


















Preview text:
    ĐẠI HỌC HUẾ 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT    Số phách:   
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN      ĐỀ TÀI: 
PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ - 
MỘT SỐ BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN.     
Chuyên ngành: Luật Kinh tế 
Học phần: Luật Thương Mại 2 
Giảng viên phụ trách: ThS. Mai Xuân Hợi         
SINH VIÊN THỰC HIỆN: VÕ THỊ KIM HOANH  MÃ SINH VIÊN: 20A5020071 
LỚP CHUYÊN NGÀNH: Luật Kinh tế K44A             
THỪA THIÊN HUẾ, năm 2022          ĐẠI HỌC HUẾ 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT    Số phách:     
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN  ĐỀ TÀI: 
PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ - 
MỘT SỐ BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN.     
Chuyên ngành: Luật Kinh Tế 
Học phần: Luật Thương Mại 2        Điểm số:  Điểm chữ:  Ý 1      Ý 2      Ý 3      Ý 4      Ý 5      TỔNG:        Giảng viên chấm 1  Giảng viên chấm 2  ( Ký và ghi rõ họ tên)  ( Ký và ghi rõ họ tên)             
THỪA THIÊN HUẾ, năm 2022       MỤC LỤC 
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 2 
CHƯƠNG 1 ................................................................................................................ 3 
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ .................. 3 
1.1 Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng thương mại điện tử .......................... 3 
1.1.1 Khái niệm về hợp đồng thương mại điện tử ................................................ 3 
1.1.2 Đặc điểm của hợp đông thương mại điện tử ................................................ 4 
1.2 Phân loại hợp đồng thương mại điện tử ......................................................... 6 
1.3 Vai trò của hợp đồng thương mại điện tử ...................................................... 6 
CHƯƠNG 2: .............................................................................................................. 7 
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI 
ĐIỆN TỬ .................................................................................................................... 7 
2.1 Nguyên tắc giao kết hợp đồng thương mại điện tử ....................................... 7 
2.2 Đề nghị giao kết hợp đồng thương mại điện tử ............................................. 8 
2.3 Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng thương mại điện tử .......................... 9 
2.4 Hình thức của hợp đồng thương mại điện tử. ............................................. 10 
2.5 Chữ ký điện tử ................................................................................................ 10 
CHƯƠNG 3: ............................................................................................................ 12 
MỘT SỐ BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VỀ GIAO KẾT HỢP 
ĐỒNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ ......................................................................... 12 
3.1 Một số bất cập về giao kết hợp đồng thương mại điện tử .......................... 12  3.1.1. 
Đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng 12 
3.1.2 Chữ kí điện tử nước ngoài ...................................................................... 12 
3.1.3. Thiếu quy định cụ thể về hình thức chữ ký hình ảnh và chữ ký scan 
. ........................................................................................................................... 13 
3.2 Giải pháp hoàn thiện về giao kết hợp đồng thương mại điện tử ............... 13 
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 14 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 16            1      MỞ ĐẦU   
Chắc hẳn thuật ngữ internet đã không còn xa lạ với chúng ta nữa. Sự ra đời của 
internet đã làm thay đổi thế giới và hiện nay đã trở thành một thành phần thiết yếu 
không thể thiếu trong cuộc sống hằng ngày. Internet cho phép chúng ta giao tiếp và 
kết nối với nhau một cách nhanh chóng mà không cần gặp măt trực tiếp và đây cũng 
chính là tiền đề cho sự phát triển của nhiều lĩnh vực và đặc biệt là sự phát triển của 
thương mại điện tử. Thương mại điện tử đã trở thành phương thức giao dịch quen 
thuộc đối với các công ty lớn nhỏ trên toàn thế giới và quan trọng người được 
hưởng lợi nhất là khách hàng. Khách hàng có thể tìm kiếm sản phẩm mình muốn 
mua một cách dễ dàng, mua sản phẩm với mức giá rẻ hơn, nhanh hơn và thuận tiện 
hơn mà không cần phải ra khỏi nhà, còn doanh nghiệp thì có thể đưa sản phẩm ra 
thị trường một cách nhanh nhất và thuận lợi hơn. Và đương nhiên ở đâu có mua bán 
thì ở đó có hợp đồng, chính vì vậy lúc này sẽ xuất hiện một loại hợp đồng mới gọi 
là hợp đồng thương mại điện tử. Hợp đồng thương mại giúp các doanh nghiệp tiết 
kiệm được khá nhiều thời gian và chi phí giao dịch, không những thế còn dễ dàng 
tiếp xúc hiệu quả với các khách hàng trong và ngoài nước mà không phải phụ thuộc 
vào khoảng cách địa lý và ranh giới quốc gia. 
Sự ra đời và phát triển của thương mại điện tử đã làm thay đổi cách thức kinh 
doanh và giao dịch truyền thống trên toàn thế giới đồng thời đem lại lợi ích to lớn 
và mở ra một kỉ nguyên mới cho xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn tồn tại những 
rủi ro trong quá trình giao dịch, thực tế ở đây là kinh doanh trên mạng và việc này 
đòi hỏi phải có các biện biện pháp không chỉ về mặt kỹ thuật mà còn phải có một cơ 
sở pháp lý đầy đủ, vững mạnh. Chính phủ cũng đang không ngừng nỗ lực hoàn 
thiện và xây dựng pháp luật về thương mại điện tử, từng bước hoàn thiện khung khổ 
pháp lý, biến thương mại điện tử trở thành mũi nhọn cho sự phát triển kinh tế trong 
tương lai. Luật Giao dịch điện tử năm 2005 là bộ Luật đầu tiên điều chỉnh trực tiếp 
việc sử dụng các phưng tiện điện tử trong giao dịch hợp đồng, đánh dấu một bước 
ngoặt quan trọng trong quá trình xây dựng khung pháp lý về giao dịch điện tử nói 
chung và hợp đồng thương mại điện tử nói riêng. 
