Tiểu luận Quy luật lượng chất và liên hệ thực tế qua quá trình học tập của học sinh, sinh viên | Triết học Mác - Lênin | Học viện Ngân Hàng
Tiểu luận Quy luật lượng chất và liên hệ thực tế qua quá trình học tập của học sinh, sinh viên với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lênin (PLT07A)
Trường: Học viện Ngân hàng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 40419767
Quy luật lượng chất và liên hệ thực tế qua quá
trình học tập của học sinh, sinh viên. MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU................................................................................................. B. NỘI DUNG I. Cơ sở lý luận
1. Khái niệm chất và lượng.....................................................................
2. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng......................................
3.Ý nghĩa phương pháp luận ................................................................. II. Liên hệ thực tiễn
1. Đôi nét về hoạt động tích lũy kiến thức của học sinh.........................
2. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng trong quá trình tích lũy kiến thức
của học sinh,sinh viên............................................................................
3. Vận dụng quy luật trong quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên Đại
Học......................................................................................................................
C. KẾT THÚC....................................................................................................... lOMoAR cPSD| 40419767 A. MỞ ĐẦU
Trong cuộc sống hằng ngày, đằng sau các hiện tượng muôn màu muôn vẻ,
con người dần dần nhận thức được tính trật tự và mối liên hệ có tính lặp lại của
sự vật hiện tượng, từ đó hình thành nên các khái niệm “quy luật”. Các quy luật
của tự nhiên, xã hội cũng như của tư duy con người đều mang tính khách quan.
Con người không thể tạo ra hoặc xóa bỏ được quy luật mà chỉ có thể nhận thức
và vận dụng vào thực tế. Hiểu được điều đó triết học chủ nghĩa Mác- Lênin đã
khái quát các quy luật, trong đó có quy luật “chuyển hóa từ những sự thay đổi
về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại” - đây là một trong ba
quy luật của phép biện chứng duy vật, nó cho biết phương thức của sự vận động và phát triển.
Quy luật "chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay
đổi về chất và ngược lại" là quy luật cơ bản, phổ biến về phương thức chung của
các quá trình vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Quy luật này
chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận động và phát triển khi cho thấy sự thay
đổi về chất chỉ xảy ra khi sự vật, hiện tượng đã có những thay đổi về lượng đạt
đến ngưỡng nhất định. Quy luật cũng chỉ ra tính chất của sự vận động và phát
triển khi cho thấy sự thay đổi về lượng của sự vật hiện tượng diễn ra từ từ kết
hợp với sự thay đổi nhảy vọt về chất làm cho sự vật hiện tượng vừa tiến bước
tuần tự vừa có những bước đột phá vượt bậc. Việc nhận thức quy luật này có ý
nghĩa to lớn trong thực tiễn khi chúng ta xem xét các sự vật, hiện tượng. Muốn
cho sự vật, hiện tượng phát triển cần đề ra phương hương, cách thức , áp dụng hiệu quả quy luật này.
Đặc biệt đối với đối với sinh viên Đại học - đây là giai đoạn có nhiều thay
đổi về môi trường sống, sinh hoạt và học tập, đòi hỏi sự thích nghi là cần thiết.
Việc nhận thức và vận dụng đúng đắn "Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi
về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại" sẽ có ý nghĩa rất lớn,
thông qua đó xây dựng cho mình phương pháp học tập và rèn luyện phù hợp với
bản thân và điều kiện sống.
Đó cũng là lý do, nhóm em quyết định lựa chọn đề tài: “Vận dụng Quy luật
chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược
lại vào quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên” làm đề tài của nhóm.
Với bài tiểu luận này, chúng em mong muốn tiếp cận và làm sáng tỏ phần
nào nội dung và ý nghĩa của quy luật quan trọng này và từ đó rút ra được những
bài học bổ ích trong học tập và cuộc sống.
Vì trình độ kiến thức còn hạn chế, nên trong bài chúng em còn nhiều sai
xót, rất mong thầy thông cảm và sửa chữa để giúp chúng em hoàn thiện kiến thức
hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn! lOMoAR cPSD| 40419767
B. NỘI DUNG I. Cơ sở lý luận 1 . Khái niệm a, Chất
Thế giới có vô vàn sự vật hiện tượng. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có những
chất đặc trưng để làm nên chính chúng. Nhờ đó mà có thể phân biệt sự vật, hiện
tượng nàyvới sự vật, hiện tượng khác.
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của
sự vật, hiện tượng. Là sự thống nhất hữu cơ những thuộc tính cấu thành nó,
phân biệt nó với sự vật, hiện tượng khác.
Ví dụ:.Nguyên tố đồng có nguyên tử lượng là 63,54 đvC, nhiệt độ nóng
chảy là 1083 C, nhiệt độ sôi là 2880 C…những thuộc tính này nói lên những
chất riêng của đồng, để phân biệt nó với các kim loại khác.
.Hình tròn là vùng trong mặt phẳng giới hạn bởi một vòng tròn phân
biệt với hình vuông là hình có 4 cạnh bằng nhau và 4 góc bằng nhau .
* Đặc điểm của chất:
-Chất mang tính khách quan: chất là cái vốn có của sự vật hiện tượng, nằm
bên trong sự vật hiện tượng không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con
người. Chẳng hạn vị mặn của muối, ngọt của đường là cái khách quan, tồn tại ở
bên trong chứ không phải do một lực lượng siêu nhiên, ý muốn chủ quan của
con người mà có thể áp đặt được nó.
-Chất là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, các yếu tố của sự vật.
.Thuộc tính là những tính chất của sự vật, là cái vốn có của sự vật. Những thuộc
tính của sự vật chỉ được bộc lộ ra bên ngoài qua sự tác động qua lại của sự vật
mang thuộc tính đó với các sự vật khác. Chẳng hạn như sự quang hợp của lá cây
chỉ được thể hiện thông qua sự tác động của nó với ánh sáng mặt trời hay tính
tan của muối chỉ được bộc lộ khi có sự tác động với nước.
