TIỂU LUẬN: SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ XÃ HỘI ĐỐI VỚI PHÁP LUẬT TRUNG QUÓC CỔ ĐẠI
Tronghànhtrìnhxâydựngnềnvănminhcủađấtnướcđồnghànhvớinhữngbiếnđổivềchínhtrị-xãhộithì“tưtưởngchínhtrị”đãluônđóngvaitròquantrọngtrongviệchìnhthànhvàpháttriểnphápluậtởnhiềuquốcgiatrênthếgiới.Trongđó,vănminhTrungQuốclàmộttrongnhữngnềnvănminhxuấthiệnsớmnhấtcủalịchsửnhânloại. Tài liệu giúp bạn tham khảo và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Luật Thương mại quốc tế (65TMQT)
Trường: Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TIỂU LUẬN:
SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ XÃ
HỘI ĐỐI VỚI PHÁP LUẬT TRUNG QUÓC CỔ ĐẠI
SINH VIÊN THỰC HIỆN: STT
HỌ VÀ TÊN MSSV 1 Tạ Ngọc Khánh Hà 2153801011048 2 Tôn Nữ Thanh Hà 2153801011049 3 Trần Thu Hà 2153801011051 NĂM 2023 0 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
NỘI DUNG ................................................................................................................... 2
I. Tổng quan về pháp luật Trung Quốc ..................................................... 2
1. Pháp luật thời Hạ ....................................................................................... 2
2. Pháp luật thời Thương .............................................................................. 2
3. Pháp luật thời Chu ..................................................................................... 2
II. Các tư tưởng triết học chính trị - xã hội Trung Quốc cổ đại .......... 3
1. Hoàn cảnh ra đời của các tư tưởng triết học chính trị - xã hội
Trung Quốc cổ đại ............................................................................................ 3
2. Các hệ tư tưởng chính trị - xã hội tiêu biểu ..................................... 3
III. Sự ảnh hưởng của tư tưởng Pháp gia đối với xây dựng pháp luật 3
1. Nguồn gốc và sự hình thành của Pháp gia ....................................... 3
2. Nội dung tư tưởng của Pháp gia ........................................................... 4
3. Vai trò, vị thế của Pháp gia đối với pháp luật ................................. 7
KẾT LUẬN .................................................................................................................... 9
MỞ RỘNG ................................................................................................................ 10
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................ 11 1 MỞ ĐẦU
Trong hành trình xây dựng nền văn minh của đất nước đồng
hành với những biến đổi về chính trị - xã hội thì “tư tưởng chính
trị” đã luôn đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát
triển pháp luật ở nhiều quốc gia trên thế giới. Trong đó, văn minh
Trung Quốc là một trong những nền văn minh xuất hiện sớm nhất
của lịch sử nhân loại. Với một vùng lãnh thổ rộng lớn và dân cư
đông đúc, Trung Quốc đã đạt được những thành tựu to lớn về văn
học, nghệ thuật, toán học, tôn giáo, tín ngưỡng, kiến trúc, hội họa,
…Tất cả những thành tựu này đã làm nên một nền văn hóa Trung
Hoa phát triển rực rỡ và trở thành một trung tâm văn minh quan
trọng ở vùng Viễn Đông và cả trên thế giới.
Ra đời cách đây trên hai nghìn năm, mặc dù còn có nhiều hạn
chế do lịch sử, do bản chất giai cấp nhưng các học thuyết ở Trung
Quốc cổ đại vẫn toát lên nhiều giá trị tư tưởng quý báu mà học
thuyết Nhà nước pháp quyền sau này đã tiếp thụ được. Trong suốt
thời kỳ cổ đại, Confucianism (Nho giáo), Daoism (Đạo giáo) và
Legalism (Pháp gia) đã có một ảnh hưởng sâu sắc và không thể bỏ
qua đối với pháp luật Trung Quốc lúc bấy giờ. Chẳng hạn như
Confucianism (Nho giáo) coi việc duy trì ổn định xã hội là mục tiêu
hàng đầu, và pháp luật được coi là công cụ để duy trì điều này.