Trong tình hình hiện nay thì việc giao kết hợp đồng thương mại điện tử ở nước 
ta vẫn đang ở trong giai đoạn phát triển. Chính vì vậy, nên sự phức tạp về mặt công 
nghệ, sự thiếu sót về cơ sở hạ tầng, sự thiếu chuyên nghiệp của đội ngũ nhân viên 
cũng đang là khó khăn để giao kết hợp đồng thương mại. Các quy định trong các 
văn bản pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử còn mang tính tổng      2     
quát. Còn rất nhiều trường hợp các cá nhân, tổ chức, hộ kinh doanh ở nhiều nơi 
chưa biết về quy định của pháp luật trong giao kết hợp đồng thưng mại điện tử. 
Từ những phân tích khái quát ở trên cho thấy, việc nghiên cứu chuyên sâu và 
đưa ra giải pháp về giao kết hợp đồng thương mại điện tử ở Việt Nam hiện nay là 
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc hoàn thiện pháp luật. Đây cũng chính là lý 
do tôi chọn đề tài “ pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử - một số 
bất cập và giải pháp hoàn thiện” làm tiểu luận cho kì thi lần này.      CHƯƠNG 1 
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ 
1.1 Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng thương mại điện tử   
1.1.1 Khái niệm về hợp đồng thương mại điện tử 
Thương mại điện tử hiện nay đang phát triển ngày càng mạnh mẽ, nó là một 
thành phần không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Với 
nhiều lợi ích về chi phí, tốc độ truyền tải thông tin nhanh chóng từ đó các giao dịch 
điện tử và đặc biệt là hợp đồng điện tử cũng hình thành và được sử dụng ngày càng 
phổ biến trong kinh doanh nói chung và kinh doanh quốc tế nói riêng. Tuy nhiên, 
khái niệm về hợp đồng điện tử cho đến nay vẫn còn thể hiện sự không đồng nhất 
trong quan niệm của các nhà nghiên cứu và luật pháp của các nước. 
Luật mẫu của UNCITRAL về thương mại điện tử cũng như pháp luật của nhiều 
nước trên thế giới không đưa ra định nghĩa thế nào là hợp đồng thương mại điện tử 
và thường chỉ đưa ra quy định thừa nhận giá trị pháp lý của hợp đồng được xác lập 
thông qua các phương tiện điện tử. Hợp đồng được xác lập thông qua phương tiện 
điện tử được hiểu tương đối thống nhất trong quy định của pháp luật các nước. Đây 
là hợp đồng được ký kết thông qua việc sử dụng những phương tiện truyền các 
thông điệp dữ liệu. Các hợp đồng này được gọi chung là hợp đồng điện tử. 
Ở Việt Nam với sự ra đời của Luật Thương mại 2005 và Luật Giao dịch điện tử 
năm 2005, pháp luật Việt Nam đã thừa nhận sự tồn tại và giá trị pháp lý của các hợp 
đồng điện tử và các thông điệp dữ liệu. Điều 33 Luật Giao dịch điện tử năm 2005 có 
quy định “Hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ 
liệu theo quy định của Luật này” Trong đó, ‘thông điệp dữ liệu” là “thông tin được 
tạo ra, được gửi đi, được nhận và được lưu trữ bằng phương tiện điện tử” theo 
khoản 12 Điều 4 Luật Giao dịch điện tử năm 2005. Theo điều 10 Luật Giao dịch      3     
 điện tử năm 2005 có quy định về hình thức thể hiện thông điệp dữ liệu: “Thông 
điệp dữ liệu được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, 
thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác.” Chính vì vậy cơ 
sở để phân biệt hợp đồng thông thường và hợp đồng thương mại điện tử là thông 
qua phương tiện điện tử. Nếu trong giao dịch thông thường phương tiện thực hiện là 
lời nói, hành vi, văn bản thì trong giao dịch thương mại điện tử phương tiện là 
phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền 
dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ tương tự1. 
Theo khoản 1 Điểu 3 Luật Thương mại 2005 sửa đổi 2017 thì: “ Hoạt động 
thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung 
ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi 
khác” mà hợp đồng thương mại điện tử cũng là một hoạt động thương mại nên 
đương nhiên cũng sẽ mang mục đích sinh lợi nhuận. 
Như vậy, hợp đồng thương mại điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng 
thông điệp dữ liệu, được hình thành thông qua việc sư dụng các phương tiện điện tử 
với mục đích sinh lời. Xét về bản chất thì hợp đồng điện tử là sự thỏa thuận của các 
bên về việc xác lập thông qua các phương tiện điện tử dưới dạng thông điệp dữ liệu. 
Trong giao kết hợp đồng điện tử việc trao đổi thông tin hầu hết được thực hiện 
thông qua phương tiện điện tử. 
1.1.2 Đặc điểm của hợp đông thương mại điện tử 
Hợp đồng thương mại điện tử trước hết có những đặc điểm cơ bản của hợp đồng 
thương mại. Xét về bản chất, hợp đồng thương mại điện tử có những thuộc tính của 
hợp đồng thương mại truyền thống. Tuy nhiên, do được xác lập thông qua các 
phương tiện điện tử, nên hợp đồng thương mại điện tử có một số đặc điểm sau: 
Thứ nhất, về chủ thể của hợp đồng thương mại điện tử 
Chủ thể của hợp đồng chính là các bên tham gia vào giao kết hợp đồng. Khi 
tham gia ký kết các bên phải thể hiện sự hoàn toàn tự nguyên, không bị ai ép buộc 
hay lừa dối. Khác với hợp đồng thông thường chủ thể thường là các cá nhân, tổ 
chức ( nếu là hợp đổng dân sự) hoặc là doanh nghiệp ( nếu là hợp đồng thương 
mại). Trong khi đó chủ thể của hợp đồng thương mại điện tử có thể là doanh 
nghiệp, người tiêu dùng hoặc có thể là cơ quan nhà nước. 
