Tiểu luận - Tiểu luận triết học về tư tưởng tư duy về sự hình thành loài người

Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện chứng củađời sống xã hội.Thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản nhất để thay đổi ý thứcxã hội.Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem.

lOMoARcPSD| 36844358
)
Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội và vận dụng
vào quá trình phát triển kinh tế-xã hội ở nước ta.
A. MỞ ĐẦU
Tồn tại hội ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện chứng của đời
sống hội.Thay đổi tồn tại hội điều kiện bản nhất để thay đổi ý thức xã
hội. Mặt khác, ng cần thấy rằng không chỉ những biến đổi trong tồn tại xa hội mới
tất yếu dẫn đến những thay đổi to lớn trong đời sống tinh thần của xã hội mà ngược
lại, những tác động của đời sống tinh thần xã hội, vi những điu kiện xác định cũng
thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn ti hội. vậy trong công
cuộc đổi mới của đất nước ta hin nay, việc tìm hiểu mối quan h giữa tồn tại hội
ý thc xã hội cùng cần thiết. Trước hết để hiểu mối quan hệ giữa đời sống
tinh thần của xã hội và những biến đổi trong tồn tại xã hội. Từ đó ta mới có thể vn
dụng quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã
hội vào thực tiễn, phát triển nền kinh tế - xã hội từ việc nâng cao nhận thức mỗi con
người. Do đó việc tìm hiu về mối quan hệ giữa tồn ti hội ý thức hội sẽ
giúp ích rất nhiều cho chúng ta trong công cuộc đổi mới phát triển nền kinh tế -
hội Việt Nam. Để được những thành tựu, những bước phát triển phù hợp
theo kịp thời đại, tạo n sự chuyển mình và phát triển nền kinh tế và xã hội Việt
Nam theo kịp tình hình chung của thế giới, mở cửa và hội nhập. Thì việc tìm hiểu và
vận dụng mối quan hệ giữa tồn tại hội ý thức hội cùng quan trọng.
Em chọn đề tài tiểu luận “Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa
tồn tại xã hội và ý thức xã hội và vận dụng vào quá trình phát triển kinh tế-
hội nước ta” Vì thấy rất hữu ích đối với sinh viên Ngoại thương. Thời gian tìm
hiểu, nghiên cứu chưa nhiều và kiến thc còn chưa sâu, khó tránh khỏi nhng thiếu
sót.Vậy nên em rất mong nhận được sự chỉ bảo của quý Thầy, để em được
những kiến thức bổ ích thiết thực cho chuyên nghành của mình
B NỘI DUNG I.Tồn tại xã hội
và ý thức xã hội
Toàn bộ đời sống xã hội được chia thành hai lĩnh vực lớn: lĩnh vực vật chất và lĩnh
vực tinh thần, đó là tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
1.Tồn tại xã hội
Khái niệm tồn tại xã hội theo quan điểm duy vật lịch sử là toàn bộ sinh hoạt vật
chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
lOMoARcPSD| 36844358
Các yếu tố tạo thành tồn tại xã hội là phương thức sản xuất vật chất ,điều kiện tự
nhiên-hoàn cảnh địa lý ,dân số và mật độ dân số… trong đó sản xuất vật chất là
yếu tố cơ bản nhất .
2.Ý thức xã hội Khái niệm ý thức xã hội Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống
xã hội,bao gồm toàn bộ những quan điểm, tư tưởng cùng những tình cảm tâm trạng
,… của nhữngcộng đồng xã hội ,nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại
hội trong những giai đoạn phát triển nhất định
Theo nội dung và lĩnh vực phản ánh đời sống xã hội ,ý thức xã hội bao
gồm những lĩnh vực khác nhau : ý thức chính trị,ý thức pháp quyền,ý thức
đạo đức ,ý thức tôn giáo ,ý thức thẩm mỹ…
Theo trình độ phản ánh có thể phân biệt ý thức xã hội thông thường và ý
thức luận .
Ý thức xã hội thông thường là toàn bộ những tri thức , những quan niệm của
nhưng con người trong một cộng đồng người nhất đinh ,được hình thành một
cách trực tiếp từ hoạt đông thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hóa ,khái
lOMoARcPSD| 36844358
)
niệm hóa thành lý luận .Trong đó tâm lý xã hội là một phận xã hội quan trọng . Ý
thức xã hội thông thường phản ánh sinh động trực tiếp nhiều mặt cuộc sống
hàng ngày của con người ,thường xuyên chi phối cuôc sống đó
Ý thức lí luận là những tư tưởng đã được hệ thống hóa , khái quát hóa thành
những học thuyết xã hội được trình bày dưới dạng những khái niệm phạm trù
,quy luật … .Ý thức lí luận có khả năng đánh giá hiện thực khoa học một
cách khái quát và sâu sắc và chính xác ,vạch ra những mối liên hệ về bản
chất của các sự vật và hiện tượng
II. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội , sự vận dụng
vào quá trình phát triển kinh tế-xã hội ở nước ta.
1. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội ,
1.1 Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định.
Theo quan điểm duy vật biện chứng thì vật chất có trước, nó sinh ra và quyết định ý
thức. Trong lĩnh vực xã hội thì quan hệ này được biểu hiện là: tồn tại xã hội có trước,
nó sinh ra và quyết định ý thức xã hội, điều đó được thể hiện cụ thể là:
Tồn tại xã hội nào thì sinh ra ý thức xã hội ấy. Tức là người ta không thể tìm
nguồngốc tư tưởng trong đầu óc con người, mà phải tìm nó trong chính tồn tại xã hội.
Do đó phải tồn tại xã hội để lý giải cho ý thức xã hội.
Khi tồn tại xã hội thay đổi một cách căn bản, nhất là khi phương thức SX đã
thayđổi thì sớm hay muộn thì ý thức xã hội cũng phải thay đổi theo.
Vì thế , ở những thời kỳ lịch sử khác nhau có những lý luận, quan điểm, tư tưởng
xã hội khác nhau thì đó là do những điều kiện khác nhau của đời sống vật chất
quyết định.