Daoism (Đạo giáo) thì cho rằng tự nhiên là quan trọng và khuyến
khích con người sống hòa thuận với tự nhiên. Legalism (Pháp gia)
xuất hiện nhấn mạnh vai trò của pháp luật trong việc kiểm soát xã
hội. Tuy nhiên, chỉ có tư tưởng chính trị của Legalism (Pháp gia) là
mang lại một góc nhìn khác về việc duy trì ổn định xã hội. Từ đó,
trở thành nơi tiên phong và khởi nguồn cho một hệ tư tưởng Pháp
trị xuất hiện có sức ảnh hưởng mạnh mẽ và mang lại nhiều giá trị
to lớn cho pháp luật Trung Quốc ở những thời kỳ sau này.
Để hiểu rõ hơn về đặc điểm của từng hệ tư tưởng và cách mà
các hệ tư tưởng này đã góp phần vào việc xây dựng các nguyên
tắc và quyền lực trong hệ thống pháp luật Trung Quốc cổ đại như
thế nào thì có lẽ đề tài “Sự ảnh hưởng của tư tưởng chính trị - xã 1
hội đối với pháp luật Trung Quốc cổ đại” là một đề tài thú vị đáng
để khai thác và khám phá. 2 NỘI DUNG I.
Tổng quan về pháp luật Trung Quốc
1. Pháp luật thời Hạ
Thời nhà Hạ (thế kỉ XXI - XVI TCN) là nhà nước cổ đại đầu tiên
trong lịch sử Trung Hoa, người thành lập nhà Hạ là vua Vũ. Thời kỳ
này, nhà nước mới hình thành, còn sơ khai nên hệ thống pháp luật
thời nhà Hạ chủ yếu qua truyền miệng và tập quán là chính.
Quyền lực của nhà vua bắt đầu được tăng cường, ngôi vua được cha truyền con nối.
2. Pháp luật thời Thương
Thời nhà Thương (thế kỷ XVI - thế kỷ XI TCN) tuy đã có pháp
luật thành văn nhưng pháp luật chủ yếu là mệnh lệnh của nhà
vua. Trong đó, hình phạt rất được chú trọng với nhiều hình phạt
khắc nghiệt như: đóng dấu nung đỏ, cắt mũi, gông cùm, xử tử
bằng các hình thức: chôn sống, mổ bụng, xẻo từng mảnh nhỏ bỏ
vào nước sôi, bỏ vào cối giã,...gây tiêu cực đến xã hội lúc bấy giờ.
3. Pháp luật thời Chu
a. Pháp luật thời Tây Chu
Do cơ chế chính trị nhà Chu dựa trên chế độ tông pháp (quan
hệ đẳng cấp huyết thống) và rút kinh nghiệm thất bại của nhà
Thương trong việc chỉ sử dụng hình phạt hà khắc cai trị dân chúng,
nên bên cạnh hình, nhà Chu còn đặt ra Lễ. Lễ dùng để phân biệt
sang hèn, trật tự tôn ty trong xã hội, những nghi lễ về ăn, ở, hội
họp, ma chay cúng lễ, cưới xin...
Để bảo đảm trật tự xã hội và điều chỉnh hành vi con người thì
hệ thống lễ của nhà Chu được xây dựng, gồm 5 loại được gọi là
Ngũ Lễ: Cát lễ (lễ tế các thần linh); Hung lễ (lễ cúng tế, ma chay,
mất mùa); Quân lễ (lễ ra quân); Tân lễ (lễ tiếp đón các chư hầu);
Gia lễ (lễ hôn nhân, lễ lập con trưởng). Người ta thực hiện lễ một
cách tự nguyện. Lễ trở thành quy tắc xử xự của mọi người trong xã
hội, nếu ai không tuân theo lễ sẽ bị cười chê là không có chính
nghĩa, không xứng đáng là bậc trượng phu. Chính vì đặc điểm đó
của lễ nên nhà Chu dựa vào lễ để quản lý xã hội và hình pháp lúc
này dùng để trừng trị những ai không tuân theo lễ. Dần dần lễ trở
thành một yếu tố quan trọng trong pháp luật nhà Chu. 3
Hình phạt của nhà Chu gồm 5 thang bậc, gọi là phép Ngũ Hình:
Mặc hình (còn gọi là kình (khắc chữ vào trán)): thường được áp
dụng đối với người có những hành vi không đúng đạo nghĩa, nói lời càn rỡ.
Tỵ hình (xẻo mũi): thường được áp dụng đối với người có
những hành vi như làm trái lệnh vua, thay đổi chế độ trang phục,
lừa đảo, trộm cướp làm tổn thương người khác.
Phị hình còn gọi là nguyệt (chặt chân): thường được áp dụng
đối với người có những hành vi như cậy cửa kho, trèo thành quách mà ăn trộm vặt.