Khác với các hợp đồng thương mại truyền thống, bên cạnh chủ thể giao kết 
thông thường là các bên bán và bên mua còn có sự xuất hiện của bên thứ ba có liên 
quan chặt chẽ đến hợp đồng – đó là các nhà cung cấp các dịch vụ mạng và các cơ   
1 Khoản 10 Điều 4 Luật Giao dịch Điện tử 2005      4     
quan chứng thực chữ ký điện tử. Bên thứ ba này không tham gia vào quá trình đàm 
phán, giao kết hay thực hiện hợp đồng. Họ tham gia với tư cách là các cơ quan hỗ 
trợ nhằm đảm bảo tính hiệu quả và giá trị pháp lý cho việc giao kết và thực hiện 
hợp đồng thương mại điện tử. Bên cạnh đó, việc xác định các chủ thể của hợp đồng 
hay còn gọi là các bên của hợp đồng thương mại điện tử gặp không ít khó khăn 
trong một số trường hợp. Các chủ thể khi tham gia vào hợp đồng thường ít quen 
biết, có thể cách xa về mặt địa lý, có thể ký kết hợp đồng mà chưa từng gặp mặt 
nhau. Việc xác định năng lực chủ thể và thông tin về đối tượng trong giao kết hợp 
đồng là không hề đơn giản, với tính chất đặc thù của loại hình kinh doanh này mang 
tính phi biên giưới nên nó đem lại rủi ro về mặt chủ thể mà những nhà kinh doanh 
cần hết sức cẩn trọng. 
Thứ hai, thể hiện bằng thông điệp dữ liệu điện tử. 
Đặc diểm nổi bật nhất của hợp đồng là hình thức thể hiện. Trong giao kết hợp 
đồng điện tử, trừ trường hợp các bên có thỏa thuân khác, đề nghị giao kết hợp đồng 
và chấp nhận hợp đồng có thể được thực hiện thông qua thông điệp dữ liệu. 
Thứ ba, có tính phi biên giới 
Trong giao dịch điện tử các bên giao kết hợp đồng thực hiện việc truyền thông 
tin, dữ liệu thông qua một hệ thống mạng mang tính toàn cầu, vì vậy không có khái 
niệm biên giới. Một bên tham gia giao dịch dù ở bất cứ nơi nào cũng có thể giao 
dịch với đối tác của mình mà không có bất kỳ cản trở nào. Hợ đồng thương mại 
điện tử được ký kết thông qua các phương tiện điện tử và mạng internet. Chính các 
công nghệ này đã mở rộng phạm vi ký kết hợp đồng điện tử ra khắp thế giới. Tuy 
nhiên việc xác định địa điểm giao kết hợp đồng sẽ khó khăn hơn hợp đồng truyền 
thống, vấn đề này trở nẻn phức tạp hơn trong những hợp đồng được giao kết với 
thương nhân nước ngoài, đôi khi việc xác định địa điểm giao kết là không thể tiến  hành được. 
Thứ tư, tính vô hình, phi vật chất 
Môi trường điện tử là môi trường ảo, do đó các hợp đồng thương mại điện tử 
mang tính vô hình, phi vật chất bởi vì hợp đồng điện tử được lưu trữ trong các dữ 
liệu nên không thể cảm nhận hay sờ thấy, cầm nắm được. 
Thứ năm, tính hiện đại, chính xác 
Hợp đồng thương mại điện tử được giao kết dựa trên các phưng tiện kỹ thuật 
hiện đại, là kết quả của sự phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ trong thời đại 
hiện nay. Đó là các công nghệ điện tử, kỹ thuật số, các công nghệ truyền dẫn không 
dây… Việc sử dụng các công nghệ này đem lại độ chính xác cao và tiết kiệm thờ 
gian cho các giao dịch. Có những giao dịch mà tất cả các bước đều được tự động 
hóa như quy trình tự động để mua hàng. Hợp đồng điện tử với tính hiện đại và 
chính xác như vậy sẽ là phương thức giao dịch mới, hiệu quả.    5     
Thứ sáu, tính rủi ro liên quan đến kỹ thuật, công nghê. 
Việc giao kết hợp đồng điện tử phụ thuộc vào tính hiện đại của công nghệ, kỹ 
thuật tin học. Cùng với sự thuận tiện của việc sử dụng phương tiện điện tử và mạng 
viễn thông để ký kết hợp đồng điện tử thì đâu đó cũng có những rủi ro nhất định. 
Trong môi trường ảo việc xác định tính thật giả của đơn hàng là khó khăn. Tính vô 
hình, phi vật chất gây khó khăn cho việc lưu trữ hợp đồng nhằm đảm bảo bằng 
chứng khi xảy ra tranh chấp. Ngoài ra sự trục trặc về mặt kỹ thuật, việc sử dụng 
công nghệ chưa thành thạo có thể dẫn đến rủi ro. Trên thực tế, đã có nhiều trường 
hợp gặp phải những rủi ro như trên và đã phải chịu những thiệt hại nặng nề khi gặp 
phải hợp đồng giả mạo.   
1.2 Phân loại hợp đồng thương mại điện tử 
Hợp đồng thương mại điện tử hình thành và phát triển cùng với sự hình thành và 
phát triển của thương mại điện tử. Dựa vào sự phát triển của công nghệ được ứng 
dụng trong quá trình ký kết hợp đồng, hợp đồng thương mại 4 loại: 
-Hợp đồng truyền thống được đưa lên web 
Hợp đồng truyền thống đã được sử dụng thường xuyên và chuẩn hóa về nội 
dung, do một bên soạn thảo và đưa lên website để các bên tham gia ký kết. 
- Hợp đồng điện tử hình thành qua giao dịch tự động 
Nội dung của hợp đồng này không được soạn sẵn mà được hình thành trong giao 
dịch tự động. Máy tính tự tổng hợp nội dung và xử lý trong quá trình giao dịch dựa 
trên các thông tin do người mua nhập vào. 
