Số phách:
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
ĐỀ TÀI:
PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ -
MỘT SỐ BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN.
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Học phần: Luật Thương Mại 2
Giảng viên ph trách: ThS. Mai Xuân Hợi
SINH VIÊN THỰC HIỆN: THỊ KIM HOANH
MÃ SINH VIÊN: 20A5020071
LỚP CHUYÊN NGÀNH: Luật Kinh tế K44A
THỪA THIÊN HUẾ, năm 2022
Số phách:
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
ĐỀ TÀI:
PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ -
MỘT SỐ BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN.
Chuyên ngành: Luật Kinh Tế
Học phần: Luật Thương Mại 2
Điểm số:
Điểm chữ:
Ý 1
Ý 2
Ý 3
Ý 4
Ý 5
TỔNG:
Giảng viên chấm 1
( và ghi họ tên)
Giảng viên chấm 2
( và ghi họ tên)
THỪA THIÊN HUẾ, năm 2022
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 2
CHƯƠNG 1 ................................................................................................................ 3
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ .................. 3
1.1 Khái niệmđặc điểm của hợp đồng thương mại điện tử .......................... 3
1.1.1 Khái niệm về hợp đồng thương mại điện tử ................................................ 3
1.1.2 Đặc điểm của hợp đông thương mại điện tử ................................................ 4
1.2 Phân loại hợp đồng thương mại điện tử ......................................................... 6
1.3 Vai trò của hợp đồng thương mại điện tử ...................................................... 6
CHƯƠNG 2: .............................................................................................................. 7
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI
ĐIỆN TỬ .................................................................................................................... 7
2.1 Nguyên tắc giao kết hợp đồng thương mại điện tử ....................................... 7
2.2 Đề nghị giao kết hợp đồng thương mại điện tử ............................................. 8
2.3 Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng thương mại điện tử .......................... 9
2.4 Hình thức của hợp đồng thương mại điện tử. ............................................. 10
2.5 Chữ điện tử ................................................................................................ 10
CHƯƠNG 3: ............................................................................................................ 12
MỘT SỐ BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VỀ GIAO KẾT HỢP
ĐỒNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ ......................................................................... 12
3.1 Một số bất cập về giao kết hợp đồng thương mại điện tử .......................... 12
3.1.1. Đề nghị giao kết hợp đồngchấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng 12
3.1.2 Chữ điện tử nước ngoài ...................................................................... 12
3.1.3. Thiếu quy định cụ thể về hình thức chữ hình ảnhchữ scan
. ........................................................................................................................... 13
3.2 Giải pháp hoàn thiện về giao kết hợp đồng thương mại điện tử ............... 13
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 14
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 16
1
MỞ ĐẦU
Chắc hẳn thuật ngữ internet đã không còn xa lạ với chúng ta nữa. Sự ra đời của
internet đã làm thay đổi thế giới và hiện nay đã trở thành một thành phần thiết yếu
không thể thiếu trong cuộc sống hằng ngày. Internet cho phép chúng ta giao tiếp và
kết nối với nhau một cách nhanh chóng không cần gặp măt trực tiếp đây cũng
chính là tiền đề cho sự phát triển của nhiều lĩnh vực và đặc biệt là sự phát triển của
thương mại điện tử. Thương mại điện tử đã trở thành phương thức giao dịch quen
thuộc đối với các công ty lớn nhỏ trên toàn thế giới và quan trọng người được
hưởng lợi nhất là khách hàng. Khách hàng có thể tìm kiếm sản phẩm mình muốn
mua một cách dễ dàng, mua sản phẩm với mức giá rẻ hơn, nhanh hơn và thuận tiện
hơn mà không cần phải ra khỏi nhà, còn doanh nghiệp thì có thể đưa sản phẩm ra
thị trường một cách nhanh nhấtthuận lợi hơn. Và đương nhiên đâu mua bán
thì ở đó có hợp đồng, chính vì vậy lúc này sẽ xuất hiện một loại hợp đồng mới gọi
là hợp đồng thương mại điện tử. Hợp đồng thương mại giúp các doanh nghiệp tiết
kiệm được khá nhiều thời gian và chi phí giao dịch, không những thế còn dễ dàng
tiếp xúc hiệu quả với các khách hàng trong và ngoài nước mà không phải phụ thuộc
vào khoảng cách địa lý và ranh giới quốc gia.
Sự ra đời và phát triển của thương mại điện tử đã làm thay đổi cách thức kinh
doanh và giao dịch truyền thống trên toàn thế giới đồng thời đem lại lợi ích to lớn
và mở ra một kỉ nguyên mới cho xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn tồn tại những
rủi ro trong quá trình giao dịch, thực tế ở đây là kinh doanh trên mạng và việc này
đòi hỏi phải các biện biện pháp không chỉ về mặt kỹ thuật mà còn phải một
sở pháp lý đầy đủ, vững mạnh. Chính phủ cũng đang không ngừng nỗ lực hoàn
thiệny dựng pháp luật v thương mại điện tử, từng bước hoàn thiện khung khổ
pháp lý, biến thương mại điện tử trở thành mũi nhọn cho sự phát triển kinh tế trong
tương lai. Luật Giao dịch điện tử năm 2005 là bộ Luật đầu tiên điều chỉnh trực tiếp
việc sử dụng các phưng tiện điện tử trong giao dịch hợp đồng, đánh dấu một bước
ngoặt quan trọng trong quá trình xây dựng khung pháp lý về giao dịch điện tử nói
chung và hợp đồng thương mại điện tử nói riêng.
Trong tình hình hiện nay thì việc giao kết hợp đồng thương mại điện tử ở nước
ta vẫn đang trong giai đoạn phát triển. Chínhvậy, nên sự phức tạp về mặt công
nghệ, sự thiếu sót về cơ sở hạ tầng, sự thiếu chuyên nghiệp của đội ngũ nhân viên
cũng đang là khó khăn để giao kết hợp đồng thương mại. Các quy định trong các
văn bản pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử còn mang tính tổng
2
quát. Còn rất nhiều trường hợp các nhân, tổ chức, hộ kinh doanh nhiều nơi
chưa biết về quy định của pháp luật trong giao kết hợp đồng thưng mại điện tử.
Từ những phân tích khái quát ở trên cho thấy, việc nghiên cứu chuyên sâu và
đưa ra giải pháp về giao kết hợp đồng thương mại điện tử ở Việt Nam hiện nay là
ý nghĩa luậnthực tiễn trong việc hoàn thiện pháp luật. Đây cũng chính
do tôi chọn đề tài “ pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử - một số
bất cập và giải pháp hoàn thiệnm tiểu luận cho kì thi lần này.
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1.1 Khái niệmđặc điểm của hợp đồng thương mại điện tử
1.1.1 Khái niệm về hợp đồng thương mại điện tử
Thương mại điện tử hiện nay đang phát triển ngày càng mạnh mẽ, nó là một
thành phần không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Với
nhiều lợi ích về chi phí, tốc độ truyền tải thông tin nhanh chóng từ đó các giao dịch
điện tử đặc biệt hợp đồng điện tử cũng hình thànhđược sử dụng ngày càng
phổ biến trong kinh doanh nói chung và kinh doanh quốc tế nói riêng. Tuy nhiên,
khái niệm về hợp đồng điện tử cho đến nay vẫn còn thể hiện sự không đồng nhất
trong quan niệm của các nhà nghiên cứu và luật pháp của các nước.
Luật mẫu của UNCITRAL về thương mại điện tử cũng như pháp luật của nhiều
nước trên thế giới không đưa ra định nghĩa thế nào hợp đồng thương mại điện tử
và thường chỉ đưa ra quy định thừa nhận giá trị pháp lý của hợp đồng được xác lập
thông qua các phương tiện điện tử. Hợp đồng được xác lập thông qua phương tiện
điện tử được hiểu tương đối thống nhất trong quy định của pháp luật các nước. Đây
là hợp đồng được ký kết thông qua việc sử dụng những phương tiện truyền các
thông điệp dữ liệu. Các hợp đồng này được gọi chung là hợp đồng điện tử.
Ở Việt Nam với sự ra đời của Luật Thương mại 2005 và Luật Giao dịch điện tử
năm 2005, pháp luật Việt Nam đã thừa nhận sự tồn tại và giá trị pháp của các hợp
đồng điện tử các thông điệp dữ liệu. Điều 33 Luật Giao dịch điện tử năm 2005
quy định “Hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ
liệu theo quy định của Luật này” Trong đó, ‘thông điệp dữ liệu“thông tin được
tạo ra, được gửi đi, được nhận và được lưu trữ bằng phương tiện điện tử” theo
khoản 12 Điều 4 Luật Giao dịch điện tử năm 2005. Theo điều 10 Luật Giao dịch
3
điện tử năm 2005 có quy định về hình thức thể hiện thông điệp dữ liệu: “Thông
điệp dữ liệu được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử,
thư điện tử, điện tín, điện báo, fax các hình thức tương tự khác.” Chính vì vậy
sở để phân biệt hợp đồng thông thường và hợp đồng thương mại điện tử là thông
qua phương tiện điện tử. Nếu trong giao dịch thông thường phương tiện thực hiện
lời nói, hành vi, văn bản thì trong giao dịch thương mại điện tử phương tiện là
phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ điện, điện tử, k thuật số, từ tính, truyền
dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ tương tự
1
.
Theo khoản 1 Điểu 3 Luật Thương mại 2005 sửa đổi 2017 thì: “ Hoạt động
thương mại hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung
ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi
khác” mà hợp đồng thương mại điện tử cũng là một hoạt động thương mại nên
đương nhiên cũng sẽ mang mục đích sinh lợi nhuận.
Như vậy, hợp đồng thương mại điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng
thông điệp dữ liệu, được hình thành thông qua việc dụng các phương tiện điện tử
với mục đích sinh lời. Xét về bản chất thì hợp đồng điện tử là sự thỏa thuận của các
bên về việc xác lập thông qua các phương tiện điện tử dưới dạng thông điệp dữ liệu.
Trong giao kết hợp đồng điện tử việc trao đổi thông tin hầu hết được thực hiện
thông qua phương tiện điện tử.
1.1.2 Đặc điểm của hợp đông thương mại điện tử
Hợp đồng thương mại điện tử trước hết những đặc điểm bản của hợp đồng
thương mại. Xét về bản chất, hợp đồng thương mại điện tử có những thuộc tính của
hợp đồng thương mại truyền thống. Tuy nhiên, do được xác lập thông qua các
phương tiện điện tử, nên hợp đồng thương mại điện tử có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, về chủ thể của hợp đồng thương mại điện tử
Chủ thể của hợp đồng chính là các bên tham gia vào giao kết hợp đồng. Khi
tham gia kết các bên phải thể hiện sự hoàn toàn tự nguyên, không bị ai ép buộc
hay lừa dối. Khác với hợp đồng thông thường chủ thể thường là các cá nhân, tổ
chức ( nếu là hợp đổng dân sự) hoặc là doanh nghiệp ( nếu là hợp đồng thương
mại). Trong khi đó chủ thể của hợp đồng thương mại điện tử có thể là doanh
nghiệp, người tiêu dùng hoặc có thể là cơ quan nhà nước.
