Tiểu luận Thực trạng tài nguyên thủy sản và vấn đề quản lý, khai thác tài nguyên thủy sản tại Việt Nam

Tiểu luận Thực trạng tài nguyên thủy sản và vấn đề quản lý, khai thác tài nguyên thủy sản tại Việt Nam, Tiểu luận Báo cáo thực tập của Học viện Nông nghiệp Việt Nam giúp bạn tham khảo và hoàn thành tốt bài tiểu luận của mình đạt kết quả cao.

BÀI TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: THỰC TRẠNG TÀI NGUYÊN THỦY SẢN VẤN ĐỀ QUẢN LÝ, KHAI
THÁC TÀI NGUYÊN THỦY SẢN TẠI VIỆT NAM
A. TÍNH CẤP THIẾT CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Đặt vấn đề
Việt Nam một quốc gia bờ biển dài 3260km trải dài từ Bắc xuống Nam, với các vùng
biểnthềm lục địa, trung bình cứ 100km đất liền thì 1km bờ biển, đây được đánh giá là tiềm
năng lớn để thúc đẩy phát triển thủy sản. Nhờ vào các điều kiện địa lý và tự nhiên Việt Nam đã
tạo nên nhiều hệ sinh thái cùng đa dạng phong phú về thủy sản. Do số lượng sản phẩm
phong phú đa dạng, mặt hàng thủy sản nước ta hội cạnh tranh cao trên thị trường tiêu
dùng quốc tế.
Được biết thủy sản ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước ngành khai thác thủy sản nước
ta những năm qua đã phát triển nhanh (tổng sản lượng thủy sản năm 2022 9 triệu tấn);
cấu và hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, năng suất, chất lượng, hiệu quả cao; có thương hiệu uy
tín, khả năng cạnh tranh và hội nhập quốc tế; đóng góp đáng kể vào sphát triển kinh tế xã hội,
đời sống vật chất tinh thần của người dân không ngừng nâng cao, góp phần bảo đảm quốc phòng,
an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền biển đảo Tổ quốc.
Tuy nhiên, trong các m trở lại đây hoạt động khai thác thủy sản đã nảy sinh nhiều vấn đề
đáng phải suy nghĩ như: công tác quản tàu cá; nghề khai thác thủy sản phát triển tự phát không
kiểm soát được; tổ chức sản xuất trên biển mang tính nhỏ lẻ, phân tán, tự phát chưa sự liên kết
hợp tác trong tổ chức sản xuất; công nghệ khai thác, công nghệ bảo quản sản phẩm sau thu
hoạch trên tàu còn lạc hậu so với c nước trong khu vực; sự cạnh tranh trong khai thác ngày
càng tăng; tình trạng đánh bắt bất hợp pháp vẫn diễn ra đã làm cạn kiệt nguồn lợi hải sản vùng
biển ven bờ; thiếu thông tin, sở dữ liệu nghề để phục vụ cho công tác quản lý, quy hoạch
khai thác hải sản; đầu sở hạ tầng còn dàn trải thiếu đồng bộ…. Mặt khác, hệ thống tổ
chức quản lý khai thác và thực thi pháp luật chưa được triển khai chặt chẽ, chưa được hoàn thiện
dẫn đến vi phạm pháp luật và tồn tại tình trạng khai thác trái phép, không báo cáo không theo
quy định
(IUU). Đây là một thách thức rất lớn, tác động tiêu cực đến sự phát triển của kinh tế
biển nói chung, đòi hỏi cần phải có những chính sách toàn diện và đột phá.
Hiện nay hệ thống sinh thái thủy sản bị cạn kiệt ô nhiễm phóng xạ, sử dụng hóa chất nông
nghiệp và chất thải công nghiệp không đúng quy trình. Mặt khác sự thay đổi khí hậu cũng gây ra
nhiều mất mát trong sản phẩm thủy sản. Môi trường tăng nhiệt độ biến đổi thể khiến cho
sự phát triển các loài thủy sản không n định. Điều y gây ảnh hưởng tiêu cực đến nguồn tài
nguyên thủy sản nước ta cũng như các nước trên thế giới.
Ngành nuôi trồng thủy sản đã đạt được nhiều thành quả đáng tự hào nhưng những khó khăn,
thách thức cũng rất lớn. Những vướng mắc, thách thức đó chính lực cản hình khắc chế
ngành nuôi trồng thủy sản Việt Nam trong hành trình tăng tốc, vươn tầm ra thế giới.
Để khắc phục những tồn tại nêu trên cần kiểm soát được hoạt động tàu trên biển, khai thác
trên sở sử dụng phát huy hiệu quả các nguồn lực, các hoạt động hỗ trợ phục vụ cho khai
thác hải sản để phát triển bền vững, gắn khai thác hải sản với bảo vệ nguồn lợi môi trường
[Type here]
sinh thái, đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng biển đảo của tổ quốc sự hội nhập quốc tế,
việc nghiên cứu xây dựng các hình quản lý đối với hoạt động khai thác thủy sản hết sức
cần thiết.
2. Mục tiêu nghiên cu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Nhận biết những thuận lợi, khó khăn ngành thủy sản Việt Nam gặp phải, từ đó đề xuất
ra các giải pháp thích hợp để giải quyết khó khăn, góp phần làm tăng lên sự phát triển của ngành
này trong nền kinh tế.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Nghiên cứu thực trạng của ngành thủy sản ở Việt Nam nói riêng và tình hình phát triển ngành
thủy sản trên thế giới nói chung.
Nghiên cứu về vấn đề khai thác, quản tài nguyên thủy sản Việt Nam.
Tìm hiểu đề xuất giải pháp giải quyết những khó khăn; nâng cao hiệu quả quản lý, khai
thác của ngành thủy sản Việt Nam.
3. Đối tượng nghiên cu
Tài nguyên ngành thủy sản Việt Nam.
Các vấn đề liên quan đến quản lý, khai thác thủy sản tại Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích tổng hợp.
Phương pháp so sánh.
Phương pháp thu thập tài liệu.
Từ đó rút ra những kết luận cần thiết để đánh giá xu hướng phát triểnnhững thay đổi ngành
thủy sản Việt Nam.
B. NỘI DUNG
1. Các sở luận chung
1.1. Tổng quan ngành thủy sản
a) Khái nim
Tài nguyên thủy sản là tài nguyên sinh vật (động vật, thực vật hay vi sinh vật) sống ở các
vùng nước tự nhiên, giá trị kinh tế (chế biến, sử dụng), gtrị khoa học (nghiên cứu đa dạng
sinh học).
Ngành thủy sản một ngành kinh tế kỹ thuật đặc thù,bao gồm nhiều lĩnh vực hoạt động mang
tính chất công nghiệp, nông nghiệp, thương mại và dịch vụ, trong khi các ngành khai thác, đóng
[Type here]
sửa tàu thuyền cá, sản xuất ngư lưới cụ, các thiết bị chế biến và bảo quản thủy sản trực thuộc
ngành công nghiệp nhóm A, ngành chế biến thủy sản thuộc ngành công nghiệp nhóm B, ngành
thương mại và nhiều hoạt động dịch vụ hậu cần như cung cấp vật tư và chuyên chở đặc dụng
thuộc lĩnh vực dịch vụ thì nuôi trồng thủy sản lại mang nhiều đặc tính của ngành nông nghiệp.
b) Phân loại
-Nghề nuôi trồng thủy sản rất đa dạng tùy thuộc theo từng chuyên ngành trong đó, hơn bốn
loại lĩnh vực chính, tương ứng với các sản phẩm khác nhau : nhóm động vật thân mềm, nhóm
tảo, nhóm giáp xác (tôm, cua) và các loại cá.
-"Thủy sản" "một thuật ngữ chỉ chung về những nguồn lợi", sản vật đem lại cho con người
từ môi trường nước được con người khai thác, nuôi trồng thu hoạch s dụng làm thực phẩm,
nguyên liệu hoặc bày bán trên thị trường. Trong các loại thủy sản, thông dụng nhất hoạt động
đánh bắt, nuôi trồng và khai thác các loại cá.
-Sự phân lại các loài thủy sản được dựa theo đặc điểm cấu tạo loài tính ăn môi trường sống
và khí hậu.
Nhóm (fish): những động vật nuôi đặc điểm rệt, chúng thể nước ngọt
hay cá nước lợ. Ví dụ: cá tra, cá bống tượng, cá chình.
Nhóm giáp xác (crustaceans): Phổ biến nhất nhóm giáp xác mười chân, trong đó tôm
cua là các đối tượng nuôi quan trọng. dụ: Tôm càng xanh, tôm sú, tôm thẻ, tôm đất, cua biển.
Nhóm động vật thân mềm (molluscs): Gồm các loài vỏ vôi, nhiều nhất nhóm hai mảnh
vỏđa số sống biển (nghêu, huyết, hàu, ốc hương)một số ít sống nước ngọt (trai, trai
ngọc).
Nhóm rong (Seaweeds): các loài thực vật bậc thấp, đơn bào, đa bào, loài kích thước
nhỏ, nhưng cũng có loài có kích thước lớn như Chlorella, Spirulina, Chaetoceros,Sargassium
(Alginate), Gracillaria.
Nhóm sát (Reptilies) lưỡng (Amphibians): Bò sát là các động vật bốn chân có
màng ối(ví dụ: cá sấu) Lưỡng cư là những loài có thể sống cả trên cạn lẫn dưới nước (ví dụ: ếch,
rắn) được nuôi để lấy thịt, lấy da dùng làm thực phẩm hoặc dùng trong mỹ nghệ như đồi mồi (lấy
vây), ếch (lấy da và thịt), cá sấu (lấy da).
c) Vai trò vị trí của ngành thủy sản trong nền kinh tế quốc dân
Vị trí:
Ngành Thuỷ sản Việt Nam đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế đất nước.
Quy của Ngành Thuỷ sản ngày càng mở rộng và vai trò của Ngành Thuỷ sản cũng tăng lên
không ngừng trong nền kinh tế quốc dân.
[Type here]
Từ cuối thập kỷ 80 đến nay, tốc độ tăng trưởng GDP của Ngành Thu sản cao hơn các ngành
kinh tế khác cả về trị số tuyệt đối và tương đối, đặc biệt so với ngành quan hệ gần gũi nhất là
nông nghiệp. Giai đoạn 5 năm 1995-2000, GDP của Ngành Thuỷ sản đã tăng từ 6.664 tỷ đồng
lên 14.906 tỷ đồng, tức là gấp 2 lần và năm 2003 ước tính đạt 24.327 tỷ đồng (theo giá thực tế).
Tỷ trọng GDP của Ngành Thuỷ sản trong GDP của toàn bộ nền kinh tế năm 1990 chưa đến 3%,
năm 2000 tỷ lệ đó là 4% và tỷ lệ này vẫn tiếp tục được giữ vững. Trái lại, GDP của ngành nông
nghiệp đã giảm xuống tương đối: năm 1990, tỷ trọng GDP của ngành nông nghiệp 38,7% đến
năm 2000 đã giảm xuống chỉ còn 24,3% và năm 2003 còn 16,7%.
Ngành Thuỷ sản là một ngành kinh tế kĩ thuật đặc thù bao gồm nhiều lĩnh vực hoạt động
mang những tính chất công nghiệp, nông nghiệp, thương mại và dịch vụ, cơ cấu thành một hệ
thống thống nhất liên quan chặt chẽhữu với nhau. Trong khi các ngành khai thác, đóng
sửa tàu thuyền cá, sản xuất ngư lưới cụ, các thiết bị chế biến và bảo quản thuỷ sản trực thuộc
công nghiệp nhóm A, ngành chế biến thuỷ sản thuộc nhóm công nghiệp B, ngành thương mại
nhiều hoạt động dịch vụ hậu cần như cung cấp vật tư và chuyên chở đặc dụng thuộc lĩnh vực
dịch vụ thì nuôi trồng thuỷ sản lại mang nhiều đặc tính của ngành nông nghiệp
vai trò ngày càng quan trọng của Ngành Thuỷ sản trong sản xuất hàng hoá phục vụ nhu cầu
tiêu dùng thực phẩm trong nước và thu ngoại tệ, từ những năm cuối của thập kỉ 90, Chính phủ đã
có những chú ý trong qui hoạch hệ thống thuỷ lợi để không những phục vụ tốt cho phát triển
nông nghiệp mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển mạnh về nuôi trồng thuỷ sản, đặc biệt
đối với vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Kể từ năm 2000, nuôi thuỷ sản nước lợ đã chuyển
mạnh từ phương thức nuôi quảng canh sang quảng canh cải tiến, bán thâm canh và thâm canh.
Nhiều hình nuôi thâm canh theo công ngh nuôi công nghiệp đã được áp dụng, các vùng nuôi
tôm lớn mang tính chất sản xuất hàng hoá lớn được hình thành, sản phẩm nuôi mặn lợ đã mang
lại giá trị xuất khẩu rất cao cho nền kinh tế quốc dân và thu nhập đáng kể cho người lao động.
Một bộ phận dân cư các vùng ven biển đã giàu lên nhanh chóng, rất nhiều gia đình thoát khỏi
cảnh đói nghèo nhờ nuôi trồng thuỷ hải sản. Trên thế giới, ước tính có khoảng 150 triệu người
sống phụ thuộc hoàn toàn hay một phần vào Ngành Thu sản. Ngành Thu sản được coi ngành
có thể tạo ra nguồn ngoại tệ lớn cho nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Xuất khẩu thuỷ sản của
Việt Nam đã trở thành hoạt động có vị trí quan trọng hàng nhất nhì trong nền kinh tế ngoại
thương Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu vẫn gia tăng hàng năm và năm 2004 đạt gần 2,4 tỷ USD,
vượt 20% so với kế hoạch, đưa chế biến thuỷ sản trở thành một ngành công nghiệp hiện đại, đủ
năng lực hội nhập, cạnh tranh quốc tế và dành vị trí thứ 10 trong số nước xuất khẩu thuỷ sản
hàng đầu trên thế giới
Vai trò:
- Cung cấp thực phẩm, tạo nguồn dinh dưỡng cho mọi người dân Việt Nam
50% sản lượng đánh bắt hải sản ở vùng biển Bắc Bộ, Trung Bộ và 40% sản lượng đánh bắt ở
vùng biển Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ được dùng làm thực phẩm cho nhu cầu của người dân
Việt Nam. Nuôi trồng thuỷ sản phát triển rộng khắp, tới tận các vùng sâu vùng xa, góp phần
chuyển đổi cấu thực phẩm trong bữa ăn của người dân Việt Nam, cung cấp nguồn dinh dưỡng
dồi dào. Từ các vùng đồng bằng đến trung du miền núi, tất cả các ao hồ nhỏ đều được sử dụng
[Type here]
triệt để cho các hoạt động nuôi trồng thuỷ sản. Trong thời gian tới, các mặtng thủy sản sẽ ngày
càng có vị trí cao trong tiêu thụ thực phẩm của mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam.
- Đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm
Ngành Thuỷ sản là một trong những ngành tạo ra lương thực, thực phẩm, cung cấp các sản
phẩm tiêu dùng trực tiếp. tầm mô, dưới giác độ ngành kinh tế quốc dân, Ngành Thu sản đã
góp phần đảm bảo an ninh lương thực thực phẩm, đáp ứng được yêu cầu cụ thể là tăng nhiều
đạm và vitamin cho thức ăn. thể nói Ngành Thuỷ sản đóng vai trò quan trọng trong việc cung
cấp thực phẩm cho người dân, không những thế nó còn là một ngành kinh tế tạo cơ hội công ăn
việc làm cho nhiều cộng đồng nhân dân, đặc biệt ở những vùng nông thôn và vùng ven biển.
Những năm gần đây, đặc biệt từ năm 2001 đến năm 2004, công tác khuyến ngư đã tập trung vào
hoạt động trình diễn các mô hình khai thác và nuôi trồng thuỷ sản, hướng dẫn người nghèo làm
ăn. Hiện tại, hình kinh tế hộ gia đình được đánh giá đã giải quyết bản công ăn việc làm
cho ngư dân ven biển. Bên cạnh đó, mô hình kinh tế tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân đã góp
phần giải quyết việc làm cho nhiều lao động ở các vùng, nhất là lao động nông nhàn ở các tỉnh
Nam Bộ và Trung Bộ. Nghề khai thác thuỷ sản ở sông Cửu Long được duy trì đã tạo công ăn
việc làm cho 48.000 lao động ở 249 xã ven sông.
- Xoá đói giảm nghèo
Ngành Thuỷ sản đã lập nhiều chương trình xóa đói giảm nghèo bằng việc phát triển các mô
hình nuôi trồng thuỷ sản đến cả vùng sâu, vùng xa, không những cung cấp nguồn dinh dưỡng,
đảm bảo an ninh thực phẩm mà còn góp phần xoá đói giảm nghèo. Tại các vùng duyên hải, từ
năm 2000, nuôi thuỷ sản nước lợ đã chuyển mạnh từ phương thức nuôi quảng canh sang quảng
canh cải tiến, bán thâm canh và thâm canh, thậm chí nhiều nơi đã áp dụng mô hình nuôi thâm
canh theo công nghệ nuôi công nghiệp. Các vùng nuôi tôm rộng lớn, hoạt động theo quy sản
xuất hàng hoá lớn đã hình thành, một bộ phận dân cư các vùng ven biển đã giàu lên nhanh
chóng, rất nhiều gia đình thoát khỏi cảnh đói nghèo nhờ nuôi trồng thuỷ sản. Hoạt động nuôi
trồng thuỷ sản ở các mặt nước lớn như nuôi cá hồ chứa cũng đã phát triển, hoạt độngy luôn
được gắn kết với các chương trình phát triển trung du miền núi, các chính sách xoá đói giảm
nghèo ở vùng sâu vùng xa.
- Chuyển dịch cấu nông nghiệp nông thôn
Việt Nam có đầy đủ điều kiện để phát triển một cách toàn diện một nền kinh tế biển. Nếu như
trước đây việc lấn ra biển, ngăn chặn những ảnh hưởng của biển để mở rộng đất đai canh tác là
định hướng cho một nền kinh tế nông nghiệp lúa nước thì hiện nay việc tiến ra biển, kéo biển lại
gần sẽ là định hướng khôn ngoan cho một nền kinh tế công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Trong
những thập kỉ qua, nhiều công trình hồ thuỷ điện đã được xây dựng, khiến nước mặn ngoài biển
thâm nhập sâu vào vùng cửa sông, ven biển. Đối với nền canh tác nông nghiệp lúa nước thì nước
mặn một thảm hoạ, nhưng với nuôi trồng thuỷ sản nước mặn, nước lợ thì nước mặn được nhận
thức là một tiềm năng mới, vì hoạt động nuôi trồng thuỷ sản có thể cho hiệu quả canh tác gấp
hàng chục lần hoạt động canh tác lúa nước. Tại nhiều vùng nông thôn, phong trào nuôi cá ruộng
trũng phát triển mạnh mẽ. Đây là hình thức nuôi cho năng suất và hiệu quả khá lớn, được đánh
giá là một trong những hướng chuyển đổi cấu trong nông nghiệp, góp phần làm tăng thu nhập
[Type here]
cho người lao độngxoá đói giảm nghèo nông thôn. Tính đến nay, tổng diện tích ruộng trũng
có thể đưa vào nuôi cá theo mô hình cá - lúa là 446.151 ha. Năm 2001, diện tích đã nuôi được
xác định là 239.379 ha, con số này vẫn tiếp tục tăng trong những năm tiếp theo.
- Tạo nghề nghiệp mới, tăng hiệu quả sử dụng đất đai
Ao hồ nhỏ là một thế mạnh của nuôi trồng thuỷ sản ở các vùng nông thôn Việt Nam. Người
nông dân sử dụng ao hồ nhỏ như một cách tận dụng đất đai và lao động. Hầu như họ không phải
chi phí nhiều tiền vốnphần lớn nuôi quảng canh. Tuy nhiên, ngày càng nhiều người nông
dân tận dụng các mặt nước ao hồ nhỏ trong nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt với các hệ thống nuôi
bán thâm canh và thâm canh có chọn lọc đối tượng cho năng suất cao như mè, trắm, các loại cá
chép, trôi Ấn Độ và các loài cá rô phi đơn tính.
- Nguồn xuất khẩu quan trọng
Trong nhiều năm liền, Ngành Thuỷ sản luôn giữ vị trí thứ 3 hoặc thứ 4 trong bảng danh sách
các ngành giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn nhất đất nước. Ngành Thu sản còn một trong 10
ngành có kim ngạch xuất khẩu đạt trên một tỷ USD. Năm 2005, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản
đạt gần 2,7 tỷ USD.