.Thuộc tính của sự vật có thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản.
Những thuộc tính cơ bản tổng hợp lại tạo thành chất của sự vật; quy định sự tồn
tại vận động và phát triển của sự vật, chỉ khi nào chúng thay đổi hay mất đi thì
sự vật mới thay đổi hay mất đi. Nhưng thuộc tính của sự vật chỉ bộc lộ các mối
quan hệ cụ thể với các sự vật khác. Bởi vậy sự phân chia thuộc tỉnh thành thuộc
tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản cũng chỉ mang tính tương đối. Trong
mối liên hệ cụ thể này thuộc tính này là thuộc tính cơ bản thể hiện sự chất của
sự vật trong mối liên hệ cụ thể khác sẽ có thêm thuộc.
Ví dụ:Trong mối quan hệ với động vật thì các thuộc tính có khả năng chế
tạo, sử dụng công cụ, có tư duy là thuộc tính cơ bản của con người còn các
thuộc tính không là thuộc tính cơ bản. Xong trong quan hệ giữa con người với
nhau thì những thuộc tính của con người như về nhận dạng về dấu vân tay lại
trở thành thuộc tính cơ bản.
.Mỗi sự vật hiện tượng đều có quá trình tồn tại và phát triển qua nhiều giai
đoạn trong mỗi giai đoạn ấy nó lại có chất riêng. Như vậy mỗi sự vật hiện tượng
không phải chỉ có một chất mà rất có thể có nhiều chất. lOMoAR cPSD| 40419767
Ví dụ: những mức độ trưởng thành của cá nhân một con người từ ấu thơ ->
mầm non -> nhi đồng -> thiếu niên -> thanh niên…mỗi giai đoạn đó là một chất.
.Chất của sự vật không những được quy định bởi những yếu tố tạo thành
mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành, nghĩa là bởi kết
cấu của sự vật trong hiện thực các sự vật bật được tạo thành bởi các yếu tố
như nhau xong chất của chúng lại khác nhau.
Ví dụ như kim cương và than chì đều có cùng thành phần hóa học do các
nguyên tố cacbon tạo nên nhưng do phương thức liên kết giữa các nguyên tử
cacbon là khác nhau vì thế chất của chúng cũng hoàn toàn khác nhau. Kim cương
rất cứng còn than chì mềm.
-Chất thể hiện tính ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng: khi nó chưa
chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác thì chất của nó vẫn chưa thay đổi.
Chẳng hạn như, trạng thái của nước rắn, lỏng, khí( chất), sự thay đổi về lượng
của nhiệt độ từ 40-50 C chưa làm cho trạng thái lỏng của nước thay đổi. b, Lượng:
Lượng là một phạm trù triết học để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, biểu
thị số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự
vật cũng như các thuộc tính của nó.
* Biểu hiện của lượng
Các yếu tố biểu hiện ở số lượng các thuộc tính, ở tổng số các bộ phận, ở đại
lượng tốc độ và nhịp điệu vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Lượng
còn biểu hiện ở kích thước dài hay ngắn, số lượng lớn hay nhỏ, tổng số ít hay
nhiều, trình độ cao hay thấp, tốc độ vận động nhanh hay chậm, màu sắc đậm hay nhạt...
Ví dụ như đối với phân tử nước(H2O). Lượng là số nguyên tử tạo thành nó,
tức hai nguyên tử hidro (H) và một nguyên tử oxi (O) hay Quốc gia Việt Nam
có Dân số: >90 triệu người và Diện tích :331698km²
* Đặc điểm của lượng
-Lượng mang tính khách quan vì nó là một dạng biểu hiện của vật chất,
chiếm một vị trí nhất định trong không gian và tồn tại trong thời gian nhất định.
Trong sự vật hiện tượng có nhiều loại lượng khác nhau; có lượng là yếu tố quyết
định bên trong, có lượng chỉ thể hiện yếu tố bên ngoài của sự vật, hiện tượng; sự
vật hiện tượng càng phức tạp thì lượng của chúng cũng phức tạp theo. -
Lượng có thể được xác định bằng các đơn vị đo lường cụ thể hoặc có thể
nhận thức bằng con đường trừu tượng và khái quát hóa.Trong thực tế lượng của
sự vật thường được xác định bởi những đơn vị đo lượng cụ thể như vận tốc của
ánh sáng là 300.000 km trong một giây hay một phân tử nước bao gồm hai
nguyên tử hydrô liên kết với một nguyên tử oxy,… bên cạnh đó có những lượng
chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái quát như trình độ nhận thức tri lOMoAR cPSD| 40419767
của một người ý thức trách nhiệm cao hay thấp của một công dân,... trong những
trường hợp đó chúng ta chỉ có thể nhận thức được lượng của sự vật bằng con
đường trừu tượng và khái quát hoá. -
Lượng thường xuyên biến đổi:Có những lượng biểu thị yếu tố kết cấu
bên trong của sự vật (số lượng nguyên tử hợp thành nguyên tố hoá học, số
lượng lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội) có những lượng vạch ra yếu tố
quy định bên ngoài của sự vật (chiều dài, chiều rộng, chiều cao của sự vật).
Bản thân lượng không nói lên sự vật đó là gì, các thông số về lượng không
ổn định mà thường xuyên biến đổi cùng với sự vận động biến đổi của sự
vật , đó là mặt không ổn định của sự vật.