Ví dụ:
Trong xã hội phong kiến, khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời
trong lòng xã hội này và dần dần lớn mạnh thì nảy sinh quan niệm cho rằng
sự tồn tại của chế độ phong kiến là trái với công lý, không phù hợp với lý
tính con người và cần được thay thế bằng chế độ công bằng và hợp lý tính
của con người hơn.
Ngay khi xã hội tư bản mới hình thành đã xuất hiện các trào lưu tư tưởng
phê phán chế độ tư bản chủ nghĩa, đề xuất phương án xây dựng chế độ xã hội
tốt đẹp hơn thay thế chế độ tư bản.
lOMoARcPSD| 36844358
1.2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
Tuy ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại
xã hội, nhưng ý thức xã hội không thụ động mà có tính độc lập tương đối, có
tác dụng tích cực đối với đời sống kinh tế – xã hội. Tính độc lập tương đối đó
biểu hiện ở những điểm sau đây:
* Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội.
Sự thay đổi và phát triển của tồn tại xã hội có khuynh hướng nhanh hơn so với sự
thay đổi và phát triển của ý thức xã hội. Bởi vì ý thức xã hội dù thể hiện dưới hình
thức nào, như ý thức thông thường, ý thức lý luận, hệ tư tưởng và các hình thái ý
thức xã hội như chính trị, pháp quyền, v.v… cũng chỉ nảy sinh từ tồn tại xã hội và
là phản ánh,bị quyết định bởi tồn tại xã hội. Mặt khác, về nguyên tắc ý thức xã hội
có thể phản ánh đúng hoặc không đúng với sự thay đổi và phát triển của tồn tại xã
hội.
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội vì sự biến đổi của tồn
tại xã hội do tác động mạnh mẽ, thường xuyên và trực tiếp của những hoạt
động thực tiễn của con người, thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã
hội có thể không phản ánh kịp và trở nên lạc hậu. Hơn nữa, do sức mạnh của
thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo thủ của một
số hình thái ý thức xã hội. Mặt khác, ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của
những nhóm, những tập đoàn người, những giai cấp nhất định trong xã hội.
Vì vậy, những tư tưởng cũ, lạc hậu thường được các lực lượng xã hội phản
tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ.
Những ý thức lạc hậu, tiêu cực không mất đi một cách dễ dàng. Ởnước ta
chế độ phong kiến, thực dân cũ và mới đã được thủ tiêu, nhưng những tàn dư
tư tưởng, tâm lý, tập quán lỗi thời còn tồn tại dai dẳng và ảnh hưởng không
nhỏ đến đời sống xã hội. Vì vậy, trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới phải
thường xuyên tăng cường công tác tư tưởng, đấu tranh chống lại những âm
mưu và hành động phá hoại của những lực lượng thù địch về mặt tư tưởng,
kiên trì xoá bỏ những tàn dư ý thức cũ, đồng thời ra sức phát huy những
truyền thống tư tưởng tốt đẹp.
*Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội.
Khi khẳng định tính lạc hậu của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội, thì chủ nghĩa
duy vật lịch sử cũng khẳng định rằng trong những điều kiện nhất định tư tưởng của
con người và đặc biệt vai trò tiên phong của những tư tưởng khoa học tiên tiến bởi
tính vượt trước của nó so với tồn tại xã hội. Bởi vì, một mặt tri thức khoa học
lOMoARcPSD| 36844358
)
không chỉ có khả năng dự báo tương lai, mà nó còn có ý nghĩa tác dụng tổ chức,
chỉ đạo hoạt động thực tiễn hướng hoạt động thực tiễn của con người giải quyết
những yêu cầu, nhiệm vụ chín muồi của đời sống vật chất đặt ra; nhưng nó vẫn phụ
thuộc và bị quyết định bởi tồn tại xã hội.
VD: Chủ nghĩa Mác – Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp cách mạng nhất của
thời đại – giai cấp công nhân, tuy ra đời vào thế kỷ XIX trong lòng chủ nghĩa
tư bản nhưng đã chỉ ra được những quy luật vận động tất yếu của xã hội loài
người nói chung, của xã hội tư bản nói riêng, qua đó chỉ ra rằng xã hội tư bản
nhất định sẽ bị thay thế bằng xã hội cộng sản.
Trong thời đại ngày nay , chủ nghĩa Mác – Lênin vẫn là thế giới quan và
phương pháp luận chung nhất cho nhận thức và cải tạo thế giới trên mọi lĩnh
vực, vẫn là cơ sở lý luận và phương pháp khoa học cho sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội.
* Tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội.
Sự phát triển của Lịch sử xã hội là một dòng chảy liên tục, thời đại sau kế
thừa những thành tựu của thời đại trước. Vì vậy ý thức xã hội trong quá
trình phát triển bao giờ cũng có tính kế thừa, phản ánh liên tục của quá trình
nhận thức, tư duy của các thế hệ.Tính kế thừa là một trong những quy luật
của sự phát triển của ý thức xã hội. Sự kế thừa có chọn lọc chính là biện
chứng của sự phát triển.
VD: Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác là sự kế thừa có chọn lọc, có
phê phán, có sáng tạo toàn bộ lịch sử tư tưởng Triết học trước đó cùng với
những thành tựu của triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học cổ điển Anh
và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
Trong xã hội có giai cấp, tính chất kế thừa của ý thức xã hội gắn với tính chất
giai cấp của nó.
Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức khác nhau của các
thời đại trước. Các giai cấp tiên tiến tiếp nhận những di sản tư tưởng tiến bộ
của xã hội cũ để lại.
Ví dụ: Khi làm cách mạng tư sản chống phong kiến, các nhà tư tưởng tiên
tiến của giai cấp tư sản đã khôi phục những tư tưởng duy vật và nhân bản của
thời cổ đại.
lOMoARcPSD| 36844358
Ngược lại, những giai cấp lỗi thời và các nhà tư tưởng của nó thì tiếp thu,
khôi phục những tư tưởng, những lý thuyết xã hội phản tiến bộ của những
thời kỳ lịch sử trước.
*Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của
chúng.
Ý thức hội biểu hiện dưới nhiều hình thái khác nhau, mỗi hình thái phản ánh
những mặt nhất định của đời sống vật chất xã hi, theo những phương thức phản
ánh riêng và thực hiện những chức năng xã hội nhất định. Trong sự phát triển của
chúng, các hình thái ý thức xã hội luôn tác động qua lại, chi phối , ảnh hưởng
nhau một cách biện chứng.
Trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức, ý thức chính trị có vai
trò đặc biệt quan trọng. Ý thức chính trị của giai cấp cách mạng định hướng
cho sự phát triển theo chiều hướng tiến bộ của các hình thái ý thức khác.
Trong điều kiện của nước ta hiện nay, những hoạt động tư tưởng như triết
học, văn học nghệ thuật… mà tách rời đường lối chính trị đúng đắn của Đảng
sẽ không tránh khỏi rơi vào những quan điểm sai lầm, không thể đóng góp
tích cực vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân.
* Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử cho rằng ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội nhưng nó
không phải là sự phản ánh đơn giản, máy móc về tồn tại xã hội mà tác đng một
cách tích cực, năng động và sáng tạo trong hoạt động thực tiễn trong cuộc sống vật
chất của xã hội.
Tính tích cực, năng động và sáng tạo của ý thức xã hội phụ thuộc vào những điểu
kiện lịch sử cụ thể, vào tính chất của những mối quan hệ kinh tế mà trên đó ý thức
xã hội được nảy sinh, tồn tại và phát triển. Tư tưởng tiến bộ cách mạng có ý nghĩa
thúc đẩy sự phát triển của xã hội và đồng thời cũng thấy được những mặt tiêu cực
hạn chế của những tư tưởng lạc hậu, phản động tác động ngược lại sự phát triển
của xã hội
Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương
đối của ý thức xã hội chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển của ý
thức xã hội và của đời sống tinh thần xã hội nói chung. Nó bác bỏ mọi quan
điểm siêu hình, máy móc, tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý
thức xã hội.
lOMoARcPSD| 36844358
)
2. Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội vào
quá trình phát triển kinh tế-xã hội ở nước ta.
Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện chứng của
đời sống xã hội. Quán triệt sâu sắc mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và
ý thức xã hội trong qtrình lãnh đạo sự nghiệp xây dng chủ nghĩa hội nói chung
và công cuộc đổi mới nói riêng. Đảng ta chủ chương nhất quán tiến hành đồng thời
cách mạng trên lĩnh vực kinh tế và cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa, nâng
cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân. Nhìn lại chặng đường gần 8 thập
kỷ qua từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay công cuộc xây
dựng phát triển kinh tế – hội đất nướcđã đạt được nhiều dấu ấn quan trọng trên
hầu hết các lĩnh vực. Từ một quốc gia thuần nông, đại đa số người dân sống ở nông
thôn, trình độ phát triển thấp, Việt Nam đã chuyển mình trở thành một quốc gia có
mức thu nhập trung bình trên thế giới. Cùng với tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh
tế vĩ mô được duy trì, giúp cho nước ta chủ động hơn trong xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế.
Giai đoạn từ 1945-1954 là thời kđầu tiên xây dựng chế độ kinh tế mới ở Vit Nam
giai đoạn khó khăn nhất, gian khổ nhất vừa phải kng chiến chống giặc,
vừa phát triển kinh tế trong điều kiện nghèo nàn, thiếu thốn. Đặc trưng của nền kinh
tế Vit Nam thời kỳ này là nền kinh tế nông thôn, quy mô kinh tế rất thấp, tiềm lực
yếu kém. GDP bình quân đầu người năm 1945 chỉ đạt 60 đồng, tương đương 35
USD. Trong giai đoạn này. Cùng với việc động viên nông dân tích cực tăng gia sản
xuất, Đảng Nhà nước đã từng bước thực hiện các chính sách về ruộng đất như
giảm tô, giảm tức. Với chính sách toàn dân tăng gia sản xuất .Chính sách khuyến
khích mở rộng việc buôn n đã làm hàng hóa được lưu thông tự do trong toàn
quốc.. Mặc hàng hóa trong thời kỳ này khan hiếm nhưng người dân vẫn thể
mua được dễ dàng các loại hàng hóa thiết yếu phục vụ đời sống sinh hoạt hàng ngày
ở các chợ. Cùng với nỗ lực đẩy mạnh sản xuất, sự nghiệp giáo dục – chống giặc dốt
được coi là một trong những nhiệm vụ hàng đầu, đi đôi với chống giặc ngoại xâm.
Từ 1946 đến 1954 10,5 triệu người thoát nạn mù chữ. Bên cạnh đó, nhiệm vụ bảo
vệ sức khỏe nhân dân được Đảng và Chính phủ luôn đề cao hàng đầu.
Giai đoạn 1955-1975: Trong thời kỳ này, Chính phủ đã phê duyệt Kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) nhằm phấn đấu xây dựng bước
đầu cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp
hoá hội chủ nghĩa, xây dựng sở vt chất kthuật của các ngành kinh tế quốc
dân, trước hết là các ngành công nghiệp và nông nghiệp. Năm 1975, GDP bình quân
đầu người đạt 232 đồng, tương đương 80 USD.
lOMoARcPSD| 36844358
Cùng với phát triển kinh tế, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ng nâng
lên. Hoạt động giáo dục đạt được những thành tựu lớn. Số người đi học năm 1975
đạt 6.796,9 nghìn người, gấp 5,3 lần năm 1955.
Giai đon 1976-1985:Trong giai đoạn này nước ta thực hiện hai kế hoạch phát triển
kinh tế – xã hội là Kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980) và Kế hoạch 5 năm lần
thứ ba (1981-1985), nhân dân Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng:
Khắc phục từng bước những hậu quả nặng nề của chiến tranh; Khôi phục phần lớn
những cơ sở công nghiệp, nông nghiệp, giao thông ở miền Bắc và xây dựng lại các
vùng nông thôn ở miền Nam bị chiến tranh tàn phá.