- Hợp đồng điện tử hình thành qua thư điện tử 
Hợp đồng này thường được thiết lập qua nhiều email trong quá trình giao dịch, 
tuy nhiên, các bên thường tập hợp thành một hợp đồng hoàn chỉnh sau quá trình 
giao dịch để thống nhất lại các nội dung đã nhất trí trong quá trình đàm phán 
- Hợp đồng điện tử có sử dụng chữ ký số 
Hợp đồng điện tử có sử dụng chữ ký số bằng công nghệ khóa công khai PKI. 
Sau khi soạn thảo, hợp đồngcần được rút gọn bằng phần mềm. Trong mỗi bước giao 
dịch, các bên sử dụng chữ ký số để bảo mật nội dung và xác thực người gửi hợp  đồng 
1.3 Vai trò của hợp đồng thương mại điện tử 
Từ thực tiễn việc thực hiện giao kết hợp đồng thương mại điện tử cho thấy vai 
trò rất lớn của hình thức hợp đồng này đối với các doanh nghiệp, tạo nền tảng cho    6     
sự thức đẩy phát triển kinh tế quốc gia. Vai trò của việc thực hiện ký kết hợp đồng 
thương mại điện tử được thể hiện thông qua các tiện ích dưới đây: 
- Hợp đồng TMĐT giúp tiết kiệm thời gian đàm phán, giao kết hợp đồng. Quá 
trình giao kết hợp đồng thường trải qua các bước quy trình đàm phán, đưa ra quyết 
định ký kết, sửa đổi, lưu trữ… 
- Việc ứng dụng hợp đồng thương mại điện tử thông qua các công cụ thông tin 
internet có thể thay thế các cuộc gặp gỡ trực tiếp giữa nhà cung cấp dịch vụ và 
khách hàng, mà có thể trao đổi các thông tin, thỏa thuận về nội dung hợp đồng và 
tiến hành ký kết bằng các ứng dụng hỗ trợ thông qua mạng internet một cách nhanh 
chóng và cắt giảm một lượng chi phí phát sinh thực tế. 
Bên cạnh đó việc lưu trữ, bảo quản các hợp đồng điện tử và các thông tin dữ liệu 
điện tử sẽ trở nên đơn giản, tiện lợi và gọn nhẹ hơn nhiều so với việc lưu trữ chúng 
trên giấy tờ. Sử dụng hợp đồng thương mại điện tử sẽ đẩy nhanh tiến độ số hóa đối 
với việc mua bán một số sản phẩm hàng hóa và dịch vụ. 
- Giúp cho các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh trong điều kiện hội 
nhập kinh tế quốc tế. Trong điều kiện nền kinh tế thế giới phát triển nhanh chóng và 
sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên thế giới ngày càng trở nên gay gắt, việc 
tìm kiếm thêm nhiều đối tác, thị trường mới, việc tổ chức các kênh cung ứng linh 
hoạt, nhanh chóng với chi phí giảm và khả năng phản ứng nhanh nhạy trước những 
thời cơ kinh doanh chính là lợi thế không thể thiếu với những doanh nghiệp muốn 
tồn tại và phát triển trong thị trường phi biên giới.      CHƯƠNG 2: 
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƯƠNG  MẠI ĐIỆN TỬ     
2.1 Nguyên tắc giao kết hợp đồng thương mại điện tử 
Theo khoản 1 điều 36 Luật Giao dịch điện tử 2005: “Giao kết hợp đồng điện tử 
là việc sử dụng thông điệp dữ liệu để tiến hành một phần hoặc toàn bộ giao dịch 
trong quá trình giao kết hợp đồng”. Vì vậy, giao kết hợp đồng thương mại điện tử 
được hiểu là việc tạo lập và kí kết hợp đồng phải thông qua việc trao đổi dữ liệu có  kết nối mạng. 
Vì đây sử dụng phương tiện điện tử truyền tải có kết nối mạng nên ngoài các 
nguyên tắc chung như khi giao kết hợp đồng dân sự là: tự do, tự nguyện, bình đẳng,    7     
thiện chí, không vi phạm điều cấm của luật, không trái với đạo đức xã hội ( quy 
định tại khoản 3 điều 2015) thì giao kết hợp đồng thương mại điện tử còn phải tuân 
thủ theo quy tắc riêng biệt. Điều 35 Luật Giao Dịch điện tử 2005 quy định: 
“1. Các bên tham gia có quyền thỏa thuận sử dụng phương tiện điện tử trong 
giao kết và thực hiện hợp đồng. 
2. Việc giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử phải tuân thủ các quy định của 
Luật này và pháp luật về hợp đồng. 
3. Khi giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử, các bên có quyền thoả thuận về 
yêu cầu kỹ thuật, chứng thực, các điều kiện bảo đảm tính toàn vẹn, bảo mật có liên 
quan đến hợp đồng điện tử đó.”   
Nguyên tắc thứ nhất, có nghĩa pháp luật cho phép các bên tham gia có quyền lựa 
chọn sử dụng hay không sử dụng phương tiện điện tử trong quá trình giao kết, có 
quyền lựa chọn tham gia hay không tham gia vào hợp đồng thương mại điện tử. 
Chính vì vậy ta có có thể thấy việc lựa chọn tham gia vào hợp đồng thương mại 
điện tử là hoàn tự nguyện. 
Nguyên tắc thứ hai, ngoài việc phải tuân thủ các nguyên tắc trong Luật Giao 
Dịch điện tử 2005 thì các bên còn phải tuân thủ các nguyên tắc chung của những 
luật khác, Ví dụ về nguyên tắc giao kết hợp đồng của BLDS 2015 hoặc là các quy 
định khác trong Luật thương mại. 
Nguyên tắc thứ ba, xuất phát từ những đặc điểm dẫn đến khả năng rủi ro khi 
giao kết hợp đồng thông qua internet, nên khi giao kết hợp đồng các bên có toàn 
quyền thỏa thuận và lựa chọn các phương thức bảo đảm vấn đề an ninh, kĩ thuật, 
chứng cứ của hợp đồng để phù hợp với từng loại giao dịch cũng như điều kiện về 
công nghệ của các bên tham gia. 