Như vậy, chất và lượng là hai phương diện khác nhau của cùng một sự vật,
hiện tượng hay một qua trình nào đó trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Hai phương
diện đó điều tồn tại khách quan. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa chất và lượng của
sự vật, hiện tượng chỉmang tính tương đối. Có những tính quy định trong mối
quan hệ này là chất nhưng trong mối quan hệ khác lại là lượng. Chẳng hạn , số
lượng sinh viên học giỏi nhất định của một lớp sẽ nói lên chất lượng học tập của
lớp đó. Điều này cũng có nghĩa là dù số lượng cụ thể quy định thuần túy về
lượng, song số lượng ấy cũng có tính quy định về chất của sự vật, hiện tượng.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng * Sự thống nhất giữa chất và lượng
Bất kỳ sự vật hay hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa mặt chất và
mặt lượng, chúng tác động qua lại lẫn nhau, chúng tồn tại trong tính quy định
lẫn nhau: tương ứng với một loại lượng nhất định thì cũng có một loại chất
tương ứng và ngược lại.Ví dụ như tương ứng với cấu tạo H - 0 - H (cấu tạo liên
kết nguyên tử hyđrô và 1 nguyên tử ôxy) thì 1 phân tử nước (H20) được hình
thành với tập hợp các tính chất cơ bản, khách quan, vốn có của nó là: không
màu, không mùi, không vị, có thể hoà tan muối, axít,…
“Chất” và “lượng” luôn thống nhất hữu cơ với nhau, không tách rời nhau,
tác động lẫn nhau một cách biện chứng. Sự thống nhất giữa chất và lượng ở
trong một độ nhất định, khi sự vật đang tồn tại.Bất cứ sự thay đổi nào về lượng
cũng tất yếu sẽ dẫn tới sự thay đổi nhất định về “chất” của sự vật, hiện tượng.
* Sự thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất:
Trong mối quan hệ giữa chất và lượng thì chất là mặt tương đối ổn định, còn
lượng là mặt biến đổi hơn nên sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng
bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Quá trình thay đổi của lượng diễn ra theo xu
hướng hoặc tăng hoặc giảm nhưng không lập tức dẫn đến sự thay đổi về chất của
sự vật, hiện tượng. Ở một giới hạn nhất định, lượng của sự vật thay đổi, nhưng
chất của sự vật chưa thay đổi cơ bản. Chẳng hạn, khi ta nung một thỏi thép đặc lOMoAR cPSD| 40419767
biệt ở trong lò, nhiệt độ của lò nung có thể lên tới hàng trăm độ, thậm chí lên tới
hàng nghìn độ, song thỏi thép vẫn ở trạng thái rắn chứ chưa chuyển sang trạng thái lỏng.
Khi lượng của sự vật, hiện tượng được tích lũy vượt quá giới hạn nhất định,
thì chất cũ sẽ mất đi, chất mới thay thế chất cũ. Không giới hạn đó gọi là độ. Độ
chỉ tính quy định, mối liện hệ thống nhất giữa chất và lượng, là khoảng giới hạn
mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản chất của sự
vật, hiện tượng. Vì vậy, trong giới hạn của độ, sự vật, hiện tượng vẫn còn là nó,
chưa chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác. Chỉ khi nào lượng thay đổi đến
giới hạn nhất định( đến độ )mới dẫn đến sự thay đổi về chất như vậy sự thay đổi
về lượng tạo điều kiện cho chất thay đổi và kết quả là sự vật hiện tượng cũ mất
đi sự vật hiện tượng mới ra đời.
Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến những sự
thay đổi về chất. Giới hạn đó chính là điểm nút. Điểm nút là thời điểm mà tại đó
sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật. Sự vật tích lũy đủ về
lượng tại điểm nút sẽ làm cho chất mới của nó ra đời. Lượng mới và chất mới
của sự vật thống nhất với nhau tạo nên độ mới và điểm nút mới của sự vật đó,
quá trình này diễn ra liên tếp trong sự vật và vì vậy sự vật luôn phát triển chừng nào nó còn tồn tại.
Chất của sự vật thay đổi do lượng của nó thay đổi gây ra gọi là bước nhảy.
Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do
sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên. Sự giới hạn về lượng khi đạt
tới điểm nút, với những điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất
mới. Đây chính là bước nhảy trong quá trình vận động, phát triển của sự vật,
hiện tượng. Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển và là
điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới, là sự gián đoạn trong quá trình vận động,
phát triển liên tục của sự vật hiện tượng. Trong thế giới luôn diễn ra quá
trình biến đổi tuần tự về lượng dẫn đến bước nhảy về chất, tạo ra một đường
nút vô tận, thể hiện cách thức vận động và phát triển của sự vật từ thấp đến cao.
Để hiểu rõ hơn về cái khái niệm ta cùng xét một ví dụ:
Xét “nước” nguyên chất, trong điều kiện atmotphe ở trạng thái thể lỏng
(chất) được quy định bởi lượng nhiệt độ (lượng) từ 0°C đến 100°C (độ). Khi
lượng nhiệt độ biến thiên nằm ngoài khoảng giới hạn 0°C hoặc 100°C đó
(điểm nút) thì tất yếu xảy ra quá trình biến đổi trạng thái của nước từ trạng thái
lỏng sang trạng thái rắn hoặc khí (bước nhảy).
Như vậy sự phát triển của bất cứ của sự vật nào cũng bắt đầu từ sự tích luỹ
về lượng trong độ nhất định cho tới điểm nút để thực hiện bước nhảy về chất.
Song điểm nút của quá trình ấy không cố định mà có thể có những thay đổi do
tác động của những điều kiện khách quan và chủ quan quy định. Chẳng hạn,
thời gian để hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá ở mỗi nước là khác nhau.Có
những nước mất 150 năm, có những nước mất 60 năm nhưng cũng có những nước chỉ mất 15 năm. lOMoAR cPSD| 40419767
Tùy vào sự vật, hiện tượng; tùy vào mâu thuẫn vốn có của chúng và vào
điều kiện , trong đó sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng mà có nhiều hình thức bước nhảy.
*Các hình thức cơ bản của bước nhảy.
Căn cứ vào thời gian thực hiện bước nhảy của bản thân sự vật có thể chia
thành bước nhẩy đột biến và bước nhảy dần dần:
-Bước nhảy đột biến: là bước nhảy được thực hiện trong một thời gian rất ngắn
làm thay đổi chất của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật.
Ví dụ như khối lượng Uranium 235(Ur 235) được tăng đến khối lượng tới hạn
thì sẽ xảy ra vụ nổ nguyên tử trong chốc lát.
-Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện từ từ, từng bước bằng cách
tích luỹ dần dần những nhân tố của chất mới và những nhân tố của chất cũ dần dần mất đi.
Ví dụ như ,Quá trình cách mạng đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu
quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ lâu dài qua nhiều bước nhảy dần
dần.Vì là một quá trình phức tạp, trong đó có cả sự tuần tự lẫn những bước nhảy
diễn ra ở từng bộ phận của sự vật ấy.
Căn cứ vào quy mô thực hiện bước nhảy của sự vật có bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ:
-Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ các mặt, các yếu tố cấu thành sự vật.
-Bước nhảy cục bộ: là bước nhảy làm thay đổi chất của từng mặt, những yếu tố riêng lẻ của sự vật.
Ví dụ như trong hiện thực, các sự vật có thuộc tính đa dạng, phong phú nên
muốn thực hiện bước nhảy toàn bộ phải thông qua những bước nhảy cục bộ. Sự
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đang diễn ra từng bước nhảy cục bộ để
thực hiện bước nhảy toàn bộ, tức là chúng ta đang thực hiện những bước nhảy
cục bộ ở lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực chính trị, lĩnh vực xã hội và lĩnh vực tinh
thần xã hội để đi đến bước nhảy toàn bộ - xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.
*Chất mới ra đời tác động trở lại lượng của sự vật:
Sự thay đổi về chất tác động trở lại đối với sự thay đổi về lượng. Lượng thay
đổi luôn luôn trong mối quan hệ với chất, chịu sự tác động của chất. Song sự tác
động của chất đối với lượng rõ nét nhất khi xảy ra bước nhảy về chất, chất mới
thay thế chất cũ, nó quy định quy mô và tốc độ phát triển của lượng mới trong một độ mới.
Khi chất mới ra đời, nó không tồn tại một cách thụ động, mà có sự tác động
trở lại đối với lượng, được biểu hiện ở chỗ: chất mới sẽ tạo ra một lượng mới
phù hợp với nó để có sự thống nhất mới giữa chất và lượng. Sự tác động ấy lOMoAR cPSD| 40419767
thể hiện: chất mới có thể làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu
của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Chẳng hạn như, khi sinh viên vượt qua điểm nút là kỳ thi tốt nghiệp, tức là
thực hiện bước nhảy, sinh viên sẽ được nhận bằng cử nhân. Trình độ văn hoá
của sinh viên đã cao hơn trước và sẽ tạo điều kiện cho họ thay đổi kết cấu, quy
mô, trình độ tri thức, giúp họ tiến lên trình độ cao hơn.
Cũng giống như vậy khi nước ở trạng thái lỏng sang trạng thái hơi thì vận tốc
của các phân tử nước tăng hơn, thể tích của nước ở trạng thái hơi sẽ lớn hơn thể
tích của nó ở trạng thái lỏng với cùng một khối lượng tính chất hoà tan một số
chất tan của nó cũng sẽ khác đi, v v
Như vậy, không chỉ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất
mà những thay đổi về chất cũng đã dẫn đến những thay đổi về lượng. Từ những
sự phân tích ở trên có thể rút ra kết luận: Bất kỳ sự vật nào cũng là sự thống nhất
giữa chất và lượng, sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới hạn của độ sẽ
dẫn tới thay đổi căn bản về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời
sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi của lượng.Quá trình tác động đó diễn ra liên
tục làm cho sự vật không ngừng phát triển.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Trong nhận thức và thực tiễn cần phải coi trọng cả hai loại chỉ tiêu
về phương diện chất và lượng, tạo nên sự nhận thức toàn diện về sự vật hiện tượng. -
Cần từng bước tích lũy về lượng để có thể làm thay đổi về chất của sự
vật,đồng thời phát huy tác động của chất mới theo hướng làm thay đổi về lượng
của sự vật. Ví dụ như khi nghiên cứu về các chất trong hoá vô cơ hay hữu cơ,
người ta không chỉ nghiên cứu để xác định các tính chất hoá học cơ bản vốn có
của nó mà còn phải nghiên cứu giải thích tính chất đó được tạo ra bởi số lượng
các nguyên tố nào với cấu tạo liên kết nào. Nhờ đó có thể tạo ra sự biến đổi của
các chất đó trên cơ sở làm thay đổi lượng tương ứng. -
Cần khắc phục tư tưởng nôn nóng tả khuynh(không chịu tích lũy về
mặtlượng mà lại muốn biến đổi về chất) và tư tưởng bảo thủ hữu khuynh(lượng
đã tích lũy đến điểm nút nhưng không thực hiện bước nhảy) trong công tác thực
tiễn. Ví dụ như một người thực hiện kinh doanh nhưng chưa tích lũy đủ kiến thức
về lượng thì khả năng thất bại sẽ rất cao -
Cần phải vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho phù hợp
vớitừng điều kiện, lĩnh vực cụ thể. -
Quy luật này còn yêu cầu phải nhận thức được sự thay đổi về chất còn phụ
thuộc vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật hiện tượng do đó
phải biết chọn phương pháp phù hợp với tác động và phương thức liên kết đó trên
cơ sở hiểu rõ bản chất quy luật của chúng lOMoAR cPSD| 40419767
II. Liên hệ thực tiễn
Vận dụng quy luật chuyển hóa từ sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi
về chất và ngược lại vào hoạt động tích lũy kiến thức của học sinh, sinh viên
1. Đôi nét về hoạt động tích lũy kiến thức của học sinh
Tri thức là hành trang không thể thiếu của mỗi người. Từ khi sinh ra, chúng
ta đã tích lũy tri thức theo từng giai đoạn phát triển: từ những điều cơ bản nhất
như ngôn ngữ, đồ vật, màu sắc,… đến những kiến thức về các lĩnh vực trong
cuộc sống như văn học, toán học, lịch sử. Đặc biệt là những năm tháng ngồi trên
ghế nhà trường, chúng ta được tiếp thu những tri thức cơ bản về cuộc sống trong
lĩnh vực tự nhiên và xã hội. Bên cạnh đó, mỗi học sinh cũng trang bị thêm cho
mình những kiến thức thực tiễn, những kĩ năng mềm cần thiết cho cuộc sống sau
này. Tuy nhiên, 12 năm học trung học và phổ thông và những năm trên giảng
đường đại học vẫn là thời gian quan trọng nhất bởi đó là thời điểm chúng ta trang
bị cho mình những kiến thức cơ bản nhất mà mỗi người đều phải biết trong xã
hội ngày nay. Vì vậy, việc nghiên cứu quá trình này là một vấn đề vô cùng quan
trọng và cần thiết để từ đó có thể hiểu rõ hơn hoạt động và giúp hoạt động này
đạt được hiệu quả cao nhất.