Thời kỳ này, Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa
trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt
động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu
pháp lệnh được giao.
Kinh tế tăng trưởng chậm làm mất cân đối cung – cầu (thiếu hụt nguồn cung), đồng
thời do bị tác động bởi việc cải cách tiền lương vào năm 1985, những nguyên nhân
dẫn đến chỉ số giá bán lẻ tăng rất cao, bình quân giai đoạn 1976-1985 chỉ số giá bán
lẻ tăng 39,53%/năm.
miền Bắc, mặc thu nhập bình quân đầu người một tng của gia đình công nhân
viên chức tăng từ 27,9 đồng năm 1976 n đến 270 đồng năm 1984; thu nhập bình
quân đầu người một tháng của gia đình xã viên hợp tác xã nông nghiệp tăng từ 18,7
đồng lên đến 505,7 đồng, nhưng do lạm phát cao, nên đời sống nhân dân hết sức khó
khăn, thiếu thốn.
Thời kỳ 1986-2000:
Nhận ra những bất cập của cơ chế kinh tế hiện hành, Đảng và Nhà nước bắt đầu có
một số thay đổi trong chính sách quản lý kinh tế. Trong thời kỳ này, nước ta đã thực
hiện đường lối đổi mới, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp
sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo chế thị trường, có sự
quản lý của Nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đường lối đổi mới của Đảng nhanh chóng được sự hưởng ứng rộng rãi của quần
chúng nhân dân, khơi dy tiềm năng sức sáng tạo của các loại hình kinh tế để phát
triển sản xuất, to thêm nhiều việc làm cho người lao động, tăng sản phẩm cho
hội.Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế là đúng hướng và phù hợp với yêu cầu đẩy mạnh
tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
lOMoARcPSD| 36844358
)
Một trong những thành tu kinh tế to lớn của thời kỳ đổi mới là phát triển sản xuất
nông nghiệp, nội dung cơ bản là khoán gọn đến hộ nông dân, thừa nhận hộ nông
dân đơn vị kinh tế tự chủ nông thôn, đánh dấu sự mở đầu của thời kỳ đổi mới
trong nông nghiệp nông thôn nước ta. Ngành nông nghiệp đã giải quyết vững
chắc vấn đề lương thực, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, đưa Việt Nam t nước
thiếu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới.
Sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế và các lĩnh vc xã hội khác được củng cố và tăng
cường.. Sau 10 năm nỗ lực phấn đấu, đến giữa năm 2000, cả nước hoàn thành chương
trình mục tiêu chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học.
Đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ (bao gồm khoa học hội, khoa học tự nhiên,
khoa học kỹ thuật) đã góp phần cung cấp luận cứ khoa học phục vụ hoạch định
đường lối, chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước; tiếp thu, làm chủ
ứng dụng hiệu quả các công nghệ nhập từ nước ngoài, nhất trong các lĩnh
vực thông tin - truyền thông, lai tạo một số giống cây trồng, vật nuôi năng suất
cao, thăm dò và khai thác dầu khí, xây dựng cầu, đóng tàu biển có trọng tải lớn, sản
xuất vắc-xin phòng dịch,... và bước đầu có một số sáng tạo về công nghệ tin học..
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Bảo hiểm y tế được mở rộng đến
khoảng gần 60% dân số. Các chỉ số sức khỏe cộng đng được nâng lên ,tuổi thọ
trung bình của người dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 72 tuổi hiện nay.
Giai đoạn 2001 đến nay:
Sự nghiệp đổi mới ở giai đoạn này đi vào chiều sâu, việc triển khai Chiến lược phát
triển kinh tế - hội 2001 - 2010 và Kế hoch 5 năm 2001 - 2005 mà Đại hội IX của
Đảng thông qua đã đạt được những kết quả nhất định. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng
trưởng khá cao, theo hướng tích cực, năm sau cao hơn năm trước.Trong thời kỳ này,
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chương trình mục tiêu quốc gia Xoá đói giảm
nghèo và Việc làm giai đoạn 2001-2005; Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm
nghèo giai đoạn 2006-2010; Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững
giai đoạn 2012-2015; Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai
đoạn 2016-2020. Điều này đã góp phần quan trọng giúp cho công cuộc xóa đói giảm
nghèo của nước ta trong thời kỳ này đạt được nhiều kỳ tích. Tỷ lệ nghèo chung của
Việt Nam tính theo phương pháp của Ngân hàng Thế giới năm 2002 đang ở mức là
28,9%, đến năm 2018 đã giảm xuống 6,7%.
Do hội nhập kinh tế sâu rộng, kinh tế hội của Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng
nặng n bởi đại dịch Covid-19 trong năm 2020. Tuy nhiên, nh các biện pháp đối
phó chủ động từ Trung ương tới địa phương, tác động y tế của dịch bệnh không
nghiêm trọng như nhiều quốc gia khác. Kinh tế vĩ mô và tài khóa giữ được ổn định,
lOMoARcPSD| 36844358
với mức tăng trưởng GDP ước tính đạt 1,81%, trong 6 tháng đu năm 2020. Tác
động của cuộc khủng hoảng Covid-19 đang diễn ra khó dự đoán, tùy thuộc vào
quy thời gian kéo dài của dịch bệnh. Đại dịch Covid-19 cũng cho thấy cần
phải cải cách mạnh mẽ hơn để kinh tế phục hồi trong thời gian tới, như: cải thiện
môi trường kinh doanh, thúc đẩy kinh tế số, nâng cao hiệu quả đầu tư công. Đây là
các nội dung chính mà Việt Nam cần thực hiện để cải cách nhanh và mạnh hơn.