- Đảm bảo chủ quyền quốc gia, đảm bảo an ninh quốc phòng vùng sâu, vùng xa, nhất
ở vùng biển và hải đảo Ngành Thuỷ sản luôn giữ vai trò quan trọng trong bảo vệ an ninh, chủ
quyền trên biển, ổn định xã hội và phát triển kinh tế các vùng ven biển, hải đảo, góp phần thực
hiện chiến lược quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Năm 1997, Thủ tướng chính phủ đã
ký Quyết định số 393/TTg phê duyệt Chương trình cho vay vốn tín dụng đầu tư đóng tàu khai
thác hải sản xa bờ. Thực hiện quyết định này, từ năm 1997 đến năm 1999, Tổng cục Đầu tư và
Phát triển đã cho vay 867.871 triệu đồng, tương đương với 802 con tàu. Năm 2000, Thủ tướng
Chính phủ ký Quyết định số 64/2000/QĐ-TTg về việc sửa đổi quy chế quản lý và sử dụng vốn
tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các dự án đóng mới, cải hoán tàu đánh bắt tàu dịch
vụ và đánh bắt hải sản xa bờ, tổng số vốn đã duyệt cho vay từ năm 2000 đến năm 2005 là
182.372 triệu đồng để đóng mới 166 con tàu. Việc gia tăng số lượng tàu lớn đánh bắt xa bờ
không chỉ nhằm khai thác các tiềm năng mới, cung cấp nguyên liệu cho chế biến mà còn góp
phần bảo vệ an ninh quốc phòng trên các vùng biển của nước ta. Tính đến nay, rất nhiều cảng cá
quan trọng đã được xây dựng theo chương trình Biển đông hải đảo, cụ thể là: Cô Tô (Quảng
Ninh), Bạch Long và Cát (Hải Phòng), Hòn (Thanh Hoá), Cồn Cỏ (Quảng Trị), Sơn
(Quảng Nam), Phú Quí (Bình Thuận), Côn Đảo (Bà Rịa-Vũng Tàu), Hòn Khoai (Cà Mau), Nam
Du, Thổ Chu và Phú Quốc (Kiên Giang). Hệ thống cảng cá tuyến đảo này sẽ được hoàn thiện
đồng bộ để phục vụ sản xuất nghề cá và góp phần bảo vệ chủ quyền an ninh vùng biển của tổ
quốc.
1.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của thủy sản Việt Nam
1.1.1. Vị trí địa lãnh th
Vị trí địa lý tạo ra những thuận lợi cho việc phát triển ngành thủy sản một cách toàn diện. Đối
với các nước giáp biển, trong đó bao gồm cả Việt Nam thì ngành nuôi trồng và khai thác thủy sản
trở thành ngành thế mạnh. Các khu vực như vũng, vịnh nước nông, đầm những nơi cùng
[Type here]
thích hợp để nuổi trồng các loài hải sản với giá trị kinh tế cao. Mặt khác, diện tích vùng biển lớn
cũng cung cấp nhiều nguồn thủy hải sản tự nhiên, phong phú và đa dạng.
1.1.2. Điều kiện tự nhn
Thuận li
Nước ta có bờ biển dài với chiều dài 3260 km và có vùng đặc quyền kinh tế rộng.
Nguồn hải sản rất phong phú với tổng trữ lượng hải sản khoảng 3,9 4,0 triệu tấn cho phép
khai thác hằng năm khoảng 1,9 triệu tấn. Biển nước ta hơn 2000 loài cá, 1647 loài giáp xác
với hơn 100 loài tôm, hơn 2500 loài nhuyễn thể, rong biển hơn 600 loài nhiều đặc sản khác
như hải sâm, bào ngư, sò, điệp …
Nước ta nhiều ngư trường, trong đó 4 ngư trường trọng điểm là: ngư trường Mau
Kiên Giang, ngư trường Ninh Thuận Bình Thuận Bà Rịa +Vũng Tàu, ngư trường Hải Phòng
Quảng Ninh và ngư trường quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa.
Dọc bờ biển nhiều vũng vịnh, những bãi triều, đầm phá, các dải rừng ngập mặn thuận lợi
cho nuôi trồng thủy sản nước lợ. nhiều vùng biển ven các đảo, vũng, vịnh điều kiện thuận
lợi cho nuôi thuỷ sản nước mặn (nuôi trên biển).
Nước ta có nhiều sông suối, kênh rạch, ao hồ, và các ô trũng ở vùng đồng bằng khả năng nuôi
trồng hải sản nước ngọt. Trên cả nước ta đã sử dụng hơn 850 nghìn ha diện tích mặt nước đ
nuôi trồng thủy sản
Khó khăn
Nguồn nước một trong những yếu tố quyết định cho sự thành công cho phát triển nuôi trồng
thủy sản. Hiện tượng nắng nóng kéo dài đã làm cạn kiệt nguồn nước ngọt, làm tăng mức độ bốc
hơi nước trong các ao nuôi. Miền Trung nơi số ngày nắng, mức độ bốc hơi nước lớn nhất cả
nước, cho nên hạn hán xảy ra nghiêm trọng nhất. Nhiều ao nuôi tôm đã bị bỏ hoang không
có nước để cung cấp trong quá trình nuôi. Một số ao nuôi chưa đến thời gian thu hoạch đã bị cạn
kiệt nguồn nước trong ao, nên người dân phải thu hoạch sớm hoặc bỏ nuôi. Tôm chưa đến
kích thước thương phẩm bán với giá quá rẻ hoặc làm thức ăn cho gia súc và gia cầm.
Nắng lắm ắt phải mưa nhiều, y ra hiện tượng lụt nhiều nơi. Lượng mưa trung bình
xu hướng tăng dần qua các năm. Lũ lụt đã ảnh hưởng rất nghiêm trọng ở nhiều địa phương trong
cả nước. Nhiều nơi thể được xem nơi thuận lợi phát triển nếu hiện tượng khô hạn xảy ra,
nhưng chính nơi đây nơi dễ bị rủi ro nhất nếu lụt xảy ra. Khô hạn thể cung cấp nước,
nhưng lụt thì rất khó chống. Nhiều ao nuôi đã được chuẩn bị bao đê kiên cố, cao để chống
nước dân cao vào mùa mưa, nhưng không thể chống được lụt. Đối với nghề nuôi thủy sản mặn
lợ, độ mặn lại yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng và phát triển của loài nuôi. Khi xảy ra
mưa lớn, độ mặn trong các ao nuôi giảm xuống đột ngột vượt ra khỏi ngưỡng chịu đựng làm cho
[Type here]
tôm cá bị sốc, chết hoặc chậm lớn. Lũ xãy ra còn làm cho độ mặn các vực nước gần bờ như các
cửa sông giảm xuống, nghề nuôi nhuyễn thể, tôm cá, rong đề bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Vùng biển nước ta chịu ảnh hưởng khá nhiều bởi thiên tai, mỗi năm tới 9 10 cơn bão xuất
hiện Biển Đông khoảng 30 35 đợt gió mùa Đông Bắc, nhiều lần y thiệt hại về người
tài sản của ngư dân, thiên tai nhiều làm hạn chế số ngày ra khơi. Do nằm trong vành đai nhiệt đới
nên Việt Nam phải chịu ảnh hưởng của hiện tượng bão và áp thấp nhiệt đới. Bão và áp thấp nhiệt
đới gây ra mưa to gió lớn. Bão đã gây ra những cơn sóng giữ dội thể tàn phá hoàn toàn hệ
thống đê bao của các ao nuôi, lồng bè trên biển, vậy tổn thất điều khó tránh khỏi. Sự tàn phá
của bão áp thấp nhiệt đới còn ảnh hưởng đến hệ sinh thái của vùng nuôi cần thời gian dài
mới thể phục hồi. So với sự thay đổi nhiệt độ, bão áp thấp nhiệt đới thường khó thể dự
đoán, ngược lại mức độ ảnh hưởng của ảnh hưởng nghiêm trọng hơn rất nhiều. thể nói
rằng, hiện tượng khắc nghiệt của biến đổi khí hậu này ảnh hưởng rất lớn đến mọi vấn đề không
chỉ riêng nuôi trồng thủy sản. Đối với vùng ven biển, nơi cộng đồng dân sống chủ yếu dựa
vào hoạt động nuôi trồng thủy sản, nếu bão xảy ra thì thiệt hại về kinh tế điều khó tránh khỏi,
sinh kế của họ sẽ bị mất.
Một số vùng ven biển, do hoạt động của con người làm môi trường bị suy thoái, môi trường
nước bị ô nhiễm nguồn lợi thủy sản suy giảm nhiều.
dụ: Trên địa bàn tỉnh Mau hiện nay gần 4000 ha nuôi m công nghiệp sản
lượng chiếm gần ¼ cả nước, tuy nhiên theo đánh giá của các ngành chức năng thì khoảng 70
% các đầm tôm công nghiệp xả thải thẳng ra môi trường ảnh hưởng rất lớn đến môi trườngy
ra tình trạng trì trệ kém phát triển cho tình hình chung của ngành thủy sản
1.1.3. Điều kiện về kinh tế - hội
Thuận li
Nhân dân và n dân nước ta kinh nghiệm, truyền thống đánh bắtnuôi trồng thủy sản. Dân
cư, lao động vừa là lực lượng sản xuất vừa là nguồn tiêu thụ sản phẩm
Nhu cầu về các mặt hàng thu sản trong ngoài nước tăng nhiều trong những năm gần đây theo
đó thị trường tiêu thụ được mở rộng. Điều này tạo điều kiện tốt cho việc tiêu thụ các sản
phẩm thủy sản, đồng thời thúc đẩy sự đầu tư và mở rộng quy mô sản xuất ngành thủy sản.
Nhà nước có những đổi mới trong chính sách khuyến khích phát triển các dịch vụ thuỷ sản và
mở rộng chế biến thuỷ sản.
Chính sách hỗ trợ khích lệ từ chính phủ các tổ chức kinh tế, hội thể giúp
ngành thủy sản tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi. Các chính sách như hỗ trợ vốn,
giảm thuế, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ, đào tạo kỹ thuật...giúp thúc đẩy sự phát triển
và cạnh tranh của ngành thủy sản.
[Type here]
Các phương tiện phục vụ cho ngành thủy sản như tàu thuyền, ngư cụ được trang bị ngày càng tốt
hơn, ngày càng được đổi mới hơn.
Tiến bộ khoa học thuật làm thay đổi cách thức sản xuất, tăng năng suất, sản lượng, giá trị nông
sản…
sở hạ tầng ( hệ thống điện, nước, giao thông…) ngày càng được hoàn thiện
Sự phát triển công nghệ nâng cao năng lực sản xuất cũng góp phần quan trọng vào
sự phát triển của ngành thủy sản. Công nghệ tiên tiến sẽ giúp cải thiện hiệu suất, chất
lượng sản phẩm, đồng thời hạn chế các rủi ro về dịch bệnh và ô nhiễm môi trường.
Khó khăn
sở vật chất: thiếu đồng bộ, còn lạc hậu
Tàu thuyền tuy được cải thiện nhưng phần đa vẫn còn thô sơ, lạc hậu, hệ thống cảng chưa
đáp ứng được yêu cầu
dụ: Cảng Lạch Hới (TP Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa) bị xuống cấp, bồi lắng, tàu thuyền
chỉ có thể ra vào cảng vào thời điểm thủy triều lên.
Cảng Lạch Hới một buổi ng
[Type here]
Nhiều tàu cá nội tỉnh cập cảng, chuyển tôm cá lên bờ. Trên bờ, thương lái tranh nhau thu mua
hải sản. Những chiếc xe bồn chở dầu, đá vào tận cảng, chen lấn, tấp nập. Trời mưa phùn, từng
vũng nước đọng lại trên cầu cảng, xác vương vãi khiến mùi tanh bốc lên nồng nặc. Cảng Lạch
Hới đã bị bồi lắng. Nhiều tàu thuyền của ngư dân Thanh Hóa hoặc cải hoán hoặc đóng mới, đa
phần công suất từ 400 - 800CV. vậy, việc ra vào cảng đã khó khăn nay càng khó hơn. Cảng
Lạch Hới hiện chỉ nơi ra vào của các tàu trong tỉnh, không thu hút được tàu ngoại tỉnh đem hải
sản vào bờ buôn bán.
Nghề thuỷ sản đòi hỏi phải đầu tư nguồn vốn rất lớn, đặc biệt sở vật chất, trong khi phần
lớn ngư dân nước ta tập trung ở các làng nghề nghèo nên quy mô ngành thuỷ sản còn nhỏ.
Việc nuôi trồng thu sản cũng chưa được đổi mới, còn mang tính chất quảng canh nên năng
suất thấp.
Hệ thống các cảng chưa đáp ứng được yêu cầu không ngừng tăng của thị trường trong
ngoài nước.
Do sở vật chất chưa tiến bộ nên việc chế biến thuỷ sản, nâng cao chất lượng thương phẩm
cũng còn nhiều hạn chế.
Khó khăn lớn nhất hiện nay đối với ngành nuôi trồng thủy sản Việt Nam thiếu sở vật
chất k thuật, công nghệ lạc hậu, chưa có sự quan tâm đầu đúng mức, đặc biệt hệ thống chế
biến đông lạnh nên chưa tạo được những sản phẩm giá trị cao. Mặt khác, tình trạng ngư dân
khai thác “vô tội vạ” không theo mùa vụ, trong khi nguồn tài nguyên ven bờ đang cạn kiệt dần
do khai thác quá mức chưa coi trọng công tác tái tạo nguồn lợi thủy sản. Việc thực hiện
chương trình đánh bắt xa bờ tuy có mang lại một số kết quả quan trọng, nhưng nhiều tàu thuyền
do trang bị thiếu đồng bộ nên hiệu quả đạt thấp, chưa tương xứng với tiềm năng cũng như các
nguồn lực đầu tư. Việc chuyển đổi nghề cho lực lượng tàu thuyền công suất nhỏ đánh bắt ven bờ
khó khăn. Tình trạng đánh bắt ven bờ, hủy diệt nguồn lợi thủy sản chưa được ngăn chặn hiệu
quả.
Tổng hợp lại, điều kiện tự nhiên và kinh tế-xã hội có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của
ngành thủy sản Việt Nam. Việc khai thác và sử dụng hiệu quả điều kiện tự nhiên, cùng với việc
tăng cường đầu tư và phát triển kinh tế-xã hội sẽ góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản
phẩm và định vị Việt Nam trên thị trường quốc tế trong lĩnh vực này.
1.2. lược tình hình phát triển ngành thủy sản trên thế giới
Nhật Bản
[Type here]
Theo Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản Nhật Bản (MAFF), tổng sản lượng thủy sản
khai thác tự nhiên của Nhật Bản đã giảm 7,5% vào năm 2022 so với năm trước, đạt mức thấp kỷ
lục 3,85 triệu tấn.
Ba loài có sản lượng khai thác thấp kỷ lục bao gồm cá thu đao Thái Bình Dương, mực bay
Thái Bình Dương và bạch tuộc. Sản lượng đánh bắt cá thu đao năm 2022 đạt tổng cộng 18.400
tấn, giảm 8,4% so với năm trước đó nhưng giảm 97% so với mức thấp kỷ lục năm 1930. thu
đao đã từ một mặt hàng chủ lực giá rẻ ở Nhật Bản trở thành của hiếm trong thập kỷ qua.
Theo Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp Thủy sản Nhật Bản (MAFF), tổng sản lượng thủy sản
khai thác tự nhiên của Nhật Bản đã giảm 7,5% vào năm 2022
Sản lượng khai thác mực bay của Nhật Bản giảm xuống mức thấp kỷ lục là 29.700 tấn, giảm
8,3% so với m trước, nhưng tương tự như thu đao, giảm 95,6% so với mức đỉnh năm 1968.
Giá tăng 40% lên mức cao mới 823 JPY (5,69 USD hay 5,18 EUR)/kg. Trong khi đó, sản lượng
khai thác bạch tuộc đạt mức thấp kỷ lục 22.200 tấn.
EU tập trung vào chuyển đổi năng lượng thủy sản
Ủy ban Châu Âu (EC) đã bắt đầu hợp tác nhiều bên để khử cacbon trong ngành đánh bắt
nuôi trồng thủy sản nhằm đạt được mục tiêu khí hậu năm 2050.
EC đã tổ chức một hội nghị cấp cao về sáng kiến chuyển đổi năng lượng cho nghề cá của EU.
Liên minh các tổ chức phi chính phủ Oceana, ClientEarth và Our Fish kêu gọi EU và các bên
liên quan đến nghề cá đặt ra các mục tiêu đầy tham vọng để đạt được khả năng đánh bắt bền
vững và trung hòa carbon vào năm 2050. Sáng kiến chuyển đổi năng lượng và quan hệ đối tác
liên quan sẽ giúp ngành thủy sản giải quyết thách thức môi trường lớn nhất hiện nay, biến đổi khí
hậu.
Các tổ chức phi chính phủ lưu ý rằng thông điệp khoa học mới nhất của Hội đồng liên chính
phủ về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc rất rõ ràng: tất cả các ngành phải cắt giảm mạnh
lượng khí thải nhà kính.
Sự phụ thuộc của ngành thủy sản vào nhiên liệu hóa thạchtính dễ bị tổn thương về kinh tế
của ngành trước sự tăng vọt của giá năng lượng cho thấy sự cần thiết phải đẩy nhanh các biện
pháp để giảm sự phụ thuộc này và hướng tới năng lượng sạch. Để đạt được mục tiêu này, EC
đang khởi xướng một quan hệ đối tác nhiều bên và phát triển một lộ trình liên quan đến sáng
kiến chuyển đổi năng lượng cho nghề cá của EU.
Để đạt được hiệu quả, lộ trình từ sự hợp tác này phải có nội dung giải quyết tất cả các tác
động khí hậu của hoạt động đánh bắt cá. Cụ thể, giảm phát thải nhiên liệu trực tiếp; bảo vệ nguồn
carbon xanh, bao gồm các môi trường sống giàu carbon nhạy cảm, khỏi sự xáo trộn vật do ngư
cụ kéo đáy và bảo vệ cá khỏi đánh bắt thâm canh.
Ngoài việc yêu cầu ngành đánh bắt cắt giảm lượng khí thải trực tiếp bảo vệ carbon xanh,
EC phải đảm bảo rằng các quốc gia thành viên thực hiện tốt hơn chính sách thủy sản chung ưu
tiên phân bổ cơ hội đánh bắt cho các đội tàu ít tác động đến khí hậu hơn, bao gồm cả những đội
sử dụng có chọn lọc hơn, ít sử dụng năng lượng hơn và các kỹ thuật ít gây hại cho môi trường
[Type here]
sống hơn. Ngoài ra, Ủy ban phải cung cấp hướng dẫn cần thiếthỗ trợ tài chính để đồng hành
cùng ngư dân trong quá trình chuyển đổi này.
Xuất khẩu thủy sản của Nga 7 tháng đầu năm 2023
Liên minh Thủy sản Nga cho biết giá trị xuất khẩu thủy sản trong 7 tháng của Nga giảm 12%
so với cùng kỳ xuống còn 2,9 tỷ USD. Thuế quan mới của Anh và lệnh cấm nhập khẩu thuỷ sản
của Mỹ đã phần nào ảnh hưởng đến xuất khẩu thuỷ sản Nga. Tuy nhiên, khối lượng xuất khẩu
không đổi so với cùng kỳ năm ngoái ở mức 1,4 triệu tấn.
Trung Quốc chiếm 53% xuất khẩu thủy sản của Nga về khối lượng và 43% về giá trị. Hàn
Quốc chiếm 34% tổng lượng và 35% về gtrị, Lan lần lượt 8% và 14% Nhật Bản
1% và 3%.
minh thái đông lạnh chiếm 44% tổng khối lượng kim ngạch xuất khẩu về khối lượng (tăng
23% so với cùng kỳ) 21% về giá trị (tăng 26% so với cùng kỳ). Các thị trường xuất khẩu hàng
đầu là Trung Quốc, Hàn Quốc, Tajikistan và Uzbekistan.
Cá trích đông lạnh chiếm 19% tổng khối lượng (tăng 40% so với năm trước) 5% vgiá trị
(tăng 9% so với cùng kỳ). Trung Quốc, Hàn Quốc, Nigeria và Anh là những thị trường hàng đu.
minh thái phi chiếm 5% về khối lượng (giảm 42% so với cùng kỳ) 7% về giá trị
(giảm 48% so với cùng kỳ). Các thị trường chính là Hàn Quốc, Hà Lan và Đức.
tuyết Đại Tây Dương đông lạnh chiếm 5% về khối lượng (giảm 3% so với cùng kỳ) 7%
về giá trị (tăng 5% so với cùng kỳ). Hà Lan, Trung Quốc và Na Uy là ba thị trường xuất khẩu
hàng đầu.
Cá tuyết Thái Bình Dương đông lạnh chiếm 3% về khối lượng (giảm 17% so với cùng kỳ) và
5% về giá trị (giảm 25% so với cùng kỳ).c thị trường xuất khẩu hàng đầu Trung Quốc,n
Quốc, Indonesia và Đan Mạch.
Cua ghẹ chiếm 2% về khối lượng (tăng 19% so với cùng kỳ) và 22% về giá trị (tăng 21% so
với cùng kỳ). Khối lượng xuất khẩu sang Trung Quốc tăng 43% hàng năm, trong khi xuất khẩu
sang Hàn Quốc giảm 16% so với cùng kỳ và sang Nhật Bản giảm 37%.