Quá trình tích lũy tri thức, kinh nghiệm diễn ra ở mỗi người khác nhau là khác
nhau, tùy thuộc vào mục đích, khả năng, điều kiện… của mỗi người. Quá trình
tích lũy tri thức của con người cũng không nằm ngoài quy luật lượng chất. Bởi
vì, dù nhanh hay chậm thì sớm muộn, sự tích lũy về tri thức cũng sẽ làm con
người có được sự thay đổi nhất định, tức là có sự biến đổi về chất. Quá trình biến
đổi này trong bản thân con người diễn ra vô cùng đa dạng và phong phú, ở ví dụ
này chúng em chỉ xin giới hạn việc làm rõ quy luật lượng chất thông qua quá
trình học tập và rèn luyện của học sinh, sinh viên.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng trong quá trình tích lũy kiến
thức của học sinh, sinh viên
Quá trình học tập của mỗi học sinh là một quá trình dài, khó khăn và cần sự
cố gắng không biết mệt mỏi, không ngừng nghỉ của bản thân mỗi học sinh. Quy
luật chuyển hóa từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất thể hiện ở
chỗ: mỗi học sinh tích lũy lượng (kiến thức) cho mình bằng việc nghe các thầy
cô giảng trên lớp, làm bài tập ở nhà, đọc thêm sách tham khảo,… thành quả của
quá trình tích lũy đó được đánh giá qua những bài kiểm tra, những bài thi học kỳ
và kỳ thi tốt nghiệp. Khi đã tích lũy đủ lượng tri thức cần thiết, học sinh sẽ được
chuyển sang một cấp học mới cao hơn.
Như vậy, quá trình học tập, tích lũy kiến thức là độ, các bài kiểm tra, các kì
thi là điểm nút và việc học sinh được sang một cấp học cao hơn là bước nhảy.
Trong suốt 12 năm học, học sinh phải thực hiện nhiều bước nhảy khác nhau.
Trước hết là bước nhảy để chuyển từ một học sinh trung học lên học sinh phổ
thông và kỳ thi lên cấp 3 là điểm nút, đồng thời nó cũng là điểm khởi đầu mới lOMoAR cPSD| 40419767
trong việc tích lũy lượng mới (tri thức mới) để thực hiện một bước nhảy vô cùng
quan trọng trong cuộc đời: vượt qua kì thi đại học để trở thành một sinh viên.
Trong suốt 12 năm học phổ thông, mỗi học sinh đều phải tích lũy đủ khối
lượng kiến thức và vượt qua những điểm nút khác nhau, nhưng điểm nút quan
trọng nhất, đánh dấu bước nhảy vọt về chất và lượng mà học sinh nào cũng muốn
vượt qua đó là kì thi đại học. Vượt qua kì thi tốt nghiệp cấp 3 đã là một điểm nút
quan trọng, nhưng vượt qua được kì thi đại học lại còn là điểm nút quan trọng
hơn, việc vượt qua điểm nút này chứng tỏ học sinh đã có sự tích lũy đầy đủ về
lượng, tạo nên bước nhảy vọt, mở ra một thời kì phát triển mới của lượng và
chất, từ học sinh chuyển thành sinh viên.
Sau khi thực hiện dược bước nhảy trên, chất mới trong mỗi người được hình
thành và tác động trở lại lượng. Sự tác động đó thể hiện trong lối suy nghĩ cũng
như cách hành động của mỗi sinh viên, đó là sự chín chắn, trưởng thành hơn so
với một học sinh trung học hay một học sinh phổ thông.
Và tại đây, một quá trình tích lũy về lượng (tích lũy kiến thức) mới lại bắt
đầu, quá trình này khác hẳn so với quá trình tích lũy lượng ở bậc trung học hay
phổ thông. Bởi đó không đơn thuần là việc lên giảng đường để tiếp thu bài giảng
của thầy cô mả phần lớn là sự tự nghiên cứu, tìm tòi, tích lũy kiến thức, bên cạnh
những kiến thức trong sách vở là những kiến thức xã hội từ các công việc làm
thêm hoặc từ các hoạt động trong những câu lạc bộ. Sau khi đã tích lũy được
một lượng đầy đủ, các sinh viên sẽ thực hiện một bước nhảy mới, bước nhảy
quan trọng nhất trong cuộc đời, đó là vượt qua kì thi tốt nghiệp để nhận được
tấm bằng cử nhân và tìm được một công việc. Cứ như vậy, quá trình nhận thức
(tích lũy về lượng) liên tục diễn ra, tạo nên sự vận động không ngừng trong quá
trình tồn tại và phát triển của mỗi con người, giúp con người ngày càng đạt đến
trình độ cao hơn, tạo động lực cho xã hội phát triển.