Khác với các hợp đồng thương mại truyền thống, bên cạnh chủ thể giao kết
thông thường các bên bán và bên mua còn sự xuất hiện của n thứ ba liên
quan chặt chẽ đến hợp đồng – đó là các nhà cung cấp các dịch vụ mạng và các cơ
1
Khoản 10 Điều 4 Luật Giao dịch Điện tử 2005
4
quan chứng thực chữ ký điện tử. Bên thứ ba này không tham gia vào quá trình đàm
phán, giao kết hay thực hiện hợp đồng. Họ tham gia với tư cách là các cơ quan h
trợ nhằm đảm bảo tính hiệu quả và giá trị pháp lý cho việc giao kết và thực hiện
hợp đồng thương mại điện tử. Bên cạnh đó, việc xác định các chủ thể của hợp đồng
hay còn gọi là các bên của hợp đồng thương mại điện tử gặp không ít khó khăn
trong một số trường hợp. Các chủ thể khi tham gia vào hợp đồng thường ít quen
biết, có thể cách xa về mặt địa lý, có thể ký kết hợp đồng mà chưa từng gặp mặt
nhau. Việc xác định năng lực chủ thể và thông tin về đối tượng trong giao kết hợp
đồng không hề đơn giản, với tính chất đặc thù của loại hình kinh doanh này mang
tính phi biên giưới nên nó đem lại rủi ro về mặt chủ thể mà những nhà kinh doanh
cần hết sức cẩn trọng.
Thứ hai, thể hiện bằng thông điệp dữ liệu điện tử.
Đặc diểm nổi bật nhất của hợp đồng là hình thức thể hiện. Trong giao kết hợp
đồng điện tử, trừ trường hợp các bên thỏa thuân khác, đề nghị giao kết hợp đồng
và chấp nhận hợp đồng có thể được thực hiện thông qua thông điệp dữ liệu.
Thứ ba, tính phi biên giới
Trong giao dịch điện tử các bên giao kết hợp đồng thực hiện việc truyền thông
tin, dữ liệu thông qua một hệ thống mạng mang tính toàn cầu,vậy không khái
niệm biên giới. Một bên tham gia giao dịch dù ở bất cứ nơi nào cũng có thể giao
dịch với đối tác của mình mà không có bất kỳ cản trở nào. Hợ đồng thương mại
điện tử được ký kết thông qua các phương tiện điện tửmạng internet. Chính các
công nghệ này đã mở rộng phạm vi ký kết hợp đồng điện tử ra khắp thế giới. Tuy
nhiên việc xác định địa điểm giao kết hợp đồng sẽ khó khăn hơn hợp đồng truyền
thống, vấn đề này trở nẻn phức tạp hơn trong những hợp đồng được giao kết với
thương nhân nước ngoài, đôi khi việc xác định địa điểm giao kết là không thể tiến
hành được.
Thứ tư, tính vô hình, phi vật chất
Môi trường điện tử là môi trường ảo, do đó các hợp đồng thương mại điện tử
mang tính vô hình, phi vật chất bởihợp đồng điện tử được lưu trữ trong các dữ
liệu nên không thể cảm nhận hay sờ thấy, cầm nắm được.
Thứ năm, tính hiện đại, chính xác
Hợp đồng thương mại điện tử được giao kết dựa trên các phưng tiện kỹ thuật
hiện đại, là kết quả của sự phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ trong thời đại
hiện nay. Đó các công nghệ điện tử, kỹ thuật số, các công nghệ truyền dẫn không
dây… Việc sử dụng các công nghệy đem lại độ chính xác cao và tiết kiệm thờ
gian cho các giao dịch. Có những giao dịch mà tất cả các bước đều được tự động
hóa như quy trình tự động để mua hàng. Hợp đồng điện tử với tính hiện đại và
chính xác như vậy sẽ là phương thức giao dịch mới, hiệu quả.
5
Thứ sáu, tính rủi ro liên quan đến kỹ thuật, công nghê.
Việc giao kết hợp đồng điện tử phụ thuộc vào tính hiện đại của công nghệ, k
thuật tin học. ng với sự thuận tiện của việc sử dụng phương tiện điện tửmạng
viễn thông để ký kết hợp đồng điện tử thì đâu đó cũng có những rủi ro nhất định.
Trong môi trường ảo việc xác định tính thật giả của đơn hàng là khó khăn. Tính vô
hình, phi vật chất gây khó khăn cho việc lưu trữ hợp đồng nhằm đảm bảo bằng
chứng khi xảy ra tranh chấp. Ngoài ra sự trục trặc về mặt kỹ thuật, việc sử dụng
công nghệ chưa thành thạo có thể dẫn đến rủi ro. Trên thực tế, đã có nhiều trường
hợp gặp phải những rủi ro như trênđã phải chịu những thiệt hại nặng nề khi gặp
phải hợp đồng giả mạo.
1.2 Phân loại hợp đồng thương mại điện tử
Hợp đồng thương mại điện tử hình thành và phát triển cùng với sự hình thành
phát triển của thương mại điện tử. Dựa vào sự phát triển của công nghệ được ứng
dụng trong quá trình ký kết hợp đồng, hợp đồng thương mại 4 loại:
-Hợp đồng truyền thống được đưa lên web
Hợp đồng truyền thống đã được sử dụng thường xuyên chuẩn hóa về nội
dung, do một bên soạn thảo và đưa lên website để các bên tham gia ký kết.
- Hợp đồng điện tử hình thành qua giao dịch tự động
Nội dung của hợp đồng này không được soạn sẵn được hình thành trong giao
dịch tự động. Máy tính tự tổng hợp nội dung và xử lý trong quá trình giao dịch dựa
trên các thông tin do người mua nhập vào.
- Hợp đồng điện tử hình thành qua thư điện tử
Hợp đồng y thường được thiết lập qua nhiều email trong quá trình giao dịch,
tuy nhiên, các bên thường tập hợp thành một hợp đồng hoàn chỉnh sau quá trình
giao dịch để thống nhất lại các nội dung đã nhất trí trong quá trình đàm phán
- Hợp đồng điện tử sử dụng chữ số
Hợp đồng điện tử có sử dụng chữ ký số bằng công nghệ khóa công khai PKI.
Sau khi soạn thảo, hợp đồngcần được rút gọn bằng phần mềm. Trong mỗi bước giao
dịch, các bên sử dụng chữ ký số để bảo mật nội dung và xác thực người gửi hợp
đồng
1.3 Vai trò của hợp đồng thương mại điện tử
Từ thực tiễn việc thực hiện giao kết hợp đồng thương mại điện tử cho thấy vai
trò rất lớn của hình thức hợp đồng này đối với các doanh nghiệp, tạo nền tảng cho
6
sự thức đẩy phát triển kinh tế quốc gia. Vai trò của việc thực hiện kết hợp đồng
thương mại điện tử được thể hiện thông qua các tiện ích dưới đây:
- Hợp đồng TMĐT giúp tiết kiệm thời gian đàm phán, giao kết hợp đồng. Quá
trình giao kết hợp đồng thường trải qua các bước quy trình đàm phán, đưa ra quyết
định ký kết, sửa đổi, lưu trữ…
- Việc ứng dụng hợp đồng thương mại điện tử thông qua các công cụ thông tin
internet có thể thay thế các cuộc gặp gỡ trực tiếp giữa nhà cung cấp dịch vụ và
khách hàng, mà có thể trao đổi các thông tin, thỏa thuận về nội dung hợp đồng và
tiến hành kết bằng các ứng dụng hỗ trợ thông qua mạng internet một cách nhanh
chóng và cắt giảm một lượng chi phí phát sinh thực tế.
Bên cạnh đó việc lưu trữ, bảo quản các hợp đồng điện tửc thông tin dữ liệu
điện tử sẽ trở nên đơn giản, tiện lợi và gọn nhẹ hơn nhiều so với việc lưu trữ chúng
trên giấy tờ. Sử dụng hợp đồng thương mại điện tử sẽ đẩy nhanh tiến độ số hóa đối
với việc mua bán một số sản phẩm hàng hóa và dịch vụ.
- Giúp cho các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế. Trong điều kiện nền kinh tế thế giới phát triển nhanh chóng
sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên thế giới ngàyng trở nên gay gắt, việc
tìm kiếm thêm nhiều đối tác, thị trường mới, việc tổ chức các kênh cung ứng linh
hoạt, nhanh chóng với chi phí giảm và khả năng phản ứng nhanh nhạy trước những
thời cơ kinh doanh chính là lợi thế không thể thiếu với những doanh nghiệp muốn
tồn tại và phát triển trong thị trường phi biên giới.
CHƯƠNG 2:
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƯƠNG
MẠI ĐIỆN TỬ
2.1 Nguyên tắc giao kết hợp đồng thương mại điện tử
Theo khoản 1 điều 36 Luật Giao dịch điện tử 2005: Giao kết hợp đồng điện tử
là việc sử dụng thông điệp dữ liệu để tiến hành một phần hoặc toàn bộ giao dịch
trong quá trình giao kết hợp đồng”. Vì vậy, giao kết hợp đồng thương mại điện tử
được hiểu việc tạo lậpkết hợp đồng phải thông qua việc trao đổi dữ liệu
kết nối mạng.
Vì đây sử dụng phương tiện điện tử truyền tải có kết nối mạng nên ngoài các
nguyên tắc chung như khi giao kết hợp đồng dân sự là: tự do, tự nguyện, bình đẳng,
7
thiện chí, không vi phạm điều cấm của luật, không trái với đạo đức xã hội ( quy
định tại khoản 3 điều 2015) thì giao kết hợp đồng thương mại điện tử còn phải tuân
thủ theo quy tắc riêng biệt. Điều 35 Luật Giao Dịch điện tử 2005 quy định:
“1. Các bên tham gia quyền thỏa thuận sử dụng phương tiện điện tử trong
giao kết và thực hiện hợp đồng.
2. Việc giao kết thực hiện hợp đồng điện tử phải tuân thủ các quy định của
Luật này và pháp luật về hợp đồng.
3. Khi giao kết thực hiện hợp đồng điện tử, các bên quyền thoả thuận về
yêu cầu kỹ thuật, chứng thực, các điều kiện bảo đảm tính toàn vẹn, bảo mật liên
quan đến hợp đồng điện tử đó.”
Nguyên tắc thứ nhất, nghĩa pháp luật cho phép cácn tham gia quyền lựa
chọn sử dụng hay không sử dụng phương tiện điện tử trong quá trình giao kết,
quyền lựa chọn tham gia hay không tham gia vào hợp đồng thương mại điện tử.
Chính vậy ta thể thấy việc lựa chọn tham gia vào hợp đồng thương mại
điện tử là hoàn tự nguyện.
Nguyên tắc thứ hai, ngoài việc phải tuân thủ các nguyên tắc trong Luật Giao
Dịch điện tử 2005 tcác bên còn phải tuân thủ các nguyên tắc chung của những
luật khác, dụ về nguyên tắc giao kết hợp đồng của BLDS 2015 hoặc các quy
định khác trong Luật thương mại.
Nguyên tắc thứ ba, xuất phát từ những đặc điểm dẫn đến khả năng rủi ro khi
giao kết hợp đồng thông qua internet, nên khi giao kết hợp đồng các bên toàn
quyền thỏa thuận lựa chọn các phương thức bảo đảm vấn đề an ninh, thuật,
chứng cứ của hợp đồng để phù hợp với từng loại giao dịch cũng như điều kiện về
công nghệ của các bên tham gia.