Tình hình thủy sản của Cannada với hoạt động đánh bắt cua tuyết
Bộ Thủy sảnĐại dương Canada (DFO) đã kéo dài mùa cua tuyết các vùng
Newfoundland và Labrador.
Hoạt động khai thác cua tuyết bắt đầu muộn vào năm 2023 sau 6 tuần bế tắc về giá cả khiến
những người khai thác phải neo đậu tại bến.
Việc bắt đầu mùa khai thác muộn khiến ngư dân khó thể đánh bắt hết hạn ngạch năm 2023.
Mùa đánh bắt một số khu vực ban đầu dự kiến kết thúc vào ngày 30/6, nhưng DFO đã thông
báo gia hạn ở nhiều khu vực để người thu hoạch có thêm thời gian đánh bắt.
[Type here]
Giá cua tuyết tiếp tục tăng kể từ khi bắt đầu mùa đánh bắt. Tuy nhiên, do mùa khai thác bắt
đầu muộn nên tính đến ngày 23/6 chỉ có 22.340 tấn trong hạn ngạch 54.737 tấn đã được đánh
bắt.
Châu Á đóng góp 89% tổng sản lượng nuôi trông thủy sản thế giới
Trong hai thập kỷ gần đây, Châu Á là khu vực có sản lượng nuôi trồng thủy sản lớn nhất,
chiếm tới gần 89% thị phần sản lượng nuôi trồng thủy sản toàn cầu, đạt 72,8 triệu tấn năm 2018.
Trong đó, Trung Quốc là nước có sản lượng nuôi thủy sản lớn nhất thế giới, chiếm thị phần gần
58% tổng sản lượng nuôi thế giới, đạt hơn 47 triệu tấn (năm 2018). m nước sản lượng nuôi
cao nhất thế giới đều thuộc khu vực châu Á đang củng cố vị trí này trong nhiều năm. Tiếp sau
Trung Quốc lần lượt là Ấn Độ, Inđônêxia, Việt Nam và Bănglađét với sản lượng tương ứng năm
2018 là 7 triệu tấn, 5,4 triệu tấn, 4,1 triệu tấn và 2,4 triệu tấn.
Cũng trong thời gian này, châu Mỹ và châu Phi đã tăng tỷ trọng trong tổng sản lượng nuôi
trồng thủy sản thế giới với mức đóng góp tương ứng là 2,67% và 4,63%. Trong khi đó, tỷ trọng
y của châu Âu và châu Đại Dương lại có sự sụt giảm nhẹ so với những năm trước. Trong số
các nước đứng đầu về sản lượng nuôi trồng thủy sản, không kể Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônêxia,
Việt Nam, Bănglađét và Na Uy, Ai Cập và Chile đều đang củng cố thị phần về sản lượng nuôi
trồng thủy sản trong khu vực và trên thế giới để giữ được vị thế ở mức khác nhau trong suốt hai
thập kỷ qua. Tại khu vực châu Phi, ngoài Ai Cập, Nigiêria đã tăng đáng kể sản lượng nuôi để trở
thành quốc gia nuôi trồng thủy sản lớn thứ hai ở châu lục này, dù tổng sản lượng của châu lục
này vẫn còn chiếm thị phần khiêm tốn 2.7% tổng sản lượng nuôi trồng toàn cầu.
Theo số liệu thống kê của FAO, Trung Quốc là quốc gia có sản lượng nuôi trồng thủy sản sử
dụng cho mục đích thương mại nhiều hơn so với phần còn lại của thế giới cộng lại kể từ năm
1991. Từ năm 2016, nhiều những chính sách và chiến lược đã được chính phủ nước này đưa ra
nhằm tổ chức lại ngành nuôi trồng thủy sản theo hướng xanh và sạch hơn, cải thiện chất lượng
sản phẩm và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn tài nguyên cũng như phát triển kinh tế nông thôn,
thực hiện xóa đói giảm nghèo ở một số vùng trọng điểm. Do vậy, tốc độ tăng trưởng nuôi trồng
thủy sản của Trung Quốc có bị chậm lại, chỉ đạt mức 2,2% năm 2017 và 1,6% năm 2018. tỷ
trọng trong tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản thế giới của nước này đã giảm từ 59,9% năm
1995 xuống còn 57,9% vào năm 2018. Xu thế này được dự báo sẽ tiếp tục trong những năm tới.
Vài năm trở lại đây, một số nước trong tốp đầu về nuôi trồng thủy sản đều cho rằng giá thị
trường của loài thủy sản chủ lực đang giảm dần, phản ánh sự bão hòa của thị trường theo mùa vụ
và theo từng địa phương sản xuất lớn các đối tượng này.
Sản lượng nuôi trồng thủy sản thế giới theo châu lục một số nước đứng đầu
[Type here]
Đơn vị tính: Sản lượng: 1.000 tấn
Khu vực/Quốc gia tốp
đầu
1995
2000
2005
2010
2015
2018
Châu Phi
Sản
lượng
110,2
399,6
646,4
1.285,8
1.777,6
2.195,9
Tỷ trọng
0,45%
1,23%
1,46%
2,23%
2,44%
2,67%
- Ai Cp
71,8
340,1
539,7
919,6
1.174,8
1.561,5
- Nigiêria
16,6
25,7
56,4
200,5
316,7
291,3
Châu Mỹ
Sản
lượng
919,6
1.423,4
2.176,9
2.514,6
3.274,7
3.799,2
Tỷ trọng
3,77%
4,39%
4,91%
4,35%
4,50%
4,63%
- Chi
157,1
391,6
723,9
701,1
1.045,8
1.266,1
- Mỹ Latinh & vùng
Caribê (trừ Chilê)
282,8
447,4
784,5
1.154,5
1.615,5
1.873,6
- Bắc Mỹ
478,7
584,5
668,5
659,0
613,4
659,6
Châu Á
Sản
lượng
21.677,
1
28.420,
6
39.185,
9
51.228,
8
64.591,
8
72.812,
2
Tỷ trọng
88,90%
87,67%
88,46%
88,72%
88,76%
88,69%
- Trung Quốc
15.855,
7
21.522,
1
28.120,
7
35.513,
4
43.748,
2
47.559,
1
- Ấn Độ
1.658,8
1.942,5
2.967,4
3.785,8
5.260,0
7.066,0
- Inđônêxia
641,1
788,5
1.197,1
2.304,8
4.342,5
5.426,9
- Việt Nam
381,1
498,5
1.437,3
2.683,1
3.462,4
4.134,0
- nglađét
317,1
657,1
882,1
1.308,5
2.060,4
2.405,4
Châu Âu
Sản
lượng
1.581,4
2.052,6
2.137,3
2.527,0
2.948,6
3.082,6
Tỷ trọng
6,49%
6,33%
4,83%
4,38%
4,05%
3,75%
- Na Uy
277,6
491,3
661,9
1.019,8
1.380,8
1.354,9
- EU
1.182,6
1.402,5
1.272,4
1.263,3
1.263,7
1.364,4
[Type here]
Châu Đại
dương
Sản
lượng
94,2
121,5
151,5
187,8
178,5
205,3
Tỷ trọng
0,39%
0,37%
0,34%
0,33%
0,25%
0,25%
Toàn thế giới
24.382,
5
32.417,
7
44.298,
0
57.743,
9
72.771,
3
82.095,
1
Nguồn: FAO, 2020
Số liệu thống kê của FAO đã cho thấy, mức độ phát triển chung về nuôi trồng thủy sản đang
có sự khác nhau rất lớn giữa các khu vực điạ lý trên thế giới. Một số nước trong tốp đầu về nuôi
trồng thủy sản vẫn chiếm một tỷ trọng lớn trong sản lượng nuôi một số nhóm đối tượng thủy sản
trọng điểm. Một số nước đang phát triển như Trung Quốc, Ấn Độ và Inđônêxia chiếm ưu thế về
sản lượng nuôi trong vùng nước nội địa. Trong khi đó, một số nước thành viên của OECD (Tổ
chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế) như Na Uy, Chilê, Nhật Bản, Canađa Vương quốc Anh lại
là những nước mạnh về nuôi các loài cá biển, trong đó cá hồi nước lạnh là loài nuôi chủ lực.
Một số quốc gia vùng Đông Á Đông Nam Á tập trung vào nuôi trồng thủy sản ven biển
nhiều hơn là nuôi biển, nhất là những nước luôn phải đối mặt hàng năm với bão như Trung
Quốc, Phi-lip-pin và Việt Nam.
Trong nhóm giáp xác, một đối tượng đặc thù đối với nuôi trồng thủy sản ven biển, tôm biển
đối tượng nuôi chiếm ưu thế về sản lượng và là nguồn thu ngoại tệ quan trọng đối với các nước
đang phát triển ở châu Á và châu Mỹ Latinh.
Về nuôi nhuyễn thể hai mảnh vỏ, bên cạnh Trung Quốc là nước chiếm ưu thế với sản lượng
lớn nhất, đạt gần 13,4 triêu tấn năm 2018, một số nước khác cũng đã đóng góp đáng kể trong sản
lượng nhuyễn thể hai mảnh vỏ trên thế giới, bao gồm các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Tây Ban
Nha, Pháp và Italia.
Sản lượng tỷ trọng sản lượng nhuyễn thể hai mảnh vỏ trong tổng sản lượng nuôi thủy sản
của tốp các nước và vùng lãnh thổ năm 2018
Tổng sản lượng
thủy sản nuôi
Sản lượng lượng
nhuyễn thể hai mảnh
vỏ
Tỷ trọng
nhuyễn thể hai
mảnh vỏ
Đơn vị: 1.000 tấn
%
47.559,1
13.358,3
28,1
1.266,1
376,9
29,8
642,9
350,4
54,5
568,4
391,1
68,8
[Type here]
Mỹ
468,2
181,1
38,7
Tây Ban Nha
347,8
287,9
82,5
Đài Loan
283,2
75,8
26,8
Canada
191,3
43,2
22,6
Pháp
185,2
144,8
78,2
Italia
143,3
93,2
65,0
New Zealand
104,5
88,2
84,3
Nguồn: FAO, 2020
Các chuyên gia nhận định, nuôi trồng thủy sản đang ngày càng được chú trọng phát
triển tại các nước đang phát triển, nhất là khu vực châu Á, phần nào ở châu Phi và khu vực Mỹ
Latinh. Hiện tại, sản lượng thủy sản từ nuôi đã chiếm 46% tổng sản lượng thủy sản toàn thế giới
và 52% tổng lượng thủy sản sử dụng cho nhu cầu của con người. Xu thế này sẽ tiếp tục nhằm
đáp ứng nhu cầu tiêu thụ ngày càng tăng cùng với sự gia tăng dân số, nhất là ở các nước đang
phát triển ở nhiều khu vực trên thế giới.
2. Thực trạng tài nguyên thủy sản Việt Nam
Trong chiến lược phát triển chung của ngành thuỷ sản Việt Nam, các lĩnh vực khai thác và
nuôi trồng thuỷ sản được định hướng phục vụ xuất khẩu. Trong giai đoạn vừa qua, ngành thuỷ
sản đã chủ động đi trước trong hội nhập quốc tế, đẩy mạnh áp dụng khoa học và công nghệ tiên
tiến vào sản xuất, gắn sản xuất nguyên liệu với chế biến, xúc tiến thương mại, mở rộng thị
trường xuất khẩu. Ngành thuỷ sản đã được chú trọng đầu tư và phát triển khá toàn diện, giá trị
sản lượng liên tục tăng trong hơn 26 năm vừa qua. Dữ liệu cho thấy sản lượng thuỷ sản nước ta
đã tăng gấp hơn 6 lần trong giai đoạn 1995 2020, từ 1,3 triệu tấn trong năm 1995 lên 8,4 triệu
tấn trong năm 2020.
[Type here]
Trong năm 2021, bất chấp các khó khăn do đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp gây ra, sản
lượng thuỷ sản cả nước vẫn tăng trưởng gần 4% so với năm 2020 lên 8,73 triệu tấn. Xét về cơ
cấu, sản lượng khai thác thuỷ sản chiếm 44,5% và sản lượng nuôi trồng thuỷ sản chiếm 55,5%
tổng sản lượng thuỷ sản.
2.2. Thực trạng khai thác thủy sản
2.2.1. Khai thác biển
Vùng biển ven bờ và vùng biển ngoài khơi nước ta đều trữ lượng thuỷ hải sản rất lớn. Nghề
đánh bắt khai thác hải sản cũng là sinh kế truyền thống, lâu đời gắn bó với một bộ phận lớn dân
cư nước ta tại các vùng ven biển, đảo. Những yếu tố này tạo điều kiện thuận lợi cho ngành khai
thác thuỷ sản nước ta trở thành một trong những lĩnh vực mũi nhọn của quá trình phát triển kinh
tế biển.
biển: 2.038 loài với 4 nhóm sinh thái chủ yếu: nhóm cá nổi 260 loài, nhóm cá gần tầng
đáy 930 loài, nhóm đáy 502 loài và nhóm san hô 304 loài. Nhìn chung nguồn lợi biển
thành phần loài đa dạng, kích thước cá thể nhỏ, tốc độ tái tạo nguồn lợi cao. Cá biển vùng biển
VN thường sống phân tán, ít kết đàn; nếu có kết đàn thì kích thước đàn không lớn. Tỉ lệ đàn cá
nhỏ (có kích thước dưới 100 m 2 ) chiếm tới 82% tổng số đàn cá, các đàn cá vừa (200 m2 )
chiếm 15%, các đàn cá lớn (trên 1.000 m2 ) chỉ chiếm 0,1%. Số đàn cá mang đặc điểm sinh thái
vùng gần bờ chiếm 68%, các đàn cá mang tính đại dương chỉ chiếm 32%. Trong đó có 130 loài
có giá trị thương mại, 30 loài thường xuyên được đánh bắt.
Trữ lượng: 4,2 triệu tấn, sản lượng khai thác tối đa bền vững (maximum sustainable yield,
MSY): 1,7 triệu tấn/năm. Sự phân bố trữ lượng cá ở các vùng biển như sau:
Vịnh Bắc bộ: trữ lượng 681.200 tấn, khả năng cho phép khai thác 272.500 tấn/năm;
Vùng biển miền Trung: trữ lượng 606.400 tấn, khả ng cho phép khai thác 242.600 tấn/năm;
Vùng biển Ðông Nam bộ: trữ lượng 2.075.900 tấn, khả năng cho phép khai thác 830.400
tấn/năm;
[Type here]
Vùng biển Tây Nam bộ: trữ lượng 506.700 tấn, khả năng cho phép khai thác 202.300 tấn/năm.
Giáp xác 1640 loài, quan trọng nhất các loài trong họ tôm he, tôm hùm, cua biển với
khả năng khai thác khoảng 50.000-60.000 tấn/năm.
Nhuyễn thể trên 2500 loài, quan trọng nhất mực, sò, điệp, nghêu,... Khả năng khai thác
mực 60.000-70.000 tấn/năm, nghêu 100.000 tấn/năm.
Rong biển trên 650 loài, 90 loài giá trị kinh tế, trong đó rau câu, rong ý nghĩa
lớn. Trữ lượng rau câu, rong mơ khoảng 45.000-50.000 tấn tươi/năm.
Ngoài các loại hình tài nguyên đã kể trên, còn các tài nguyên đặc sản quý khác như: Bào
ngư, đồi mồi, ngọc trai,...
Nhà nước đã ban hành nhiều quy định về khai thác hải sản, như: hỗ trợ vay vốn tín dụng đóng
mới tàu cá khai thác xa bờ, hỗ trợ chi phí nhiên liệu, hỗ trợ bảo hiểm, hỗ trợ giảm tổn thất sau
thu hoạch, khắc phục rủi ro, thiên tai, hỗ trợ thiết bị thông tin, giám sát hoạt động của tàu cá trên
biển, tạo cơ sở phát triển nhanh đội tàu cá đánh bắt xa bờ và tăng nhanh sản lượng.
Đặc biệt, Nhà nước luôn chú trọng phân bổ nguồn vốn đầu tư công cho phát triển kết cấu hạ
tầng theo hướng hiện đại hoá, đồng bộ, như cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá, âu tàu,
trung tâm dịch vụ hậu cần nghề cá. Bên cạnh đó, các chính sách cũng hướng đến việc khuyến
khích tiếp cận và áp dụng những thành tựu của khoa học công nghệ trong quá trình khai thác.
Nhà nước cũng đã tiến hành đào tạo nguồn lao động chất lượng cao, trình độ chuyên môn cao
tại các cấp đại học, cao đẳng, nghề chuyên sâu… để phục vụ quá trình phát triển các hoạt động
khai thác hải sản.
Tính đến năm 2021, toàn quốc đã có 71 khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá trên địa bàn 27
tỉnh, thành phố ven biển đủ điều kiện hoạt động. Các khu neo đậu này có thể tiếp nhận tàu cá có
chiều dài từ 15m đến 60m vào tránh trú bão. Trong số 71 khu neo đậu tránh trú bão, có 16 khu
neo đậu cấp vùng, còn lại là các khu neo đậu cấp tỉnh. Có 3 khu neo đậu tránh trú bão đủ điều
kiện hoạt động có sức chứa 2.000 tàu cá bao gồm: Khu neo đậu vịnh Xuân Đài (Phú Yên), vịnh
Cam Ranh (Khánh Hòa), Cần Giờ (thành phố Hồ Chí Minh). khu vực tránh trú bão, âu tàu đã
giúp đảm bảo an toàn cho sức khoẻ, tính mạng và tài sản của ngư dân, cũng như là nơi xử lý,
khắc phục sửa chữa các sự cố tàu cá trong quá trình khai thác hải sản.
Ngoài ra, 92 cảng đã đi vào hoạt động 27 tỉnh, thành phố ven biển, đáp ứng được 82.000
tàu thuyền cập cảng làm hàng, và 49 cảng cá được chỉ định có đủ điều kiện chứng nhận, xác
nhận thủy sản khai thác.
Với những tác động tích cực từ chính sách, sản lượng khai thác hải sản tăng hơn gấp 4 lần
trong giai đoạn 1995 2020 với tăng trưởng trung bình 6%/năm, từ mức 929.000 tấn trong năm
1995 lên 3,85 triệu tấn trong năm 2020. Trong năm 2021, sản lượng khai thác hải sản đạt 3,92
triệu tấn, tăng 0,9% so với năm 2020 mặcchịu nhiều tác động tiêu cực từ đại dịch Covid-19.
[Type here]
Bốn khu vực tổng sản lượng khai thác hải sản lớn nhất cả nước hiện nay Bắc Trung Bộ,
Duyên hải miền Trung, Đông Nam Bộ, Đồng bằng Sông Cửu Long và Đồng bằng Sông Hồng.
Tính đến cuối năm 2020, toàn quốc 94.572 tàu cá; trong đó: 45.950 tàu dài 6-12m, 18.425
tàu dài 12-15m, 27.575 tàu dài 15-24m, 2.662 dài trên 24m. Cả nước có 4.227 tổ đội hoạt động
với 29.588 tàu cá, 179.601 lao động trên biển.
Xét về cấu đội tàu, nghề lưới kéo 17.078 tàu, chiếm 18,1% tổng số tàu hoạt động; nghề
lưới vây 7.212 tàu, chiếm 7,6%; nghề lưới 33.538, chiếm 35,5%; nghề câu 16.043 tàu, chiếm
17%; nghề khác 17.543 tàu, chiếm 18,5%; tàu dịch vụ hậu cần 3.158 chiếc, chiếm 3,3%.
Khu vực Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung hiện có số lượng tàu khai thác công suất
trên 90 CV lớn nhất lớn nhất với 19.440 chiếc vào năm 2018 và tăng lên 20.119 chiếc vào năm
2020. Đồng bằng sông Hồng tổng công suất các tàu công suất trên 90 CV thấp nhấp, chỉ có
599,2 nghìn CV năm 2018 và tăng lên 723,6 nghìn CV vào năm 2020.
[Type here]
2.3. Thực trạng nuôi trồng thủy sản
Việt Nam được nhận định có tiềm năng lớn để phát triển nuôi trồng thủy sản. Bờ biển dài n
3.260 km với 112 cửa sông, lạch đổ ra biển có khả năng phong phú nuôi thủy sản nước lợ, nước
mặn. ra, còn hàng nghìn đảo lớn nhỏ nằm rải rác dọc theo đường biển là những khu vực có thể
phát triển nuôi trồng thủy sản quanh năm. Trong vùng biển có hơn 3.000 đảo lớn nhỏ, trong đó
những đảo lớn dân như Vân Đồn, Cát Bà, Phú Quý, Côn Đảo, Phú Quốc, nhiều vịnh,
vũng, eo ngách, các dòng hải lưu, vừa là ngư trường khai thác hải sản thuận lợi, vừa là nơi có
nhiều điều kiện tự nhiên để phát triển nuôi trồng thủy sản biển và xây dựng các khu căn cứ hậu
cần nghề cá. Bên cạnh điều kiện tự nhiên vùng biển, Việt Nam còn có nguồn lợi thuỷ sản nước
ngọt ở trong 2.860 con sông lớn nhỏ, nhiều triệu hecta đất ngập nước, ao hồ, ruộng trũng, rừng
ngập mặn, đặc biệt là ở lưu vực sông Hồng và sông Cửu Long.