Cũng giống như các hợp đồng khác thì khi tham gia hợp đồng thương mại điện 
tử các bên vẫn phải tuân thủ và đảm bảo đúng với với các quy định về quyền tự do 
thỏa thuận và giao kết, cũng như chấp hành nghiêm túc các quy định về giao kết 
được quy định tại điều 35 Luật Giao Dịch điện tử 2005. 
2.2 Đề nghị giao kết hợp đồng thương mại điện tử 
Khoản 1, điều 386 BLDS 2015 quy định: “ Đề nghị giao kết hợp đồng là việc 
thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên 
đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng (sau đây gọi chung là 
bên được đề nghị)” và khoản 2, điều 36 Luật Giao Dich điện tử quy định: “Trong 
giao kết hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, đề nghị giao kết hợp 
đồng và chấp nhận giao kết hợp đồng có thể được thực hiện thông qua thông điệp 
dữ liệu.” Chính vì vậy, trong đề nghị giao kết hợp đồng thương mại điện tử thì một    8     
 bên có thể bắt đầu lời đề nghị và gửi đến bên được đề nghị với mong muốn giao kết 
hợp đồng trong bất kì thời gian nào trong ngày hay ở bất kì đâu trên thế giới, bằng 
việc sử dụng các thiết bị điện tử có kết nối internet, ví dụ: máy tính, điện thoại di 
động, máy tính bảng,... 
Ngoài ra chúng ta nên phân biệt giữa một thông báo về đề nghị giao kết hợp 
đồng và một lời đề nghị giao kết hợp đồng. Một thông báo về đề nghị giao kết hợp 
đồng hiện nay có thể thấy rất nhiều trên các kênh bán hàng trực tuyền, cụ thể là nếu 
một website thương mại điện tử có chức năng đặt hàng trực tuyến áp dụng cho từng 
hàng hóa hoặc dịch vụ cụ thể được giới thiệu trên website đó, thì các thông tin giới 
thiệu về hàng hóa, dịch vụ và các điều khoản liên quan được coi là thông báo mời 
đề nghị giao kết hợp đồng của thương nhân, tổ chức, cá nhân bán hàng2, và đương 
nhiên nó chỉ là thông báo nên không có ràng buộc về quyền lợi và nghĩa vụ của bên 
nhận được thông báo. Còn một lời đề nghị về giao kết hợp đồng là chứng từ điện tử 
do khách hàng khởi tạo và gửi đi bằng cách sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến 
được coi là đề nghị giao kết hợp đồng của khách hàng đối với hàng hóa hoặc dịch 
vụ gắn kèm chức năng đặt hàng trực tuyến đó3, nên lúc này sẽ có ràng buộc về mặt 
quyền lợi và nghĩa vụ. 
2.3 Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng thương mại điện tử 
Khoản 1, Điều 393 BLDS 2015 quy định: “Chấp nhận đề nghị giao kết hợp 
đồng là sự trả lời của bên được đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề 
nghị” Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng thực chất là việc bên được đề nghị nhận 
lời đề nghị và đồng ý tiến hành việc giao kết hợp đồng với bên đã đề nghị. 
Khi các bên kí kết hợp đồng thương mại điện tử với nhau thì sẽ kí kết một cách 
gián tiếp bằng cách thông qua các phương tiện điện tử. Do đó, việc chấp nhận đề 
nghị giao kết hợp đồng có thể được xác định trong một thời hạn nhất định. Nếu các 
bên đã ấn định một khoảng thời gian trả lời, thì bên được đề nghị phải trả lời trong 
khoản thời gian đó. Nếu các bên không thỏa thuận thời hạn trả lời, thì thời gian trả 
lời đề nghị giao kết hợp đồng sẽ theo quy định của pháp luật trong từng trường hợp  cụ thể. 
Theo khoản 1, điều 19 Nghị định 52/2013/NĐ-CP về thương mại điện tử quy 
định : “Trả lời chấp nhận hoặc không chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng phải 
được thực hiện dưới hình thức phù hợp để thông tin có thể lưu trữ, in và hiển thị 
được tại hệ thống thông tin của khách hàng” nên khi trả lời về đề nghị giao kết hợp 
đồng thì phải thể hiện dưới một hình thức phù hợp, cụ thể để khách hàng có thể biết   
2 Điều 15 Nghị định 52/2013/NĐ-CP về thương mại điện tử. 
3 Điều 17 Nghị định 52/2013/NĐ-CP về thương mại điện tử.    9     
được là lời đề nghị của mình có được chấp nhận hay không. Trong trường hợp 
người được đề nghị chỉ chấp nhận một phần thì lúc này họ sẽ trở thành người đề 
nghị mới và người đề nghị trước sẽ trở thành người được đề nghị ( điều 392 BLDS 
2015). Sự hoán đổi này có thể xảy ra nhiều lần cho đến khi các bên thống nhất ý  kiến thì thôi. 
Còn về việc rút lại thông báo chấp nhận giao kết đối với hợp đồng thương mại 
điện tử thì hiện nay chưa có quy định cụ thể nên sẽ được áp dung theo quy định tại 
điều 397 BLDS 2015: “Bên được đề nghị giao kết hợp đồng có thể rút lại thông 
báo chấp nhận giao kết hợp đồng, nếu thông báo về việc rút lại này đến trước hoặc 
cùng với thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng”. 
Nghĩa là nếu thông báo rút lại yêu cầu đó được nhập vào hệ thống thông tin chính 
thức của bên đề nghị trước hoặc cùng thời điểm trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng 
điện tử được nhận vào hệ thống thông tin của bên đề nghị thì sẽ được rút lại thông 
báo chấp nhận giao kết. Tuy nhiên do giao kết hợp đồng được thực hiện thông qua 
phương tiện điện tử có kết nối internet nên có thể xảy ra trường hợp lỗi mạng,.. nên 
khống báo rút lại lời đề nghị không thể tới trước hoặc cùng thời điểm được. Vì vậy, 
pháp luật Thương mại điện tử cần có những quy định rõ ràng, cụ thể hơn. 