3. Vận dụng quy luật trong quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên Đại Học
Từ việc nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành
những sự thay đổi về chất và ngược lại có thể rút ra một vài kết luận có ý nghĩa
phương pháp luận với việc học tập và rèn luyện của sinh viên trong môi trường Đại Học như sau:
*Sự khác nhau cơ bản giữa việc học tập ở phổ thông và Đại Học
So với học ở phổ thông thì khối lượng kiến thức ở cấp độ Đại học tăng lên
một cách đáng kể. Một ví dụ đơn giản, nếu học phổ thông thì một môn học sẽ
kéo dài trong một năm, trong khi ở Đại học một môn chỉ kéo dài khoảng từ 1
đến 2 tháng. Rõ ràng sự tăng lên đáng kể về số lượng kiến thức sẽ khiến tân sinh
viên gặp những khó khăn. Không chỉ khác biệt về khối lượng kiến thức, học đại
học và phổ thông còn có sự khác biệt về sự đa dạng kiến thức. Khác với phương
pháp học thụ động như THPT, sinh viên Đại học sẽ phải tham gia rất nhiều hoạt lOMoAR cPSD| 40419767
động nhóm, thuyết trình, ngoại khoá,.. các môn học tại bậc Đại học rất đa dạng
và mới mẻ, ngoài việc đọc sách giáo trình, sinh viên còn phải tìm thêm nhiều
nguồn thông tin từ trong sách báo, tài liệu liên quan. Chính sự thay đổi về khối
lượng kiến thức, thời gian và phương pháp học sẽ khiến nhiều tân sinh viên gặp
khó khăn trong quá trình thích nghi với môi trường học tập, giáo dục mới.
Sự khác nhau lớn nhất giữa bậc THPT và Đại học có lẽ là nhiệm vụ trong
học tập, đối với bậc THPT thì việc lên lớp và hoàn thành các mục tiêu mà giáo
viên đề ra chính là nhiệm vụ lớn nhất nhưng đối với sinh viên Đại học, điều họ
đang đối mặt không chỉ là những nhiệm vụ đơn thuần trên lớp mà họ còn phải
thực hiện các kì thực tập, phải bắt đầu đặt ra mục tiêu cho tương lai của chính
bản thân họ. Ngoài ra, khi lên Đại học, ý thức của bản thân là yếu tố quan trọng
nhất, không còn sổ liên lạc hay họp phụ huynh, tinh thần tự học sẽ được phát huy rõ rệt.
Ở đây là sự khác nhau về bản chất chứ không chỉ là sự thay đổi về hình thức,
bởi vậy có thể nới sự chuyển đổi từ phổ thông lên Đại học cũng giống như quá
trình biến đổi từ lượng thành chất. Chính vì vậy mà người sinh viên cần phải
thay đổi nếp sống mới sao cho phù hợp để đạt được những thành tích cao trong
quá rình học tập và nghiên cứu của mình. *
Từng bước tích lũy kiến thức một cách chính xác, đầy đủ.
Như chúng ta đã biết, sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diến
ra bằng cách tích lũy dần dần về lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện
bước nhảy để chuyển về chất và việc học tập của sinh viên cũng không nằm
ngoài điều đó. Để có một tầm bằng Đại học chúng ta cần phải tích lũy đủ số
lượng các tín chỉ của các môn học. Như vậy có thể coi học tập là quá trình tích
lũy về lượng mà điểm nút là các kỳ thi, thi cử là bước nhảy. Do đó, trong hoạt
động nhận thức, học tập của sinh viên phải biết từng bước tích lũy về lượng ( tri
thức) làm biến đổi về chất (kết quả học tập) theo quy luật.. Sinh viên cần học
tập đều đặn hạng ngày để chất được thấm sâu vào mỗi sinh viên. Tránh gặp gấp
rút mỗi khi sắp đến kỳ thi, tránh tư tưởng chủ quan, nóng vội trong học tập và
trong hoạt động thực tiễn hàng ngày.
Hàng ngày mỗi tân sinh viên vẫn đến trường để học tập, tiếp thu những kiến thức
mới và lượng kiến thức ngày một nhiều, nhưng chưa thể ra trường để làm việc
ngay được vì kiến thức mỗi sinh viên chưa tích lũy đầy đủ, chưa đảm bảo để ta
làm việc. Nhưng nếu qua 4 năm mỗi sinh viên học tập và rèn luyện chăm chỉ để
tích lũy kiến thức, tích lũy kinh nghiệm qua thầy cô, qua những lần đi thực
tập...(lượng) và tốt nghiệp Đại học đạt kết quả cao, đảm bảo về chuyên môn cho
mỗi sinh viên ra trường làm việc. Nói cách khác chất đã thay đổi và biến đổi sang chất mới. *
Sinh viên phải tự học tập và rèn luyện tính tích cực, tự chủ, nghiêm túc,trung thực lOMoAR cPSD| 40419767
Cuộc sống luôn vận động và phát triển không ngừng theo thời gian, cùng với
đó, con người cũng phải vận động chạy theo nó để không bị bỏ lại phía sau. Là
một sinh viên thời đại mới phát triển và tiên tiến hơn rất nhiều, chúng ta không
thể không ngừng phấn đấu trau dồi bản thân mình. Chúng ta sinh ra ai cũng có
điểm chung là phải sống và làm việc, còn thành công đến như nào là do sự nỗ
lực, cố gắng, do sự rèn luyện mà nên. Bởi thế, việc phải tự học tập, tìm kiếm, rèn
luyện tích cực, trau dồi bản thân khi còn là 1 sinh viên trên giảng đường Đại học
là điều quan trọng và cần thiết. Khi sinh viên biết tự giác học tập, tìm hiểu, nghiên
cứu và họ trở nên tích cực, chủ động hơn trong công việc của mình.