Cũng giống như các hợp đồng khác thì khi tham gia hợp đồng thương mại điện
tử các bên vẫn phải tuân thủ đảm bảo đúng với với các quy định về quyn tự do
thỏa thuận và giao kết, cũng như chấp hành nghiêm túc các quy định về giao kết
được quy định tại điều 35 Luật Giao Dịch điện tử 2005.
2.2 Đề nghị giao kết hợp đồng thương mại điện tử
Khoản 1, điều 386 BLDS 2015 quy định: “ Đề nghị giao kết hợp đồng là việc
thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên
đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng (sau đây gọi chung là
bên được đề nghị)” và khoản 2, điều 36 Luật Giao Dich điện tử quy định: “Trong
giao kết hợp đồng, trừ trường hợp các bên thỏa thuận khác, đề nghị giao kết hợp
đồng và chấp nhận giao kết hợp đồng có thể được thực hiện thông qua thông điệp
dữ liệu.” Chính vì vậy, trong đề nghị giao kết hợp đồng thương mại điện tử thì một
8
bên thể bắt đầu lời đề nghịgửi đến bên được đề nghị với mong muốn giao kết
hợp đồng trong bất kì thời gian nào trong ngày hay ở bất kì đâu trên thế giới, bằng
việc sử dụng các thiết bị điện tử có kết nối internet, ví dụ: máy tính, điện thoại di
động, máy tính bảng,...
Ngoài ra chúng ta nên phân biệt giữa một thông báo về đề nghị giao kết hợp
đồng và một lời đề nghị giao kết hợp đồng. Một thông báo về đề nghị giao kết hợp
đồng hiện nay thể thấy rất nhiều trên các kênh bán hàng trực tuyền, cụ thể là nếu
một website thương mại điện tử chức năng đặt hàng trực tuyến áp dụng cho từng
hàng hóa hoặc dịch vụ cụ thể được giới thiệu trên website đó, thì các thông tin giới
thiệu về hàng hóa, dịch vụ và các điều khoản liên quan được coi là thông báo mời
đề nghị giao kết hợp đồng của thương nhân, tổ chức, cá nhân bán hàng
2
, và đương
nhiên nó chỉ thông báo nên không ràng buộc về quyền lợinghĩa vụ của bên
nhận được thông báo. Còn một lời đề nghị về giao kết hợp đồng chứng từ điện tử
do khách hàng khởi tạo và gửi đi bằng cách sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến
được coi là đề nghị giao kết hợp đồng của khách hàng đối với hàng hóa hoặc dịch
vụ gắn kèm chức năng đặt hàng trực tuyến đó
3
, nên lúc này sẽ có ràng buộc về mặt
quyền lợi và nghĩa vụ.
2.3 Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng thương mại điện tử
Khoản 1, Điều 393 BLDS 2015 quy định: “Chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng là sự trả lời của bên được đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề
nghị” Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng thực chất việc bên được đề nghị nhận
lời đề nghị và đồng ý tiến hành việc giao kết hợp đồng với bên đã đề nghị.
Khi các bên kí kết hợp đồng thương mại điện tử với nhau thì sẽ kí kết một cách
gián tiếp bằng cách thông qua các phương tiện điện tử. Do đó, việc chấp nhận đề
nghị giao kết hợp đồng thể được xác định trong một thời hạn nhất định. Nếu các
bên đã ấn định một khoảng thời gian trả lời, thì bên được đề nghị phải trả lời trong
khoản thời gian đó. Nếu các bên không thỏa thuận thời hạn trả lời, thì thời gian trả
lời đề nghị giao kết hợp đồng sẽ theo quy định của pháp luật trong từng trường hợp
cụ thể.
Theo khoản 1, điều 19 Nghị định 52/2013/NĐ-CP về thương mại điện tử quy
định : Trả lời chấp nhận hoặc không chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng phải
được thực hiện dưới hình thức phù hợp để thông tin có thể lưu trữ, in và hiển thị
được tại hệ thống thông tin của khách hàng” nên khi trả lời về đề nghị giao kết hợp
đồng thì phải thể hiện ới một hình thức phù hợp, cụ thể để khách hàng thể biết
2
Điều 15 Nghị định 52/2013/NĐ-CP về thương mại điện tử.
3
Điều 17 Nghị định 52/2013/NĐ-CP về thương mại điện tử.
9
được là lời đề nghị của mình có được chấp nhận hay không. Trong trường hợp
người được đề nghị chỉ chấp nhận một phần thì lúc này họ sẽ trở thành người đề
nghị mớingười đề nghị trước sẽ trở thành người được đề nghị ( điều 392 BLDS
2015). Sự hoán đổi này có thể xảy ra nhiều lần cho đến khi các bên thống nhất ý
kiến thì thôi.
Còn về việc rút lại thông báo chấp nhận giao kết đối với hợp đồng thương mại
điện tử thì hiện nay chưa có quy định cụ thể nên sẽ được áp dung theo quy định tại
điều 397 BLDS 2015: Bên được đề nghị giao kết hợp đồng có thể rút lại thông
báo chấp nhận giao kết hợp đồng, nếu thông báo về việc rút lại này đến trước hoặc
cùng với thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng”.
Nghĩa là nếu thông báo rút lại yêu cầu đó được nhập vào hệ thống thông tin chính
thức của n đề nghị trước hoặc cùng thời điểm trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng
điện tử được nhận vào hệ thống thông tin của bên đề nghị thì sẽ được rút lại thông
báo chấp nhận giao kết. Tuy nhiên do giao kết hợp đồng được thực hiện thông qua
phương tiện điện tử kết nối internet nên có thể xảy ra trường hợp lỗi mạng,.. nên
khống báo rút lại lời đề nghị không thể tới trước hoặc cùng thời điểm được. vậy,
pháp luật Thương mại điện tử cần có những quy định rõ ràng, cụ thể hơn.
2.4 Hình thức của hợp đồng thương mại điện tử.
Hình thức hợp đồng là cách thức thể hiện của hợp đồng để ghi nhận sự thỏa
thuận của c bên trong hợp đồng. Các bên thể thỏa thuận về hình thức của hợp
đồng: bằng lời nói, bằng văn bản hay bằng hành vi cụ thể. Còn đối với hợp hợp
đồng thương mại điện tử do nó được thiết lập dưới dạng thông tin dữ liệu nên hợp
đồng điện tử có thể được soạn thảo và gửi qua thư điện tử hay thông qua các trang
web bán hàng trực tuyến thì đó chỉ là việc “ nhấn nút đồng ý” khi người mua đã
tham khảo các thông tin về sản phẩm hay dịch vụ, khi đó hợp đồng được xem như
đã giao kết và các bên bắt đầu tiến hành thực hiện nội dung như đã cam kết.
Luật Giao Dịch điện tử 2005 chưa quy định cụ thể về hình thức của hợp đồng
thương mại điện tử mà chỉ ghi nhận rằng hợp đồng điện tử được thiết lập dưới dạng
thông điệp dữ liệu. Cụ thể tại điều 10 Luật Giao Dịch điện tử 2005 quy định về hình
thức thể hiện thông điệp dữ liệu: “Thông điệp dữ liệu được thể hiện dưới hình thức
trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các
hình thức tương tự khác”. Bởi vậy chúng ta cần quy định cụ thể về hình thức của
hợp đồng thương mại điện tử.
2.5 Chữ điện tử
10
Hiện nay, theo quy định về chữ trên hợp đồng điện tử, khi giao kết hợp đồng
điện tử, các n sẽ sử dụng chữ điện tử. Theo quy định tại luật giao dịch điện tử
2005, chữ ký điện tử có các đặc điểm như:
- Được tạo lập dưới dạng dữ liệu điện tử như chữ,hiệu, hình ảnh, âm thanh…
- Được gắn liền, kết hợp với hợp đồng điện tử một cách logic. Chẳng hạn như
dưới dạng file Word hoăc File PDF
- Người dùng có thể nhận dạng người thông qua chữ điện tử. Chữ y
phải có khả năng xác nhận được người thông qua chữ điện tử, người ký sẽ
thể hiện sự chấp thuận đối với các nội dung trên hợp đồng.
Hiện nay, trong công cuộc chuyển đổi số, hợp đồng điện tử đang được sử dụng
cực kỳ phổ biến. để giao kết hợp đồng điện tử, bạn có thể sử dụng 1 trong 3 loại
chữ ký điện tử phổ biến sau:
Chữ số: Chữ số được hiểu một dạng chữ điện tử. Trong đó, chữ
sẽ được tạo ra bằng sự biến đổi các thông điệp dữ liệu thông qua một hệ thống mật
mã không đối xứng. Khi sử dụng chữ ký số, người dùng thể sử dụng một thiết bị
như USB Token để ký. Thiết bị y phải được cung cấp bởi các đơn vị chứng thực
chữ số công cộng. Mỗi doanh nghiệp, tổ chức, nhân khi đăng sẽ một
chữ ký số riêng biệt để nhận biết và giao kết các hợp đồng điện tử.
Chữ scan: Theo quy định về chữ ký trên hợp đồng, bạn thể sử dụng chữ
scan để giao kết hợp đồng điện tử. Hiểu một cách đơn giản, chữ Scan chữ
được chuyển thành dạng điện tử sau khi tay trên hợp đồng giấy. Các bên thể
chuyển thành hợp đồng điện tử thông qua máy quét (scan) và gửi qua thư điện tử.
Chữ hình ảnh: Chữ hình ảnh chữ được người dùng tay, sau đó
chuyển thành hình ảnh chèn vào dữ liệu của hợp đồng điện tử. Sau đó, hợp đồng
điện tử có thể được gửi qua thư điện tử.
Khi hợp đồng điện tử, chữ điện tử phải đảm bảo giá trị pháp lý. Và theo
quy định hiện hành, chữ ký điện tử sẽ có giá trị pháp lý khi thỏa mãn các điều kiện:
- Phương pháp tạo ra chữđiện tử phải đảm bảo về việc thể xác minh người
ký. thông qua chữ đó, phải chứng tỏ được rằng người đã chấp thuận với
tất cả các điều khoản, nội dung trong hợp đồng.
- Phương pháp tạo ra chữ điện tử phải đủ tin cậy phù hợp với mục đích
của hợp đồng, không vi phạm các điều cấm của pháp luật.
Hiện nay, pháp luật chưa quy định hướng dẫn chi tiết cho chữ điện tử.
Do đó, khi m hiểu khung pháp của chữ ký điện tử, được sử dụng trên hợp đồng
điện tử, các doanh nghiệp có thể tham khảo các văn bản pháp luật về chữ ký số.
11
CHƯƠNG 3:
MỘT SỐ BẤT CẬP GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VỀ GIAO KẾT HỢP
ĐỒNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
3.1 Một số bất cập về giao kết hợp đồng thương mại điện tử
3.1.1. Đề nghị giao kết hợp đồngchấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
Luật về thương mại điện tử hiện hành không quy định cụ thể thế nào “đề nghị
giao kết hợp đồng”, “chấp nhận giao kết hợp đồng” mà chỉ đề cập thông qua hoạt
động gửi nhận thông điệp dữ liệu. Về bản chất, “đề nghị giao kết hợp đồng” và
“chấp nhận giao kết hợp đồng” đều là hai hoạt động của giao kết hợp đồng thương
mại điện tử. Tuy nhiên, Luật Giao dịch điện tử năm 2005 và Nghị định
52/2013/NĐ-CP lại không sử dụng thuật ngữ này, nhưng trong giao kết hợp đồng
khi sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến trên website (tại mục 2 Nghị định
52/2013/NĐ-CP) lại dùng sử dụng thuật ngữ “đề nghị giao kết”, “chấp nhận giao
kết” mà không thông qua thông điệp dữ liệu điện tử. Việc quy định thuật ngữ thiếu
đồng nhất giữa văn bản luật và nghị định hướng dẫn hay trong cùng nghị định là
thiếu hợp lý về kỹ thuật lập pháp.