Cung hình còn gọi là thủ hay tầm thất hình (thiến: đối với
nam, hoặc nhốt vào nhà kín: đối với nữ; thường được áp dụng đối
với nam nữ quan hệ với nhau không đúng lễ nghĩa).
Đại tịch (tử hình): thường được áp dụng đối với người có những
hành vi đầu hàng hoặc làm phản, làm giặc, cưỡng bức, cưỡng đoạt. b.
Các tư tưởng chính trị - xã hội thời Đông Chu
Các tư tưởng này hình thành bắt đầu từ thời nhà Chu (tư tưởng
Lễ, Đức sau đó được Khổng Tử phát triển thành Nho giáo), và thời
Xuân Thu - Chiến Quốc (pháp trị). Nguyên nhân là do sự xuất hiện
tư hữu và kinh tế hàng hoá tiền tệ ngày càng mạnh mẽ và phức
tạp. Từ đó đặt ra yêu cầu cần phải có những tư tưởng, chính sách
để giải quyết những vấn đề mà xã hội đặt ra. Ngoài ra còn có mục
đích gắn kết các thành viên cộng đồng để chống chọi với thiên
nhiên (đặc biệt là lễ và đức).
Khi xã hội còn trong thời kỳ công xã nguyên thủy mọi người
bình đẳng, gắn kết yêu thương nhau mà Khổng Tử gọi đó là thời kỳ
“đại đồng” (“Thương người khác như thương con, nhà không cài
thèn”), nhưng tư hữu xuất hiện đã phá vỡ trạng thái xã hội cũ. Vì
vậy đặt ra hai xu hướng giải quyết:
Một là, quay về với trạng thái xã hội cũ và kìm hãm sự phát
triển của xã hội hiện tại gọi là hoài cổ thể hiện ở tư tưởng đức, lễ trị
Hai là, chấp nhận đòi hỏi khách quan của xã hội hiện tại và
tìm cách giải quyết nó thể hiện ở tư tưởng pháp trị.
Thời kỳ này của nhà Đông Chu được coi là giai đoạn phát triển
mạnh mẽ nhất của tư tưởng và văn hoá Trung Quốc trong lịch sử. 4
Chính trong giai đoạn cai trị này của nhà Đông Chu mà những nhà
tư tưởng lớn nhất đã sáng tạo ra những quan niệm khởi đầu về triết
học, đạo đức, học thuyết chính trị và văn hoá Trung Quốc. II.
Các tư tưởng triết học chính trị - xã hội Trung Quốc cổ đại
1. Hoàn cảnh ra đời của các tư tưởng triết học chính trị -
xã hội Trung Quốc cổ đại
Thời Xuân Thu được tồn tại từ khoảng năm 770 đến năm 475 trước Công
nguyên. Đây là thời kỳ chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong
kiến, còn gọi là thời Đông Chu, do Chu Bình Vương dời đô về phía Đông tại Lạc
Dương (Hà Nam ngày nay). Thời Chiến Quốc từ năm 475 đến năm 221 trước Công nguyên.
Trong thời kỳ này đồ sắt phát triển khá phổ biến, kỹ thuật canh tác phát triển
và bên cạnh đó nền sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp phát triển mạnh
mẽ. Sự phân công lao động và chuyên môn hoá sản xuất ngày càng cao. Sự phát
triển của lực lượng sản xuất của nền kinh tế đã có tác động mạnh đến hình thức sở
hữu ruộng đất, kết cấu và địa vị kinh tế của các giai tầng trong xã hội. Thời Xuân
Thu, mệnh lệnh của Thiên tử nhà Chu không còn được tuân thủ, trật tự lễ nghĩa, kỷ
cương xã hội bị đảo lộn, đạo đức suy đồi. Sự tranh giành địa vị xã hội của các thế
lực cát cứ đã đẩy xã hội Trung Hoa cổ đại vào tình trạng chiến tranh khốc liệt liên
miên. Đây chính là thời kỳ lịch sử mà chế độ thị tộc nhà Chu tan rã, hình thành xã
hội phong kiến; nhà nước quý tộc cha truyền con nối bị thay thế bởi nhà nước
phong kiến với sự nổi lên của kẻ sĩ, lực lượng sản xuất được giải phóng mở đường
cho xã hội phát triển. Sự biến chuyển sôi động đó của thời đại làm xuất hiện những
tụ điểm, những trung tâm là nơi các kẻ sĩ tụ tập để tranh luận về trật tự xã hội cũ và
đề ra những hình mẫu của một xã hội tương lai. Lịch sử gọi thời kỳ này là thời kỳ
"Bách gia chư tử", "Bách gia tranh minh". Và cũng chính trong quá trình ấy đã sản
sinh các tư tưởng lớn và hình thành nên các trường phái triết học khá hoàn chỉnh.