Nuôi trồng thu sản từ chỗ một nghề sản xuất phụ, mang tính chất tự cấp tự túc đã trở thành
một ngành sản xuất hàng hoá tập trung với trình độ kỹ thuật tiên tiến, phát triển ở tất cả các thuỷ
vực nước ngọt, nước lợ, nước mặn theo hướng bền vững, bảo vệ môi trường, hài hoá với các
ngành kinh tế khác.
Trong giai đoạn 1995 2020, sản lượng nuôi trồng thủy sản của Việt Nam đã tăng gấp 11 lần,
với tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm đạt 10%, tăng từ 415.000 tấn trong năm 1995 lên
gần 4,6 triệu tấn trong năm 2020.
Đặc biệt, diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản trong năm 2021 đã đạt 1,13 triệu ha với sản
lượng đạt 4,8 triệu tấn; diện tích nuôi trồng chỉ tăng 10,8% so với năm 2010 nhưng sản lượng lại
tăng tới 77,7% trong cùng kỳ. Nhờ vậy giá trị sản phẩm thu được trên một ha nuôi trồng thủy
sản tăng từ 103,8 triệu đồng/ha năm 2010 lên 241,2 triệu đồng/ha năm 2021. Đồng thời, điều này
chứng minh sự cải thiện quy trình nuôi liên tục và gia tăng năng suất bền vững.s
[Type here]
Cá tra và tôm thẻ chân trắng là hai nhóm sản phẩm trọng điểm của lĩnh vực nuôi trồng thuỷ
sản nước ta. Các sản phẩm tôm và cá tra đều được sản xuất tuân thủ các tiêu chuẩn quản lý chất
lượng quốc tế an toàn thực phẩm nghiêm ngặt như GlobalGAP, ASC và BAP…Trong đó, sản
lượng nuôi tôm nước lợ trong năm 2021 đạt 970.000 tấn, bao gồm 665.000 tấn tôm thẻ chân
trắng, 265.000 tấn tôm sú, còn lại là các loại tôm khác. Sản lượng thu hoạch cá tra trong năm
2021 đạt 1,525 triệu tấn. Tổng diện tích thả nuôi cá tra phát sinh trong năm 2021 ước đạt 5.000
ha, tăng 5,5% so với năm 2020.
Các địa phương ven biển hiện đã bước đầu chú trọng phát triển nuôi trồng thuỷ sản có giá trị
kinh tế cao, có thị trường tiêu thụ tốt, trên biển, đảo, như cá biển (Quảng Ninh, Nghệ An, Thanh
Hoá, Rịa Vũngu, Kiến Giang…), tôm hùm (Phú Yên, Khánh Hoà, Quảng Bình), nhuyễn
thể hai mảnh vỏ (Tiền Giang, Bến Tre, Nam Định, Thái Bình).
Công nghiệp chế biến thuỷ sản của Việt Nam được đánh giá mức khá trên thế giới. Các
sở quy mô công nghiệp gắn với xuất khẩu đều đạt quy chuẩn quốc gia về bảo đảm vệ sinh an
toàn thực phẩm, trong đó khoảng 500 sở đạt tiêu chuẩn xuất khẩu vào c thị trường khó
tính, như: Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ, Canada…
3. Các vấn đề về quản khai thác tài nguyên thủy sản Việt Nam
3.1. Các vấn đề về quản khai thác
a) Trong khai thác
Một trong những nguyên nhân dẫn đến những hiện trạng xấu của tài nguyên thủy sản
Việt Nam hiện nay các vấn đề liên quan đến khai thác thủy hải sản trong cả i trường tự
nhiên và tư nhân. Theo Tổng Cục Thủy Sản (2021):
- Hệ thống cơ sở dữ liệu về nguồn lợi thủy sản chưa hoàn thiện, cập nhật đầy đủ và liên
tục.
[Type here]
- Nguồn lợi thủy sản tự nhiên vẫn chưa dấu hiệu phục hồi, các hoạt động thả giống tài
tạo nguồn lợi thusản chưa đủ về số lượng nên khả năng phục hồi quần đàn chưa cao; công tác
bảo vệ khu vực thả loài thủy sản sau khi thả chưa hiệu quả; việc đánh giá hiệu qucủa hoạt
động thả tái tạo nguồn lợi thủy sản chưa được thực hiện.
- Thực thi pháp luật để bảo vệ môi trường sống của các loài thu sản đặc biệt tại khu vực
tập trung sinh sản, khu vực thuỷ sản còn non tập trung sinh sống chưa rõ nét và hiệu quả.
- Quỹ Tái tạo nguồn lợi thuỷ sản triển khai chưa hiệu quả; Quỹ Bảo vệ và phát triển nguồn
lợi thủy sản chưa được thành lập.
- Cường lực khai thác ngày càng gia tăng, đặc biệt cường lực khai thác vùng biển ven bờ
trong khi nhận thức của ngư dân vbảo vệ nguồn lợi thủy sản chưa cao, tình trạng vi phạm các
quy định trong khai thác ngày càng tinh vi, dưới nhiều hình thức làm suy giảm nguồn lợi thủy
sản và phá hoại môi trường sống của các loài thủy sản ở một số địa phương, ngư trường.
- Tình trạng thiếu lao động khai thác thủy sản cả về số lượng chất lượng nhiều địa
phương, nhất là các lao động lành nghề, những lao động đã qua đào tạo.
b) Trong quản
- Bên cạnh những tác động trong vấn đkhai thác tài nguyên thủy sản, mặt khác, công tác
quản lý của các cấp, các cơ quan chức năng liên quan đến quản lý tài nguyên thủy sản còn thiếu
hiệu quả, yếu kém.
- Những hạn chế, yếu kém nêu trên xuất phát từ những nguyên nhân khách quan và chủ
quan: nhận thức và ý thức trách nhiệm của một số cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên chưa
đầy đủ; bộ máy quản lý nhà nước còn bất cập, hệ thống pháp luật, công cụ quản lý thiếu đồng
bộ, còn phân tán, chồng chéo, thực thi kém hiệu quả; thiếu nguồn lực để thực hiện các chương
trình, đề án, nhiệm vụ đề ra; nhiều quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội chưa được
lồng ghép, thực hiện gắn với yêu cầu ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, bảo
vệ môi trường làm gia tăng tác động tiêu cực của thiên tai tới tài nguyên thủy sản; vẫn còn tình
trạng thu hút đầu tư thiếu chọn lọc, không cân nhắc, xem xét các yếu tố, tiêu chí về môi trường
làm ảnh hưởng tới tài nguyên thủy sản; việc triển khai nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công
nghệ liên quan đến phát triển, bảo tồn tài nguyên thủy sản còn chậm; công tác thanh tra, kiểm
tra thực thi pháp luật về tài nguyên, bảo vệ môi trường chưa đáp ứng yêu cầu.
3.2. Nguyên nhân
Nghề Việt Nam nghề đa loài, đa ngư cụ, quy nhỏ, phát triển tự phát, không
theo quy hoạch, chưa kiểm soát đƣợc cường lực khai thác theo nghề, vùng biển dẫn đến cường
lực khai thác chưa phù hợp với trữ lượng, khả ng cho phép khai thác tối đa nguồn lợi thủy sản.
Nguồn kinh phí đầu tư cho ngành thủy sản còn hạn chế, đặc biệt thiếu kinh phí cho hoạt
động điều tra, đánh giá nguồn lợi thủy sản, đầu sở hạ tầng cảng cá, khu neo đậu tránh trú
bão, ...
Tổ chức sản xuất vẫn mang tính nhỏ lẻ, chưa sự liên kết theo chuỗi dẫn đến năng suất,
hiệu quả chưa cao.
[Type here]
Đổi mới công nghệ còn chậm, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật công nghệ mới hiệu quả chưa
cao, mang tính tự phát, thiếu đồng bộ. Bảo quản sau thu hoạch còn kém, tổn thất sau thu hoạch
còn cao.
Thiếu chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề từ các nghề xâm hại sang các nghề thân thiện với
môi trường và nguồn lợi thủy sản, đặc biệt là phát triển sinh kế bền vững cho cộng đồng ngư dân
sống trong và xung quanh khu bảo tồn biển.
Chưa có chiến lược dài hạn về đào tạo, phát triển và thu hút nguồn nhân lực trong lĩnh vực
khai thác bảo vệ nguồn lợi dẫn đến thiếu cán bộ quản lý, nghiên cứu về khai thác bảo vệ
nguồn lợi thủy sản.
Công tác tổ chức hỗ trợ cộng đồng tham gia bảo vệ nguồn lợi thusản, thực hiện đồng
quản lý trong bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản chưa đồng bộ.
Công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho cộng đồng ngư dân, các tổ chức
kinh tế, xã hội mặc đã nhiều cố gắng nhưng vẫn còn hạn chế; việc bố trí, đảm bảo các
nguồn lực cho hoạt động tuyên truyền mới chỉ đƣợc quan tâm ở mức độ thấp.
Nhận thức của các cấp, các ngành, địa phương và ngƣời dân, doanh nghiệp về vị trí, vai trò
của bảo vệ, bảo tồn và phát triển nguồn lợi thủy sản đối với sự phát triển bền vững ngành kinh tế
biển chưa đầy đủ; một số địa phương chưa quan tâm đến công c bảo vệ, bảo tồn phát triển
nguồn lợi thủy sản; phát triển kinh tế chưa đi đôi với bảo tồn, bảo vệ các loài thủy sản và hệ sinh
thái thủy sinh.
Tài liệu tham khảo
Tổng cục Thủy sản (2021). Báo cáo tóm tắt quy hoạch bảo vệ khai thác nguồn lợi thủy sản
thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, Bộ Nông nghiệp phát triển Nông thôn, Nội.
4. Giải pp
Trong những năm qua, ngành thủy sản đã phát triển tạo ra nhiều sản phẩm, hàng hóa xuất
khẩu có giá trị kinh tế cao đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế xã hội, bảo vệ an ninh chủ
quyền biển đảo. Tuy nhiên, tình trạng khai thác quá mức đã đang khiến nguồn lợi thủy sản
dần cạn kiệt, tác động không nhỏ đến kế hoạch phát triển ngành thủy sản nguồn sinh kế của
cộng đồng ngư dân ven biển. Chính vì vậy, việc bảo tồn nguồn lợi thủy sản càng cấp bách hơn.
Mặc nước ta được thiên nhiên ưu đãi về nguồn lợi sinh vật biển mà đặc biệt nguồn lợi
hải sản, nhưng trong thời gian vừa qua do sự phát triển nhanh của phương tiện đánh bắt làm
nguồn lợi thủy sản giảm sút nghiêm trọng, nguyên nhân chủ yếu khai thác quá mức. Vẫn còn
tình trạng khai thác với các nghề mang tính hủy diệt các loài sinh vật biển.
[Type here]
Để bảo vệ nguồn lợi hải sản, cần thực hiện những biện pháp sau:
- Hạn chế đánh bắt ở khu vực gần bờ vào mùa tôm, cá sinh sản, mở rộngng khai thác xa bờ
- Thả một số loài hải sản qhiếm vào thủy vực nội địa và vũng, vịnh ven biển để tăng nguồn
lợi hải sản và ngăn chặn giảm sút trữ lượng của những loài hải sản này.
- Thiết lập các khu bảo tồn biển, bảo vệ, phục hồi các hệ sinh thái và phát triển nguồn li.
- Nghiêm cấm đánh bắt hải sản bằng những phương pháp mang tính hủy diệt như thuốc nổ,
hóa chất, điện...
- Bảo vệ môi trường biển, nơi sinh sống của các loài hải sản.
Đồng thời, việc ngăn chặn tình trạng khai thác thủy sản trái phép cần sự phối hợp chặt chẽ
giữa các cấp, ngành trong quản lý vật liệu nổ, chất độc; làm tốt công tác tuyên truyền trong nhân
dân và tăng cường tuần tra, kiểm soát; chính sách hỗ trợ để các hộ ngư dân chuyển đổi ngành
nghề khai thác ven bờ kém hiệu quả sang các ngành nghề khác hiệu quả hơn. Cụ thể:
4.1. Đối với Chính phủ các Bộ, ban ngành Trung ương
Xây dựngthực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện, trọng tâm, trọng điểm,
sớm đưa nước ta trở thành quốc gia trong khu vực mạnh về kinh tế biển, gắn với bảo đảm quốc
phòng, an ninh và hợp tác quốc tế.
Hiện đại hóa hệ thống quan trắc khí tượng thủy văn, hệ thống dự báo khí tượng thủy vănhệ
thống cung cấp, ứng dụng thông tin khí tượng thủy văn biến đổi khí hậu nhằm đảm bảo mạng
lưới quan trắc đồng bộ; nâng cao khả năng dự báo khí hậu, cảnh báo sớm các hiện tượng khí hậu
cực đoan ngày càng gia tăng do biến đổi khí hậu phục vụ phát triển kinh tế hội, phòng tránh
thiên tai.
Nghiên cứu tái cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện biến đổi khí hậu, nước biển
dâng, đặc điểm sinh thái của các vùng và địa phương; phát triển ứng dụng công nghệ sinh học,
áp dụng quy trình sản xuất tiên tiến để hướng tới nền nông nghiệp hiện đại.
Xây dựng hệ thống kiểm soát, phòng chống dịch bệnh y trồng vật nuôi trong điều kiện
biến đổi khí hậu.
Điều chỉnh quy hoạch, bảo tồn và phát triển rừng phòng hộ, rừng ngập mặn ven biển, phục hồi
rừng phòng hộ đầu nguồn, tăng cường quản lý, bảo vệ và phòng chống cháy rừng.
[Type here]
Xây dựng hoàn thiện chế, chính sách, pháp luật nhằm phát huy sự tham gia của các
thành phần kinh tế, các tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ trong
các hoạt động bảo vệ tài nguyên thủy sản nói riêng và tài nguyên biển nói chung.
Nâng cấp hệ thống chăm sóc sức khỏe cộng đồng trong điều kiện biến đổi khí hậu, kiện toàn
hệ thống giám sát bệnh tật nhằm giảm nguy cơ, quy xuất hiện các dịch bệnh mới, đảm bảo vệ
sinh an toàn thực phẩm.
Xây dựng triển khai chương trình truyền thông, nâng cao nhận thức cộng đồng về khai thác
tài nguyên thủy sản.
Quy hoạch quản lý tổng hợp tài nguyên thủy sản; bảo vệ, quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả
và tiết kiệm tài nguyên thủy sản.
Tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho người dân về ý thức bảo vệ tài nguyên biểnđào tạo
nguồn nhân lực.
4.2. Đối với các địa phương
Các địa phương cần quan điểm phát triển đảm bảo cho việc bảo vệ nguồn lợi thủy sản đồng
thời thích ứng biến đổi khí hậu, với những quan điểm cụ thể như sau:
Phát triển nuôi trồng thủy sản phải đặt trong mối quan hệ lợi ích của các ngành kinh tế khác,
tránh xung đột với việc phát triển các ngành kinh tế khác...
Phát động các đề án nhằm khuyến khích tính sáng tạo của địa phương trong việc phòng,
chống và hạn chế tác động của biến đổi khí hậu đến ngành nuôi trồng thủy sản.
Thực hiện tốt các điều chỉnh, chỉ đạo của Chính phủ, các cấp Bộ, ban ngành Trung ương.
Tăng cường thanh tra, kiểm tra thường xuyên nhằm hạn chế tối đa các hành vi vi phạm y
ảnh hưởng đến tài nguyên biển, xlý theo đúng quy trình do Chính phủ, các cấp Bộ, ban ngành
TW nhằm đảm bảo tính răn đe.
Các giải pháp tính kỹ thuật đối với nuôi trồng thủy
Thích ứng với BĐKH
Thích ứng phổ biến nhất với điều kiện nhiệt độ cực đoan như hiện nay thể áp dụng đó
bằng cách điều chỉnh mùa vụ nuôi, tránh những khoảng thởi gian nhiệt độ cực đoan quá nóng
hoặc quá lạnh. Theo kinh nghiệm miền Bắc, mùa vụ thả tôm tốt nhất sau Tết Thanh minh
hẳng năm, khi đó, nhiệt độ tương đối ổn định, tôm thả tlệ sống cao, đồng thời tôm vụ 2 thì
thu hoạch trước mùa o (Tháng 9 hằng năm) để tránh thiệt hại. Miền Bắc cần chú ý hạn chế
phát triển cá rô phi và các loài cá chịu lạnh kém vào mua đông, đặc biệt là miền núi phía Bắc.
Cạnh đó, điều chỉnh đối tượng nuôi, thay nuôi tôm dễ mẫn cảm với nhiệt độ hoặc tôm
thẻ chân trắng với mức độ cao rủi ro lớn, nhiều nông dân Thanh Hóa, Thái Bình, Nam Định,
Thừa Thiên-Huế hay Cà Mau, Bạc Liêu,... đã sáng tạo nuôi xen ghép tôm với các đối tượng khác
nữa như phi, đối, rau câu,... Khi đó, nếu chẳng may bất cứ lý do gì, tôm chết hoặc
nhiễm bệnh, chậm lớn thì nông dân vẫn thể thu hoạch các đối tượng khác không sợ bị phá
[Type here]
sản. Bên cạnh đó, nông dân cần xem xét thả nuôi những loài khả năng chịu đựng được
những biên độ nhiệt cao. dụ, biên nhiệt độ của chình (1-38 độ C) hoặc ít mẫn cảm với nhiệt
độ thay đổi, dựa trên kinh nghiệm hoặc khuyến cáo khoa học.
Công nghệ sinh học chọn giống
Hiện, nhiều loại thủy sản thể sống được cả trong môi trường nước ngọt nước lợ (cá
phi, chẽm, chình,...) hoặc sống trong nước ngọt nhưng thường di sang nước lợ (cá bông lau,
cá kèo, cá dứa,...); những đối tượng này cần được các nhà khoa học ưu tiên nghiên cứu.
Quản nguồn nước chất lượng nưc
Trại nuôi cần ao lắng ao xnước thải, để thể quản lý nguồn nước giữa các ao khi
tình huống xấu. Cùng đó, cần các thiết bị hỗ trợ k thuật như quạt nước, máy sục khí, hệ
thống máy bơm và ống rút xả,...
Quản thức ăn
Nhiệt độ quá cao hoặc quá thấp, phần lớn các loài thủy sản nước ấm đều giảm ăn. vậy, cần
theo dõi cho ăn chặt chẽ bằng nhá/vó, giảm cho ăn vào những thời điểm này.
C. KẾT LUẬN
Tài ngun thủy sản đóng vai trò cùng quan trọng đối với nước ta cả về mặt kinh tế môi
trường. Về mặt kinh tế, ngành khai thác, nuôi trồngđánh bắt thủy hải sản đóng góp không nhỏ
vào quy mô của nền kinh tế của nước ta, đưa ngành thủy sản của Việt Nam trở thành ngành mũi
nhọn đưa thủy sản Việt Nam được biết đến rộng rãi trên toàn thế giới; đối với môi trường,
thủy sản góp phần đa dạng sinh học, đặc biệt với một số loài thủy sản đặc hữu của việt nam
như đồi mồi, rùa xanh,...
Nắm bắt được những lợi ích kể trên, bài tiểu luận cũng đã đưa ra được thực trạng của tài nguyên
thủy sản Việt Nam, qua đó, nêu lên được những điểm bất cập, những hạn chế trong việc khai
thác quản lý thủy sản Việt Nam bằng cách tổng hợp phân tích những dữ liệu thứ cấp
được công bố rộng rãi cả những dữ liệu được lưu hành nội bộ. Từ những điểm yếu đã được
liệt kê, bài tiểu luận cũng đã đưa ra được một số giải pháp với mỗi điểm yếu, tuy nhiên, đ
những giải pháp đã được kể trên thực sự mang lại được hiệu quả, cần có sự vào cuộc đồng bộ từ
các quan Bộ, ban, ngành, các quan chức năng thẩm quyền liên quan và sự thay đổi trong
ý thức chung của nhân dân Việt Nam nói chung và người dân cuộc sống gắn liền với thủy sản
nói riêng.
Với những thành tựuđà phát triển không ngừng của nước ta, hi vọng rằng trong quá trình phát
triển của ngành thủy sản nói riêng và kinh tế Việt Nam nói chung sẽ khắc phục được những điểm
yếu và phát huy tối đa những lợi thế để đưa nền kinh tế Việt Nam trở thành nước phát triển, 1
điểm đến hứa hẹn với các nhà đầu tư.