2.4 Hình thức của hợp đồng thương mại điện tử. 
Hình thức hợp đồng là cách thức thể hiện của hợp đồng để ghi nhận sự thỏa 
thuận của các bên trong hợp đồng. Các bên có thể thỏa thuận về hình thức của hợp 
đồng: bằng lời nói, bằng văn bản hay bằng hành vi cụ thể. Còn đối với hợp hợp 
đồng thương mại điện tử do nó được thiết lập dưới dạng thông tin dữ liệu nên hợp 
đồng điện tử có thể được soạn thảo và gửi qua thư điện tử hay thông qua các trang 
web bán hàng trực tuyến thì đó chỉ là việc “ nhấn nút đồng ý” khi người mua đã 
tham khảo các thông tin về sản phẩm hay dịch vụ, khi đó hợp đồng được xem như 
đã giao kết và các bên bắt đầu tiến hành thực hiện nội dung như đã cam kết. 
Luật Giao Dịch điện tử 2005 chưa quy định cụ thể về hình thức của hợp đồng 
thương mại điện tử mà chỉ ghi nhận rằng hợp đồng điện tử được thiết lập dưới dạng 
thông điệp dữ liệu. Cụ thể tại điều 10 Luật Giao Dịch điện tử 2005 quy định về hình 
thức thể hiện thông điệp dữ liệu: “Thông điệp dữ liệu được thể hiện dưới hình thức 
trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các 
hình thức tương tự khác”. Bởi vậy chúng ta cần có quy định cụ thể về hình thức của 
hợp đồng thương mại điện tử. 
2.5 Chữ ký điện tử          10     
Hiện nay, theo quy định về chữ ký trên hợp đồng điện tử, khi giao kết hợp đồng 
điện tử, các bên sẽ sử dụng chữ ký điện tử. Theo quy định tại luật giao dịch điện tử 
2005, chữ ký điện tử có các đặc điểm như: 
- Được tạo lập dưới dạng dữ liệu điện tử như chữ, ký hiệu, hình ảnh, âm thanh… 
- Được gắn liền, kết hợp với hợp đồng điện tử một cách logic. Chẳng hạn như 
dưới dạng file Word hoăc File PDF 
- Người dùng có thể nhận dạng người ký thông qua chữ ký điện tử. Chữ ký này 
phải có khả năng xác nhận được người ký và thông qua chữ ký điện tử, người ký sẽ 
thể hiện sự chấp thuận đối với các nội dung trên hợp đồng. 
Hiện nay, trong công cuộc chuyển đổi số, hợp đồng điện tử đang được sử dụng 
cực kỳ phổ biến. Và để giao kết hợp đồng điện tử, bạn có thể sử dụng 1 trong 3 loại 
chữ ký điện tử phổ biến sau: 
Chữ ký số: Chữ ký số được hiểu là một dạng chữ ký điện tử. Trong đó, chữ ký 
sẽ được tạo ra bằng sự biến đổi các thông điệp dữ liệu thông qua một hệ thống mật 
mã không đối xứng. Khi sử dụng chữ ký số, người dùng có thể sử dụng một thiết bị 
như USB Token để ký. Thiết bị này phải được cung cấp bởi các đơn vị chứng thực 
chữ ký số công cộng. Mỗi doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khi đăng ký sẽ có một 
chữ ký số riêng biệt để nhận biết và giao kết các hợp đồng điện tử. 
Chữ ký scan: Theo quy định về chữ ký trên hợp đồng, bạn có thể sử dụng chữ ký 
scan để giao kết hợp đồng điện tử. Hiểu một cách đơn giản, chữ ký Scan là chữ ký 
được chuyển thành dạng điện tử sau khi ký tay trên hợp đồng giấy. Các bên có thể 
chuyển thành hợp đồng điện tử thông qua máy quét (scan) và gửi qua thư điện tử. 
Chữ ký hình ảnh: Chữ ký hình ảnh là chữ ký được người dùng ký tay, sau đó 
chuyển thành hình ảnh và chèn vào dữ liệu của hợp đồng điện tử. Sau đó, hợp đồng 
điện tử có thể được gửi qua thư điện tử. 
Khi ký hợp đồng điện tử, chữ ký điện tử phải đảm bảo giá trị pháp lý. Và theo 
quy định hiện hành, chữ ký điện tử sẽ có giá trị pháp lý khi thỏa mãn các điều kiện: 
- Phương pháp tạo ra chữ ký điện tử phải đảm bảo về việc có thể xác minh người 
ký. Và thông qua chữ ký đó, phải chứng tỏ được rằng người ký đã chấp thuận với 
tất cả các điều khoản, nội dung trong hợp đồng. 
- Phương pháp tạo ra chữ ký điện tử phải đủ tin cậy và phù hợp với mục đích 
của hợp đồng, không vi phạm các điều cấm của pháp luật. 
Hiện nay, pháp luật chưa có quy định và hướng dẫn chi tiết cho chữ ký điện tử. 
Do đó, khi tìm hiểu khung pháp lý của chữ ký điện tử, được sử dụng trên hợp đồng 
điện tử, các doanh nghiệp có thể tham khảo các văn bản pháp luật về chữ ký số.          11      CHƯƠNG 3: 
MỘT SỐ BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VỀ GIAO KẾT HỢP 
ĐỒNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ     
3.1 Một số bất cập về giao kết hợp đồng thương mại điện tử 
3.1.1. Đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng 
Luật về thương mại điện tử hiện hành không quy định cụ thể thế nào là “đề nghị 
giao kết hợp đồng”, “chấp nhận giao kết hợp đồng” mà chỉ đề cập thông qua hoạt 
động gửi nhận thông điệp dữ liệu. Về bản chất, “đề nghị giao kết hợp đồng” và 
“chấp nhận giao kết hợp đồng” đều là hai hoạt động của giao kết hợp đồng thương 
mại điện tử. Tuy nhiên, Luật Giao dịch điện tử năm 2005 và Nghị định 
52/2013/NĐ-CP lại không sử dụng thuật ngữ này, nhưng trong giao kết hợp đồng 
khi sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến trên website (tại mục 2 Nghị định 
52/2013/NĐ-CP) lại dùng sử dụng thuật ngữ “đề nghị giao kết”, “chấp nhận giao 
kết” mà không thông qua thông điệp dữ liệu điện tử. Việc quy định thuật ngữ thiếu 
đồng nhất giữa văn bản luật và nghị định hướng dẫn hay trong cùng nghị định là 
thiếu hợp lý về kỹ thuật lập pháp. 