Luật Giao dịch điện tử 2005 cũng không xác định thời điểm nào là thời điểm
giao kết. Trong Luật Giao dịch điện tử 2005 tại các điều 17,18,19 chỉ quy định về
thời điểm, địa chỉ gửi, địa chỉ nhận thông điệp dữ liệu không quy định nào đề
cập việc nhận một thông điệp dữ liệu như thế nào thì được coi là chấp nhận chào
hàng và từ đó hình thành hợp đồng điện tử. Xác định thời điểm hiệu lực rất quan
trọng vì đây điều kiện xác định hiệu lực của hợp đồng.
3.1.2 Chữ điện tử nước ngoài
Khoản 1 Điều 27 Luật Giao dịch điện tử năm 2005 quy định: “Nhà nước công
nhận giá trị pháp lý của chữ điện tử chứng thư điện tử nước ngoài nếu chữ
điện tử hoặc chứng thư điện tử đó độ tin cậy tương đương với độ tin cậy của chữ
ký điện tử và chứng thư điện tử theo quy định của pháp luật. Việc xác định mức độ
tin cậy của chữ ký điện tử và chứng thư điện tử nước ngoài phải căn cứ vào các
tiêu chuẩn quốc tế đã được thừa nhận, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên và các yếu tố có liên quan khác”. Vậy làm thế nào để
xác định một chữ ký điện tử nước ngoài là có độ tin cậy tương đương với chữ
điện tử thông thường theo quy định của pháp luật Việt Nam. Hiện cũng chưa một
văn bản nào thừa nhận những tiêu chuẩn quốc tế, hay các điều ước quốc tế nào mà
Việt Nam là thành viên để xác định độ tin cậy của một chữ ký điện tử nước ngoài.
12
Khoản 2 Điều 27 Luật Giao dịch điện tử năm 2005 cũng quy định: “Chính phủ quy
định cụ thể về việc thừa nhận chữ ký điện tử và chứng thư điện tử nước ngoài
nhưng cho đến nay, sau hơn 17 năm từ khi Luật Giao dịch điện tử ra đời vẫn chưa
một văn bản nào của Chính phủ quy định cụ thể về vấn đề này, kể cả vừa qua, sự
ra đời của Nghị định 85/2021 ND-CP sửa đổi bổ sung Nghị định 52/2013 NP-CP đã
cải thiện rất nhiều về hoạt động thương mại điện tử, trong đó có bổ sung thêm các
điều quy định về hoạt động thương mại điện tử của thương nhân, tổ chức nước
ngoài và còn có Nghị định 130/2018/NĐ-CP về chữ ký số và dịch vụ chứng thực
chữ ký số nhưng vẫn không có quy định về làm thế nào để xác định độ tin cậy của
một chữ ký điện tử nước ngoài.
Có thể thấy, trong bối cảnh hội nhập quốc tế toàn cầu hóa sâu rộng như hiện
nay, vấn đề giao kết hợp đồng thương mại điện tử với người nước ngoài cần đặc
biệt quan tâm. Chính phủ không những cần thừa nhận giá trị pháp lý của chữ ký
điện tử, chứng thư điện tử nước ngoài, còn cần quy định chi tiết về lời đề nghị,
chấp nhận giao kết, hiệu lực hợp đồng cũng như cơ chế giải quyết tranh chấp giữa
doanh nghiệp Việt Nam với các thương nhân nước ngoài.
3.1.3. Thiếu quy định cụ thể về hình thức chữ hình ảnhchữ scan
Hiện tại pháp luật điều chỉnh về chữ kí điện tử bao gồm Luật Giao dịch điện tử
2005, Nghị định 130/2018/NĐ-CP Nghị định 52/2013/NĐ-CP chưa quy định cụ
thể về chữ ký scan, chữ ký hình ảnh nên hai phương thức ký kết này không được
Pháp luật thừa nhận hay không có tính hiệu lực pháp luật.
3.2 Giải pháp hoàn thiện về giao kết hợp đồng thương mại điện tử
Hiện nay khung pháp lý về giao kết hợp đồng thương mại điện tử đang từng
bước được hình thành, tuy nhiên vẫn chưa được hoàn thiện nên giải pháp phải
tiếp tục sửa đổi Luật Giao dịch điện tử 2005 về các quy định giao kết hợp đồng.
Thứ nhất, cần bổ sung các quy định cụ thể hướng dẫn việc giao kết hợp đồng
thương mại điện tử
Vấn đề giao kết hợp đồng điện tử về việc gửi, nhận thông điệp dữ liệu như một
quy trình để giao kết hợp đồng thương mại điện tử. Tuy nhiên, có thể thấy, các quy
định này còn sài chưa bao quát được hết các vấn đề pháp phát sinh khi giao
kết hợp đồng thương mại điện tử trong giai đoạn hiện nay. Có thể đặt ra hàng hoạt
những câu hỏi chưa thể giải đáp rõ ràng như: Yếu tố xác định một đề nghị giao kết
hợp đồng điện tử là chắc chắn? Trong trường hợp người đề nghị giao kết hợp đồng
điện tử đã gửi đề nghị giao kết nhưng sau đó muốn thu hồi lại đề nghị đó thì phải
làm như thế nào, khi các thao tác qua phương tiện điện tử gần như “tức thời”? Thế
13
nào được coi là một chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng điện tử? Khi người được
đề nghị đã chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng nhưng nếu điều kiện hay các sửa
đổi đề nghị thì có được coi là một lời đề nghị mới hay không?...
Bởi vậy, cần bổ sung những quy định hướng dẫn giao kết hợp đồng điện tử. Cụ
thể, cần bổ sung quy định về khái niệm đề nghị giao kết hợp đồng điện tử, về thời
hạn hiệu lực của một đề nghị giao kết hợp đồng điện tử, về thay đổi, rút lại, hủy bỏ
và chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng điện tử. Đồng thời, quy định về khái niệm
chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng điện tử, về thời hạn trả lời chấp nhận giao kết
hợp đồng điện tử, về nội dung hợp đồng điện tử. Những vấn đề về điều kiện hiệu
lực của hợp đồng điện tử, hợp đồng điện tử vô hiệu và cách xử lý hợp đồng điện tử
vô hiệu được áp dụng các quy định tương ứng của Bộ luật Dân sự.
Thứ hai, bổ sung quy định về giao kết hợp đồng thương mại điện tử yếu tố
nước ngoài
Luật Giao dịch điện tử năm 2005 hiện nay chỉ quy định một điều khoản liên
quan đến chữ ký điện tử và chứng thư điện tử, vì vậy cần bổ sung vào Luật Giao
dịch điện tử những vấn đề liên quan đến giao kếtthực hiện hợp đồng điện tử
yếu tố nước ngoài. Chúng ta thể tham khảo các quốc giacác tổ chức quốc tế
trên thế giới về vấn đề này như kinh nghiệm của Hoa Kỳ, Singapore hay
UNCITRAL. Trong đó, cần thiết nhất quy định về chữđiện tử của các doanh
nghiệp nước ngoài. Để thúc đẩy hoạt động đầu tư, hội nhập quốc tế, cần thừa nhận
giá trị pháp lý tương đương của chữ ký điện tử thuộc doanh nghiệp nước ngoài.
Thứ ba, Ban hành văn bản dẫn luật để hướng dẫn thực hiện giao kết hợp đồng
thương mại điện tử có yếu tố nước ngoài.
KẾT LUẬN
Thương mại điện tử ở nước ta đang ngày một phát triển, vì vậy một nền tảng
pháp vững chắc để thực hiện các giao dịch một cách thuận tiệnnhanh chóng
hết sức cần thiết. Tuy nhiên thực tiễn áp dụng đã làm nảy sinh nhiều vấn đề vướng
mắc, khó khăn đối với các nhà lập pháp, các cơ quản lý nhà nướccác bên có liên
quan, đòi hỏi cần có sự trao đổi, nghiên cứu để tiếp tục củng cố và hoàn thiện hệ
thống các quy phạm pháp luật này.
Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng thương mại điện tử là biện pháp cần thiết để
đảm bảo sự tương thích giữa các chủ trương chính sách, quy định pháp luật của nhà
14
nước với sự phát triển không ngừng nghỉ của nền tảng giao dịch thương mại điện tử
ngày càng phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam hiện nay.
Trên đây là toàn bộ nội dung nghiên cứu của tôi đối với các nội dung pháp lý
liên quan đến việc giao kết hợp đồng thương mại điện tử, trên sở đó tôi đã đưa ra
các kiến nghị, đề xuất để hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại
điện tử và từ đó mong có thể góp phần thúc đẩy hình thức kinh doanh hiện đại này
ngày càng phát triển và đóng góp cho kinh tế của đất nước.
15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Các n bản pháp luật
1. Bộ Luật Dân sự 2015
2. Luật Giao dịch điện tử 2005
3. Luật Thương Mại 2005 (sửa đổi 2017)
4. Nghị định 85/2021/NĐ-CP Sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định
số 52/2013/nđ-cp ngày 16 tháng 5 m 2013 của chính phủ về thương mại điện tử
5. Nghị định 52/2013/NĐ-CP về thương mại điện tử
B. Các tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Phát Minh ( 2019), giao kết thực hiện hợp đồng thương mại điện
tử theo pháp luật việt nam, TP. Hồ Chí Minh
Link: https://123docz.net//document/7117686-luan-van-thac-si-giao-ket-va-
thuc-hien-hop-dong-thuong-mai-dien-tu-theo-phap-luat-viet-nam.htm
2. Nguyễn Nhất ( 2017), hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt
Nam, Hà Nội
Link: https://www.slideshare.net/trongthuy3/luan-van-hop-dong-thuong-mai-
dien-tu-theo-phap-luat-viet-nam
3. Website: https://luatminhkhue.vn/hop-dong-thuong-mai-dien-tu-la-gi-dac-
diem-cua-hop-dong-thuong-mai-dien-tu.aspx
4. Website: https://econtract.efy.com.vn/hddt/quy-trinh-giao-ket-hop-dong-dien-
tu.html#/
5. Website:
https://luathoangphi.vn/giao-ket-hop-dong-thuong-mai-dien-tu/
6. Website:
https://phaptri.vn/hop-dong-thuong-mai-dien-tu/
7. Website: https://thegioiluat.vn/bai-viet-hoc-thuat/hoan-thien-phap-luat-ve-
giao-ket-hop-dong-thuong-mai-dien-tu-o-viet-nam-334/
8. Website: http://luatsaosang.vn/thuong-mai/kien-thuc-thuong-mai/giao-ket-
hop-dong-thuong-mai-thong-qua-internet-xu-huong-va-hoi-nhap.html
9. Website: https://interits.com/hop-dong-dien-tu-la-gi/
16
17

Preview text:

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT Số phách:
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN ĐỀ TÀI:
PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ -
MỘT SỐ BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN.