[Type here]
[Type here]
| 1/27

Preview text:

BÀI TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: THỰC TRẠNG TÀI NGUYÊN THỦY SẢN VẤN ĐỀ QUẢN LÝ, KHAI
THÁC TÀI NGUYÊN THỦY SẢN TẠI VIỆT NAM
A. TÍNH CẤP THIẾT CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Đặt
vấn đề
Việt Nam là một quốc gia có bờ biển dài 3260km trải dài từ Bắc xuống Nam, với các vùng
biển và thềm lục địa, trung bình cứ 100km đất liền thì có 1km bờ biển, đây được đánh giá là tiềm
năng lớn để thúc đẩy phát triển thủy sản. Nhờ vào các điều kiện địa lý và tự nhiên ở Việt Nam đã
tạo nên nhiều hệ sinh thái vô cùng đa dạng và phong phú về thủy sản. Do số lượng sản phẩm
phong phú và đa dạng, mặt hàng thủy sản nước ta có cơ hội cạnh tranh cao trên thị trường tiêu dùng quốc tế.
Được biết thủy sản là ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước và ngành khai thác thủy sản nước
ta những năm qua đã phát triển nhanh (tổng sản lượng thủy sản năm 2022 là 9 triệu tấn); có cơ
cấu và hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, năng suất, chất lượng, hiệu quả cao; có thương hiệu uy
tín, khả năng cạnh tranh và hội nhập quốc tế; đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế xã hội,
đời sống vật chất tinh thần của người dân không ngừng nâng cao, góp phần bảo đảm quốc phòng,
an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền biển đảo Tổ quốc.
Tuy nhiên, trong các năm trở lại đây hoạt động khai thác thủy sản đã nảy sinh nhiều vấn đề
đáng phải suy nghĩ như: công tác quản lý tàu cá; nghề khai thác thủy sản phát triển tự phát không
kiểm soát được; tổ chức sản xuất trên biển mang tính nhỏ lẻ, phân tán, tự phát chưa có sự liên kết
và hợp tác trong tổ chức sản xuất; công nghệ khai thác, công nghệ bảo quản sản phẩm sau thu
hoạch trên tàu còn lạc hậu so với các nước trong khu vực; sự cạnh tranh trong khai thác ngày
càng tăng; tình trạng đánh bắt bất hợp pháp vẫn diễn ra đã làm cạn kiệt nguồn lợi hải sản vùng
biển ven bờ; thiếu thông tin, cơ sở dữ liệu nghề cá để phục vụ cho công tác quản lý, quy hoạch
khai thác hải sản; đầu tư cơ sở hạ tầng còn dàn trải và thiếu đồng bộ…. Mặt khác, hệ thống tổ
chức quản lý khai thác và thực thi pháp luật chưa được triển khai chặt chẽ, chưa được hoàn thiện
dẫn đến vi phạm pháp luật và tồn tại tình trạng khai thác trái phép, không báo cáo và không theo
quy định (IUU). Đây là một thách thức rất lớn, tác động tiêu cực đến sự phát triển của kinh tế
biển nói chung, đòi hỏi cần phải có những chính sách toàn diện và đột phá.
Hiện nay hệ thống sinh thái thủy sản bị cạn kiệt và ô nhiễm phóng xạ, sử dụng hóa chất nông
nghiệp và chất thải công nghiệp không đúng quy trình. Mặt khác sự thay đổi khí hậu cũng gây ra
nhiều mất mát trong sản phẩm thủy sản. Môi trường tăng nhiệt độ và biến đổi có thể khiến cho
sự phát triển các loài thủy sản không ổn định. Điều này gây ảnh hưởng tiêu cực đến nguồn tài
nguyên thủy sản nước ta cũng như các nước trên thế giới.
Ngành nuôi trồng thủy sản đã đạt được nhiều thành quả đáng tự hào nhưng những khó khăn,
thách thức cũng rất lớn. Những vướng mắc, thách thức đó chính là lực cản vô hình khắc chế
ngành nuôi trồng thủy sản Việt Nam trong hành trình tăng tốc, vươn tầm ra thế giới.
Để khắc phục những tồn tại nêu trên cần kiểm soát được hoạt động tàu cá trên biển, khai thác
trên cơ sở sử dụng và phát huy hiệu quả các nguồn lực, các hoạt động hỗ trợ phục vụ cho khai
thác hải sản để phát triển bền vững, gắn khai thác hải sản với bảo vệ nguồn lợi và môi trường [Type here]
sinh thái, đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng biển đảo của tổ quốc và sự hội nhập quốc tế,
việc nghiên cứu xây dựng các mô hình quản lý đối với hoạt động khai thác thủy sản là hết sức cần thiết.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Nhận biết rõ những thuận lợi, khó khăn mà ngành thủy sản Việt Nam gặp phải, từ đó đề xuất
ra các giải pháp thích hợp để giải quyết khó khăn, góp phần làm tăng lên sự phát triển của ngành này trong nền kinh tế. 2.2. Mục tiêu cụ thể
Nghiên cứu thực trạng của ngành thủy sản ở Việt Nam nói riêng và tình hình phát triển ngành
thủy sản trên thế giới nói chung.
Nghiên cứu về vấn đề khai thác, quản lý tài nguyên thủy sản Việt Nam.
Tìm hiểu và đề xuất giải pháp giải quyết những khó khăn; nâng cao hiệu quả quản lý, khai
thác của ngành thủy sản Việt Nam.
3. Đối tượng nghiên cứu
Tài nguyên ngành thủy sản ở Việt Nam.
Các vấn đề liên quan đến quản lý, khai thác thủy sản tại Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích và tổng hợp. Phương pháp so sánh.
Phương pháp thu thập tài liệu.
Từ đó rút ra những kết luận cần thiết để đánh giá xu hướng phát triển và những thay đổi ngành thủy sản Việt Nam. B. NỘI DUNG
1. Các
sở luận chung
1.1. Tổng quan ngành thủy sản a) Khái niệm
Tài nguyên thủy sản là tài nguyên sinh vật (động vật, thực vật hay vi sinh vật) sống ở các
vùng nước tự nhiên, có giá trị kinh tế (chế biến, sử dụng), giá trị khoa học (nghiên cứu đa dạng sinh học).
Ngành thủy sản là một ngành kinh tế kỹ thuật đặc thù,bao gồm nhiều lĩnh vực hoạt động mang
tính chất công nghiệp, nông nghiệp, thương mại và dịch vụ, trong khi các ngành khai thác, đóng [Type here]
sửa tàu thuyền cá, sản xuất ngư lưới cụ, các thiết bị chế biến và bảo quản thủy sản trực thuộc
ngành công nghiệp nhóm A, ngành chế biến thủy sản thuộc ngành công nghiệp nhóm B, ngành
thương mại và nhiều hoạt động dịch vụ hậu cần như cung cấp vật tư và chuyên chở đặc dụng
thuộc lĩnh vực dịch vụ thì nuôi trồng thủy sản lại mang nhiều đặc tính của ngành nông nghiệp. b) Phân loại
-Nghề nuôi trồng thủy sản rất đa dạng tùy thuộc theo từng chuyên ngành trong đó, có hơn bốn
loại lĩnh vực chính, tương ứng với các sản phẩm khác nhau : nhóm động vật thân mềm, nhóm
tảo, nhóm giáp xác (tôm, cua) và các loại cá.
-"Thủy sản" là "một thuật ngữ chỉ chung về những nguồn lợi", sản vật đem lại cho con người
từ môi trường nước và được con người khai thác, nuôi trồng thu hoạch sử dụng làm thực phẩm,
nguyên liệu hoặc bày bán trên thị trường. Trong các loại thủy sản, thông dụng nhất là hoạt động
đánh bắt, nuôi trồng và khai thác các loại cá.
-Sự phân lại các loài thủy sản được dựa theo đặc điểm cấu tạo loài tính ăn và môi trường sống và khí hậu.
Nhóm (fish): Là những động vật nuôi có đặc điểm cá rõ rệt, chúng có thể là cá nước ngọt
hay cá nước lợ. Ví dụ: cá tra, cá bống tượng, cá chình.
Nhóm giáp xác (crustaceans): Phổ biến nhất là nhóm giáp xác mười chân, trong đó tôm và
cua là các đối tượng nuôi quan trọng. Ví dụ: Tôm càng xanh, tôm sú, tôm thẻ, tôm đất, cua biển.
Nhóm động vật thân mềm (molluscs): Gồm các loài có vỏ vôi, nhiều nhất là nhóm hai mảnh
vỏ và đa số sống ở biển (nghêu, sò huyết, hàu, ốc hương) và một số ít sống ở nước ngọt (trai, trai ngọc).
Nhóm rong (Seaweeds): Là các loài thực vật bậc thấp, đơn bào, đa bào, có loài có kích thước
nhỏ, nhưng cũng có loài có kích thước lớn như Chlorella, Spirulina, Chaetoceros,Sargassium (Alginate), Gracillaria.
Nhóm sát (Reptilies) lưỡng (Amphibians): Bò sát là các động vật bốn chân có
màng ối(ví dụ: cá sấu) Lưỡng cư là những loài có thể sống cả trên cạn lẫn dưới nước (ví dụ: ếch,
rắn) được nuôi để lấy thịt, lấy da dùng làm thực phẩm hoặc dùng trong mỹ nghệ như đồi mồi (lấy
vây), ếch (lấy da và thịt), cá sấu (lấy da).
c) Vai trò vị trí của ngành thủy sản trong nền kinh tế quốc dân Vị trí:
Ngành Thuỷ sản Việt Nam đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế đất nước.
Quy mô của Ngành Thuỷ sản ngày càng mở rộng và vai trò của Ngành Thuỷ sản cũng tăng lên
không ngừng trong nền kinh tế quốc dân. [Type here]
Từ cuối thập kỷ 80 đến nay, tốc độ tăng trưởng GDP của Ngành Thuỷ sản cao hơn các ngành
kinh tế khác cả về trị số tuyệt đối và tương đối, đặc biệt so với ngành có quan hệ gần gũi nhất là
nông nghiệp. Giai đoạn 5 năm 1995-2000, GDP của Ngành Thuỷ sản đã tăng từ 6.664 tỷ đồng
lên 14.906 tỷ đồng, tức là gấp 2 lần và năm 2003 ước tính đạt 24.327 tỷ đồng (theo giá thực tế).
Tỷ trọng GDP của Ngành Thuỷ sản trong GDP của toàn bộ nền kinh tế năm 1990 chưa đến 3%,
năm 2000 tỷ lệ đó là 4% và tỷ lệ này vẫn tiếp tục được giữ vững. Trái lại, GDP của ngành nông
nghiệp đã giảm xuống tương đối: năm 1990, tỷ trọng GDP của ngành nông nghiệp là 38,7% đến
năm 2000 đã giảm xuống chỉ còn 24,3% và năm 2003 còn 16,7%.
Ngành Thuỷ sản là một ngành kinh tế kĩ thuật đặc thù bao gồm nhiều lĩnh vực hoạt động
mang những tính chất công nghiệp, nông nghiệp, thương mại và dịch vụ, cơ cấu thành một hệ
thống thống nhất có liên quan chặt chẽ và hữu cơ với nhau. Trong khi các ngành khai thác, đóng
sửa tàu thuyền cá, sản xuất ngư lưới cụ, các thiết bị chế biến và bảo quản thuỷ sản trực thuộc
công nghiệp nhóm A, ngành chế biến thuỷ sản thuộc nhóm công nghiệp B, ngành thương mại và
nhiều hoạt động dịch vụ hậu cần như cung cấp vật tư và chuyên chở đặc dụng thuộc lĩnh vực
dịch vụ thì nuôi trồng thuỷ sản lại mang nhiều đặc tính của ngành nông nghiệp
Vì vai trò ngày càng quan trọng của Ngành Thuỷ sản trong sản xuất hàng hoá phục vụ nhu cầu
tiêu dùng thực phẩm trong nước và thu ngoại tệ, từ những năm cuối của thập kỉ 90, Chính phủ đã
có những chú ý trong qui hoạch hệ thống thuỷ lợi để không những phục vụ tốt cho phát triển
nông nghiệp mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển mạnh về nuôi trồng thuỷ sản, đặc biệt
đối với vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Kể từ năm 2000, nuôi thuỷ sản nước lợ đã chuyển
mạnh từ phương thức nuôi quảng canh sang quảng canh cải tiến, bán thâm canh và thâm canh.
Nhiều mô hình nuôi thâm canh theo công nghệ nuôi công nghiệp đã được áp dụng, các vùng nuôi
tôm lớn mang tính chất sản xuất hàng hoá lớn được hình thành, sản phẩm nuôi mặn lợ đã mang
lại giá trị xuất khẩu rất cao cho nền kinh tế quốc dân và thu nhập đáng kể cho người lao động.
Một bộ phận dân cư các vùng ven biển đã giàu lên nhanh chóng, rất nhiều gia đình thoát khỏi
cảnh đói nghèo nhờ nuôi trồng thuỷ hải sản. Trên thế giới, ước tính có khoảng 150 triệu người
sống phụ thuộc hoàn toàn hay một phần vào Ngành Thuỷ sản. Ngành Thuỷ sản được coi là ngành
có thể tạo ra nguồn ngoại tệ lớn cho nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Xuất khẩu thuỷ sản của
Việt Nam đã trở thành hoạt động có vị trí quan trọng hàng nhất nhì trong nền kinh tế ngoại
thương Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu vẫn gia tăng hàng năm và năm 2004 đạt gần 2,4 tỷ USD,
vượt 20% so với kế hoạch, đưa chế biến thuỷ sản trở thành một ngành công nghiệp hiện đại, đủ
năng lực hội nhập, cạnh tranh quốc tế và dành vị trí thứ 10 trong số nước xuất khẩu thuỷ sản
hàng đầu trên thế giới • Vai trò: -
Cung cấp thực phẩm, tạo nguồn dinh dưỡng cho mọi người dân Việt Nam
50% sản lượng đánh bắt hải sản ở vùng biển Bắc Bộ, Trung Bộ và 40% sản lượng đánh bắt ở
vùng biển Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ được dùng làm thực phẩm cho nhu cầu của người dân
Việt Nam. Nuôi trồng thuỷ sản phát triển rộng khắp, tới tận các vùng sâu vùng xa, góp phần
chuyển đổi cơ cấu thực phẩm trong bữa ăn của người dân Việt Nam, cung cấp nguồn dinh dưỡng
dồi dào. Từ các vùng đồng bằng đến trung du miền núi, tất cả các ao hồ nhỏ đều được sử dụng [Type here]
triệt để cho các hoạt động nuôi trồng thuỷ sản. Trong thời gian tới, các mặt hàng thủy sản sẽ ngày
càng có vị trí cao trong tiêu thụ thực phẩm của mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam. -
Đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm
Ngành Thuỷ sản là một trong những ngành tạo ra lương thực, thực phẩm, cung cấp các sản
phẩm tiêu dùng trực tiếp. Ở tầm vĩ mô, dưới giác độ ngành kinh tế quốc dân, Ngành Thuỷ sản đã
góp phần đảm bảo an ninh lương thực thực phẩm, đáp ứng được yêu cầu cụ thể là tăng nhiều
đạm và vitamin cho thức ăn. Có thể nói Ngành Thuỷ sản đóng vai trò quan trọng trong việc cung
cấp thực phẩm cho người dân, không những thế nó còn là một ngành kinh tế tạo cơ hội công ăn
việc làm cho nhiều cộng đồng nhân dân, đặc biệt ở những vùng nông thôn và vùng ven biển.
Những năm gần đây, đặc biệt từ năm 2001 đến năm 2004, công tác khuyến ngư đã tập trung vào
hoạt động trình diễn các mô hình khai thác và nuôi trồng thuỷ sản, hướng dẫn người nghèo làm
ăn. Hiện tại, mô hình kinh tế hộ gia đình được đánh giá là đã giải quyết cơ bản công ăn việc làm
cho ngư dân ven biển. Bên cạnh đó, mô hình kinh tế tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân đã góp
phần giải quyết việc làm cho nhiều lao động ở các vùng, nhất là lao động nông nhàn ở các tỉnh
Nam Bộ và Trung Bộ. Nghề khai thác thuỷ sản ở sông Cửu Long được duy trì đã tạo công ăn
việc làm cho 48.000 lao động ở 249 xã ven sông. -
Xoá đói giảm nghèo
Ngành Thuỷ sản đã lập nhiều chương trình xóa đói giảm nghèo bằng việc phát triển các mô
hình nuôi trồng thuỷ sản đến cả vùng sâu, vùng xa, không những cung cấp nguồn dinh dưỡng,
đảm bảo an ninh thực phẩm mà còn góp phần xoá đói giảm nghèo. Tại các vùng duyên hải, từ
năm 2000, nuôi thuỷ sản nước lợ đã chuyển mạnh từ phương thức nuôi quảng canh sang quảng
canh cải tiến, bán thâm canh và thâm canh, thậm chí nhiều nơi đã áp dụng mô hình nuôi thâm
canh theo công nghệ nuôi công nghiệp. Các vùng nuôi tôm rộng lớn, hoạt động theo quy mô sản
xuất hàng hoá lớn đã hình thành, một bộ phận dân cư các vùng ven biển đã giàu lên nhanh
chóng, rất nhiều gia đình thoát khỏi cảnh đói nghèo nhờ nuôi trồng thuỷ sản. Hoạt động nuôi
trồng thuỷ sản ở các mặt nước lớn như nuôi cá hồ chứa cũng đã phát triển, hoạt động này luôn
được gắn kết với các chương trình phát triển trung du miền núi, các chính sách xoá đói giảm
nghèo ở vùng sâu vùng xa. -
Chuyển dịch cấu nông nghiệp nông thôn
Việt Nam có đầy đủ điều kiện để phát triển một cách toàn diện một nền kinh tế biển. Nếu như
trước đây việc lấn ra biển, ngăn chặn những ảnh hưởng của biển để mở rộng đất đai canh tác là
định hướng cho một nền kinh tế nông nghiệp lúa nước thì hiện nay việc tiến ra biển, kéo biển lại
gần sẽ là định hướng khôn ngoan cho một nền kinh tế công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Trong
những thập kỉ qua, nhiều công trình hồ thuỷ điện đã được xây dựng, khiến nước mặn ngoài biển
thâm nhập sâu vào vùng cửa sông, ven biển. Đối với nền canh tác nông nghiệp lúa nước thì nước
mặn là một thảm hoạ, nhưng với nuôi trồng thuỷ sản nước mặn, nước lợ thì nước mặn được nhận
thức là một tiềm năng mới, vì hoạt động nuôi trồng thuỷ sản có thể cho hiệu quả canh tác gấp
hàng chục lần hoạt động canh tác lúa nước. Tại nhiều vùng nông thôn, phong trào nuôi cá ruộng
trũng phát triển mạnh mẽ. Đây là hình thức nuôi cho năng suất và hiệu quả khá lớn, được đánh
giá là một trong những hướng chuyển đổi cơ cấu trong nông nghiệp, góp phần làm tăng thu nhập [Type here]
cho người lao động và xoá đói giảm nghèo ở nông thôn. Tính đến nay, tổng diện tích ruộng trũng
có thể đưa vào nuôi cá theo mô hình cá - lúa là 446.151 ha. Năm 2001, diện tích đã nuôi được
xác định là 239.379 ha, con số này vẫn tiếp tục tăng trong những năm tiếp theo. -
Tạo nghề nghiệp mới, tăng hiệu quả sử dụng đất đai
Ao hồ nhỏ là một thế mạnh của nuôi trồng thuỷ sản ở các vùng nông thôn Việt Nam. Người
nông dân sử dụng ao hồ nhỏ như một cách tận dụng đất đai và lao động. Hầu như họ không phải
chi phí nhiều tiền vốn vì phần lớn là nuôi quảng canh. Tuy nhiên, ngày càng có nhiều người nông
dân tận dụng các mặt nước ao hồ nhỏ trong nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt với các hệ thống nuôi
bán thâm canh và thâm canh có chọn lọc đối tượng cho năng suất cao như mè, trắm, các loại cá
chép, trôi Ấn Độ và các loài cá rô phi đơn tính. -
Nguồn xuất khẩu quan trọng
Trong nhiều năm liền, Ngành Thuỷ sản luôn giữ vị trí thứ 3 hoặc thứ 4 trong bảng danh sách
các ngành có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn nhất đất nước. Ngành Thuỷ sản còn là một trong 10
ngành có kim ngạch xuất khẩu đạt trên một tỷ USD. Năm 2005, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt gần 2,7 tỷ USD. -
Đảm bảo chủ quyền quốc gia, đảm bảo an ninh quốc phòng vùng sâu, vùng xa, nhất là
ở vùng biển và hải đảo Ngành Thuỷ sản luôn giữ vai trò quan trọng trong bảo vệ an ninh, chủ
quyền trên biển, ổn định xã hội và phát triển kinh tế các vùng ven biển, hải đảo, góp phần thực
hiện chiến lược quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Năm 1997, Thủ tướng chính phủ đã
ký Quyết định số 393/TTg phê duyệt Chương trình cho vay vốn tín dụng đầu tư đóng tàu khai
thác hải sản xa bờ. Thực hiện quyết định này, từ năm 1997 đến năm 1999, Tổng cục Đầu tư và
Phát triển đã cho vay 867.871 triệu đồng, tương đương với 802 con tàu. Năm 2000, Thủ tướng
Chính phủ ký Quyết định số 64/2000/QĐ-TTg về việc sửa đổi quy chế quản lý và sử dụng vốn
tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các dự án đóng mới, cải hoán tàu đánh bắt tàu dịch
vụ và đánh bắt hải sản xa bờ, tổng số vốn đã duyệt cho vay từ năm 2000 đến năm 2005 là
182.372 triệu đồng để đóng mới 166 con tàu. Việc gia tăng số lượng tàu lớn đánh bắt xa bờ
không chỉ nhằm khai thác các tiềm năng mới, cung cấp nguyên liệu cho chế biến mà còn góp
phần bảo vệ an ninh quốc phòng trên các vùng biển của nước ta. Tính đến nay, rất nhiều cảng cá
quan trọng đã được xây dựng theo chương trình Biển đông hải đảo, cụ thể là: Cô Tô (Quảng
Ninh), Bạch Long Vĩ và Cát Bà (Hải Phòng), Hòn Mê (Thanh Hoá), Cồn Cỏ (Quảng Trị), Lí Sơn
(Quảng Nam), Phú Quí (Bình Thuận), Côn Đảo (Bà Rịa-Vũng Tàu), Hòn Khoai (Cà Mau), Nam
Du, Thổ Chu và Phú Quốc (Kiên Giang). Hệ thống cảng cá tuyến đảo này sẽ được hoàn thiện
đồng bộ để phục vụ sản xuất nghề cá và góp phần bảo vệ chủ quyền an ninh vùng biển của tổ quốc.