Luật Giao dịch điện tử 2005 cũng không xác định thời điểm nào là thời điểm 
giao kết. Trong Luật Giao dịch điện tử 2005 tại các điều 17,18,19 chỉ quy định về 
thời điểm, địa chỉ gửi, địa chỉ nhận thông điệp dữ liệu mà không có quy định nào đề 
cập việc nhận một thông điệp dữ liệu như thế nào thì được coi là chấp nhận chào 
hàng và từ đó hình thành hợp đồng điện tử. Xác định thời điểm có hiệu lực rất quan 
trọng vì đây điều kiện xác định hiệu lực của hợp đồng. 
3.1.2 Chữ kí điện tử nước ngoài 
Khoản 1 Điều 27 Luật Giao dịch điện tử năm 2005 quy định: “Nhà nước công 
nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử và chứng thư điện tử nước ngoài nếu chữ ký 
điện tử hoặc chứng thư điện tử đó có độ tin cậy tương đương với độ tin cậy của chữ 
ký điện tử và chứng thư điện tử theo quy định của pháp luật. Việc xác định mức độ 
tin cậy của chữ ký điện tử và chứng thư điện tử nước ngoài phải căn cứ vào các 
tiêu chuẩn quốc tế đã được thừa nhận, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ 
nghĩa Việt Nam là thành viên và các yếu tố có liên quan khác”. Vậy làm thế nào để 
xác định một chữ ký điện tử nước ngoài là có độ tin cậy tương đương với chữ ký 
điện tử thông thường theo quy định của pháp luật Việt Nam. Hiện cũng chưa có một 
văn bản nào thừa nhận những tiêu chuẩn quốc tế, hay các điều ước quốc tế nào mà 
Việt Nam là thành viên để xác định độ tin cậy của một chữ ký điện tử nước ngoài.    12     
Khoản 2 Điều 27 Luật Giao dịch điện tử năm 2005 cũng quy định: “Chính phủ quy 
định cụ thể về việc thừa nhận chữ ký điện tử và chứng thư điện tử nước ngoài” 
nhưng cho đến nay, sau hơn 17 năm từ khi Luật Giao dịch điện tử ra đời vẫn chưa 
có một văn bản nào của Chính phủ quy định cụ thể về vấn đề này, kể cả vừa qua, sự 
ra đời của Nghị định 85/2021 ND-CP sửa đổi bổ sung Nghị định 52/2013 NP-CP đã 
cải thiện rất nhiều về hoạt động thương mại điện tử, trong đó có bổ sung thêm các 
điều quy định về hoạt động thương mại điện tử của thương nhân, tổ chức nước 
ngoài và còn có Nghị định 130/2018/NĐ-CP về chữ ký số và dịch vụ chứng thực 
chữ ký số nhưng vẫn không có quy định về làm thế nào để xác định độ tin cậy của 
một chữ ký điện tử nước ngoài. 
Có thể thấy, trong bối cảnh hội nhập quốc tế toàn cầu hóa sâu rộng như hiện 
nay, vấn đề giao kết hợp đồng thương mại điện tử với người nước ngoài cần đặc 
biệt quan tâm. Chính phủ không những cần thừa nhận giá trị pháp lý của chữ ký 
điện tử, chứng thư điện tử nước ngoài, mà còn cần quy định chi tiết về lời đề nghị, 
chấp nhận giao kết, hiệu lực hợp đồng cũng như cơ chế giải quyết tranh chấp giữa 
doanh nghiệp Việt Nam với các thương nhân nước ngoài. 
3.1.3. Thiếu quy định cụ thể về hình thức chữ ký hình ảnh và chữ ký scan 
Hiện tại pháp luật điều chỉnh về chữ kí điện tử bao gồm Luật Giao dịch điện tử 
2005, Nghị định 130/2018/NĐ-CP và Nghị định 52/2013/NĐ-CP chưa quy định cụ 
thể về chữ ký scan, chữ ký hình ảnh nên hai phương thức ký kết này không được 
Pháp luật thừa nhận hay không có tính hiệu lực pháp luật. 
3.2 Giải pháp hoàn thiện về giao kết hợp đồng thương mại điện tử 
Hiện nay khung pháp lý về giao kết hợp đồng thương mại điện tử đang từng 
bước được hình thành, tuy nhiên vẫn chưa được hoàn thiện nên giải pháp là phải 
tiếp tục sửa đổi Luật Giao dịch điện tử 2005 về các quy định giao kết hợp đồng. 
Thứ nhất, cần bổ sung các quy định cụ thể hướng dẫn việc giao kết hợp đồng  thương mại điện tử 
Vấn đề giao kết hợp đồng điện tử về việc gửi, nhận thông điệp dữ liệu như một 
quy trình để giao kết hợp đồng thương mại điện tử. Tuy nhiên, có thể thấy, các quy 
định này còn sơ sài và chưa bao quát được hết các vấn đề pháp lý phát sinh khi giao 
kết hợp đồng thương mại điện tử trong giai đoạn hiện nay. Có thể đặt ra hàng hoạt 
những câu hỏi chưa thể giải đáp rõ ràng như: Yếu tố xác định một đề nghị giao kết 
hợp đồng điện tử là chắc chắn? Trong trường hợp người đề nghị giao kết hợp đồng 
điện tử đã gửi đề nghị giao kết nhưng sau đó muốn thu hồi lại đề nghị đó thì phải 
làm như thế nào, khi các thao tác qua phương tiện điện tử gần như “tức thời”? Thế    13     
nào được coi là một chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng điện tử? Khi người được 
đề nghị đã chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng nhưng có nếu điều kiện hay các sửa 
đổi đề nghị thì có được coi là một lời đề nghị mới hay không?... 