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Học phần: Luật Thương Mại 2
Giảng viên phụ trách: ThS. Mai Xuân Hợi
SINH VIÊN THỰC HIỆN: VÕ THỊ KIM HOANH MÃ SINH VIÊN: 20A5020071
LỚP CHUYÊN NGÀNH: Luật Kinh tế K44A
THỪA THIÊN HUẾ, năm 2022 ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT Số phách:
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN ĐỀ TÀI:
PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ -
MỘT SỐ BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN.
Chuyên ngành: Luật Kinh Tế
Học phần: Luật Thương Mại 2 Điểm số: Điểm chữ: Ý 1 Ý 2 Ý 3 Ý 4 Ý 5 TỔNG: Giảng viên chấm 1 Giảng viên chấm 2 ( Ký và ghi rõ họ tên) ( Ký và ghi rõ họ tên)
THỪA THIÊN HUẾ, năm 2022 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 2
CHƯƠNG 1 ................................................................................................................ 3
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ .................. 3
1.1 Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng thương mại điện tử .......................... 3
1.1.1 Khái niệm về hợp đồng thương mại điện tử ................................................ 3
1.1.2 Đặc điểm của hợp đông thương mại điện tử ................................................ 4
1.2 Phân loại hợp đồng thương mại điện tử ......................................................... 6
1.3 Vai trò của hợp đồng thương mại điện tử ...................................................... 6
CHƯƠNG 2: .............................................................................................................. 7
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI
ĐIỆN TỬ
.................................................................................................................... 7
2.1 Nguyên tắc giao kết hợp đồng thương mại điện tử ....................................... 7
2.2 Đề nghị giao kết hợp đồng thương mại điện tử ............................................. 8
2.3 Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng thương mại điện tử .......................... 9
2.4 Hình thức của hợp đồng thương mại điện tử. ............................................. 10
2.5 Chữ ký điện tử ................................................................................................ 10
CHƯƠNG 3: ............................................................................................................ 12
MỘT SỐ BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VỀ GIAO KẾT HỢP
ĐỒNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
......................................................................... 12
3.1 Một số bất cập về giao kết hợp đồng thương mại điện tử .......................... 12 3.1.1.
Đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng 12
3.1.2 Chữ kí điện tử nước ngoài ...................................................................... 12
3.1.3. Thiếu quy định cụ thể về hình thức chữ ký hình ảnh và chữ ký scan
. ........................................................................................................................... 13
3.2 Giải pháp hoàn thiện về giao kết hợp đồng thương mại điện tử ............... 13
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 14
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 16 1 MỞ ĐẦU
Chắc hẳn thuật ngữ internet đã không còn xa lạ với chúng ta nữa. Sự ra đời của
internet đã làm thay đổi thế giới và hiện nay đã trở thành một thành phần thiết yếu
không thể thiếu trong cuộc sống hằng ngày. Internet cho phép chúng ta giao tiếp và
kết nối với nhau một cách nhanh chóng mà không cần gặp măt trực tiếp và đây cũng
chính là tiền đề cho sự phát triển của nhiều lĩnh vực và đặc biệt là sự phát triển của
thương mại điện tử. Thương mại điện tử đã trở thành phương thức giao dịch quen
thuộc đối với các công ty lớn nhỏ trên toàn thế giới và quan trọng người được
hưởng lợi nhất là khách hàng. Khách hàng có thể tìm kiếm sản phẩm mình muốn
mua một cách dễ dàng, mua sản phẩm với mức giá rẻ hơn, nhanh hơn và thuận tiện
hơn mà không cần phải ra khỏi nhà, còn doanh nghiệp thì có thể đưa sản phẩm ra
thị trường một cách nhanh nhất và thuận lợi hơn. Và đương nhiên ở đâu có mua bán
thì ở đó có hợp đồng, chính vì vậy lúc này sẽ xuất hiện một loại hợp đồng mới gọi
là hợp đồng thương mại điện tử. Hợp đồng thương mại giúp các doanh nghiệp tiết
kiệm được khá nhiều thời gian và chi phí giao dịch, không những thế còn dễ dàng
tiếp xúc hiệu quả với các khách hàng trong và ngoài nước mà không phải phụ thuộc
vào khoảng cách địa lý và ranh giới quốc gia.
Sự ra đời và phát triển của thương mại điện tử đã làm thay đổi cách thức kinh
doanh và giao dịch truyền thống trên toàn thế giới đồng thời đem lại lợi ích to lớn
và mở ra một kỉ nguyên mới cho xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn tồn tại những
rủi ro trong quá trình giao dịch, thực tế ở đây là kinh doanh trên mạng và việc này
đòi hỏi phải có các biện biện pháp không chỉ về mặt kỹ thuật mà còn phải có một cơ
sở pháp lý đầy đủ, vững mạnh. Chính phủ cũng đang không ngừng nỗ lực hoàn
thiện và xây dựng pháp luật về thương mại điện tử, từng bước hoàn thiện khung khổ
pháp lý, biến thương mại điện tử trở thành mũi nhọn cho sự phát triển kinh tế trong
tương lai. Luật Giao dịch điện tử năm 2005 là bộ Luật đầu tiên điều chỉnh trực tiếp
việc sử dụng các phưng tiện điện tử trong giao dịch hợp đồng, đánh dấu một bước
ngoặt quan trọng trong quá trình xây dựng khung pháp lý về giao dịch điện tử nói
chung và hợp đồng thương mại điện tử nói riêng.
Trong tình hình hiện nay thì việc giao kết hợp đồng thương mại điện tử ở nước
ta vẫn đang ở trong giai đoạn phát triển. Chính vì vậy, nên sự phức tạp về mặt công
nghệ, sự thiếu sót về cơ sở hạ tầng, sự thiếu chuyên nghiệp của đội ngũ nhân viên
cũng đang là khó khăn để giao kết hợp đồng thương mại. Các quy định trong các
văn bản pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử còn mang tính tổng 2
quát. Còn rất nhiều trường hợp các cá nhân, tổ chức, hộ kinh doanh ở nhiều nơi
chưa biết về quy định của pháp luật trong giao kết hợp đồng thưng mại điện tử.
Từ những phân tích khái quát ở trên cho thấy, việc nghiên cứu chuyên sâu và
đưa ra giải pháp về giao kết hợp đồng thương mại điện tử ở Việt Nam hiện nay là
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc hoàn thiện pháp luật. Đây cũng chính là lý
do tôi chọn đề tài “ pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử - một số
bất cập và giải pháp hoàn thiện
làm tiểu luận cho kì thi lần này. CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1.1 Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng thương mại điện tử
1.1.1 Khái niệm về hợp đồng thương mại điện tử
Thương mại điện tử hiện nay đang phát triển ngày càng mạnh mẽ, nó là một
thành phần không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Với
nhiều lợi ích về chi phí, tốc độ truyền tải thông tin nhanh chóng từ đó các giao dịch
điện tử và đặc biệt là hợp đồng điện tử cũng hình thành và được sử dụng ngày càng
phổ biến trong kinh doanh nói chung và kinh doanh quốc tế nói riêng. Tuy nhiên,
khái niệm về hợp đồng điện tử cho đến nay vẫn còn thể hiện sự không đồng nhất
trong quan niệm của các nhà nghiên cứu và luật pháp của các nước.
Luật mẫu của UNCITRAL về thương mại điện tử cũng như pháp luật của nhiều
nước trên thế giới không đưa ra định nghĩa thế nào là hợp đồng thương mại điện tử
và thường chỉ đưa ra quy định thừa nhận giá trị pháp lý của hợp đồng được xác lập
thông qua các phương tiện điện tử. Hợp đồng được xác lập thông qua phương tiện
điện tử được hiểu tương đối thống nhất trong quy định của pháp luật các nước. Đây
là hợp đồng được ký kết thông qua việc sử dụng những phương tiện truyền các
thông điệp dữ liệu. Các hợp đồng này được gọi chung là hợp đồng điện tử.
Ở Việt Nam với sự ra đời của Luật Thương mại 2005 và Luật Giao dịch điện tử
năm 2005, pháp luật Việt Nam đã thừa nhận sự tồn tại và giá trị pháp lý của các hợp
đồng điện tử và các thông điệp dữ liệu. Điều 33 Luật Giao dịch điện tử năm 2005 có
quy định “Hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ
liệu theo quy định của Luật này”
Trong đó, ‘thông điệp dữ liệu“thông tin được
tạo ra, được gửi đi, được nhận và được lưu trữ bằng phương tiện điện tử”
theo
khoản 12 Điều 4 Luật Giao dịch điện tử năm 2005. Theo điều 10 Luật Giao dịch 3
điện tử năm 2005 có quy định về hình thức thể hiện thông điệp dữ liệu: “Thông
điệp dữ liệu được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử,
thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác.”
Chính vì vậy cơ
sở để phân biệt hợp đồng thông thường và hợp đồng thương mại điện tử là thông
qua phương tiện điện tử. Nếu trong giao dịch thông thường phương tiện thực hiện là
lời nói, hành vi, văn bản thì trong giao dịch thương mại điện tử phương tiện là
phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền
dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ tương tự1.
Theo khoản 1 Điểu 3 Luật Thương mại 2005 sửa đổi 2017 thì: “ Hoạt động
thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung
ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi
khác”
mà hợp đồng thương mại điện tử cũng là một hoạt động thương mại nên
đương nhiên cũng sẽ mang mục đích sinh lợi nhuận.
Như vậy, hợp đồng thương mại điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng
thông điệp dữ liệu, được hình thành thông qua việc sư dụng các phương tiện điện tử
với mục đích sinh lời. Xét về bản chất thì hợp đồng điện tử là sự thỏa thuận của các
bên về việc xác lập thông qua các phương tiện điện tử dưới dạng thông điệp dữ liệu.
Trong giao kết hợp đồng điện tử việc trao đổi thông tin hầu hết được thực hiện
thông qua phương tiện điện tử.
1.1.2 Đặc điểm của hợp đông thương mại điện tử
Hợp đồng thương mại điện tử trước hết có những đặc điểm cơ bản của hợp đồng
thương mại. Xét về bản chất, hợp đồng thương mại điện tử có những thuộc tính của
hợp đồng thương mại truyền thống. Tuy nhiên, do được xác lập thông qua các
phương tiện điện tử, nên hợp đồng thương mại điện tử có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, về chủ thể của hợp đồng thương mại điện tử
Chủ thể của hợp đồng chính là các bên tham gia vào giao kết hợp đồng. Khi
tham gia ký kết các bên phải thể hiện sự hoàn toàn tự nguyên, không bị ai ép buộc
hay lừa dối. Khác với hợp đồng thông thường chủ thể thường là các cá nhân, tổ
chức ( nếu là hợp đổng dân sự) hoặc là doanh nghiệp ( nếu là hợp đồng thương
mại). Trong khi đó chủ thể của hợp đồng thương mại điện tử có thể là doanh
nghiệp, người tiêu dùng hoặc có thể là cơ quan nhà nước.