Đây là thời kỳ triết học Trung Hoa phát triển mạnh nhất, tạo ra những triết
thuyết làm nền tảng cho toàn bộ nền triết học này. Sự phát triển của triết học Trung
Hoa ở các thời kỳ sau là sự phát triển những học thuyết triết học được sinh ra ở thời
kỳ này. Nền triết học ở thời kỳ này đã nhấn mạnh tinh thần nhân văn. Trong tư
tưởng triết học Trung Hoa cổ đại, trung đại, tư tưởng triết học liên quan đến con
người như triết học nhân sinh, triết học đạo đức, triết học chính trị, triết học lịch
sử,... phát triển còn triết học tự nhiên có phần mờ nhạt. Các triết gia Trung Hoa đều
tập trung vào lĩnh vực luân lý đạo đức, xem việc thực hành đạo đức như là hoạt
động thực tiễn căn bản nhất của một đời người, đặt lên vị trí thứ nhất của sinh hoạt
xã hội. Triết học nhấn mạnh sự hài hòa, thống nhất giữa tự nhiên và xã hội, giữa các
giai cấp và các cá nhân trong xã hội; sự hài hòa, thống nhất giữa các mặt đối lập; coi
trọng tính đồng nhất của các mối liên hệ tương hỗ của các khái niệm, coi việc điều
hoà các mâu thuẫn là mục tiêu cuối cùng để giải quyết các vấn đề. 5
2. Các hệ tư tưởng chính trị - xã hội tiêu biểu III.
Sự ảnh hưởng của tư tưởng Pháp gia đối với xây dựng pháp luật
1. Nguồn gốc và sự hình thành của Pháp gia
Trong thời kỳ xã hội Trung Quốc trải qua những biến động
vô cùng phức tạp, đối mặt trước sự khủng hoảng về chính trị, xã
hội và đạo đức. Xuất hiện nhiều vấn đề cần phải giải quyết, các
học thuyết Vô vi, Kiêm ái, Đức trị lần lượt được kiểm nghiệm nhưng
vẫn không thể đáp ứng được các yêu cầu trong giai đoạn này. Tư
tưởng pháp trị đã được hình thành từ khá sớm với Quản Trọng là
người khởi xướng. Quản Trọng (thế kỷ VI TCN) là người nước Tề,
vốn xuất thân từ giới bình dân nhưng rất có tài chính trị, được coi
là người đầu tiên bàn về vai trò của pháp luật như là phương cách
trị nước. Thời Chiến Quốc, tư tưởng Pháp trị được tiếp tục phát
triển bởi Thân Bất Hại (401-337 TCN), là người nước Trịnh chuyên
học về hình danh, làm quan đến bậc tướng quốc. Thân Bất Hại đưa
ra chủ trương ly khai “Đạo đức” chống “Lễ” và đề cao “Thuật”
trong phép trị nước. Thân Bất Hại cho rằng “thuật” là cái “bí hiểm”
của vua, theo đó nhà vua không được lộ ra cho kẻ bề tôi biết là
vua sáng suốt hay không, biết nhiều hay biết ít, yêu hay ghét
mình… bởi điều đó sẽ khiến bề tôi không thể đề phòng, nói dối và lừa gạt nhà vua.