Kếết lu nậ
thể nói những dấu ấn trong sự phát triển kinh tế xã hội của nước ta kể từ năm
1945 đến nay khẳng định Đảng ta đã vận dụng quan điểm duy vật biện chứng về
mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội vào thực tiễn, phát triển nền kinh tế
- hội từ việc nâng cao nhận thức mỗi con người. Tuy vẫn còn tồn tại những hạn
chế, nhưng nước ta đã đạt được những dấu ấn to lớn, toàn diện và có ý nghĩa lịch sử
trên các mặt trận kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, làm thay đổi căn bản bộ mặt của
đất nước. Từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, qua quá trình phấn đu, chuyển đổi
mô hình, hoàn thiện môi trường thể chế, kinh doanh, hội nhập kinh tế sâu rộng, đến
nay nền kinh tế nước ta từng bước gia tăng về quy mô; được xếp vào hàng ngũ các
nền kinh tế có mức tăng trưởng cao trên thế giới; trở thành một nước có nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thành tựu đó khẳng định Đảng ta đã quán
triệt sâu sắc mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội trong quá
trình lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung công cuộc đổi mới
nói riêng đã to thành nhân tố quyết định thành công của đổi mới, khích lệ, động
viên nhân dân tiếp tục hưởng ng, góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn định
chính trị - xã hội, tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước với những
bước tiến cao hơn tạo nên sự chuyển mình và phát triển nền kinh tế và xã hội trong
thời đại mở cửa và hội nhập.
lOMoARcPSD| 36844358
)
| 1/11

Preview text:

lOMoAR cPSD| 36844358
Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội và vận dụng
vào quá trình phát triển kinh tế-xã hội ở nước ta. A. MỞ ĐẦU
Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện chứng của đời
sống xã hội.Thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản nhất để thay đổi ý thức xã
hội. Mặt khác, cũng cần thấy rằng không chỉ những biến đổi trong tồn tại xa hội mới
tất yếu dẫn đến những thay đổi to lớn trong đời sống tinh thần của xã hội mà ngược
lại, những tác động của đời sống tinh thần xã hội, với những điều kiện xác định cũng
có thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội. Vì vậy trong công
cuộc đổi mới của đất nước ta hiện nay, việc tìm hiểu mối quan hệ giữa tồn tại xã hội
và ý thức xã hội là vô cùng cần thiết. Trước hết là để hiểu mối quan hệ giữa đời sống
tinh thần của xã hội và những biến đổi trong tồn tại xã hội. Từ đó ta mới có thể vận
dụng quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã
hội vào thực tiễn, phát triển nền kinh tế - xã hội từ việc nâng cao nhận thức mỗi con
người. Do đó việc tìm hiểu về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội sẽ
giúp ích rất nhiều cho chúng ta trong công cuộc đổi mới và phát triển nền kinh tế -
xã hội ở Việt Nam. Để có được những thành tựu, những bước phát triển phù hợp
theo kịp thời đại, tạo nên sự chuyển mình và phát triển nền kinh tế và xã hội Việt
Nam theo kịp tình hình chung của thế giới, mở cửa và hội nhập. Thì việc tìm hiểu và
vận dụng mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội là vô cùng quan trọng.
Em chọn đề tài tiểu luận “Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa
tồn tại xã hội và ý thức xã hội và vận dụng vào quá trình phát triển kinh tế-xã
hội ở nước ta”
Vì thấy nó rất hữu ích đối với sinh viên Ngoại thương. Thời gian tìm
hiểu, nghiên cứu chưa nhiều và kiến thức còn chưa sâu, khó tránh khỏi những thiếu
sót.Vậy nên em rất mong nhận được sự chỉ bảo của quý Thầy, Cô để em có được
những kiến thức bổ ích thiết thực cho chuyên nghành của mình
B NỘI DUNG I.Tồn tại xã hội và ý thức xã hội
Toàn bộ đời sống xã hội được chia thành hai lĩnh vực lớn: lĩnh vực vật chất và lĩnh
vực tinh thần, đó là tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
1.Tồn tại xã hội
Khái niệm tồn tại xã hội theo quan điểm duy vật lịch sử là toàn bộ sinh hoạt vật
chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. ) lOMoAR cPSD| 36844358
Các yếu tố tạo thành tồn tại xã hội là phương thức sản xuất vật chất ,điều kiện tự
nhiên-hoàn cảnh địa lý ,dân số và mật độ dân số… trong đó sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất .
2.Ý thức xã hội Khái niệm ý thức xã hội Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống
xã hội,bao gồm toàn bộ những quan điểm, tư tưởng cùng những tình cảm tâm trạng
,… của nhữngcộng đồng xã hội ,nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã
hội trong những giai đoạn phát triển nhất định
Theo nội dung và lĩnh vực phản ánh đời sống xã hội ,ý thức xã hội bao
gồm những lĩnh vực khác nhau : ý thức chính trị,ý thức pháp quyền,ý thức
đạo đức ,ý thức tôn giáo ,ý thức thẩm mỹ…
Theo trình độ phản ánh có thể phân biệt ý thức xã hội thông thường và ý thức luận .
Ý thức xã hội thông thường là toàn bộ những tri thức , những quan niệm của
nhưng con người trong một cộng đồng người nhất đinh ,được hình thành một
cách trực tiếp từ hoạt đông thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hóa ,khái lOMoAR cPSD| 36844358
niệm hóa thành lý luận .Trong đó tâm lý xã hội là một phận xã hội quan trọng . Ý
thức xã hội thông thường phản ánh sinh động trực tiếp nhiều mặt cuộc sống
hàng ngày của con người ,thường xuyên chi phối cuôc sống đó
Ý thức lí luận là những tư tưởng đã được hệ thống hóa , khái quát hóa thành
những học thuyết xã hội được trình bày dưới dạng những khái niệm phạm trù
,quy luật … .Ý thức lí luận có khả năng đánh giá hiện thực khoa học một
cách khái quát và sâu sắc và chính xác ,vạch ra những mối liên hệ về bản
chất của các sự vật và hiện tượng
II. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội , sự vận dụng
vào quá trình phát triển kinh tế-xã hội ở nước ta.
1. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội ,
1.1 Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định.