Khác với các hợp đồng thương mại truyền thống, bên cạnh chủ thể giao kết
thông thường là các bên bán và bên mua còn có sự xuất hiện của bên thứ ba có liên
quan chặt chẽ đến hợp đồng – đó là các nhà cung cấp các dịch vụ mạng và các cơ
1 Khoản 10 Điều 4 Luật Giao dịch Điện tử 2005 4
quan chứng thực chữ ký điện tử. Bên thứ ba này không tham gia vào quá trình đàm
phán, giao kết hay thực hiện hợp đồng. Họ tham gia với tư cách là các cơ quan hỗ
trợ nhằm đảm bảo tính hiệu quả và giá trị pháp lý cho việc giao kết và thực hiện
hợp đồng thương mại điện tử. Bên cạnh đó, việc xác định các chủ thể của hợp đồng
hay còn gọi là các bên của hợp đồng thương mại điện tử gặp không ít khó khăn
trong một số trường hợp. Các chủ thể khi tham gia vào hợp đồng thường ít quen
biết, có thể cách xa về mặt địa lý, có thể ký kết hợp đồng mà chưa từng gặp mặt
nhau. Việc xác định năng lực chủ thể và thông tin về đối tượng trong giao kết hợp
đồng là không hề đơn giản, với tính chất đặc thù của loại hình kinh doanh này mang
tính phi biên giưới nên nó đem lại rủi ro về mặt chủ thể mà những nhà kinh doanh
cần hết sức cẩn trọng.
Thứ hai, thể hiện bằng thông điệp dữ liệu điện tử.
Đặc diểm nổi bật nhất của hợp đồng là hình thức thể hiện. Trong giao kết hợp
đồng điện tử, trừ trường hợp các bên có thỏa thuân khác, đề nghị giao kết hợp đồng
và chấp nhận hợp đồng có thể được thực hiện thông qua thông điệp dữ liệu.
Thứ ba, có tính phi biên giới
Trong giao dịch điện tử các bên giao kết hợp đồng thực hiện việc truyền thông
tin, dữ liệu thông qua một hệ thống mạng mang tính toàn cầu, vì vậy không có khái
niệm biên giới. Một bên tham gia giao dịch dù ở bất cứ nơi nào cũng có thể giao
dịch với đối tác của mình mà không có bất kỳ cản trở nào. Hợ đồng thương mại
điện tử được ký kết thông qua các phương tiện điện tử và mạng internet. Chính các
công nghệ này đã mở rộng phạm vi ký kết hợp đồng điện tử ra khắp thế giới. Tuy
nhiên việc xác định địa điểm giao kết hợp đồng sẽ khó khăn hơn hợp đồng truyền
thống, vấn đề này trở nẻn phức tạp hơn trong những hợp đồng được giao kết với
thương nhân nước ngoài, đôi khi việc xác định địa điểm giao kết là không thể tiến hành được.
Thứ tư, tính vô hình, phi vật chất
Môi trường điện tử là môi trường ảo, do đó các hợp đồng thương mại điện tử
mang tính vô hình, phi vật chất bởi vì hợp đồng điện tử được lưu trữ trong các dữ
liệu nên không thể cảm nhận hay sờ thấy, cầm nắm được.
Thứ năm, tính hiện đại, chính xác
Hợp đồng thương mại điện tử được giao kết dựa trên các phưng tiện kỹ thuật
hiện đại, là kết quả của sự phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ trong thời đại
hiện nay. Đó là các công nghệ điện tử, kỹ thuật số, các công nghệ truyền dẫn không
dây… Việc sử dụng các công nghệ này đem lại độ chính xác cao và tiết kiệm thờ
gian cho các giao dịch. Có những giao dịch mà tất cả các bước đều được tự động
hóa như quy trình tự động để mua hàng. Hợp đồng điện tử với tính hiện đại và
chính xác như vậy sẽ là phương thức giao dịch mới, hiệu quả. 5
Thứ sáu, tính rủi ro liên quan đến kỹ thuật, công nghê.
Việc giao kết hợp đồng điện tử phụ thuộc vào tính hiện đại của công nghệ, kỹ
thuật tin học. Cùng với sự thuận tiện của việc sử dụng phương tiện điện tử và mạng
viễn thông để ký kết hợp đồng điện tử thì đâu đó cũng có những rủi ro nhất định.
Trong môi trường ảo việc xác định tính thật giả của đơn hàng là khó khăn. Tính vô
hình, phi vật chất gây khó khăn cho việc lưu trữ hợp đồng nhằm đảm bảo bằng
chứng khi xảy ra tranh chấp. Ngoài ra sự trục trặc về mặt kỹ thuật, việc sử dụng
công nghệ chưa thành thạo có thể dẫn đến rủi ro. Trên thực tế, đã có nhiều trường
hợp gặp phải những rủi ro như trên và đã phải chịu những thiệt hại nặng nề khi gặp
phải hợp đồng giả mạo.
1.2 Phân loại hợp đồng thương mại điện tử
Hợp đồng thương mại điện tử hình thành và phát triển cùng với sự hình thành và
phát triển của thương mại điện tử. Dựa vào sự phát triển của công nghệ được ứng
dụng trong quá trình ký kết hợp đồng, hợp đồng thương mại 4 loại:
-Hợp đồng truyền thống được đưa lên web
Hợp đồng truyền thống đã được sử dụng thường xuyên và chuẩn hóa về nội
dung, do một bên soạn thảo và đưa lên website để các bên tham gia ký kết.
- Hợp đồng điện tử hình thành qua giao dịch tự động
Nội dung của hợp đồng này không được soạn sẵn mà được hình thành trong giao
dịch tự động. Máy tính tự tổng hợp nội dung và xử lý trong quá trình giao dịch dựa
trên các thông tin do người mua nhập vào.
- Hợp đồng điện tử hình thành qua thư điện tử
Hợp đồng này thường được thiết lập qua nhiều email trong quá trình giao dịch,
tuy nhiên, các bên thường tập hợp thành một hợp đồng hoàn chỉnh sau quá trình
giao dịch để thống nhất lại các nội dung đã nhất trí trong quá trình đàm phán
- Hợp đồng điện tử có sử dụng chữ ký số
Hợp đồng điện tử có sử dụng chữ ký số bằng công nghệ khóa công khai PKI.
Sau khi soạn thảo, hợp đồngcần được rút gọn bằng phần mềm. Trong mỗi bước giao
dịch, các bên sử dụng chữ ký số để bảo mật nội dung và xác thực người gửi hợp đồng
1.3 Vai trò của hợp đồng thương mại điện tử
Từ thực tiễn việc thực hiện giao kết hợp đồng thương mại điện tử cho thấy vai
trò rất lớn của hình thức hợp đồng này đối với các doanh nghiệp, tạo nền tảng cho 6
sự thức đẩy phát triển kinh tế quốc gia. Vai trò của việc thực hiện ký kết hợp đồng
thương mại điện tử được thể hiện thông qua các tiện ích dưới đây:
- Hợp đồng TMĐT giúp tiết kiệm thời gian đàm phán, giao kết hợp đồng. Quá
trình giao kết hợp đồng thường trải qua các bước quy trình đàm phán, đưa ra quyết
định ký kết, sửa đổi, lưu trữ…
- Việc ứng dụng hợp đồng thương mại điện tử thông qua các công cụ thông tin
internet có thể thay thế các cuộc gặp gỡ trực tiếp giữa nhà cung cấp dịch vụ và
khách hàng, mà có thể trao đổi các thông tin, thỏa thuận về nội dung hợp đồng và
tiến hành ký kết bằng các ứng dụng hỗ trợ thông qua mạng internet một cách nhanh
chóng và cắt giảm một lượng chi phí phát sinh thực tế.
Bên cạnh đó việc lưu trữ, bảo quản các hợp đồng điện tử và các thông tin dữ liệu
điện tử sẽ trở nên đơn giản, tiện lợi và gọn nhẹ hơn nhiều so với việc lưu trữ chúng
trên giấy tờ. Sử dụng hợp đồng thương mại điện tử sẽ đẩy nhanh tiến độ số hóa đối
với việc mua bán một số sản phẩm hàng hóa và dịch vụ.
- Giúp cho các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế. Trong điều kiện nền kinh tế thế giới phát triển nhanh chóng và
sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên thế giới ngày càng trở nên gay gắt, việc
tìm kiếm thêm nhiều đối tác, thị trường mới, việc tổ chức các kênh cung ứng linh
hoạt, nhanh chóng với chi phí giảm và khả năng phản ứng nhanh nhạy trước những
thời cơ kinh doanh chính là lợi thế không thể thiếu với những doanh nghiệp muốn
tồn tại và phát triển trong thị trường phi biên giới. CHƯƠNG 2:
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
2.1 Nguyên tắc giao kết hợp đồng thương mại điện tử
Theo khoản 1 điều 36 Luật Giao dịch điện tử 2005: “Giao kết hợp đồng điện tử
là việc sử dụng thông điệp dữ liệu để tiến hành một phần hoặc toàn bộ giao dịch
trong quá trình giao kết hợp đồng”.
Vì vậy, giao kết hợp đồng thương mại điện tử
được hiểu là việc tạo lập và kí kết hợp đồng phải thông qua việc trao đổi dữ liệu có kết nối mạng.
Vì đây sử dụng phương tiện điện tử truyền tải có kết nối mạng nên ngoài các
nguyên tắc chung như khi giao kết hợp đồng dân sự là: tự do, tự nguyện, bình đẳng, 7
thiện chí, không vi phạm điều cấm của luật, không trái với đạo đức xã hội ( quy
định tại khoản 3 điều 2015) thì giao kết hợp đồng thương mại điện tử còn phải tuân
thủ theo quy tắc riêng biệt. Điều 35 Luật Giao Dịch điện tử 2005 quy định:
“1. Các bên tham gia có quyền thỏa thuận sử dụng phương tiện điện tử trong
giao kết và thực hiện hợp đồng.
2. Việc giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử phải tuân thủ các quy định của
Luật này và pháp luật về hợp đồng.
3. Khi giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử, các bên có quyền thoả thuận về
yêu cầu kỹ thuật, chứng thực, các điều kiện bảo đảm tính toàn vẹn, bảo mật có liên
quan đến hợp đồng điện tử đó.”

Nguyên tắc thứ nhất, có nghĩa pháp luật cho phép các bên tham gia có quyền lựa
chọn sử dụng hay không sử dụng phương tiện điện tử trong quá trình giao kết, có
quyền lựa chọn tham gia hay không tham gia vào hợp đồng thương mại điện tử.
Chính vì vậy ta có có thể thấy việc lựa chọn tham gia vào hợp đồng thương mại
điện tử là hoàn tự nguyện.
Nguyên tắc thứ hai, ngoài việc phải tuân thủ các nguyên tắc trong Luật Giao
Dịch điện tử 2005 thì các bên còn phải tuân thủ các nguyên tắc chung của những
luật khác, Ví dụ về nguyên tắc giao kết hợp đồng của BLDS 2015 hoặc là các quy
định khác trong Luật thương mại.
Nguyên tắc thứ ba, xuất phát từ những đặc điểm dẫn đến khả năng rủi ro khi
giao kết hợp đồng thông qua internet, nên khi giao kết hợp đồng các bên có toàn
quyền thỏa thuận và lựa chọn các phương thức bảo đảm vấn đề an ninh, kĩ thuật,
chứng cứ của hợp đồng để phù hợp với từng loại giao dịch cũng như điều kiện về
công nghệ của các bên tham gia.