1.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của thủy sản Việt Nam 1.1.1.
Vị trí địa lãnh thổ
Vị trí địa lý tạo ra những thuận lợi cho việc phát triển ngành thủy sản một cách toàn diện. Đối
với các nước giáp biển, trong đó bao gồm cả Việt Nam thì ngành nuôi trồng và khai thác thủy sản
trở thành ngành thế mạnh. Các khu vực như vũng, vịnh nước nông, đầm là những nơi vô cùng [Type here]
thích hợp để nuổi trồng các loài hải sản với giá trị kinh tế cao. Mặt khác, diện tích vùng biển lớn
cũng cung cấp nhiều nguồn thủy hải sản tự nhiên, phong phú và đa dạng. 1.1.2.
Điều kiện tự nhiên Thuận lợi
Nước ta có bờ biển dài với chiều dài 3260 km và có vùng đặc quyền kinh tế rộng.
Nguồn hải sản rất phong phú với tổng trữ lượng hải sản khoảng 3,9 – 4,0 triệu tấn và cho phép
khai thác hằng năm khoảng 1,9 triệu tấn. Biển nước ta có hơn 2000 loài cá, 1647 loài giáp xác
với hơn 100 loài tôm, hơn 2500 loài nhuyễn thể, rong biển hơn 600 loài và nhiều đặc sản khác
như hải sâm, bào ngư, sò, điệp …
Nước ta có nhiều ngư trường, trong đó có 4 ngư trường trọng điểm là: ngư trường Cà Mau –
Kiên Giang, ngư trường Ninh Thuận – Bình Thuận – Bà Rịa +Vũng Tàu, ngư trường Hải Phòng
– Quảng Ninh và ngư trường quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa.
Dọc bờ biển có nhiều vũng – vịnh, những bãi triều, đầm phá, các dải rừng ngập mặn thuận lợi
cho nuôi trồng thủy sản nước lợ. Ở nhiều vùng biển ven các đảo, vũng, vịnh có điều kiện thuận
lợi cho nuôi thuỷ sản nước mặn (nuôi trên biển).
Nước ta có nhiều sông suối, kênh rạch, ao hồ, và các ô trũng ở vùng đồng bằng có khả năng nuôi
trồng hải sản nước ngọt. Trên cả nước ta đã sử dụng hơn 850 nghìn ha diện tích mặt nước để nuôi trồng thủy sản Khó khăn
Nguồn nước là một trong những yếu tố quyết định cho sự thành công cho phát triển nuôi trồng
thủy sản. Hiện tượng nắng nóng kéo dài đã làm cạn kiệt nguồn nước ngọt, làm tăng mức độ bốc
hơi nước trong các ao nuôi. Miền Trung là nơi có số ngày nắng, mức độ bốc hơi nước lớn nhất cả
nước, cho nên hạn hán xảy ra nghiêm trọng nhất. Nhiều ao nuôi tôm cá đã bị bỏ hoang vì không
có nước để cung cấp trong quá trình nuôi. Một số ao nuôi chưa đến thời gian thu hoạch đã bị cạn
kiệt nguồn nước trong ao, nên người dân phải thu hoạch sớm hoặc bỏ nuôi. Tôm cá chưa đến
kích thước thương phẩm bán với giá quá rẻ hoặc làm thức ăn cho gia súc và gia cầm.
Nắng lắm ắt phải mưa nhiều, gây ra hiện tượng lũ lụt ở nhiều nơi. Lượng mưa trung bình có
xu hướng tăng dần qua các năm. Lũ lụt đã ảnh hưởng rất nghiêm trọng ở nhiều địa phương trong
cả nước. Nhiều nơi có thể được xem là nơi thuận lợi phát triển nếu hiện tượng khô hạn xảy ra,
nhưng chính nơi đây là nơi dễ bị rủi ro nhất nếu lũ lụt xảy ra. Khô hạn có thể cung cấp nước,
nhưng lũ lụt thì rất khó chống. Nhiều ao nuôi đã được chuẩn bị bao đê kiên cố, cao để chống
nước dân cao vào mùa mưa, nhưng không thể chống được lũ lụt. Đối với nghề nuôi thủy sản mặn
lợ, độ mặn lại là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng và phát triển của loài nuôi. Khi xảy ra
mưa lớn, độ mặn trong các ao nuôi giảm xuống đột ngột vượt ra khỏi ngưỡng chịu đựng làm cho [Type here]
tôm cá bị sốc, chết hoặc chậm lớn. Lũ xãy ra còn làm cho độ mặn các vực nước gần bờ như các
cửa sông giảm xuống, nghề nuôi nhuyễn thể, tôm cá, rong đề bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Vùng biển nước ta chịu ảnh hưởng khá nhiều bởi thiên tai, mỗi năm có tới 9 – 10 cơn bão xuất
hiện ở Biển Đông và khoảng 30 – 35 đợt gió mùa Đông Bắc, nhiều lần gây thiệt hại về người và
tài sản của ngư dân, thiên tai nhiều làm hạn chế số ngày ra khơi. Do nằm trong vành đai nhiệt đới
nên Việt Nam phải chịu ảnh hưởng của hiện tượng bão và áp thấp nhiệt đới. Bão và áp thấp nhiệt
đới gây ra mưa to gió lớn. Bão đã gây ra những cơn sóng giữ dội có thể tàn phá hoàn toàn hệ
thống đê bao của các ao nuôi, lồng bè trên biển, vì vậy tổn thất là điều khó tránh khỏi. Sự tàn phá
của bão và áp thấp nhiệt đới còn ảnh hưởng đến hệ sinh thái của vùng nuôi – cần thời gian dài
mới có thể phục hồi. So với sự thay đổi nhiệt độ, bão và áp thấp nhiệt đới thường khó có thể dự
đoán, ngược lại mức độ ảnh hưởng của nó ảnh hưởng nghiêm trọng hơn rất nhiều. Có thể nói
rằng, hiện tượng khắc nghiệt của biến đổi khí hậu này ảnh hưởng rất lớn đến mọi vấn đề không
chỉ riêng nuôi trồng thủy sản. Đối với vùng ven biển, nơi mà cộng đồng cư dân sống chủ yếu dựa
vào hoạt động nuôi trồng thủy sản, nếu bão xảy ra thì thiệt hại về kinh tế là điều khó tránh khỏi,
sinh kế của họ sẽ bị mất.
Một số vùng ven biển, do hoạt động của con người làm môi trường bị suy thoái, môi trường
nước bị ô nhiễm nguồn lợi thủy sản suy giảm nhiều.
Ví dụ: Trên địa bàn tỉnh Cà Mau hiện nay có gần 4000 ha nuôi tôm công nghiệp sản
lượng chiếm gần ¼ cả nước, tuy nhiên theo đánh giá của các ngành chức năng thì có khoảng 70
% các đầm tôm công nghiệp xả thải thẳng ra môi trường ảnh hưởng rất lớn đến môi trường gây
ra tình trạng trì trệ kém phát triển cho tình hình chung của ngành thủy sản 1.1.3.
Điều kiện về kinh tế - hội Thuận lợi
Nhân dân và ngư dân nước ta có kinh nghiệm, truyền thống đánh bắt và nuôi trồng thủy sản. Dân
cư, lao động vừa là lực lượng sản xuất vừa là nguồn tiêu thụ sản phẩm
Nhu cầu về các mặt hàng thuỷ sản trong và ngoài nước tăng nhiều trong những năm gần đây theo
đó mà thị trường tiêu thụ được mở rộng. Điều này tạo điều kiện tốt cho việc tiêu thụ các sản
phẩm thủy sản, đồng thời thúc đẩy sự đầu tư và mở rộng quy mô sản xuất ngành thủy sản.
Nhà nước có những đổi mới trong chính sách khuyến khích phát triển các dịch vụ thuỷ sản và
mở rộng chế biến thuỷ sản.
➢ Chính sách hỗ trợ và khích lệ từ chính phủ và các tổ chức kinh tế, xã hội có thể giúp
ngành thủy sản tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi. Các chính sách như hỗ trợ vốn,
giảm thuế, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ, đào tạo kỹ thuật...giúp thúc đẩy sự phát triển
và cạnh tranh của ngành thủy sản. [Type here]
Các phương tiện phục vụ cho ngành thủy sản như tàu thuyền, ngư cụ được trang bị ngày càng tốt
hơn, ngày càng được đổi mới hơn.
Tiến bộ khoa học kĩ thuật làm thay đổi cách thức sản xuất, tăng năng suất, sản lượng, giá trị nông sản…
Cơ sở hạ tầng ( hệ thống điện, nước, giao thông…) ngày càng được hoàn thiện
• Sự phát triển công nghệ và nâng cao năng lực sản xuất cũng góp phần quan trọng vào
sự phát triển của ngành thủy sản. Công nghệ tiên tiến sẽ giúp cải thiện hiệu suất, chất
lượng sản phẩm, đồng thời hạn chế các rủi ro về dịch bệnh và ô nhiễm môi trường. Khó khăn
Cơ sở vật chất: thiếu đồng bộ, còn lạc hậu
Tàu thuyền tuy được cải thiện nhưng phần đa vẫn còn thô sơ, lạc hậu, hệ thống cảng cá chưa
đáp ứng được yêu cầu
Ví dụ: Cảng cá Lạch Hới (TP Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa) bị xuống cấp, bồi lắng, tàu thuyền
chỉ có thể ra vào cảng vào thời điểm thủy triều lên.
Cảng Lạch Hới một buổi sáng [Type here]
Nhiều tàu cá nội tỉnh cập cảng, chuyển tôm cá lên bờ. Trên bờ, thương lái tranh nhau thu mua
hải sản. Những chiếc xe bồn chở dầu, đá vào tận cảng, chen lấn, tấp nập. Trời mưa phùn, từng
vũng nước đọng lại trên cầu cảng, xác cá vương vãi khiến mùi tanh bốc lên nồng nặc. Cảng Lạch
Hới đã bị bồi lắng. Nhiều tàu thuyền của ngư dân Thanh Hóa hoặc cải hoán hoặc đóng mới, đa
phần có công suất từ 400 - 800CV. Vì vậy, việc ra vào cảng đã khó khăn nay càng khó hơn. Cảng
Lạch Hới hiện chỉ là nơi ra vào của các tàu trong tỉnh, không thu hút được tàu ngoại tỉnh đem hải sản vào bờ buôn bán.
Nghề thuỷ sản đòi hỏi phải đầu tư nguồn vốn rất lớn, đặc biệt là cơ sở vật chất, trong khi phần
lớn ngư dân nước ta tập trung ở các làng nghề nghèo nên quy mô ngành thuỷ sản còn nhỏ.
Việc nuôi trồng thuỷ sản cũng chưa được đổi mới, còn mang tính chất quảng canh nên năng suất thấp.
Hệ thống các cảng cá chưa đáp ứng được yêu cầu không ngừng tăng của thị trường trong và ngoài nước.
Do cơ sở vật chất chưa tiến bộ nên việc chế biến thuỷ sản, nâng cao chất lượng thương phẩm
cũng còn nhiều hạn chế.
Khó khăn lớn nhất hiện nay đối với ngành nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam là thiếu cơ sở vật
chất kỹ thuật, công nghệ lạc hậu, chưa có sự quan tâm đầu tư đúng mức, đặc biệt là hệ thống chế
biến đông lạnh nên chưa tạo được những sản phẩm có giá trị cao. Mặt khác, tình trạng ngư dân
khai thác “vô tội vạ” không theo mùa vụ, trong khi nguồn tài nguyên ven bờ đang cạn kiệt dần
do khai thác quá mức mà chưa coi trọng công tác tái tạo nguồn lợi thủy sản. Việc thực hiện
chương trình đánh bắt xa bờ tuy có mang lại một số kết quả quan trọng, nhưng nhiều tàu thuyền
do trang bị thiếu đồng bộ nên hiệu quả đạt thấp, chưa tương xứng với tiềm năng cũng như các
nguồn lực đầu tư. Việc chuyển đổi nghề cho lực lượng tàu thuyền công suất nhỏ đánh bắt ven bờ
khó khăn. Tình trạng đánh bắt ven bờ, hủy diệt nguồn lợi thủy sản chưa được ngăn chặn có hiệu quả.
Tổng hợp lại, điều kiện tự nhiên và kinh tế-xã hội có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của
ngành thủy sản Việt Nam. Việc khai thác và sử dụng hiệu quả điều kiện tự nhiên, cùng với việc
tăng cường đầu tư và phát triển kinh tế-xã hội sẽ góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản
phẩm và định vị Việt Nam trên thị trường quốc tế trong lĩnh vực này.
1.2. Sơ lược tình hình phát triển ngành thủy sản trên thế giới
Nhật Bản [Type here]
Theo Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản Nhật Bản (MAFF), tổng sản lượng thủy sản
khai thác tự nhiên của Nhật Bản đã giảm 7,5% vào năm 2022 so với năm trước, đạt mức thấp kỷ lục 3,85 triệu tấn.
Ba loài có sản lượng khai thác thấp kỷ lục bao gồm cá thu đao Thái Bình Dương, mực bay
Thái Bình Dương và bạch tuộc. Sản lượng đánh bắt cá thu đao năm 2022 đạt tổng cộng 18.400
tấn, giảm 8,4% so với năm trước đó nhưng giảm 97% so với mức thấp kỷ lục năm 1930. Cá thu
đao đã từ một mặt hàng chủ lực giá rẻ ở Nhật Bản trở thành của hiếm trong thập kỷ qua.
Theo Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp Thủy sản Nhật Bản (MAFF), tổng sản lượng thủy sản
khai thác tự nhiên của Nhật Bản đã giảm 7,5% vào năm 2022
Sản lượng khai thác mực bay của Nhật Bản giảm xuống mức thấp kỷ lục là 29.700 tấn, giảm
8,3% so với năm trước, nhưng tương tự như cá thu đao, giảm 95,6% so với mức đỉnh năm 1968.
Giá tăng 40% lên mức cao mới 823 JPY (5,69 USD hay 5,18 EUR)/kg. Trong khi đó, sản lượng
khai thác bạch tuộc đạt mức thấp kỷ lục 22.200 tấn. •
EU tập trung vào chuyển đổi năng lượng thủy sản
Ủy ban Châu Âu (EC) đã bắt đầu hợp tác nhiều bên để khử cacbon trong ngành đánh bắt và
nuôi trồng thủy sản nhằm đạt được mục tiêu khí hậu năm 2050.
EC đã tổ chức một hội nghị cấp cao về sáng kiến chuyển đổi năng lượng cho nghề cá của EU.
Liên minh các tổ chức phi chính phủ Oceana, ClientEarth và Our Fish kêu gọi EU và các bên
liên quan đến nghề cá đặt ra các mục tiêu đầy tham vọng để đạt được khả năng đánh bắt bền
vững và trung hòa carbon vào năm 2050. Sáng kiến chuyển đổi năng lượng và quan hệ đối tác
liên quan sẽ giúp ngành thủy sản giải quyết thách thức môi trường lớn nhất hiện nay, biến đổi khí hậu.
Các tổ chức phi chính phủ lưu ý rằng thông điệp khoa học mới nhất của Hội đồng liên chính
phủ về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc rất rõ ràng: tất cả các ngành phải cắt giảm mạnh
lượng khí thải nhà kính.
Sự phụ thuộc của ngành thủy sản vào nhiên liệu hóa thạch và tính dễ bị tổn thương về kinh tế
của ngành trước sự tăng vọt của giá năng lượng cho thấy sự cần thiết phải đẩy nhanh các biện
pháp để giảm sự phụ thuộc này và hướng tới năng lượng sạch. Để đạt được mục tiêu này, EC
đang khởi xướng một quan hệ đối tác nhiều bên và phát triển một lộ trình liên quan đến sáng
kiến chuyển đổi năng lượng cho nghề cá của EU.
Để đạt được hiệu quả, lộ trình từ sự hợp tác này phải có nội dung giải quyết tất cả các tác
động khí hậu của hoạt động đánh bắt cá. Cụ thể, giảm phát thải nhiên liệu trực tiếp; bảo vệ nguồn
carbon xanh, bao gồm các môi trường sống giàu carbon nhạy cảm, khỏi sự xáo trộn vật lý do ngư
cụ kéo đáy và bảo vệ cá khỏi đánh bắt thâm canh.
Ngoài việc yêu cầu ngành đánh bắt cá cắt giảm lượng khí thải trực tiếp và bảo vệ carbon xanh,
EC phải đảm bảo rằng các quốc gia thành viên thực hiện tốt hơn chính sách thủy sản chung và ưu
tiên phân bổ cơ hội đánh bắt cho các đội tàu ít tác động đến khí hậu hơn, bao gồm cả những đội
sử dụng có chọn lọc hơn, ít sử dụng năng lượng hơn và các kỹ thuật ít gây hại cho môi trường [Type here]
sống hơn. Ngoài ra, Ủy ban phải cung cấp hướng dẫn cần thiết và hỗ trợ tài chính để đồng hành
cùng ngư dân trong quá trình chuyển đổi này. •
Xuất khẩu thủy sản của Nga 7 tháng đầu năm 2023
Liên minh Thủy sản Nga cho biết giá trị xuất khẩu thủy sản trong 7 tháng của Nga giảm 12%
so với cùng kỳ xuống còn 2,9 tỷ USD. Thuế quan mới của Anh và lệnh cấm nhập khẩu thuỷ sản
của Mỹ đã phần nào ảnh hưởng đến xuất khẩu thuỷ sản Nga. Tuy nhiên, khối lượng xuất khẩu
không đổi so với cùng kỳ năm ngoái ở mức 1,4 triệu tấn.
Trung Quốc chiếm 53% xuất khẩu thủy sản của Nga về khối lượng và 43% về giá trị. Hàn
Quốc chiếm 34% tổng lượng và 35% về giá trị, Hà Lan lần lượt là 8% và 14% và Nhật Bản là 1% và 3%.
Cá minh thái đông lạnh chiếm 44% tổng khối lượng kim ngạch xuất khẩu về khối lượng (tăng
23% so với cùng kỳ) và 21% về giá trị (tăng 26% so với cùng kỳ). Các thị trường xuất khẩu hàng
đầu là Trung Quốc, Hàn Quốc, Tajikistan và Uzbekistan.
Cá trích đông lạnh chiếm 19% tổng khối lượng (tăng 40% so với năm trước) và 5% về giá trị
(tăng 9% so với cùng kỳ). Trung Quốc, Hàn Quốc, Nigeria và Anh là những thị trường hàng đầu.
Cá minh thái phi lê chiếm 5% về khối lượng (giảm 42% so với cùng kỳ) và 7% về giá trị
(giảm 48% so với cùng kỳ). Các thị trường chính là Hàn Quốc, Hà Lan và Đức.
Cá tuyết Đại Tây Dương đông lạnh chiếm 5% về khối lượng (giảm 3% so với cùng kỳ) và 7%
về giá trị (tăng 5% so với cùng kỳ). Hà Lan, Trung Quốc và Na Uy là ba thị trường xuất khẩu hàng đầu.
Cá tuyết Thái Bình Dương đông lạnh chiếm 3% về khối lượng (giảm 17% so với cùng kỳ) và
5% về giá trị (giảm 25% so với cùng kỳ). Các thị trường xuất khẩu hàng đầu là Trung Quốc, Hàn
Quốc, Indonesia và Đan Mạch.