Theo quan điểm duy vật biện chứng thì vật chất có trước, nó sinh ra và quyết định ý
thức. Trong lĩnh vực xã hội thì quan hệ này được biểu hiện là: tồn tại xã hội có trước,
nó sinh ra và quyết định ý thức xã hội, điều đó được thể hiện cụ thể là: –
Tồn tại xã hội nào thì sinh ra ý thức xã hội ấy. Tức là người ta không thể tìm
nguồngốc tư tưởng trong đầu óc con người, mà phải tìm nó trong chính tồn tại xã hội.
Do đó phải tồn tại xã hội để lý giải cho ý thức xã hội. –
Khi tồn tại xã hội thay đổi một cách căn bản, nhất là khi phương thức SX đã
thayđổi thì sớm hay muộn thì ý thức xã hội cũng phải thay đổi theo.
Vì thế , ở những thời kỳ lịch sử khác nhau có những lý luận, quan điểm, tư tưởng
xã hội khác nhau thì đó là do những điều kiện khác nhau của đời sống vật chất quyết định. Ví dụ:
Trong xã hội phong kiến, khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời
trong lòng xã hội này và dần dần lớn mạnh thì nảy sinh quan niệm cho rằng
sự tồn tại của chế độ phong kiến là trái với công lý, không phù hợp với lý
tính con người và cần được thay thế bằng chế độ công bằng và hợp lý tính của con người hơn.
Ngay khi xã hội tư bản mới hình thành đã xuất hiện các trào lưu tư tưởng
phê phán chế độ tư bản chủ nghĩa, đề xuất phương án xây dựng chế độ xã hội
tốt đẹp hơn thay thế chế độ tư bản. ) lOMoAR cPSD| 36844358
1.2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
Tuy ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại
xã hội, nhưng ý thức xã hội không thụ động mà có tính độc lập tương đối, có
tác dụng tích cực đối với đời sống kinh tế – xã hội. Tính độc lập tương đối đó
biểu hiện ở những điểm sau đây:
* Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội.
Sự thay đổi và phát triển của tồn tại xã hội có khuynh hướng nhanh hơn so với sự
thay đổi và phát triển của ý thức xã hội. Bởi vì ý thức xã hội dù thể hiện dưới hình
thức nào, như ý thức thông thường, ý thức lý luận, hệ tư tưởng và các hình thái ý
thức xã hội như chính trị, pháp quyền, v.v… cũng chỉ nảy sinh từ tồn tại xã hội và
là phản ánh,bị quyết định bởi tồn tại xã hội. Mặt khác, về nguyên tắc ý thức xã hội
có thể phản ánh đúng hoặc không đúng với sự thay đổi và phát triển của tồn tại xã hội.
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội vì sự biến đổi của tồn
tại xã hội do tác động mạnh mẽ, thường xuyên và trực tiếp của những hoạt
động thực tiễn của con người, thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã
hội có thể không phản ánh kịp và trở nên lạc hậu. Hơn nữa, do sức mạnh của
thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo thủ của một
số hình thái ý thức xã hội. Mặt khác, ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của
những nhóm, những tập đoàn người, những giai cấp nhất định trong xã hội.
Vì vậy, những tư tưởng cũ, lạc hậu thường được các lực lượng xã hội phản
tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ.
Những ý thức lạc hậu, tiêu cực không mất đi một cách dễ dàng. Ởnước ta
chế độ phong kiến, thực dân cũ và mới đã được thủ tiêu, nhưng những tàn dư
tư tưởng, tâm lý, tập quán lỗi thời còn tồn tại dai dẳng và ảnh hưởng không
nhỏ đến đời sống xã hội. Vì vậy, trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới phải
thường xuyên tăng cường công tác tư tưởng, đấu tranh chống lại những âm
mưu và hành động phá hoại của những lực lượng thù địch về mặt tư tưởng,
kiên trì xoá bỏ những tàn dư ý thức cũ, đồng thời ra sức phát huy những
truyền thống tư tưởng tốt đẹp.
*Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội.
Khi khẳng định tính lạc hậu của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội, thì chủ nghĩa
duy vật lịch sử cũng khẳng định rằng trong những điều kiện nhất định tư tưởng của
con người và đặc biệt vai trò tiên phong của những tư tưởng khoa học tiên tiến bởi
tính vượt trước của nó so với tồn tại xã hội. Bởi vì, một mặt tri thức khoa học lOMoAR cPSD| 36844358
không chỉ có khả năng dự báo tương lai, mà nó còn có ý nghĩa tác dụng tổ chức,
chỉ đạo hoạt động thực tiễn hướng hoạt động thực tiễn của con người giải quyết
những yêu cầu, nhiệm vụ chín muồi của đời sống vật chất đặt ra; nhưng nó vẫn phụ
thuộc và bị quyết định bởi tồn tại xã hội.
VD: Chủ nghĩa Mác – Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp cách mạng nhất của
thời đại – giai cấp công nhân, tuy ra đời vào thế kỷ XIX trong lòng chủ nghĩa
tư bản nhưng đã chỉ ra được những quy luật vận động tất yếu của xã hội loài
người nói chung, của xã hội tư bản nói riêng, qua đó chỉ ra rằng xã hội tư bản
nhất định sẽ bị thay thế bằng xã hội cộng sản.
Trong thời đại ngày nay , chủ nghĩa Mác – Lênin vẫn là thế giới quan và
phương pháp luận chung nhất cho nhận thức và cải tạo thế giới trên mọi lĩnh
vực, vẫn là cơ sở lý luận và phương pháp khoa học cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
* Tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội.
Sự phát triển của Lịch sử xã hội là một dòng chảy liên tục, thời đại sau kế
thừa những thành tựu của thời đại trước. Vì vậy ý thức xã hội trong quá
trình phát triển bao giờ cũng có tính kế thừa, phản ánh liên tục của quá trình
nhận thức, tư duy của các thế hệ.Tính kế thừa là một trong những quy luật
của sự phát triển của ý thức xã hội. Sự kế thừa có chọn lọc chính là biện
chứng của sự phát triển.