Cũng giống như các hợp đồng khác thì khi tham gia hợp đồng thương mại điện
tử các bên vẫn phải tuân thủ và đảm bảo đúng với với các quy định về quyền tự do
thỏa thuận và giao kết, cũng như chấp hành nghiêm túc các quy định về giao kết
được quy định tại điều 35 Luật Giao Dịch điện tử 2005.
2.2 Đề nghị giao kết hợp đồng thương mại điện tử
Khoản 1, điều 386 BLDS 2015 quy định: “ Đề nghị giao kết hợp đồng là việc
thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên
đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng (sau đây gọi chung là
bên được đề nghị)”
và khoản 2, điều 36 Luật Giao Dich điện tử quy định: “Trong
giao kết hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, đề nghị giao kết hợp
đồng và chấp nhận giao kết hợp đồng có thể được thực hiện thông qua thông điệp
dữ liệu.”
Chính vì vậy, trong đề nghị giao kết hợp đồng thương mại điện tử thì một 8
bên có thể bắt đầu lời đề nghị và gửi đến bên được đề nghị với mong muốn giao kết
hợp đồng trong bất kì thời gian nào trong ngày hay ở bất kì đâu trên thế giới, bằng
việc sử dụng các thiết bị điện tử có kết nối internet, ví dụ: máy tính, điện thoại di
động, máy tính bảng,...
Ngoài ra chúng ta nên phân biệt giữa một thông báo về đề nghị giao kết hợp
đồng và một lời đề nghị giao kết hợp đồng. Một thông báo về đề nghị giao kết hợp
đồng hiện nay có thể thấy rất nhiều trên các kênh bán hàng trực tuyền, cụ thể là nếu
một website thương mại điện tử có chức năng đặt hàng trực tuyến áp dụng cho từng
hàng hóa hoặc dịch vụ cụ thể được giới thiệu trên website đó, thì các thông tin giới
thiệu về hàng hóa, dịch vụ và các điều khoản liên quan được coi là thông báo mời
đề nghị giao kết hợp đồng của thương nhân, tổ chức, cá nhân bán hàng2, và đương
nhiên nó chỉ là thông báo nên không có ràng buộc về quyền lợi và nghĩa vụ của bên
nhận được thông báo. Còn một lời đề nghị về giao kết hợp đồng là chứng từ điện tử
do khách hàng khởi tạo và gửi đi bằng cách sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến
được coi là đề nghị giao kết hợp đồng của khách hàng đối với hàng hóa hoặc dịch
vụ gắn kèm chức năng đặt hàng trực tuyến đó3, nên lúc này sẽ có ràng buộc về mặt
quyền lợi và nghĩa vụ.
2.3 Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng thương mại điện tử
Khoản 1, Điều 393 BLDS 2015 quy định: “Chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng là sự trả lời của bên được đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề
nghị”
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng thực chất là việc bên được đề nghị nhận
lời đề nghị và đồng ý tiến hành việc giao kết hợp đồng với bên đã đề nghị.
Khi các bên kí kết hợp đồng thương mại điện tử với nhau thì sẽ kí kết một cách
gián tiếp bằng cách thông qua các phương tiện điện tử. Do đó, việc chấp nhận đề
nghị giao kết hợp đồng có thể được xác định trong một thời hạn nhất định. Nếu các
bên đã ấn định một khoảng thời gian trả lời, thì bên được đề nghị phải trả lời trong
khoản thời gian đó. Nếu các bên không thỏa thuận thời hạn trả lời, thì thời gian trả
lời đề nghị giao kết hợp đồng sẽ theo quy định của pháp luật trong từng trường hợp cụ thể.
Theo khoản 1, điều 19 Nghị định 52/2013/NĐ-CP về thương mại điện tử quy
định : “Trả lời chấp nhận hoặc không chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng phải
được thực hiện dưới hình thức phù hợp để thông tin có thể lưu trữ, in và hiển thị
được tại hệ thống thông tin của khách hàng”
nên khi trả lời về đề nghị giao kết hợp
đồng thì phải thể hiện dưới một hình thức phù hợp, cụ thể để khách hàng có thể biết
2 Điều 15 Nghị định 52/2013/NĐ-CP về thương mại điện tử.
3 Điều 17 Nghị định 52/2013/NĐ-CP về thương mại điện tử. 9
được là lời đề nghị của mình có được chấp nhận hay không. Trong trường hợp
người được đề nghị chỉ chấp nhận một phần thì lúc này họ sẽ trở thành người đề
nghị mới và người đề nghị trước sẽ trở thành người được đề nghị ( điều 392 BLDS
2015). Sự hoán đổi này có thể xảy ra nhiều lần cho đến khi các bên thống nhất ý kiến thì thôi.
Còn về việc rút lại thông báo chấp nhận giao kết đối với hợp đồng thương mại
điện tử thì hiện nay chưa có quy định cụ thể nên sẽ được áp dung theo quy định tại
điều 397 BLDS 2015: “Bên được đề nghị giao kết hợp đồng có thể rút lại thông
báo chấp nhận giao kết hợp đồng, nếu thông báo về việc rút lại này đến trước hoặc
cùng với thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng”.
Nghĩa là nếu thông báo rút lại yêu cầu đó được nhập vào hệ thống thông tin chính
thức của bên đề nghị trước hoặc cùng thời điểm trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng
điện tử được nhận vào hệ thống thông tin của bên đề nghị thì sẽ được rút lại thông
báo chấp nhận giao kết. Tuy nhiên do giao kết hợp đồng được thực hiện thông qua
phương tiện điện tử có kết nối internet nên có thể xảy ra trường hợp lỗi mạng,.. nên
khống báo rút lại lời đề nghị không thể tới trước hoặc cùng thời điểm được. Vì vậy,
pháp luật Thương mại điện tử cần có những quy định rõ ràng, cụ thể hơn.
2.4 Hình thức của hợp đồng thương mại điện tử.
Hình thức hợp đồng là cách thức thể hiện của hợp đồng để ghi nhận sự thỏa
thuận của các bên trong hợp đồng. Các bên có thể thỏa thuận về hình thức của hợp
đồng: bằng lời nói, bằng văn bản hay bằng hành vi cụ thể. Còn đối với hợp hợp
đồng thương mại điện tử do nó được thiết lập dưới dạng thông tin dữ liệu nên hợp
đồng điện tử có thể được soạn thảo và gửi qua thư điện tử hay thông qua các trang
web bán hàng trực tuyến thì đó chỉ là việc “ nhấn nút đồng ý” khi người mua đã
tham khảo các thông tin về sản phẩm hay dịch vụ, khi đó hợp đồng được xem như
đã giao kết và các bên bắt đầu tiến hành thực hiện nội dung như đã cam kết.
Luật Giao Dịch điện tử 2005 chưa quy định cụ thể về hình thức của hợp đồng
thương mại điện tử mà chỉ ghi nhận rằng hợp đồng điện tử được thiết lập dưới dạng
thông điệp dữ liệu. Cụ thể tại điều 10 Luật Giao Dịch điện tử 2005 quy định về hình
thức thể hiện thông điệp dữ liệu: “Thông điệp dữ liệu được thể hiện dưới hình thức
trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các
hình thức tương tự khác”.
Bởi vậy chúng ta cần có quy định cụ thể về hình thức của
hợp đồng thương mại điện tử.
2.5 Chữ ký điện tử 10
Hiện nay, theo quy định về chữ ký trên hợp đồng điện tử, khi giao kết hợp đồng
điện tử, các bên sẽ sử dụng chữ ký điện tử. Theo quy định tại luật giao dịch điện tử
2005, chữ ký điện tử có các đặc điểm như:
- Được tạo lập dưới dạng dữ liệu điện tử như chữ, ký hiệu, hình ảnh, âm thanh…
- Được gắn liền, kết hợp với hợp đồng điện tử một cách logic. Chẳng hạn như
dưới dạng file Word hoăc File PDF
- Người dùng có thể nhận dạng người ký thông qua chữ ký điện tử. Chữ ký này
phải có khả năng xác nhận được người ký và thông qua chữ ký điện tử, người ký sẽ
thể hiện sự chấp thuận đối với các nội dung trên hợp đồng.
Hiện nay, trong công cuộc chuyển đổi số, hợp đồng điện tử đang được sử dụng
cực kỳ phổ biến. Và để giao kết hợp đồng điện tử, bạn có thể sử dụng 1 trong 3 loại
chữ ký điện tử phổ biến sau:
Chữ ký số: Chữ ký số được hiểu là một dạng chữ ký điện tử. Trong đó, chữ ký
sẽ được tạo ra bằng sự biến đổi các thông điệp dữ liệu thông qua một hệ thống mật
mã không đối xứng. Khi sử dụng chữ ký số, người dùng có thể sử dụng một thiết bị
như USB Token để ký. Thiết bị này phải được cung cấp bởi các đơn vị chứng thực
chữ ký số công cộng. Mỗi doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khi đăng ký sẽ có một
chữ ký số riêng biệt để nhận biết và giao kết các hợp đồng điện tử.
Chữ ký scan: Theo quy định về chữ ký trên hợp đồng, bạn có thể sử dụng chữ ký
scan để giao kết hợp đồng điện tử. Hiểu một cách đơn giản, chữ ký Scan là chữ ký
được chuyển thành dạng điện tử sau khi ký tay trên hợp đồng giấy. Các bên có thể
chuyển thành hợp đồng điện tử thông qua máy quét (scan) và gửi qua thư điện tử.
Chữ ký hình ảnh: Chữ ký hình ảnh là chữ ký được người dùng ký tay, sau đó
chuyển thành hình ảnh và chèn vào dữ liệu của hợp đồng điện tử. Sau đó, hợp đồng
điện tử có thể được gửi qua thư điện tử.
Khi ký hợp đồng điện tử, chữ ký điện tử phải đảm bảo giá trị pháp lý. Và theo
quy định hiện hành, chữ ký điện tử sẽ có giá trị pháp lý khi thỏa mãn các điều kiện:
- Phương pháp tạo ra chữ ký điện tử phải đảm bảo về việc có thể xác minh người
ký. Và thông qua chữ ký đó, phải chứng tỏ được rằng người ký đã chấp thuận với
tất cả các điều khoản, nội dung trong hợp đồng.
- Phương pháp tạo ra chữ ký điện tử phải đủ tin cậy và phù hợp với mục đích
của hợp đồng, không vi phạm các điều cấm của pháp luật.
Hiện nay, pháp luật chưa có quy định và hướng dẫn chi tiết cho chữ ký điện tử.
Do đó, khi tìm hiểu khung pháp lý của chữ ký điện tử, được sử dụng trên hợp đồng
điện tử, các doanh nghiệp có thể tham khảo các văn bản pháp luật về chữ ký số. 11 CHƯƠNG 3:
MỘT SỐ BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VỀ GIAO KẾT HỢP
ĐỒNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
3.1 Một số bất cập về giao kết hợp đồng thương mại điện tử
3.1.1. Đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
Luật về thương mại điện tử hiện hành không quy định cụ thể thế nào là “đề nghị
giao kết hợp đồng”, “chấp nhận giao kết hợp đồng” mà chỉ đề cập thông qua hoạt
động gửi nhận thông điệp dữ liệu. Về bản chất, “đề nghị giao kết hợp đồng” và
“chấp nhận giao kết hợp đồng” đều là hai hoạt động của giao kết hợp đồng thương
mại điện tử. Tuy nhiên, Luật Giao dịch điện tử năm 2005 và Nghị định
52/2013/NĐ-CP lại không sử dụng thuật ngữ này, nhưng trong giao kết hợp đồng
khi sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến trên website (tại mục 2 Nghị định
52/2013/NĐ-CP) lại dùng sử dụng thuật ngữ “đề nghị giao kết”, “chấp nhận giao
kết” mà không thông qua thông điệp dữ liệu điện tử. Việc quy định thuật ngữ thiếu
đồng nhất giữa văn bản luật và nghị định hướng dẫn hay trong cùng nghị định là
thiếu hợp lý về kỹ thuật lập pháp.
