng bắt tay xây
dựng cộng đồng than thép châu Âu từ năm 1951 thì nay quan điểm này đã bị Brexit
tấn công. Điều này rất nguy hiểm nếu tình trạng khó khăn về kinh tế, bế tắc về
chính trị cùng với nạn khủng bố kéo dài.
Nhìn lại quá trình hình thành và phát triển của EU, Anh vẫn là một thành viên
đặc biệt giữ cho mình những nét riêng; nói cách khác, Anh vẫn chưa hoàn toàn hội
nhập vào cộng đồng khu vực này ở nhiều mặt cả về kinh tế, chính trị, văn hóa hay
ngay cả địa lý. Quan điểm của người Anh đã rõ ràng: họ muốn bảo vệ mình trước
những thay đổi của hệ thống thế giới, trước những “căn bệnh” ngày càng trầm trọng
mà toàn cầu hóa mang lại. Dân chủ thái quá, mất kiểm soát đã tạo điều kiện cho
chủ nghĩa dân tộc vị kỷ này lên ngôi. Nhưng liệu họ có thể bảo vệ mình mãi không
chỉ bằng cách tách ra khỏi những “rắc rối” của láng giềng, khi mà nước Anh cũng
chỉ là một đất nước trên quả đất này, dùng chung một môi trường, uống chung
nguồn nước từ Mẹ thiên nhiên… Có thể, một lúc nào khác khi khó khăn ập xuống
xứ sở sương mù nhỏ bé, người ta mới lại nhận ra rằng chúng ta đều cần đến nhau, cách này hay cách khác.
2.4. Vấn đề Chủ nghĩa dân tộc vắc xin hiện nay.
Chủ nghĩa dân tộc vắc-xin đã trở thành một thứ đáng báo động khi Tổng thống
Mỹ thứ 45 về chủ thuyết “nước Mỹ trên hết” của ông, đã chỉ dành mọi tập trung
cho việc có được vắc-xin và tiêm chủng cho dân chúng của mình.
Để giúp cộng đồng thế giới thoát khỏi khủng hoảng y tế trầm trọng, đoàn kết
và chia sẻ vaccine được cho là biện pháp duy nhất. Số liệu công bố trên trang web
của WHO cho biết, đã có 198 vaccine tiềm năng ngừa Covid-19 đang được phát
triển trên toàn thế giới và 44 vaccine trong số đó đang được thử nghiệm lâm sàng.
Tuy nhiên, trong khi Liên minh châu Âu (EU), Mỹ, Anh, Nhật Bản và một số nước
khác đã đặt mua lượng lớn vaccine ngừa Covid-19 của các hãng dược phẩm tiềm
năng nhất thì một số quốc gia với khả năng tài chính hạn chế lại có nguy cơ bị thụt
lùi phía sau. “Việc các quốc gia muốn bảo vệ công dân của nước mình trước tiên là
điều hiển nhiên, nhưng khi thế giới có một loại vaccine phòng Covid-19 hiệu quả
thì chúng ta cũng phải sử dụng vaccine đó một cách hiệu quả”, Tổng giám đốc
WHO Ghebreyesus nhấn mạnh. Người đứng đầu WHO cũng cảnh báo “chủ nghĩa
dân tộc vaccine” sẽ chỉ kéo dài đại dịch Covid-19. Đồng quan điểm trên, Tổng
thống Đức Frank-Walter Steinmeier cho rằng, thế giới cần vượt qua đại dịch bằng
tinh thần hợp tác thay vì cái gọi là "chủ nghĩa dân tộc vaccine". Nhà lãnh đạo Đức
nhấn mạnh, chính phủ các nước một mặt có nghĩa vụ trước hết đối với người dân
nước mình, song bảo đảm có vaccine sớm của một số nước sẽ đồng nghĩa với sự
phải trả giá của nhiều nước khác. Ông Steinmeier kêu gọi sự đoàn kết toàn cầu,
trong đó các nước công nghiệp phát triển phải hỗ trợ hệ thống y tế cho các nước nghèo hơn.
Phần 3. LIÊN HỆ SINH VIÊN
Đối với thế hệ trẻ ngày nay, đặc biệt là sinh viên còn ngồi trên ghế nhà trường,
nghiên cứu về vấn đề dân tộc cũng như các chính sách giải quyết vấn đề này và liên
hệ tới thực tiễn xã hội là cơ sở khoa học lý luận để nhận diện và nâng cao trí thức,
trách nhiệm sáng tạo cao cả của mình. Sinh viên cần tham gia học tập nâng cao tri
thức, nâng cao hiểu biết lí luận chính trị, khắc phục sự kém cỏi về chuyên môn,
nghiệp vụ... đặc biệt cần nâng cao kiến thức ngoại ngữ bởi xã hội đang ngày càng
hội nhập và ngoại ngữ là chìa khóa tiếp cận với thế giới. Ngay từ bây giờ, hãy bắt
đầu học hỏi những kĩ năng thực hiện các hoạt động kinh tế - xã hội, rèn luyện phong
cách sống có trách nhiệm và kiên trì, kiên định với mục tiêu.