Nhiều đại biểu tư tưởng, Hàn Phi Tử của Hàn Phi là một
trong những đại biểu xuất sắc nhất, đóng vai trò đặc biệt trong sự
nghiệp thống nhất đất nước và phát triển xã hội cuối thời Xuân Thu
- Chiến Quốc. Ông là một vị công tử, vương thất nhà Hàn, là học
trò của Tuân Tử – là một trong những đại biểu xuất sắc nhất của
trường phái triết học Nho gia. Ông đã tổng hợp ba quan điểm về
phép, thế, thuật của những nhà triết học trên thành một học
thuyết có tính hệ thống và trình bày trong sách Hàn Phi Tử. Hàn
Phi Tử đề cao vai trò của pháp trị. Theo ông, thời thế hoàn cảnh đã
thay đổi thì phép trị nước không thể viện dẫn theo “đạo đức” của
Nho gia, “Kiêm ái” của Mặc gia, “Vô vi nhi trị” của Đạo gia như
trước nữa mà cần phải dùng Pháp trị. Ông phê phán gay gắt xã hội 6
đương thời và đưa ra cách giải quyết thiết thực hơn hết. Ông cho
rằng phương pháp trị nước phù hợp và hiệu quả nhất ngay lúc này
phương pháp pháp trị, pháp trị thì quyền lực mới được tập trung,
quốc gia mới đi lên và hưng thịnh, mới có thể thống nhất thiên hạ,
chấm dứt loạn lạc. Không như những học thuyết đề cao nhân trị,
pháp trị vạch ra con đường kết hợp pháp quyền với cải cách kinh
tế để thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển, thực hiện mục tiêu
thực túc binh cường và binh cường nước mạnh. Chủ trương mọi
người đều phải lao động và tham gia chiến tranh như là nghĩa vụ
cơ bản, chống lại sự lười biếng, xa xỉ vì đó là nền tảng để duy trì
chế độ và chính sách cai trị.
2. Nội dung tư tưởng của Pháp gia
Các quan niệm của Hàn Phi Tử trong học thuyết của ông đã
đảo lộn các giá trị tinh thần của các học thuyết khác. Hàn Phi là
người đầu tiên coi trọng cả ba yếu tố là Pháp, Thế, Thuật và ông
cho rằng ba yếu tố đó phải thống nhất với nhau không thể tách rời
trong lối trị nước bằng pháp luật.
Để mang lại lợi ích cho quốc gia, những luật lệ do pháp gia
đưa ra đã đặt chiến tranh và nông nghiệp lên vị trí hàng đầu với
các phương châm: trọng thường, trọng phạt, trọng nông, trọng
chiến. Mục tiêu của chính sách: “Vô sự tắc quốc phú, hữu sự tắc
binh cường” - ngày thường vô sự thì làm cho nước giàu, khi biến cố
hữu sự thì có sẵn quân mạnh và “Hữu nạn tắc dụng kỳ tử, an bình
tắc dụng kỳ lực”- Khi hoạn nạn thì bỏ bình vì nước, lúc an bình thì
họ ra sức xây dựng quốc gia. a. Pháp
Theo Hàn Phi Tử, vua là người tượng trưng cho chủ quyền
quốc gia nên nắm cả ba quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp) và
đảm bảo các điều kiện. Thứ nhất, luật pháp phải kịp thời. Thứ hai,
Pháp luật soạn cho dân phải dễ hiểu, dễ thi hành. Nội dung chủ
yếu của luật pháp là thưởng và phạt. Đây là hai đòn bẩy của vua
trong hệ thống chính quyền, mục đích là khuyến khích người dân
làm điều thiện, ngăn ngừa kẻ làm điều ác. Như vậy, làm cho nước
yên, không có gì hại cho dân ca. Thứ ba, pháp luật phải công bằng,
chủ trương trừng phạt trong pháp luật phải nghiêm minh, triệt để.
Mọi người phải bình đẳng trước pháp luật, không được loại trừ ai kể
cả giới quý tộc và quan lại. Thứ tư, pháp luật cần phổ biến, pháp là 7
những điều luật, luật lệ mang tính nguyên tắc được biên soạn rõ
ràng, minh bạch, mang tính khuôn mẫu, được ghi chép trong đồ
thư, phải được bày ra và ban bố rộng rãi trong dân chúng.
Pháp là cơ sở khách quan, là tiêu chuẩn phân biệt rõ phải
trái, tốt xấu, danh phận, hành pháp để mọi người biết rõ bổn phận
trách nhiệm, biết được điều cần làm và không cần làm để từ đó
thưởng phạt nghiêm ngặt. b. Thế
Thế là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu chính thể.
Hiểu rằng địa vị đó là độc tôn, mọi người buộc phải tuân theo.
Ngoài ra còn được hiểu là sức mạnh của thần dân, đất nước hoặc có thể là vận nước.