Luật Giao dịch điện tử 2005 cũng không xác định thời điểm nào là thời điểm
giao kết. Trong Luật Giao dịch điện tử 2005 tại các điều 17,18,19 chỉ quy định về
thời điểm, địa chỉ gửi, địa chỉ nhận thông điệp dữ liệu mà không có quy định nào đề
cập việc nhận một thông điệp dữ liệu như thế nào thì được coi là chấp nhận chào
hàng và từ đó hình thành hợp đồng điện tử. Xác định thời điểm có hiệu lực rất quan
trọng vì đây điều kiện xác định hiệu lực của hợp đồng.
3.1.2 Chữ kí điện tử nước ngoài
Khoản 1 Điều 27 Luật Giao dịch điện tử năm 2005 quy định: “Nhà nước công
nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử và chứng thư điện tử nước ngoài nếu chữ ký
điện tử hoặc chứng thư điện tử đó có độ tin cậy tương đương với độ tin cậy của chữ
ký điện tử và chứng thư điện tử theo quy định của pháp luật. Việc xác định mức độ
tin cậy của chữ ký điện tử và chứng thư điện tử nước ngoài phải căn cứ vào các
tiêu chuẩn quốc tế đã được thừa nhận, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên và các yếu tố có liên quan khác”
. Vậy làm thế nào để
xác định một chữ ký điện tử nước ngoài là có độ tin cậy tương đương với chữ ký
điện tử thông thường theo quy định của pháp luật Việt Nam. Hiện cũng chưa có một
văn bản nào thừa nhận những tiêu chuẩn quốc tế, hay các điều ước quốc tế nào mà
Việt Nam là thành viên để xác định độ tin cậy của một chữ ký điện tử nước ngoài. 12
Khoản 2 Điều 27 Luật Giao dịch điện tử năm 2005 cũng quy định: “Chính phủ quy
định cụ thể về việc thừa nhận chữ ký điện tử và chứng thư điện tử nước ngoài

nhưng cho đến nay, sau hơn 17 năm từ khi Luật Giao dịch điện tử ra đời vẫn chưa
có một văn bản nào của Chính phủ quy định cụ thể về vấn đề này, kể cả vừa qua, sự
ra đời của Nghị định 85/2021 ND-CP sửa đổi bổ sung Nghị định 52/2013 NP-CP đã
cải thiện rất nhiều về hoạt động thương mại điện tử, trong đó có bổ sung thêm các
điều quy định về hoạt động thương mại điện tử của thương nhân, tổ chức nước
ngoài và còn có Nghị định 130/2018/NĐ-CP về chữ ký số và dịch vụ chứng thực
chữ ký số nhưng vẫn không có quy định về làm thế nào để xác định độ tin cậy của
một chữ ký điện tử nước ngoài.
Có thể thấy, trong bối cảnh hội nhập quốc tế toàn cầu hóa sâu rộng như hiện
nay, vấn đề giao kết hợp đồng thương mại điện tử với người nước ngoài cần đặc
biệt quan tâm. Chính phủ không những cần thừa nhận giá trị pháp lý của chữ ký
điện tử, chứng thư điện tử nước ngoài, mà còn cần quy định chi tiết về lời đề nghị,
chấp nhận giao kết, hiệu lực hợp đồng cũng như cơ chế giải quyết tranh chấp giữa
doanh nghiệp Việt Nam với các thương nhân nước ngoài.
3.1.3. Thiếu quy định cụ thể về hình thức chữ ký hình ảnh và chữ ký scan
Hiện tại pháp luật điều chỉnh về chữ kí điện tử bao gồm Luật Giao dịch điện tử
2005, Nghị định 130/2018/NĐ-CP và Nghị định 52/2013/NĐ-CP chưa quy định cụ
thể về chữ ký scan, chữ ký hình ảnh nên hai phương thức ký kết này không được
Pháp luật thừa nhận hay không có tính hiệu lực pháp luật.
3.2 Giải pháp hoàn thiện về giao kết hợp đồng thương mại điện tử
Hiện nay khung pháp lý về giao kết hợp đồng thương mại điện tử đang từng
bước được hình thành, tuy nhiên vẫn chưa được hoàn thiện nên giải pháp là phải
tiếp tục sửa đổi Luật Giao dịch điện tử 2005 về các quy định giao kết hợp đồng.
Thứ nhất, cần bổ sung các quy định cụ thể hướng dẫn việc giao kết hợp đồng thương mại điện tử
Vấn đề giao kết hợp đồng điện tử về việc gửi, nhận thông điệp dữ liệu như một
quy trình để giao kết hợp đồng thương mại điện tử. Tuy nhiên, có thể thấy, các quy
định này còn sơ sài và chưa bao quát được hết các vấn đề pháp lý phát sinh khi giao
kết hợp đồng thương mại điện tử trong giai đoạn hiện nay. Có thể đặt ra hàng hoạt
những câu hỏi chưa thể giải đáp rõ ràng như: Yếu tố xác định một đề nghị giao kết
hợp đồng điện tử là chắc chắn? Trong trường hợp người đề nghị giao kết hợp đồng
điện tử đã gửi đề nghị giao kết nhưng sau đó muốn thu hồi lại đề nghị đó thì phải
làm như thế nào, khi các thao tác qua phương tiện điện tử gần như “tức thời”? Thế 13
nào được coi là một chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng điện tử? Khi người được
đề nghị đã chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng nhưng có nếu điều kiện hay các sửa
đổi đề nghị thì có được coi là một lời đề nghị mới hay không?...
Bởi vậy, cần bổ sung những quy định hướng dẫn giao kết hợp đồng điện tử. Cụ
thể, cần bổ sung quy định về khái niệm đề nghị giao kết hợp đồng điện tử, về thời
hạn hiệu lực của một đề nghị giao kết hợp đồng điện tử, về thay đổi, rút lại, hủy bỏ
và chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng điện tử. Đồng thời, quy định về khái niệm
chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng điện tử, về thời hạn trả lời chấp nhận giao kết
hợp đồng điện tử, về nội dung hợp đồng điện tử. Những vấn đề về điều kiện có hiệu
lực của hợp đồng điện tử, hợp đồng điện tử vô hiệu và cách xử lý hợp đồng điện tử
vô hiệu được áp dụng các quy định tương ứng của Bộ luật Dân sự.
Thứ hai, bổ sung quy định về giao kết hợp đồng thương mại điện tử có yếu tố nước ngoài
Luật Giao dịch điện tử năm 2005 hiện nay chỉ quy định một điều khoản liên
quan đến chữ ký điện tử và chứng thư điện tử, vì vậy cần bổ sung vào Luật Giao
dịch điện tử những vấn đề liên quan đến giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử có
yếu tố nước ngoài. Chúng ta có thể tham khảo các quốc gia và các tổ chức quốc tế
trên thế giới về vấn đề này như kinh nghiệm của Hoa Kỳ, Singapore hay
UNCITRAL. Trong đó, cần thiết nhất là quy định về chữ ký điện tử của các doanh
nghiệp nước ngoài. Để thúc đẩy hoạt động đầu tư, hội nhập quốc tế, cần thừa nhận
giá trị pháp lý tương đương của chữ ký điện tử thuộc doanh nghiệp nước ngoài.
Thứ ba, Ban hành văn bản dẫn luật để hướng dẫn thực hiện giao kết hợp đồng
thương mại điện tử có yếu tố nước ngoài. KẾT LUẬN
Thương mại điện tử ở nước ta đang ngày một phát triển, vì vậy một nền tảng
pháp lý vững chắc để thực hiện các giao dịch một cách thuận tiện và nhanh chóng là
hết sức cần thiết. Tuy nhiên thực tiễn áp dụng đã làm nảy sinh nhiều vấn đề vướng
mắc, khó khăn đối với các nhà lập pháp, các cơ quản lý nhà nước và các bên có liên
quan, đòi hỏi cần có sự trao đổi, nghiên cứu để tiếp tục củng cố và hoàn thiện hệ
thống các quy phạm pháp luật này.
Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng thương mại điện tử là biện pháp cần thiết để
đảm bảo sự tương thích giữa các chủ trương chính sách, quy định pháp luật của nhà 14
nước với sự phát triển không ngừng nghỉ của nền tảng giao dịch thương mại điện tử
ngày càng phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam hiện nay.
Trên đây là toàn bộ nội dung nghiên cứu của tôi đối với các nội dung pháp lý
liên quan đến việc giao kết hợp đồng thương mại điện tử, trên cơ sở đó tôi đã đưa ra
các kiến nghị, đề xuất để hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại
điện tử và từ đó mong có thể góp phần thúc đẩy hình thức kinh doanh hiện đại này
ngày càng phát triển và đóng góp cho kinh tế của đất nước. 15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Các văn bản pháp luật 1. Bộ Luật Dân sự 2015
2. Luật Giao dịch điện tử 2005
3. Luật Thương Mại 2005 (sửa đổi 2017)
4. Nghị định 85/2021/NĐ-CP Sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định
số 52/2013/nđ-cp ngày 16 tháng 5 năm 2013 của chính phủ về thương mại điện tử
5. Nghị định 52/2013/NĐ-CP về thương mại điện tử
B. Các tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Phát Minh ( 2019), giao kết và thực hiện hợp đồng thương mại điện
tử theo pháp luật việt nam, TP. Hồ Chí Minh
Link: https://123docz.net//document/7117686-luan-van-thac-si-giao-ket-va-
thuc-hien-hop-dong-thuong-mai-dien-tu-theo-phap-luat-viet-nam.htm
2. Nguyễn Nhất tư ( 2017), hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam, Hà Nội
Link: https://www.slideshare.net/trongthuy3/luan-van-hop-dong-thuong-mai-
dien-tu-theo-phap-luat-viet-nam
3. Website: https://luatminhkhue.vn/hop-dong-thuong-mai-dien-tu-la-gi-dac-
diem-cua-hop-dong-thuong-mai-dien-tu.aspx
4. Website: https://econtract.efy.com.vn/hddt/quy-trinh-giao-ket-hop-dong-dien- tu.html#/
5. Website: https://luathoangphi.vn/giao-ket-hop-dong-thuong-mai-dien-tu/
6. Website: https://phaptri.vn/hop-dong-thuong-mai-dien-tu/
7. Website: https://thegioiluat.vn/bai-viet-hoc-thuat/hoan-thien-phap-luat-ve-
giao-ket-hop-dong-thuong-mai-dien-tu-o-viet-nam-334/
8. Website: http://luatsaosang.vn/thuong-mai/kien-thuc-thuong-mai/giao-ket-
hop-dong-thuong-mai-thong-qua-internet-xu-huong-va-hoi-nhap.html
9. Website: https://interits.com/hop-dong-dien-tu-la-gi/ 16 17