Để phát triển được năng lực lao động trong tương lai, nên có những cuộc hẹn về
hướng nghiệp, rèn luyện tinh thần cởi mở, học hỏi. Một ngôi nhà vững chắc luôn
bắt đầu từ những viên gạch nhỏ, những hiểu biết, tri thức về khoa học kinh tế chính
trị sẽ là nền tảng vững vàng nâng bước sinh viên trên con đường phát triển sự nghiệp
sau này, là đáp án hóa giải khúc mắc giúp con đường ấy bớt đi phần gian nan nếu
ta chăm chỉ trau dồi, rèn dũa.
Là một sinh viên của Học viện Ngân hàng, trong tương lai sẽ trở thành nguồn lao
động chủ yếu đóng góp cho sự phát triển của nền kinh tế đất nước, mỗi chúng ta phải
xác định cho mình một nền tảng lí luận rõ ràng, đúng đắn, cần xây dựng một hệ tư tưởng
cởi mở và thông suốt. Khi còn là sinh viên, bên cạnh học tập nâng cao tri thức, hãy tham
gia tích cực các hoạt động ngoại khóa, hoạt động đoàn thể để bồi dưỡng tư tưởng vững
vàng, nâng cao tri thức qua những hoạt động thực tiễn. Phải rèn đức luyện tài, tu dưỡng
cả về thể lực và trí lực, tự tin vào quyết định của bản thân, không nản chí và luôn phấn
đấu. Có như vậy, những lý thuyết khoa học mới được thực hành nhuần nhuyễn và áp dụng
có hiệu quả vào đời sống thực tiễn, từ đó xây dựng tư duy, tầm nhìn, kỹ năng thực hiện
các hoạt động kinh tế - xã hội trên mọi lĩnh vực ngành nghề của đời sống xã hội phỳ hợp
với quy luật khách quan, thông qua đó đóng góp xứng đáng vào sự phát triển chung của xã hội. KẾẾT LUẬN
Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về vấn đề dân tộc, những chính sách giải
quyết vấn đề này áp dụng vào thực tiễn Việt Nam đã được nghiên cứu, phân tích để từ đó
rút ra bài học kinh nghiệm trong việc giải quyết vấn đề dân tộc, tăng cường khối đại đoàn
kết toàn dân. Vấn đề dân tộc có tính đặc thù quan trọng, liên quan đến quốc gia - quốc tế,
có tính thời sự cấp bách và rất nhạy cảm. Đây là vấn đề vừa chiến lược cơ bản, lâu dài,
đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng nước ta. Khi có sự thay đổi
lớn về cơ cấu dân cư, cơ chế thị trường, phân hóa giàu nghèo, bùng nổ thông tin... đồng
bào các dân tộc có điều kiện so sánh cảnh ngộ dân tộc mình với các dân tộc khác, với
đồng tộc và thân tộc ở trong và ngoài nước, thì càng cần phát triển bền vững vùng miền
núi - dân tộc thành động lực của đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật (2021), Giáo trình “Chủ nghĩa xã hội khoa
học” 2. Ban Tuyên giáo Trung ương (2017), “Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc”
https://tuyengiao.vn/tu-lieu/huong-dan-chi-dao/huong-dan-chi-tiet-chuyen-devan-
de-dan-toc-va-chinh-sach-dan-toc-105830 3.
GS - TS. Vũ Văn Hiền (2009), “Vấn đề dân tộc đang nổi cộm”,
VOV.vnhttps://vov.vn/vov-binh-luan/van-de-dan-toc-dang-noi-com-127762.vov 4.
Khả Doanh (2020), “Chủ nghĩa dân tộc đang nổi dậy, thập kỷ mới hà
khắchơn”, Báo Đấu thầu https://baodauthau.vn/chu-nghia-dan-toc-troi-day-thap-
ky-moi-ha-khac-honpost83977.html 5.
Lù Văn Que (2021), “Mấy suy nghĩ về vấn đề dân tộc và thực hiện chính
sáchdân tộc trong chiến lược đại đoàn kết toàn dân”, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
http://mattran.org.vn/dan-toc-ton-giao/may-suy-nghi-ve-van-de-dan-toc-va-
thuchien-chinh-sach-dan-toc-trong-chien-luoc-dai-doan-ket-toan-dan-36443.html 6.
H.A (2021), “Mối đe dọa về “chủ nghĩa dân tộc vắc-xin COVID-19””,
Sứckhỏe & Đời sống https://suckhoedoisong.vn/moi-de-doa-ve-chu-nghia-dan-
toc-vac-xin-covid-19169186265.htm 7.
Phạm Quang Vinh (2021), “Chủ nghĩa dân tộc vắc-xin”,
Vietnamnethttps://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/dachieu/covid-19-va-chu-nghia- dan-tocvaccine-716890.html