Trong thực tiễn đời sống của con người, muốn có sự thay đổi về chất, cần
có sự tích lũy về lượng, sự tích lũy ấy là do tự bản thân mỗi chúng ta phấn đấu,
đánh đổi bằng sức lao động mà có được, chứ không nhờ vào một sự giúp đỡ nào
khác. Đối với việc học tập và rèn luyện của sinh viên. Trong một kỳ thi, nếu có
sinh viên gian lận để một kết quả tốt .Bằng gian lận, ta có thể qua được kỳ thi,
nhưng về bản chất thì vẫn chưa có được biến đổi nào về chất
* Trong học tập và nghiên cứu cần tiến hành từ dễ đến khó, tránh nóng
vội đốt cháy giai đoạn
Từ quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi
về chất và ngược lại có thể rút ra một vài kết luận có ý nghĩa phương pháp luận
trong việc học tập và rèn luyện của sinh viên như sau: để có thể tốt nghiệp, chúng
ta phải tích luỹ đủ số lượng các tín chỉ môn học; để môn học có kết quả tốt, sinh
viên phải tích luỹ đủ số lượng tiết của các môn học. Có thể coi thời gian học là
độ, các bài kiểm tra là các điểm nút và điểm số đạt yêu cầu là bước nhảy, bởi kết
quả thi (bước nhảy) tốt là sự kết thúc môt giai đoạn tích luỹ kiến thức trong quá
trình học tập rèn luyện của sinh viên. Vì vậy, trong việc học tập và các hoạt động
học thuật khác, sinh viên phải từng bước tích luỹ kiến thức (lượng) để làm thay
đổi kết quả học tập (chất) theo quy luật. Trong quá trình học tập và rèn luyện,
sinh viên cần tranh tư tưởng nhảy cấp. Sau khi học những kiến thức cơ bản, tức
là khi có sự biến đổi về chất thì sinh viên mới có thể tiếp tục nghiên cứu những
kiến thức khó hơn. Ví dụ như trước khi lên Đại học thì phải hoàn thành việc học
ở 3 cấp bậc trước, nếu không, tình trạng mất gốc sẽ xảy ra.Việc tiếp thu kiến
thức từ cơ bản đến nâng cao là phương pháp học tập khoa học mọi người đều
biết nhưng không phải ai cũng thực hiện đúng quy trình. Một số trường hợp sinh
viên không tập trung học, bị xao nhãng bởi những chuyện ngoài lề, làm ảnh
hưởng đến tốc độ học. Nhiều sinh viên khi đến gần giai đoạn thi mới bắt đầu học
lại từ đầu, nhưng thời gian ôn thi là để sinh viên ôn lại kiến thức họ đã học chứ
không phải tiếp thu thêm cái mới, vì vậy cho dù sinh viên chăm học trong thời
gian đó thì cũng không thể đảm bảo được lượng kiến thức để vượt qua được kì
thi. Ngoài ra, có nhiều sinh viên có sức học trung bình nhưng lại muốn đăng kí
nhiều môn học trong cùng một năm hay một học kỳ để được ra trường sớm hơn
những người khác, dẫn đến không có môn học nào được hoàn thiện, mất thêm lOMoAR cPSD| 40419767
thời gian và tiền bạc để học lại, thi lại. Tóm lại, muốn tiếp thu được nhiều kiến
thức và có kết quả cao trong các kì thi, sinh viên phải học dần mỗi ngày, từ kiến
thức cơ bản đến nâng cao. Từ đó, sự biến đổi về lượng sẽ dẫn đến sự biến đổi về
chất theo hướng tích cực
*Liên tục phấn đấu học tập và rèn luyện, tránh tư tưởng chủ quan
Để có thể bước ra ngoài xã hội khắc nghiệt, những sinh viên cần trang bị cho
mình từ những điều đơn giản nhất như kĩ năng giao tiếp, ngôn ngữ,… cho đến
những kiến thức to lớn, thành tựu trong cuộc sống về các lĩnh vực khoa học –
nghệ thuật. Việc trải qua hơn 12 năm học tập là khoảng thời gian bước đệm cho
hành trình tích luỹ ấy. Không những thế, chúng ta vẫn phải tiếp thu những kỹ
năng mềm cho cuộc sống mai sau. Trong quá trình liên tục phấn đấu học tập
ấy,quá trình chuyển hoá từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và
ngược lại được thể hiện ở việc sinh viên tích luỹ kiến thức. Áp dụng quy luật
lượng chất, sinh viên liên tục phấn đấu học tập, tìm kiếm những thông tin, mang
về những “lượng” tốt, có cơ sở và đầy đủ. Từ đó, làm biến đổi “chất” tốt hơn,
tạo nên các thành tích, thành tựu tương ứng cho sự nỗ lực ấy. Trên quan niệm
triết học, chất thay đổi sẽ thay đổi cả sự vật. Điều đó được minh chứng khi sinh
viên nỗ lực phấn đấu và trở thành các thầy giáo, giảng viên, lượng sẽ được đổi
mới theo nhịp điệu của chất đã được tạo ra bởi thế hệ trước và truyền lại cho thế hệ sau.
Ở trường Đại học, ngoài các bài giảng trên lớp, sinh viên còn tự tìm tòi, nghiên
cứu ở thư viện, tích luỹ và học hỏi những kĩ năng mềm thiết yếu cho mai sau.
Được tự do sáng tạo và trau dồi những “lượng” ở mức tối ưu nhất, sinh viên luôn
đạt được những thứ “chất” lượng nhất: tấm bằng cử nhân, những học bổng,… và
tự tin bước ra đời. Cứ như vậy, quá trình chuyển đổi giữa chấtlượng liên tục diễn
ra không ngừng nghỉ trong sự phát triển, liên tục phấn đấu không ngừng ở mỗi
sinh viên, giúp họ tự tin vững bước trong hành trang cuộc đời mình. Khi ấy,
nhiệm vụ của sinh viên là khai phá hết tiềm năng tri thức, kho dữ liệu và ứng
dụng vào thực tiễn và tiếp tục mở rộng con đường khoa học – nghệ thuật, tránh
bị tư tưởng bảo thủ và chủ quan nghĩ rằng mình đã làm hết sức có thể.