Cua ghẹ chiếm 2% về khối lượng (tăng 19% so với cùng kỳ) và 22% về giá trị (tăng 21% so
với cùng kỳ). Khối lượng xuất khẩu sang Trung Quốc tăng 43% hàng năm, trong khi xuất khẩu
sang Hàn Quốc giảm 16% so với cùng kỳ và sang Nhật Bản giảm 37%. •
Tình hình thủy sản của Cannada với hoạt động đánh bắt cua tuyết
Bộ Thủy sản và Đại dương Canada (DFO) đã kéo dài mùa cua tuyết ở các vùng Newfoundland và Labrador.
Hoạt động khai thác cua tuyết bắt đầu muộn vào năm 2023 sau 6 tuần bế tắc về giá cả khiến
những người khai thác phải neo đậu tại bến.
Việc bắt đầu mùa khai thác muộn khiến ngư dân khó có thể đánh bắt hết hạn ngạch năm 2023.
Mùa đánh bắt ở một số khu vực ban đầu dự kiến kết thúc vào ngày 30/6, nhưng DFO đã thông
báo gia hạn ở nhiều khu vực để người thu hoạch có thêm thời gian đánh bắt. [Type here]
Giá cua tuyết tiếp tục tăng kể từ khi bắt đầu mùa đánh bắt. Tuy nhiên, do mùa khai thác bắt
đầu muộn nên tính đến ngày 23/6 chỉ có 22.340 tấn trong hạn ngạch 54.737 tấn đã được đánh bắt.
Châu Á đóng góp 89% tổng sản lượng nuôi trông thủy sản thế giới
Trong hai thập kỷ gần đây, Châu Á là khu vực có sản lượng nuôi trồng thủy sản lớn nhất,
chiếm tới gần 89% thị phần sản lượng nuôi trồng thủy sản toàn cầu, đạt 72,8 triệu tấn năm 2018.
Trong đó, Trung Quốc là nước có sản lượng nuôi thủy sản lớn nhất thế giới, chiếm thị phần gần
58% tổng sản lượng nuôi thế giới, đạt hơn 47 triệu tấn (năm 2018). Năm nước có sản lượng nuôi
cao nhất thế giới đều thuộc khu vực châu Á và đang củng cố vị trí này trong nhiều năm. Tiếp sau
Trung Quốc lần lượt là Ấn Độ, Inđônêxia, Việt Nam và Bănglađét với sản lượng tương ứng năm
2018 là 7 triệu tấn, 5,4 triệu tấn, 4,1 triệu tấn và 2,4 triệu tấn.
Cũng trong thời gian này, châu Mỹ và châu Phi đã tăng tỷ trọng trong tổng sản lượng nuôi
trồng thủy sản thế giới với mức đóng góp tương ứng là 2,67% và 4,63%. Trong khi đó, tỷ trọng
này của châu Âu và châu Đại Dương lại có sự sụt giảm nhẹ so với những năm trước. Trong số
các nước đứng đầu về sản lượng nuôi trồng thủy sản, không kể Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônêxia,
Việt Nam, Bănglađét và Na Uy, Ai Cập và Chile đều đang củng cố thị phần về sản lượng nuôi
trồng thủy sản trong khu vực và trên thế giới để giữ được vị thế ở mức khác nhau trong suốt hai
thập kỷ qua. Tại khu vực châu Phi, ngoài Ai Cập, Nigiêria đã tăng đáng kể sản lượng nuôi để trở
thành quốc gia nuôi trồng thủy sản lớn thứ hai ở châu lục này, dù tổng sản lượng của châu lục
này vẫn còn chiếm thị phần khiêm tốn 2.7% tổng sản lượng nuôi trồng toàn cầu.
Theo số liệu thống kê của FAO, Trung Quốc là quốc gia có sản lượng nuôi trồng thủy sản sử
dụng cho mục đích thương mại nhiều hơn so với phần còn lại của thế giới cộng lại kể từ năm
1991. Từ năm 2016, nhiều những chính sách và chiến lược đã được chính phủ nước này đưa ra
nhằm tổ chức lại ngành nuôi trồng thủy sản theo hướng xanh và sạch hơn, cải thiện chất lượng
sản phẩm và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn tài nguyên cũng như phát triển kinh tế nông thôn,
thực hiện xóa đói giảm nghèo ở một số vùng trọng điểm. Do vậy, tốc độ tăng trưởng nuôi trồng
thủy sản của Trung Quốc có bị chậm lại, chỉ đạt mức 2,2% năm 2017 và 1,6% năm 2018. tỷ
trọng trong tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản thế giới của nước này đã giảm từ 59,9% năm
1995 xuống còn 57,9% vào năm 2018. Xu thế này được dự báo sẽ tiếp tục trong những năm tới.
Vài năm trở lại đây, một số nước trong tốp đầu về nuôi trồng thủy sản đều cho rằng giá thị
trường của loài thủy sản chủ lực đang giảm dần, phản ánh sự bão hòa của thị trường theo mùa vụ
và theo từng địa phương sản xuất lớn các đối tượng này.
Sản lượng nuôi trồng thủy sản thế giới theo châu lục một số nước đứng đầu [Type here]
Đơn vị tính: Sản lượng: 1.000 tấn Khu vực/Quốc gia tốp đầu 1995 2000 2005 2010 2015 2018 Sản lượng 110,2 399,6 646,4 1.285,8 1.777,6 2.195,9 Châu Phi Tỷ trọng 0,45% 1,23% 1,46% 2,23% 2,44% 2,67% - Ai Cập 71,8 340,1 539,7 919,6 1.174,8 1.561,5 - Nigiêria 16,6 25,7 56,4 200,5 316,7 291,3 Sản lượng 919,6 1.423,4 2.176,9 2.514,6 3.274,7 3.799,2 Châu Mỹ Tỷ trọng 3,77% 4,39% 4,91% 4,35% 4,50% 4,63% - Chilê 157,1 391,6 723,9 701,1 1.045,8 1.266,1 - Mỹ Latinh & vùng Caribê (trừ Chilê) 282,8 447,4 784,5 1.154,5 1.615,5 1.873,6 - Bắc Mỹ 478,7 584,5 668,5 659,0 613,4 659,6 Sản 21.677, 28.420, 39.185, 51.228, 64.591, 72.812, lượng Châu Á 1 6 9 8 8 2 Tỷ trọng 88,90% 87,67% 88,46% 88,72% 88,76% 88,69% 15.855, 21.522, 28.120, 35.513, 43.748, 47.559, - Trung Quốc 7 1 7 4 2 1 - Ấn Độ 1.658,8 1.942,5 2.967,4 3.785,8 5.260,0 7.066,0 - Inđônêxia 641,1 788,5 1.197,1 2.304,8 4.342,5 5.426,9 - Việt Nam 381,1 498,5 1.437,3 2.683,1 3.462,4 4.134,0 - Bănglađét 317,1 657,1 882,1 1.308,5 2.060,4 2.405,4 Sản lượng 1.581,4 2.052,6 2.137,3 2.527,0 2.948,6 3.082,6 Châu Âu Tỷ trọng 6,49% 6,33% 4,83% 4,38% 4,05% 3,75% - Na Uy 277,6 491,3 661,9 1.019,8 1.380,8 1.354,9 - EU 1.182,6 1.402,5 1.272,4 1.263,3 1.263,7 1.364,4 [Type here] Sản
Châu Đại lượng 94,2 121,5 151,5 187,8 178,5 205,3 dương Tỷ trọng 0,39% 0,37% 0,34% 0,33% 0,25% 0,25% 24.382, 32.417, 44.298, 57.743, 72.771, 82.095, Toàn thế giới 5 7 0 9 3 1
Nguồn: FAO, 2020
Số liệu thống kê của FAO đã cho thấy, mức độ phát triển chung về nuôi trồng thủy sản đang
có sự khác nhau rất lớn giữa các khu vực điạ lý trên thế giới. Một số nước trong tốp đầu về nuôi
trồng thủy sản vẫn chiếm một tỷ trọng lớn trong sản lượng nuôi một số nhóm đối tượng thủy sản
trọng điểm. Một số nước đang phát triển như Trung Quốc, Ấn Độ và Inđônêxia chiếm ưu thế về
sản lượng cá nuôi trong vùng nước nội địa. Trong khi đó, một số nước thành viên của OECD (Tổ
chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế) như Na Uy, Chilê, Nhật Bản, Canađa và Vương quốc Anh lại
là những nước mạnh về nuôi các loài cá biển, trong đó cá hồi nước lạnh là loài nuôi chủ lực.
Một số quốc gia vùng Đông Á và Đông Nam Á tập trung vào nuôi trồng thủy sản ven biển
nhiều hơn là nuôi biển, nhất là những nước luôn phải đối mặt hàng năm với bão như Trung
Quốc, Phi-lip-pin và Việt Nam.
Trong nhóm giáp xác, một đối tượng đặc thù đối với nuôi trồng thủy sản ven biển, tôm biển là
đối tượng nuôi chiếm ưu thế về sản lượng và là nguồn thu ngoại tệ quan trọng đối với các nước
đang phát triển ở châu Á và châu Mỹ Latinh.
Về nuôi nhuyễn thể hai mảnh vỏ, bên cạnh Trung Quốc là nước chiếm ưu thế với sản lượng
lớn nhất, đạt gần 13,4 triêu tấn năm 2018, một số nước khác cũng đã đóng góp đáng kể trong sản
lượng nhuyễn thể hai mảnh vỏ trên thế giới, bao gồm các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Tây Ban Nha, Pháp và Italia.
Sản lượng và tỷ trọng sản lượng nhuyễn thể hai mảnh vỏ trong tổng sản lượng nuôi thủy sản
của tốp các nước và vùng lãnh thổ năm 2018 Sản lượng lượng Tỷ trọng Tổng sản lượng nhuyễn nhuyễn thủy sản nuôi thể hai mảnh thể hai vỏ mảnh vỏ
Đơn vị: 1.000 tấn % Trung Quốc 47.559,1 13.358,3 28,1 Chilê 1.266,1 376,9 29,8 Nhật Bản 642,9 350,4 54,5 Hàn Quốc 568,4 391,1 68,8 [Type here] Mỹ 468,2 181,1 38,7 Tây Ban Nha 347,8 287,9 82,5 Đài Loan 283,2 75,8 26,8 Canada 191,3 43,2 22,6 Pháp 185,2 144,8 78,2 Italia 143,3 93,2 65,0 New Zealand 104,5 88,2 84,3 Nguồn: FAO, 2020
Các chuyên gia nhận định, nuôi trồng thủy sản đang ngày càng được chú trọng phát
triển tại các nước đang phát triển, nhất là khu vực châu Á, phần nào ở châu Phi và khu vực Mỹ
Latinh. Hiện tại, sản lượng thủy sản từ nuôi đã chiếm 46% tổng sản lượng thủy sản toàn thế giới
và 52% tổng lượng thủy sản sử dụng cho nhu cầu của con người. Xu thế này sẽ tiếp tục nhằm
đáp ứng nhu cầu tiêu thụ ngày càng tăng cùng với sự gia tăng dân số, nhất là ở các nước đang
phát triển ở nhiều khu vực trên thế giới.
2. Thực trạng tài nguyên thủy sản Việt Nam
Trong chiến lược phát triển chung của ngành thuỷ sản Việt Nam, các lĩnh vực khai thác và
nuôi trồng thuỷ sản được định hướng phục vụ xuất khẩu. Trong giai đoạn vừa qua, ngành thuỷ
sản đã chủ động đi trước trong hội nhập quốc tế, đẩy mạnh áp dụng khoa học và công nghệ tiên
tiến vào sản xuất, gắn sản xuất nguyên liệu với chế biến, xúc tiến thương mại, mở rộng thị
trường xuất khẩu. Ngành thuỷ sản đã được chú trọng đầu tư và phát triển khá toàn diện, giá trị
sản lượng liên tục tăng trong hơn 26 năm vừa qua. Dữ liệu cho thấy sản lượng thuỷ sản nước ta
đã tăng gấp hơn 6 lần trong giai đoạn 1995 – 2020, từ 1,3 triệu tấn trong năm 1995 lên 8,4 triệu tấn trong năm 2020. [Type here]
Trong năm 2021, bất chấp các khó khăn do đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp gây ra, sản
lượng thuỷ sản cả nước vẫn tăng trưởng gần 4% so với năm 2020 lên 8,73 triệu tấn. Xét về cơ
cấu, sản lượng khai thác thuỷ sản chiếm 44,5% và sản lượng nuôi trồng thuỷ sản chiếm 55,5%
tổng sản lượng thuỷ sản. 2.2.
Thực trạng khai thác thủy sản 2.2.1.
Khai thác biển
Vùng biển ven bờ và vùng biển ngoài khơi nước ta đều có trữ lượng thuỷ hải sản rất lớn. Nghề
đánh bắt khai thác hải sản cũng là sinh kế truyền thống, lâu đời gắn bó với một bộ phận lớn dân
cư nước ta tại các vùng ven biển, đảo. Những yếu tố này tạo điều kiện thuận lợi cho ngành khai
thác thuỷ sản nước ta trở thành một trong những lĩnh vực mũi nhọn của quá trình phát triển kinh tế biển.
biển: có 2.038 loài với 4 nhóm sinh thái chủ yếu: nhóm cá nổi 260 loài, nhóm cá gần tầng
đáy 930 loài, nhóm cá đáy 502 loài và nhóm cá san hô 304 loài. Nhìn chung nguồn lợi cá biển có
thành phần loài đa dạng, kích thước cá thể nhỏ, tốc độ tái tạo nguồn lợi cao. Cá biển ở vùng biển
VN thường sống phân tán, ít kết đàn; nếu có kết đàn thì kích thước đàn không lớn. Tỉ lệ đàn cá
nhỏ (có kích thước dưới 100 m 2 ) chiếm tới 82% tổng số đàn cá, các đàn cá vừa (200 m2 )
chiếm 15%, các đàn cá lớn (trên 1.000 m2 ) chỉ chiếm 0,1%. Số đàn cá mang đặc điểm sinh thái
vùng gần bờ chiếm 68%, các đàn cá mang tính đại dương chỉ chiếm 32%. Trong đó có 130 loài
có giá trị thương mại, 30 loài thường xuyên được đánh bắt.
Trữ lượng: 4,2 triệu tấn, sản lượng khai thác tối đa bền vững (maximum sustainable yield,
MSY): 1,7 triệu tấn/năm. Sự phân bố trữ lượng cá ở các vùng biển như sau:
Vịnh Bắc bộ: trữ lượng 681.200 tấn, khả năng cho phép khai thác 272.500 tấn/năm;
Vùng biển miền Trung: trữ lượng 606.400 tấn, khả năng cho phép khai thác 242.600 tấn/năm;
Vùng biển Ðông Nam bộ: trữ lượng 2.075.900 tấn, khả năng cho phép khai thác 830.400 tấn/năm; [Type here]
Vùng biển Tây Nam bộ: trữ lượng 506.700 tấn, khả năng cho phép khai thác 202.300 tấn/năm.
Giáp xác có 1640 loài, quan trọng nhất là các loài trong họ tôm he, tôm hùm, cua biển với
khả năng khai thác khoảng 50.000-60.000 tấn/năm.
Nhuyễn thể có trên 2500 loài, quan trọng nhất là mực, sò, điệp, nghêu,... Khả năng khai thác
mực 60.000-70.000 tấn/năm, nghêu 100.000 tấn/năm.
Rong biển có trên 650 loài, có 90 loài có giá trị kinh tế, trong đó rau câu, rong mơ có ý nghĩa
lớn. Trữ lượng rau câu, rong mơ khoảng 45.000-50.000 tấn tươi/năm.
Ngoài các loại hình tài nguyên đã kể trên, còn có các tài nguyên là đặc sản quý khác như: Bào
ngư, đồi mồi, ngọc trai,...
Nhà nước đã ban hành nhiều quy định về khai thác hải sản, như: hỗ trợ vay vốn tín dụng đóng
mới tàu cá khai thác xa bờ, hỗ trợ chi phí nhiên liệu, hỗ trợ bảo hiểm, hỗ trợ giảm tổn thất sau
thu hoạch, khắc phục rủi ro, thiên tai, hỗ trợ thiết bị thông tin, giám sát hoạt động của tàu cá trên
biển, tạo cơ sở phát triển nhanh đội tàu cá đánh bắt xa bờ và tăng nhanh sản lượng.
Đặc biệt, Nhà nước luôn chú trọng phân bổ nguồn vốn đầu tư công cho phát triển kết cấu hạ
tầng theo hướng hiện đại hoá, đồng bộ, như cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá, âu tàu,
trung tâm dịch vụ hậu cần nghề cá. Bên cạnh đó, các chính sách cũng hướng đến việc khuyến
khích tiếp cận và áp dụng những thành tựu của khoa học công nghệ trong quá trình khai thác.
Nhà nước cũng đã tiến hành đào tạo nguồn lao động chất lượng cao, có trình độ chuyên môn cao
tại các cấp đại học, cao đẳng, nghề chuyên sâu… để phục vụ quá trình phát triển các hoạt động khai thác hải sản.
Tính đến năm 2021, toàn quốc đã có 71 khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá trên địa bàn 27
tỉnh, thành phố ven biển đủ điều kiện hoạt động. Các khu neo đậu này có thể tiếp nhận tàu cá có
chiều dài từ 15m đến 60m vào tránh trú bão. Trong số 71 khu neo đậu tránh trú bão, có 16 khu
neo đậu cấp vùng, còn lại là các khu neo đậu cấp tỉnh. Có 3 khu neo đậu tránh trú bão đủ điều
kiện hoạt động có sức chứa 2.000 tàu cá bao gồm: Khu neo đậu vịnh Xuân Đài (Phú Yên), vịnh
Cam Ranh (Khánh Hòa), Cần Giờ (thành phố Hồ Chí Minh). Cá khu vực tránh trú bão, âu tàu đã
giúp đảm bảo an toàn cho sức khoẻ, tính mạng và tài sản của ngư dân, cũng như là nơi xử lý,
khắc phục sửa chữa các sự cố tàu cá trong quá trình khai thác hải sản.
Ngoài ra, 92 cảng cá đã đi vào hoạt động ở 27 tỉnh, thành phố ven biển, đáp ứng được 82.000
tàu thuyền cập cảng làm hàng, và 49 cảng cá được chỉ định có đủ điều kiện chứng nhận, xác
nhận thủy sản khai thác.
Với những tác động tích cực từ chính sách, sản lượng khai thác hải sản tăng hơn gấp 4 lần
trong giai đoạn 1995 – 2020 với tăng trưởng trung bình 6%/năm, từ mức 929.000 tấn trong năm
1995 lên 3,85 triệu tấn trong năm 2020. Trong năm 2021, sản lượng khai thác hải sản đạt 3,92
triệu tấn, tăng 0,9% so với năm 2020 mặc dù chịu nhiều tác động tiêu cực từ đại dịch Covid-19. [Type here]
Bốn khu vực có tổng sản lượng khai thác hải sản lớn nhất cả nước hiện nay là Bắc Trung Bộ,
Duyên hải miền Trung, Đông Nam Bộ, Đồng bằng Sông Cửu Long và Đồng bằng Sông Hồng.
Tính đến cuối năm 2020, toàn quốc có 94.572 tàu cá; trong đó: 45.950 tàu cá dài 6-12m, 18.425
tàu dài 12-15m, 27.575 tàu dài 15-24m, 2.662 dài trên 24m. Cả nước có 4.227 tổ đội hoạt động
với 29.588 tàu cá, 179.601 lao động trên biển.
Xét về cơ cấu đội tàu, nghề lưới kéo có 17.078 tàu, chiếm 18,1% tổng số tàu hoạt động; nghề
lưới vây 7.212 tàu, chiếm 7,6%; nghề lưới rê 33.538, chiếm 35,5%; nghề câu 16.043 tàu, chiếm
17%; nghề khác 17.543 tàu, chiếm 18,5%; tàu dịch vụ hậu cần 3.158 chiếc, chiếm 3,3%.
Khu vực Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung hiện có số lượng tàu khai thác công suất
trên 90 CV lớn nhất lớn nhất với 19.440 chiếc vào năm 2018 và tăng lên 20.119 chiếc vào năm
2020. Đồng bằng sông Hồng có tổng công suất các tàu có công suất trên 90 CV thấp nhấp, chỉ có
599,2 nghìn CV năm 2018 và tăng lên 723,6 nghìn CV vào năm 2020. [Type here] 2.3.
Thực trạng nuôi trồng thủy sản
Việt Nam được nhận định có tiềm năng lớn để phát triển nuôi trồng thủy sản. Bờ biển dài hơn
3.260 km với 112 cửa sông, lạch đổ ra biển có khả năng phong phú nuôi thủy sản nước lợ, nước
mặn. ra, còn hàng nghìn đảo lớn nhỏ nằm rải rác dọc theo đường biển là những khu vực có thể
phát triển nuôi trồng thủy sản quanh năm. Trong vùng biển có hơn 3.000 đảo lớn nhỏ, trong đó
có những đảo lớn có dân cư như Vân Đồn, Cát Bà, Phú Quý, Côn Đảo, Phú Quốc, có nhiều vịnh,
vũng, eo ngách, các dòng hải lưu, vừa là ngư trường khai thác hải sản thuận lợi, vừa là nơi có
nhiều điều kiện tự nhiên để phát triển nuôi trồng thủy sản biển và xây dựng các khu căn cứ hậu
cần nghề cá. Bên cạnh điều kiện tự nhiên vùng biển, Việt Nam còn có nguồn lợi thuỷ sản nước
ngọt ở trong 2.860 con sông lớn nhỏ, nhiều triệu hecta đất ngập nước, ao hồ, ruộng trũng, rừng
ngập mặn, đặc biệt là ở lưu vực sông Hồng và sông Cửu Long.