VD: Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác là sự kế thừa có chọn lọc, có
phê phán, có sáng tạo toàn bộ lịch sử tư tưởng Triết học trước đó cùng với
những thành tựu của triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học cổ điển Anh
và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
Trong xã hội có giai cấp, tính chất kế thừa của ý thức xã hội gắn với tính chất giai cấp của nó.
Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức khác nhau của các
thời đại trước. Các giai cấp tiên tiến tiếp nhận những di sản tư tưởng tiến bộ
của xã hội cũ để lại.
Ví dụ: Khi làm cách mạng tư sản chống phong kiến, các nhà tư tưởng tiên
tiến của giai cấp tư sản đã khôi phục những tư tưởng duy vật và nhân bản của thời cổ đại. ) lOMoAR cPSD| 36844358
Ngược lại, những giai cấp lỗi thời và các nhà tư tưởng của nó thì tiếp thu,
khôi phục những tư tưởng, những lý thuyết xã hội phản tiến bộ của những
thời kỳ lịch sử trước.
*Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng.
Ý thức xã hội biểu hiện dưới nhiều hình thái khác nhau, mỗi hình thái phản ánh
những mặt nhất định của đời sống vật chất xã hội, theo những phương thức phản
ánh riêng và thực hiện những chức năng xã hội nhất định. Trong sự phát triển của
chúng, các hình thái ý thức xã hội luôn tác động qua lại, chi phối , ảnh hưởng
nhau một cách biện chứng.
Trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức, ý thức chính trị có vai
trò đặc biệt quan trọng. Ý thức chính trị của giai cấp cách mạng định hướng
cho sự phát triển theo chiều hướng tiến bộ của các hình thái ý thức khác.
Trong điều kiện của nước ta hiện nay, những hoạt động tư tưởng như triết
học, văn học nghệ thuật… mà tách rời đường lối chính trị đúng đắn của Đảng
sẽ không tránh khỏi rơi vào những quan điểm sai lầm, không thể đóng góp
tích cực vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân.
* Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử cho rằng ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội nhưng nó
không phải là sự phản ánh đơn giản, máy móc về tồn tại xã hội mà tác động một
cách tích cực, năng động và sáng tạo trong hoạt động thực tiễn trong cuộc sống vật chất của xã hội.
Tính tích cực, năng động và sáng tạo của ý thức xã hội phụ thuộc vào những điểu
kiện lịch sử cụ thể, vào tính chất của những mối quan hệ kinh tế mà trên đó ý thức
xã hội được nảy sinh, tồn tại và phát triển. Tư tưởng tiến bộ cách mạng có ý nghĩa
thúc đẩy sự phát triển của xã hội và đồng thời cũng thấy được những mặt tiêu cực
hạn chế của những tư tưởng lạc hậu, phản động tác động ngược lại sự phát triển của xã hội
Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương
đối của ý thức xã hội chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển của ý
thức xã hội và của đời sống tinh thần xã hội nói chung. Nó bác bỏ mọi quan
điểm siêu hình, máy móc, tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. lOMoAR cPSD| 36844358
2. Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội vào
quá trình phát triển kinh tế-xã hội ở nước ta.
Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện chứng của
đời sống xã hội. Quán triệt sâu sắc mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và
ý thức xã hội trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung
và công cuộc đổi mới nói riêng. Đảng ta chủ chương nhất quán tiến hành đồng thời
cách mạng trên lĩnh vực kinh tế và cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa, nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Nhìn lại chặng đường gần 8 thập
kỷ qua từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay công cuộc xây
dựng và phát triển kinh tế – xã hội đất nướcđã đạt được nhiều dấu ấn quan trọng trên
hầu hết các lĩnh vực. Từ một quốc gia thuần nông, đại đa số người dân sống ở nông
thôn, trình độ phát triển thấp, Việt Nam đã chuyển mình trở thành một quốc gia có
mức thu nhập trung bình trên thế giới. Cùng với tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh
tế vĩ mô được duy trì, giúp cho nước ta chủ động hơn trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
Giai đoạn từ 1945-1954 là thời kỳ đầu tiên xây dựng chế độ kinh tế mới ở Việt Nam
và là giai đoạn khó khăn nhất, gian khổ nhất vì vừa phải kháng chiến chống giặc,
vừa phát triển kinh tế trong điều kiện nghèo nàn, thiếu thốn. Đặc trưng của nền kinh
tế Việt Nam thời kỳ này là nền kinh tế nông thôn, quy mô kinh tế rất thấp, tiềm lực
yếu kém. GDP bình quân đầu người năm 1945 chỉ đạt 60 đồng, tương đương 35
USD. Trong giai đoạn này. Cùng với việc động viên nông dân tích cực tăng gia sản
xuất, Đảng và Nhà nước đã từng bước thực hiện các chính sách về ruộng đất như
giảm tô, giảm tức. Với chính sách toàn dân tăng gia sản xuất .Chính sách khuyến
khích mở rộng việc buôn bán đã làm hàng hóa được lưu thông tự do trong toàn
quốc.. Mặc dù hàng hóa trong thời kỳ này khan hiếm nhưng người dân vẫn có thể
mua được dễ dàng các loại hàng hóa thiết yếu phục vụ đời sống sinh hoạt hàng ngày
ở các chợ. Cùng với nỗ lực đẩy mạnh sản xuất, sự nghiệp giáo dục – chống giặc dốt
được coi là một trong những nhiệm vụ hàng đầu, đi đôi với chống giặc ngoại xâm.
Từ 1946 đến 1954 có 10,5 triệu người thoát nạn mù chữ. Bên cạnh đó, nhiệm vụ bảo
vệ sức khỏe nhân dân được Đảng và Chính phủ luôn đề cao hàng đầu.