Thể ở đây được ví giống như nỏ yếu nhờ có gió kích mới làm
tên bay đi xa như rồng bay được là nhờ mây. Thế và pháp không
được tách rời. Cho rằng trong trị nước quyền thế của vua mới quan
trọng, đức không quan trọng. Chủ quyền (gồm các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp), được tập trung một người đó là vua. Vua phải
được tôn kính và tuân theo triệt để. Dân không có quyền làm cách
mạng, không được làm trái ý của vua, vua bắt chết phải chết,
không chết là bất trung. Hơn nữa, đưa thưởng phạt lên hàng đầu
quốc sách, vì thưởng phạt nhất là phạt là phương tiện hiệu nghiệm
nhất để tiến hành cưỡng chế. Ông cho rằng “thưởng phải tín phạt
phải tất, thưởng phải hậu phạt phải nặng”, thưởng phạt trong phép
nước phải chí công vô tư. Quan trọng nhất là vua phải nắm hết hai
quyền thưởng phạt vì hai quyền đó giống như nanh vuốt của cọp.
Ông nói “cọp sở dĩ phải làm cho chó phải khiếp sợ vì cọp có nanh
vuốt, nếu cọp bỏ nanh vuốt cho chó dùng thì cọp phải sợ chó”, vì
vậy dứt khoát nhà vua phải nắm hết hai quyền này.
Học thuyết pháp trị không những đề cập đến vấn đề kinh tế,
của cải vật chất, mà còn trực tiếp đi thẳng vào vấn đề là thực hiện
như thế nào để mang lại hiệu quả. Pháp gia yêu cầu kẻ thống trị
phải nắm trong tay quyền giết hại, khen thưởng để có thể duy trì
chủ trương quyền thế vạn năng, đề cao sức mạnh nhà nước. Hàn
Phi Tử luôn nhấn mạnh rằng thưởng - phạt có tác dụng trực tiếp
đến lợi ích con người, và xem đó như là công cụ hoàn hảo trong
việc trị nước. Hàn Phi tin rằng với hệ thống cai trị như thế, nếu biết
giữ pháp luật và sử dụng hiệu quả quyền hành của mình thì vua 8
không giỏi cũng có có thể điều hành đất nước hiệu quả và đạt
được mục tiêu đặt ra. c. Thuật
Thuật là phương pháp, thủ thuật, cách thức, mưu lược, điều
khiển công việc để dùng người, để cho con người phải triệt để, tận
tâm thực hiện lệnh của vua mà không hiểu vua dùng họ như thế
nào. Thuật có thể hiểu là phương án tuyển, dùng, xét khả năng
của quan lại hoặc là mưu mô chế ngự quần thần, bắt họ để lộ thâm ý bên trong.
Để trị nước Hàn Phi cho rằng vua trị lại bất trị dân” tức là
công việc có quá nhiều, vua không thể làm hết được nên vua phải
giao quan lại, hễ dân không loạn là quan làm tốt. Vua tổ chức bộ
máy quan lại trong từng lĩnh vực, từng địa phương và phải có cách
thức sử dụng theo ý của vua. Vua phải giấu điều mình biết mà hỏi
để biết thêm điều mình chưa biết, nói ngược lại điều mình muốn
nói để dò xét cái gian tình của người, ngầm hại những bề tôi mà
mình không cảm hóa được, không cho họ biết được mưu tính của
mình. Không để cho họ tự ý hành động, làm gì phải hỏi ý mình
trước, bắt họ phải làm đúng theo pháp luật và vua cũng phải làm
theo pháp luật, xem lời nói của họ có phù hợp với hành động
không, không cho họ lấy tiền trong kho để chi riêng, khi họ khen
chê ai thì xem người được khen có thực tài không, người được chê có đúng tội không.
Để kiềm chế người có địa vị cao, có chức vụ lớn thì nhà vua
có 3 cách: nếu là người hiền thì bắt vợ con của họ làm con tin, nếu
là kẻ tham lam thì ban phước lộc hậu để mua chuộc họ, để họ
không làm phản, nếu là kẻ gian xảo thì làm cho họ khốn khổ.
Hàn Phi Tử đưa ra mười hạng người không nên dùng hạng
người khinh tước lộc, dễ dàng bỏ chức vụ để chạy theo cái khác;
hạng người giả dối, đặt lời trái pháp luật; hạng người thường chê
bai vua; hạng người tri ân thu phục người dưới; hạng người tư lợi,
giao tiếp với chư hầu; hạng người vì người quen cũ mà lợi dụng cái
riêng tư; hạng người bỏ chức quan, thích giao du; hạng người tranh
thắng với bề trên; hạng người uốn cong pháp luật vì người thân;
hạng người đem của công ra bố thí.