Nuôi trồng thuỷ sản từ chỗ là một nghề sản xuất phụ, mang tính chất tự cấp tự túc đã trở thành
một ngành sản xuất hàng hoá tập trung với trình độ kỹ thuật tiên tiến, phát triển ở tất cả các thuỷ
vực nước ngọt, nước lợ, nước mặn theo hướng bền vững, bảo vệ môi trường, hài hoá với các ngành kinh tế khác.
Trong giai đoạn 1995 – 2020, sản lượng nuôi trồng thủy sản của Việt Nam đã tăng gấp 11 lần,
với tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm đạt 10%, tăng từ 415.000 tấn trong năm 1995 lên
gần 4,6 triệu tấn trong năm 2020.
Đặc biệt, diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản trong năm 2021 đã đạt 1,13 triệu ha với sản
lượng đạt 4,8 triệu tấn; diện tích nuôi trồng chỉ tăng 10,8% so với năm 2010 nhưng sản lượng lại
tăng tới 77,7% trong cùng kỳ. Nhờ vậy mà giá trị sản phẩm thu được trên một ha nuôi trồng thủy
sản tăng từ 103,8 triệu đồng/ha năm 2010 lên 241,2 triệu đồng/ha năm 2021. Đồng thời, điều này
chứng minh sự cải thiện quy trình nuôi liên tục và gia tăng năng suất bền vững.s [Type here]
Cá tra và tôm thẻ chân trắng là hai nhóm sản phẩm trọng điểm của lĩnh vực nuôi trồng thuỷ
sản nước ta. Các sản phẩm tôm và cá tra đều được sản xuất tuân thủ các tiêu chuẩn quản lý chất
lượng quốc tế và an toàn thực phẩm nghiêm ngặt như GlobalGAP, ASC và BAP…Trong đó, sản
lượng nuôi tôm nước lợ trong năm 2021 đạt 970.000 tấn, bao gồm 665.000 tấn tôm thẻ chân
trắng, 265.000 tấn tôm sú, còn lại là các loại tôm khác. Sản lượng thu hoạch cá tra trong năm
2021 đạt 1,525 triệu tấn. Tổng diện tích thả nuôi cá tra phát sinh trong năm 2021 ước đạt 5.000
ha, tăng 5,5% so với năm 2020.
Các địa phương ven biển hiện đã bước đầu chú trọng phát triển nuôi trồng thuỷ sản có giá trị
kinh tế cao, có thị trường tiêu thụ tốt, trên biển, đảo, như cá biển (Quảng Ninh, Nghệ An, Thanh
Hoá, Bà Rịa – Vũng Tàu, Kiến Giang…), tôm hùm (Phú Yên, Khánh Hoà, Quảng Bình), nhuyễn
thể hai mảnh vỏ (Tiền Giang, Bến Tre, Nam Định, Thái Bình).
Công nghiệp chế biến thuỷ sản của Việt Nam được đánh giá ở mức khá trên thế giới. Các cơ
sở quy mô công nghiệp gắn với xuất khẩu đều đạt quy chuẩn quốc gia về bảo đảm vệ sinh an
toàn thực phẩm, trong đó có khoảng 500 cơ sở đạt tiêu chuẩn xuất khẩu vào các thị trường khó
tính, như: Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ, Canada…
3. Các vấn đề về quản khai thác tài nguyên thủy sản Việt Nam
3.1. Các vấn đề về quản khai thác
a) Trong khai thác
Một trong những nguyên nhân dẫn đến những hiện trạng xấu của tài nguyên thủy sản ở
Việt Nam hiện nay là các vấn đề liên quan đến khai thác thủy hải sản trong cả môi trường tự
nhiên và tư nhân. Theo Tổng Cục Thủy Sản (2021): -
Hệ thống cơ sở dữ liệu về nguồn lợi thủy sản chưa hoàn thiện, cập nhật đầy đủ và liên tục. [Type here] -
Nguồn lợi thủy sản tự nhiên vẫn chưa có dấu hiệu phục hồi, các hoạt động thả giống tài
tạo nguồn lợi thuỷ sản chưa đủ về số lượng nên khả năng phục hồi quần đàn chưa cao; công tác
bảo vệ khu vực thả và loài thủy sản sau khi thả chưa hiệu quả; việc đánh giá hiệu quả của hoạt
động thả tái tạo nguồn lợi thủy sản chưa được thực hiện. -
Thực thi pháp luật để bảo vệ môi trường sống của các loài thuỷ sản đặc biệt là tại khu vực
tập trung sinh sản, khu vực thuỷ sản còn non tập trung sinh sống chưa rõ nét và hiệu quả. -
Quỹ Tái tạo nguồn lợi thuỷ sản triển khai chưa hiệu quả; Quỹ Bảo vệ và phát triển nguồn
lợi thủy sản chưa được thành lập. -
Cường lực khai thác ngày càng gia tăng, đặc biệt cường lực khai thác ở vùng biển ven bờ
trong khi nhận thức của ngư dân về bảo vệ nguồn lợi thủy sản chưa cao, tình trạng vi phạm các
quy định trong khai thác ngày càng tinh vi, dưới nhiều hình thức làm suy giảm nguồn lợi thủy
sản và phá hoại môi trường sống của các loài thủy sản ở một số địa phương, ngư trường. -
Tình trạng thiếu lao động khai thác thủy sản cả về số lượng và chất lượng ở nhiều địa
phương, nhất là các lao động lành nghề, những lao động đã qua đào tạo.
b) Trong quản -
Bên cạnh những tác động trong vấn đề khai thác tài nguyên thủy sản, mặt khác, công tác
quản lý của các cấp, các cơ quan chức năng liên quan đến quản lý tài nguyên thủy sản còn thiếu hiệu quả, yếu kém. -
Những hạn chế, yếu kém nêu trên xuất phát từ những nguyên nhân khách quan và chủ
quan: nhận thức và ý thức trách nhiệm của một số cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên chưa
đầy đủ; bộ máy quản lý nhà nước còn bất cập, hệ thống pháp luật, công cụ quản lý thiếu đồng
bộ, còn phân tán, chồng chéo, thực thi kém hiệu quả; thiếu nguồn lực để thực hiện các chương
trình, đề án, nhiệm vụ đề ra; nhiều quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội chưa được
lồng ghép, thực hiện gắn với yêu cầu ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, bảo
vệ môi trường làm gia tăng tác động tiêu cực của thiên tai tới tài nguyên thủy sản; vẫn còn tình
trạng thu hút đầu tư thiếu chọn lọc, không cân nhắc, xem xét các yếu tố, tiêu chí về môi trường
làm ảnh hưởng tới tài nguyên thủy sản; việc triển khai nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công
nghệ liên quan đến phát triển, bảo tồn tài nguyên thủy sản còn chậm; công tác thanh tra, kiểm
tra thực thi pháp luật về tài nguyên, bảo vệ môi trường chưa đáp ứng yêu cầu.
3.2. Nguyên nhân
Nghề cá Việt Nam là nghề cá đa loài, đa ngư cụ, quy mô nhỏ, phát triển tự phát, không
theo quy hoạch, chưa kiểm soát đƣợc cường lực khai thác theo nghề, vùng biển dẫn đến cường
lực khai thác chưa phù hợp với trữ lượng, khả năng cho phép khai thác tối đa nguồn lợi thủy sản.
Nguồn kinh phí đầu tư cho ngành thủy sản còn hạn chế, đặc biệt là thiếu kinh phí cho hoạt
động điều tra, đánh giá nguồn lợi thủy sản, đầu tư cơ sở hạ tầng cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão, ...
Tổ chức sản xuất vẫn mang tính nhỏ lẻ, chưa có sự liên kết theo chuỗi dẫn đến năng suất, hiệu quả chưa cao. [Type here]
Đổi mới công nghệ còn chậm, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới hiệu quả chưa
cao, mang tính tự phát, thiếu đồng bộ. Bảo quản sau thu hoạch còn kém, tổn thất sau thu hoạch còn cao.
Thiếu chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề từ các nghề xâm hại sang các nghề thân thiện với
môi trường và nguồn lợi thủy sản, đặc biệt là phát triển sinh kế bền vững cho cộng đồng ngư dân
sống trong và xung quanh khu bảo tồn biển.
Chưa có chiến lược dài hạn về đào tạo, phát triển và thu hút nguồn nhân lực trong lĩnh vực
khai thác và bảo vệ nguồn lợi dẫn đến thiếu cán bộ quản lý, nghiên cứu về khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản.
Công tác tổ chức hỗ trợ cộng đồng tham gia bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, thực hiện đồng
quản lý trong bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản chưa đồng bộ.
Công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho cộng đồng ngư dân, các tổ chức
kinh tế, xã hội mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng vẫn còn hạn chế; việc bố trí, đảm bảo các
nguồn lực cho hoạt động tuyên truyền mới chỉ đƣợc quan tâm ở mức độ thấp.
Nhận thức của các cấp, các ngành, địa phương và ngƣời dân, doanh nghiệp về vị trí, vai trò
của bảo vệ, bảo tồn và phát triển nguồn lợi thủy sản đối với sự phát triển bền vững ngành kinh tế
biển chưa đầy đủ; một số địa phương chưa quan tâm đến công tác bảo vệ, bảo tồn và phát triển
nguồn lợi thủy sản; phát triển kinh tế chưa đi đôi với bảo tồn, bảo vệ các loài thủy sản và hệ sinh thái thủy sinh. Tài liệu tham khảo
Tổng cục Thủy sản (2021). Báo cáo tóm tắt quy hoạch bảo vệ khai thác nguồn lợi thủy sản
thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, Bộ Nông nghiệp phát triển Nông thôn, Nội. 4. Giải pháp
Trong những năm qua, ngành thủy sản đã phát triển tạo ra nhiều sản phẩm, hàng hóa xuất
khẩu có giá trị kinh tế cao đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế xã hội, bảo vệ an ninh chủ
quyền biển đảo. Tuy nhiên, tình trạng khai thác quá mức đã và đang khiến nguồn lợi thủy sản
dần cạn kiệt, tác động không nhỏ đến kế hoạch phát triển ngành thủy sản và nguồn sinh kế của
cộng đồng ngư dân ven biển. Chính vì vậy, việc bảo tồn nguồn lợi thủy sản càng cấp bách hơn.
Mặc dù nước ta được thiên nhiên ưu đãi về nguồn lợi sinh vật biển mà đặc biệt là nguồn lợi
hải sản, nhưng trong thời gian vừa qua do sự phát triển nhanh của phương tiện đánh bắt làm
nguồn lợi thủy sản giảm sút nghiêm trọng, nguyên nhân chủ yếu là khai thác quá mức. Vẫn còn
tình trạng khai thác với các nghề mang tính hủy diệt các loài sinh vật biển. [Type here]
Để bảo vệ nguồn lợi hải sản, cần thực hiện những biện pháp sau:
- Hạn chế đánh bắt ở khu vực gần bờ vào mùa tôm, cá sinh sản, mở rộng vùng khai thác xa bờ
- Thả một số loài hải sản quý hiếm vào thủy vực nội địa và vũng, vịnh ven biển để tăng nguồn
lợi hải sản và ngăn chặn giảm sút trữ lượng của những loài hải sản này.
- Thiết lập các khu bảo tồn biển, bảo vệ, phục hồi các hệ sinh thái và phát triển nguồn lợi.
- Nghiêm cấm đánh bắt hải sản bằng những phương pháp mang tính hủy diệt như thuốc nổ, hóa chất, điện...
- Bảo vệ môi trường biển, nơi sinh sống của các loài hải sản.
Đồng thời, việc ngăn chặn tình trạng khai thác thủy sản trái phép cần có sự phối hợp chặt chẽ
giữa các cấp, ngành trong quản lý vật liệu nổ, chất độc; làm tốt công tác tuyên truyền trong nhân
dân và tăng cường tuần tra, kiểm soát; có chính sách hỗ trợ để các hộ ngư dân chuyển đổi ngành
nghề khai thác ven bờ kém hiệu quả sang các ngành nghề khác hiệu quả hơn. Cụ thể:
4.1. Đối với Chính phủ các Bộ, ban ngành Trung ương
Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm,
sớm đưa nước ta trở thành quốc gia trong khu vực mạnh về kinh tế biển, gắn với bảo đảm quốc
phòng, an ninh và hợp tác quốc tế.
Hiện đại hóa hệ thống quan trắc khí tượng thủy văn, hệ thống dự báo khí tượng thủy văn và hệ
thống cung cấp, ứng dụng thông tin khí tượng thủy văn và biến đổi khí hậu nhằm đảm bảo mạng
lưới quan trắc đồng bộ; nâng cao khả năng dự báo khí hậu, cảnh báo sớm các hiện tượng khí hậu
cực đoan ngày càng gia tăng do biến đổi khí hậu phục vụ phát triển kinh tế – xã hội, phòng tránh thiên tai.
Nghiên cứu tái cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện biến đổi khí hậu, nước biển
dâng, đặc điểm sinh thái của các vùng và địa phương; phát triển ứng dụng công nghệ sinh học,
áp dụng quy trình sản xuất tiên tiến để hướng tới nền nông nghiệp hiện đại.
Xây dựng hệ thống kiểm soát, phòng chống dịch bệnh cây trồng và vật nuôi trong điều kiện biến đổi khí hậu.
Điều chỉnh quy hoạch, bảo tồn và phát triển rừng phòng hộ, rừng ngập mặn ven biển, phục hồi
rừng phòng hộ đầu nguồn, tăng cường quản lý, bảo vệ và phòng chống cháy rừng. [Type here]
Xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật nhằm phát huy sự tham gia của các
thành phần kinh tế, các tổ chức chính trị – xã hội – nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ trong
các hoạt động bảo vệ tài nguyên thủy sản nói riêng và tài nguyên biển nói chung.
Nâng cấp hệ thống chăm sóc sức khỏe cộng đồng trong điều kiện biến đổi khí hậu, kiện toàn
hệ thống giám sát bệnh tật nhằm giảm nguy cơ, quy mô xuất hiện các dịch bệnh mới, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
Xây dựng và triển khai chương trình truyền thông, nâng cao nhận thức cộng đồng về khai thác tài nguyên thủy sản.
Quy hoạch quản lý tổng hợp tài nguyên thủy sản; bảo vệ, quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả
và tiết kiệm tài nguyên thủy sản.
Tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho người dân về ý thức bảo vệ tài nguyên biển và đào tạo nguồn nhân lực.
4.2. Đối với các địa phương
Các địa phương cần có quan điểm phát triển đảm bảo cho việc bảo vệ nguồn lợi thủy sản đồng
thời thích ứng biến đổi khí hậu, với những quan điểm cụ thể như sau:
Phát triển nuôi trồng thủy sản phải đặt trong mối quan hệ lợi ích của các ngành kinh tế khác,
tránh xung đột với việc phát triển các ngành kinh tế khác...
Phát động các đề án nhằm khuyến khích tính sáng tạo của địa phương trong việc phòng,
chống và hạn chế tác động của biến đổi khí hậu đến ngành nuôi trồng thủy sản.
Thực hiện tốt các điều chỉnh, chỉ đạo của Chính phủ, các cấp Bộ, ban ngành Trung ương.
Tăng cường thanh tra, kiểm tra thường xuyên nhằm hạn chế tối đa các hành vi vi phạm gây
ảnh hưởng đến tài nguyên biển, xử lý theo đúng quy trình do Chính phủ, các cấp Bộ, ban ngành
TW nhằm đảm bảo tính răn đe.
Các giải pháp tính kỹ thuật đối với nuôi trồng thủy
Thích ứng với BĐKH
Thích ứng phổ biến nhất với điều kiện nhiệt độ cực đoan như hiện nay có thể áp dụng đó là
bằng cách điều chỉnh mùa vụ nuôi, tránh những khoảng thởi gian nhiệt độ cực đoan quá nóng
hoặc quá lạnh. Theo kinh nghiệm ở miền Bắc, mùa vụ thả tôm tốt nhất là sau Tết Thanh minh
hẳng năm, khi đó, nhiệt độ tương đối ổn định, tôm thả có tỷ lệ sống cao, đồng thời tôm vụ 2 thì
thu hoạch trước mùa bão (Tháng 9 hằng năm) để tránh thiệt hại. Miền Bắc cần chú ý hạn chế
phát triển cá rô phi và các loài cá chịu lạnh kém vào mua đông, đặc biệt là miền núi phía Bắc.
Cạnh đó, điều chỉnh đối tượng nuôi, thay vì nuôi tôm sú dễ mẫn cảm với nhiệt độ hoặc tôm
thẻ chân trắng với mức độ cao và rủi ro lớn, nhiều nông dân ở Thanh Hóa, Thái Bình, Nam Định,
Thừa Thiên-Huế hay Cà Mau, Bạc Liêu,... đã sáng tạo nuôi xen ghép tôm với các đối tượng khác
nữa như cá rô phi, cá đối, rau câu,... Khi đó, nếu chẳng may vì bất cứ lý do gì, tôm chết hoặc
nhiễm bệnh, chậm lớn thì nông dân vẫn có thể thu hoạch các đối tượng khác mà không sợ bị phá [Type here]
sản. Bên cạnh đó, nông dân cần xem xét thả nuôi những loài cá có khả năng chịu đựng được
những biên độ nhiệt cao. Ví dụ, biên nhiệt độ của cá chình (1-38 độ C) hoặc ít mẫn cảm với nhiệt
độ thay đổi, dựa trên kinh nghiệm hoặc khuyến cáo khoa học.
Công nghệ sinh học chọn giống
Hiện, nhiều loại thủy sản có thể sống được cả trong môi trường nước ngọt và nước lợ (cá rô
phi, chẽm, chình,...) hoặc sống trong nước ngọt nhưng thường di cư sang nước lợ (cá bông lau,
cá kèo, cá dứa,...); những đối tượng này cần được các nhà khoa học ưu tiên nghiên cứu.
Quản nguồn nước chất lượng nước
Trại nuôi cần có ao lắng và ao xử lý nước thải, để có thể quản lý nguồn nước giữa các ao khi
có tình huống xấu. Cùng đó, cần có các thiết bị hỗ trợ kỹ thuật như quạt nước, máy sục khí, hệ
thống máy bơm và ống rút xả,...
Quản thức ăn
Nhiệt độ quá cao hoặc quá thấp, phần lớn các loài thủy sản nước ấm đều giảm ăn. Vì vậy, cần
theo dõi cho ăn chặt chẽ bằng nhá/vó, giảm cho ăn vào những thời điểm này. C. KẾT LUẬN
Tài nguyên thủy sản đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với nước ta cả về mặt kinh tế và môi
trường. Về mặt kinh tế, ngành khai thác, nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản đóng góp không nhỏ
vào quy mô của nền kinh tế của nước ta, đưa ngành thủy sản của Việt Nam trở thành ngành mũi
nhọn và đưa thủy sản Việt Nam được biết đến rộng rãi trên toàn thế giới; đối với môi trường,
thủy sản góp phần đa dạng sinh học, đặc biệt là với một số loài thủy sản đặc hữu của việt nam
như đồi mồi, rùa xanh,...
Nắm bắt được những lợi ích kể trên, bài tiểu luận cũng đã đưa ra được thực trạng của tài nguyên
thủy sản ở Việt Nam, qua đó, nêu lên được những điểm bất cập, những hạn chế trong việc khai
thác và quản lý thủy sản ở Việt Nam bằng cách tổng hợp và phân tích những dữ liệu thứ cấp
được công bố rộng rãi và cả những dữ liệu được lưu hành nội bộ. Từ những điểm yếu đã được
liệt kê, bài tiểu luận cũng đã đưa ra được một số giải pháp với mỗi điểm yếu, tuy nhiên, để
những giải pháp đã được kể trên thực sự mang lại được hiệu quả, cần có sự vào cuộc đồng bộ từ
các cơ quan Bộ, ban, ngành, các cơ quan chức năng có thẩm quyền liên quan và sự thay đổi trong
ý thức chung của nhân dân Việt Nam nói chung và người dân có cuộc sống gắn liền với thủy sản nói riêng.
Với những thành tựu và đà phát triển không ngừng của nước ta, hi vọng rằng trong quá trình phát
triển của ngành thủy sản nói riêng và kinh tế Việt Nam nói chung sẽ khắc phục được những điểm
yếu và phát huy tối đa những lợi thế để đưa nền kinh tế Việt Nam trở thành nước phát triển, là 1
điểm đến hứa hẹn với các nhà đầu tư. [Type here] [Type here]