Bởi vậy, cần bổ sung những quy định hướng dẫn giao kết hợp đồng điện tử. Cụ 
thể, cần bổ sung quy định về khái niệm đề nghị giao kết hợp đồng điện tử, về thời 
hạn hiệu lực của một đề nghị giao kết hợp đồng điện tử, về thay đổi, rút lại, hủy bỏ 
và chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng điện tử. Đồng thời, quy định về khái niệm 
chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng điện tử, về thời hạn trả lời chấp nhận giao kết 
hợp đồng điện tử, về nội dung hợp đồng điện tử. Những vấn đề về điều kiện có hiệu 
lực của hợp đồng điện tử, hợp đồng điện tử vô hiệu và cách xử lý hợp đồng điện tử 
vô hiệu được áp dụng các quy định tương ứng của Bộ luật Dân sự. 
Thứ hai, bổ sung quy định về giao kết hợp đồng thương mại điện tử có yếu tố  nước ngoài 
Luật Giao dịch điện tử năm 2005 hiện nay chỉ quy định một điều khoản liên 
quan đến chữ ký điện tử và chứng thư điện tử, vì vậy cần bổ sung vào Luật Giao 
dịch điện tử những vấn đề liên quan đến giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử có 
yếu tố nước ngoài. Chúng ta có thể tham khảo các quốc gia và các tổ chức quốc tế 
trên thế giới về vấn đề này như kinh nghiệm của Hoa Kỳ, Singapore hay 
UNCITRAL. Trong đó, cần thiết nhất là quy định về chữ ký điện tử của các doanh 
nghiệp nước ngoài. Để thúc đẩy hoạt động đầu tư, hội nhập quốc tế, cần thừa nhận 
giá trị pháp lý tương đương của chữ ký điện tử thuộc doanh nghiệp nước ngoài. 
Thứ ba, Ban hành văn bản dẫn luật để hướng dẫn thực hiện giao kết hợp đồng 
thương mại điện tử có yếu tố nước ngoài.        KẾT LUẬN 
Thương mại điện tử ở nước ta đang ngày một phát triển, vì vậy một nền tảng 
pháp lý vững chắc để thực hiện các giao dịch một cách thuận tiện và nhanh chóng là 
hết sức cần thiết. Tuy nhiên thực tiễn áp dụng đã làm nảy sinh nhiều vấn đề vướng 
mắc, khó khăn đối với các nhà lập pháp, các cơ quản lý nhà nước và các bên có liên 
quan, đòi hỏi cần có sự trao đổi, nghiên cứu để tiếp tục củng cố và hoàn thiện hệ 
thống các quy phạm pháp luật này. 
Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng thương mại điện tử là biện pháp cần thiết để 
đảm bảo sự tương thích giữa các chủ trương chính sách, quy định pháp luật của nhà    14     
nước với sự phát triển không ngừng nghỉ của nền tảng giao dịch thương mại điện tử 
ngày càng phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam hiện nay. 
Trên đây là toàn bộ nội dung nghiên cứu của tôi đối với các nội dung pháp lý 
liên quan đến việc giao kết hợp đồng thương mại điện tử, trên cơ sở đó tôi đã đưa ra 
các kiến nghị, đề xuất để hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại 
điện tử và từ đó mong có thể góp phần thúc đẩy hình thức kinh doanh hiện đại này 
ngày càng phát triển và đóng góp cho kinh tế của đất nước.                                                                          15     
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO   
A. Các văn bản pháp luật  1. Bộ Luật Dân sự 2015 
2. Luật Giao dịch điện tử 2005 
3. Luật Thương Mại 2005 (sửa đổi 2017) 
4. Nghị định 85/2021/NĐ-CP Sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định 
số 52/2013/nđ-cp ngày 16 tháng 5 năm 2013 của chính phủ về thương mại điện tử 
5. Nghị định 52/2013/NĐ-CP về thương mại điện tử 
B. Các tài liệu tham khảo 
1. Nguyễn Phát Minh ( 2019), giao kết và thực hiện hợp đồng thương mại điện 
tử theo pháp luật việt nam, TP. Hồ Chí Minh 
Link: https://123docz.net//document/7117686-luan-van-thac-si-giao-ket-va- 
thuc-hien-hop-dong-thuong-mai-dien-tu-theo-phap-luat-viet-nam.htm 
2. Nguyễn Nhất tư ( 2017), hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt  Nam, Hà Nội 
Link: https://www.slideshare.net/trongthuy3/luan-van-hop-dong-thuong-mai- 
dien-tu-theo-phap-luat-viet-nam 
3. Website: https://luatminhkhue.vn/hop-dong-thuong-mai-dien-tu-la-gi-dac- 
diem-cua-hop-dong-thuong-mai-dien-tu.aspx 
4. Website: https://econtract.efy.com.vn/hddt/quy-trinh-giao-ket-hop-dong-dien-  tu.html#/ 
5. Website: https://luathoangphi.vn/giao-ket-hop-dong-thuong-mai-dien-tu/ 
6. Website: https://phaptri.vn/hop-dong-thuong-mai-dien-tu/ 
7. Website: https://thegioiluat.vn/bai-viet-hoc-thuat/hoan-thien-phap-luat-ve- 
giao-ket-hop-dong-thuong-mai-dien-tu-o-viet-nam-334/ 
8. Website: http://luatsaosang.vn/thuong-mai/kien-thuc-thuong-mai/giao-ket- 
hop-dong-thuong-mai-thong-qua-internet-xu-huong-va-hoi-nhap.html 
9. Website: https://interits.com/hop-dong-dien-tu-la-gi/        16                                                                                                          17