*Rèn luyện ý thức học tập của sinh viên
Đầu tiên, trong sự vận động và phát triển phải biết tích luỹ về lượng dẫn đến
sự thay đổi về chất; không được nôn nóng cũng như không được bảo thủ. Quá
trình học tập phải được tích luỹ từ từ, đầy đủ kiến thức, hoàn thiện kỹ năng;
không được bỏ qua kiến thức cơ bản. Việc bỏ bước trong tích luỹ sẽ dẫn đến sự
không hoàn thiện về độ, việc thực hiện bước nhảy sẽ không thành công và không
thể hình thành chất mới. Ví dụ, nếu bạn hỏng kiến thức cơ bản ở bậc tiểu học,
bạn sẽ không thể thực hiện bước nhảy để được học ở cấp trung học. Nếu bạn cố
thực hiện bước nhảy, tức là bạn vượt qua điểm nút một cách ép buộc, chất mới
được hình thành nhưng nó không là vận dụng theo quy luật lượng – chất. Những lOMoAR cPSD| 40419767
sự thay đổi về chất do thực hiện bước nhảy gây nên chỉ xảy ra khi lượng đã thay
đổi đến nút, độ được hoàn thiện từ sự tích luỹ đầy đủ về chất. Bên cạnh, dù rằng
sự phát triển và vận động của sự vật, hiện tượng là việc liên tục thực hiện các
bước nhảy, bạn phải chú ý đến độ trong quá trình thay đổi của lượng, không vội
vàng mà bỏ bước. Tư tưởng bảo thủ ngăn bạn không dám vượt qua điểm nút.
Như là một kỳ thi học sinh giỏi, mặc dù bạn có đủ kiến thức được tích luỹ để
tham gia kỳ thi, nhưng lại không đủ tự tin để thực hiện bước nhảy, thì quá trình
tích luỹ đó chỉ được xem là tích luỹ về lượng mà không có sự thay đổi về chất.
Bạn phải nhận thức được mối liên kết giữa các yếu tố tạo nên sự vật, hiện tượng
để lựa chọn phương pháp tích luỹ phù hợp, đẩy nhanh tiến độ tích luỹ, kèm theo
chất lượng của độ. Vận dụng được mối liên kết đó sẽ giúp bạn hiểu rõ bản chất,
quy luật của chất, nâng cao chất lượng của độ
*Sự phát triển bền vững của tập thể phụ thuộc vào bản thân mỗi sinh viên.
Một tập thể bao gồm nhiều cá nhân. Mỗi cá nhân có phẩm chất tốt (lượng) sẽ
góp phần tạo nên “chất” tốt cho tập thể đó. Một lớp học tập tốt, nếu trong lớp có
nhiều cá nhân có ý thức học tập tốt, luôn cố gắng để phấn đấu đạt được thành
tích cao. Một lớp đoàn kết nếu các cá nhân luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người.
Có thể nói uy tín, thành tích của một lớp phụ thuộc vào sự phấn đấu nỗ lực của mỗi sinh viên.
Tóm lại, việc vận dụng nội dung quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa
lượng và chất cũng như ý nghĩa phương pháp luận của nó có vai trò to lớn trong
việc học tập và rèn luyện của sinh viên trường Đại học hiện nay. C. KẾT THÚC
Chung quy lại, Quy luật “Chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến
những thay đổi về chất và ngược lại” là một trong ba quy luật của phép biện
chứng duy vật, cho biết phương thức của sự vận động và phát triển của sự vật.
Khi chúng ta xem xét các sự vật, hiện tượng, cần nhận thức ý nghĩa của quy luật
này trong thực tiễn. Cần sử dụng công cụ, phương tiện, biện pháp thích hợp đúng
lúc, đúng chỗ, đúng mức độ vào tiến trình vận động, phát triển, đưa sự vật đi
đúng quy luật và hợp lợi ích của con người. Muốn có có sự thay đổi về chất phải
kiên trì tích lũy sự thay đổi về lượng, ngược lại muốn duy trì sự ổn định của chất
phải giữ được sự thay đổi về lượng trong phải vi giới hạn độ; khi lượng thay đổi
chưa đạt mức giới hạn độ không nên vội vàng thực hiện bước nhảy; nhưng khi
lượng thay đổi đạt giới hạn độ thì phải kiên quyết thực hiện bước nhảy.
Từ việc nghiên cứu quy luật này với các kết luận được rút ra có ý nghĩa
phương pháp luận đối với việc học tập và rèn luyện của sinh viên càng mang lại lOMoAR cPSD| 40419767
giá trị to lớn. Sinh viên cần nhận thức rõ quy luật và vận dụng linh hoạt vào hoạt
động thực tiễn nhằm đem lại kết quả như mong đợi.
Đối với bản thân chúng em nói chung hay đối với toàn tân sinh viên nói riêng
Nên vận dụng quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những
thay đổi về chất và ngược lại trong quá trình rèn luyện và học tập.... Đầu tiên cần
xác định rõ mục tiêu, định hướng đúng đắn trong học tập và làm việc, hiểu rõ và
vận dụng tốt các quy luật “khi lượng đổi dẫn đến chất đổi và ngược lại”. Ngoài
ra việc thay đổi môi trường từ THPT lên Đại học cũng có nhiều sự khác nhau,
để không bị mất phương hướng trong việc học, sinh viên cũng cần phải có tính
tự chủ, chủ động thích nghi với môi trường, liên tục phấn đấu và rèn luyện tích
cực trong học tập và công việc, không ngừng tích luỹ kinh nghiệm để có thể
thành công hơn trong tương lai. Ngoài ra, “lượng” không chỉ là những kiến thức
mà sinh viên học trên ghế nhà trường, mà đó còn là những kỹ năng cần thiết như
“kỹ năng làm việc nhóm, thuyết trình, đàm phán,…” và khả năng linh hoạt hoà
nhập với môi trường khác nhau. Vì thế, trong quá trình học tập, sinh viên cũng
cần phải hài hoà, phối hợp giữa kiến thức và kĩ năng để có thể tăng những tích
luỹ về “lượng” mà các nhà tuyển dụng đang tìm kiếm. Bởi vậy, ta lại càng thấy
rõ hơn được tầm quan trọng và sự tác động qua lại của quy luật “lượng” – “chất”,
từ đó sinh viên sẽ chủ động hơn trong việc trang bị cho mình những chuyên môn
kiến thức và kĩ năng cần thiết và đó cũng là tiền đề, bước chân đầu tiên để phát
triển sự nghiệp sau này
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mác-Lênin, nhà xuất bản chính trị Quốc gia sự thật (2021)
2. Slide bài giảng , giảng viên hương dẫn 3. Website: vi.wikipedia.com 4. Website: Studoc.com