Về phương pháp dùng người, khi nghe bề tôi nói thì vẻ mặt
của vua phải trầm mặt, lầm lì, không khen, không chê, không để lộ 9
tình cảm của mình. Phải bắt bề tôi nói, không được làm thinh, khi
nói phải có đầu đuôi chứng cứ, lời nói của bề tôi trước sau không
được mâu thuẫn, bề tôi phải đưa ra ý kiến ba phải, không được
mập mờ, lời nói phải thiết thực. “Dụng nhân như dụng mộc”: người
nào cũng có thể sử dụng được, căn cứ vào tài năng của họ. Giao
việc rồi mới biết họ hay hay dỡ, khi giao chức phải theo 3 quy tắc:
(1) Giao bậc từ nhỏ đến cao: chức tước càng cao, chức vụ càng lớn,
càng có tài cai trị; (2) Không được cho kiêm nhiệm, mỗi người làm
một chuyên môn nhất định; (3) Khi giao trách nhiệm thì phải dùng
người khác để dòm ngó người đó.
Chính sách của Hàn Phi Tử chú trọng phát triển nông nghiệp,
tích trữ lương thực, của cải và xây dựng quân đội hùng mạnh. Ông
cho rằng quỷ thần do nỗi lo sợ của con người tạo ra, đồng thời đả
kích những tập quán mê tín lúc bấy giờ ở Chiến Quốc và đưa ra
quan điểm rằng nhà cầm quyền phải có biện pháp để chống lại,
ngăn chặn sai lầm do đó. Nếu họ biết tôn trọng và tuân theo pháp
luật, nắm chắc thưởng phạt, không mê tín dị đoan chính trị, biết
cẩn thận và giữ gìn “pháp”, “thế” thì nước yên; nếu trái “pháp”, bỏ
“thế” thì nước loạn. Và ngược lại, người cai trị mà mê tín quỷ thần
tất nhiên sẽ mất nước, đánh giặc mà cầu khẩn quỷ thần tất sẽ
thua trận. Tư tưởng vô thần của Hàn Phi là một tiến bộ vượt bậc,
phản ánh tương lai của giai cấp địa chủ mới nên tin tưởng vào sức
mạnh của chính mình. Ngoài ra, pháp gia khẳng định rằng không
thể dựa vào lòng nhân ái mà quản lý, phải dựa vào pháp luật để
trừng trị tội phạm đến cùng. Các pháp gia đã xác định kinh tế - xã
hội đang nằm ở vị trí then chốt, từ đó giải quyết các vấn đề khác.
Những quan điểm chính trị - pháp luật thực tế, đề cao giá trị
của các quy phạm pháp luật và đó cũng là cơ sở lý luận vô cùng
quan trọng có thể thay đổi xã hội Trung Quốc lúc bây giờ.
3. Vai trò, vị thế của Pháp gia đối với pháp luật
Trên cơ sở pháp luật, với chủ trương xác lập mối quan hệ giữa
nhà cầm quyền và người bị trị, các pháp gia đã chính thức cho
chính trị lúc bấy giờ thoát ly khỏi sự ràng buộc của đạo đức và
pháp trị chiếm ưu thế, cũng như mang lại những giá trị thiết thực cho xã hội.
Sử dụng pháp luật để quản lý xã hội là phương thức phổ biến
được nhiều nhà nước sử dụng để có thể đảm bảo trật tự, duy trì 10
hành vi pháp luật cho phép cũng như trừng trị, ngăn chặn các
hành vi tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xã hội. Để quản lý xã hội một
cách hiệu quả, pháp luật được vận dụng như là một công cụ hữu
hiệu giúp bộ máy nhà nước vận hành thuận lợi. “Thực tiễn lịch sử
đã chứng minh: trong các xã hội có giai cấp, sự tồn tại của nhà
nước cùng với pháp luật và hệ thống công cụ bạo lực là thiết yếu.
Không có pháp luật thì mọi quan hệ xã hội không được điều chỉnh
bằng một ý chí thống nhất, không duy trì được trật tự kỷ cương”1.
Đưa xã hội từ tình trạng rối ren đi vào trật tự thì cần dùng biện
pháp cưỡng chế bằng pháp luật sẽ hữu hiệu và giải quyết được
nhanh hơn so với giáo dục đạo đức cần khoảng thời gian lâu hơn
để chấn chỉnh. Quan điểm sử dụng pháp luật để trị nước là hoàn
toàn đúng đắn và phù hợp với thức tế lịch sử, các pháp gia đã có
công lớn trong việc phát triển và hoàn thiện phương thức quản lý
xã hội cho giai cấp thống trị nói chung và giai cấp phong kiến nói riêng.
1 Otto Baehr (1899-1968) cho rằng, khi một dân tộc phát triển tổ chức của mình đến trình độ một nhà nước,
thì nhà nước đó có chức năng hàng đầu là thực thi pháp luật theo các nguyên tắc và trình tự cụ thể. 11 KẾT LUẬN
Trong thời kì cổ đại Trung Quốc, với sự rối ren, loạn lạc của
tình hình chính trị lúc bấy giờ và nhằm để quản lý xã hội người
dân, pháp luật của Trung Quốc dần dần được hình thành. Trên con
đường hình thành nền pháp luật đầu tiên, pháp luật của Trung
Quốc đã chịu nhiều ảnh hưởng, tác động của các hệ tư tưởng
chính trị. Nhìn chung, các học thuyết tư tưởng đều là sự phản ánh
thực tiễn lịch sử và được hình thành thông qua ý thức con người và
để hướng tới phục vụ cuộc sống. Giá trị của học thuyết này hay
học thuyết khác thể hiện ở sự tác động tích cực của nó tới sự nhận
thức của con người, tới các quan hệ và các mặt của đời sống xã hội
hiện thực. Những trường phái tư tưởng thời Xuân Thu về mặt cơ
bản nhìn chung do xuất phát từ nguồn gốc ra đời là thời kì trật tự
xã hội bị đảo lộn, đạo đức bị suy đồi, các quy chế của thời Tây Chu
bị phá hoại, đời sống của nhân dân vô cùng cực khổ nên chính
hoàn cảnh xã hội ấy đã sản sinh sinh ra những nhà tư tưởng muốn
làm thay đổi tình hình. Quan điểm chính trị “vô vi bất trị” hay tư
tưởng Nho giáo của Khổng Tử,... tất cả đều phản ánh một bức
tranh tổng thể vô cùng tồi tệ lúc bấy giờ: các bậc quan lại thu rất
nhiều các thứ thuế bất công, vô lý,... Các tư tưởng chính trị ở đây
chỉ phản ánh một khía cạnh nhỏ, một góc nhìn đối với những bất
công tồn tại song đều đã tác động tích cực vào hệ thống pháp luật
lúc bấy giờ nhằm xây dựng một hệ thống pháp luật vì lợi ích của
nhân dân song bên cạnh đó những tư tưởng này thực chất là muốn trốn tránh thực tại.
Nhìn chung, Đạo gia, Nho gia, Mặc gia đều đưa ra một chủ
trương nhằm bình ổn xã hội, song những biện pháp của họ đều
mang tính cải lương, không tưởng và duy tâm. Vì vậy, mặc dù tư
tưởng trị nước của Khổng, Mặc và Lão - Trang có những giá trị nhất
định trong lịch sử, song sự thành công mà nó mang lại không được
như mong muốn trong điều kiện loạn lạc và luôn xảy ra chiến
tranh như xã hội Trung Quốc cổ đại. Trong bối cảnh đó, tư tưởng
pháp trị của Hàn Phi được Tần Thủy Hoàng sử dụng có hiệu quả để
thống nhất Trung Quốc và có vai trò nhất định trong việc trị nước về sau.
Nghiên cứu lịch sử tư tưởng chính trị - pháp lý cung cấp cho
chúng ta tri thức về sự phát triển có tính logic nội tại trong những 12
“mạch nguồn” của tư tưởng nhân loại; giúp chúng ta thấy được
nguồn gốc, điều kiện phát sinh phát triển, đặc điểm và đặc trưng,
sự giống - khác nhau của các dòng tư tưởng trong suốt quá trình
phát sinh, phát triển của tư tưởng nhân loại. Nghiên cứu, các tư
tưởng chính trị - pháp lý Trung Quốc cổ đại để thấy được tính đa
dạng, phong phú và phức tạp của lịch sử tư tưởng chính trị nhân
loại, từ đó có thể chắt lọc giá trị tinh hoa của những tư tưởng ấy
cho ngày hôm nay vào mục tiêu đương đại. 13 MỞ RỘNG 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO 15