Giai đoạn 1955-1975: Trong thời kỳ này, Chính phủ đã phê duyệt Kế hoạch phát
triển kinh tế – xã hội 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) nhằm phấn đấu xây dựng bước
đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp
hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của các ngành kinh tế quốc
dân, trước hết là các ngành công nghiệp và nông nghiệp. Năm 1975, GDP bình quân
đầu người đạt 232 đồng, tương đương 80 USD. ) lOMoAR cPSD| 36844358
Cùng với phát triển kinh tế, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân cũng nâng
lên. Hoạt động giáo dục đạt được những thành tựu lớn. Số người đi học năm 1975
đạt 6.796,9 nghìn người, gấp 5,3 lần năm 1955.
Giai đoạn 1976-1985:Trong giai đoạn này nước ta thực hiện hai kế hoạch phát triển
kinh tế – xã hội là Kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980) và Kế hoạch 5 năm lần
thứ ba (1981-1985), nhân dân Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng:
Khắc phục từng bước những hậu quả nặng nề của chiến tranh; Khôi phục phần lớn
những cơ sở công nghiệp, nông nghiệp, giao thông ở miền Bắc và xây dựng lại các
vùng nông thôn ở miền Nam bị chiến tranh tàn phá.
Thời kỳ này, Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa
trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt
động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao.
Kinh tế tăng trưởng chậm làm mất cân đối cung – cầu (thiếu hụt nguồn cung), đồng
thời do bị tác động bởi việc cải cách tiền lương vào năm 1985, là những nguyên nhân
dẫn đến chỉ số giá bán lẻ tăng rất cao, bình quân giai đoạn 1976-1985 chỉ số giá bán lẻ tăng 39,53%/năm.
Ở miền Bắc, mặc dù thu nhập bình quân đầu người một tháng của gia đình công nhân
viên chức tăng từ 27,9 đồng năm 1976 lên đến 270 đồng năm 1984; thu nhập bình
quân đầu người một tháng của gia đình xã viên hợp tác xã nông nghiệp tăng từ 18,7
đồng lên đến 505,7 đồng, nhưng do lạm phát cao, nên đời sống nhân dân hết sức khó khăn, thiếu thốn.
Thời kỳ 1986-2000:
Nhận ra những bất cập của cơ chế kinh tế hiện hành, Đảng và Nhà nước bắt đầu có
một số thay đổi trong chính sách quản lý kinh tế. Trong thời kỳ này, nước ta đã thực
hiện đường lối đổi mới, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp
sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của Nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đường lối đổi mới của Đảng nhanh chóng được sự hưởng ứng rộng rãi của quần
chúng nhân dân, khơi dậy tiềm năng và sức sáng tạo của các loại hình kinh tế để phát
triển sản xuất, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, tăng sản phẩm cho xã
hội.Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế là đúng hướng và phù hợp với yêu cầu đẩy mạnh
tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. lOMoAR cPSD| 36844358
Một trong những thành tựu kinh tế to lớn của thời kỳ đổi mới là phát triển sản xuất
nông nghiệp, mà nội dung cơ bản là khoán gọn đến hộ nông dân, thừa nhận hộ nông
dân là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn, đánh dấu sự mở đầu của thời kỳ đổi mới
trong nông nghiệp và nông thôn nước ta. Ngành nông nghiệp đã giải quyết vững
chắc vấn đề lương thực, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, đưa Việt Nam từ nước
thiếu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới.
Sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế và các lĩnh vực xã hội khác được củng cố và tăng
cường.. Sau 10 năm nỗ lực phấn đấu, đến giữa năm 2000, cả nước hoàn thành chương
trình mục tiêu chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học.
Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ (bao gồm khoa học xã hội, khoa học tự nhiên,
khoa học kỹ thuật) đã góp phần cung cấp luận cứ khoa học phục vụ hoạch định
đường lối, chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước; tiếp thu, làm chủ
và ứng dụng có hiệu quả các công nghệ nhập từ nước ngoài, nhất là trong các lĩnh
vực thông tin - truyền thông, lai tạo một số giống cây trồng, vật nuôi có năng suất
cao, thăm dò và khai thác dầu khí, xây dựng cầu, đóng tàu biển có trọng tải lớn, sản
xuất vắc-xin phòng dịch,... và bước đầu có một số sáng tạo về công nghệ tin học..
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Bảo hiểm y tế được mở rộng đến
khoảng gần 60% dân số. Các chỉ số sức khỏe cộng đồng được nâng lên ,tuổi thọ
trung bình của người dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 72 tuổi hiện nay.
Giai đoạn 2001 đến nay:
Sự nghiệp đổi mới ở giai đoạn này đi vào chiều sâu, việc triển khai Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và Kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 mà Đại hội IX của
Đảng thông qua đã đạt được những kết quả nhất định. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng
trưởng khá cao, theo hướng tích cực, năm sau cao hơn năm trước.Trong thời kỳ này,
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chương trình mục tiêu quốc gia Xoá đói giảm
nghèo và Việc làm giai đoạn 2001-2005; Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm
nghèo giai đoạn 2006-2010; Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững
giai đoạn 2012-2015; Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai
đoạn 2016-2020. Điều này đã góp phần quan trọng giúp cho công cuộc xóa đói giảm
nghèo của nước ta trong thời kỳ này đạt được nhiều kỳ tích. Tỷ lệ nghèo chung của
Việt Nam tính theo phương pháp của Ngân hàng Thế giới năm 2002 đang ở mức là
28,9%, đến năm 2018 đã giảm xuống 6,7%.
Do hội nhập kinh tế sâu rộng, kinh tế – xã hội của Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng
nặng nề bởi đại dịch Covid-19 trong năm 2020. Tuy nhiên, nhờ có các biện pháp đối
phó chủ động từ Trung ương tới địa phương, tác động y tế của dịch bệnh không
nghiêm trọng như nhiều quốc gia khác. Kinh tế vĩ mô và tài khóa giữ được ổn định, ) lOMoAR cPSD| 36844358
với mức tăng trưởng GDP ước tính đạt 1,81%, trong 6 tháng đầu năm 2020. Tác
động của cuộc khủng hoảng Covid-19 đang diễn ra là khó dự đoán, tùy thuộc vào
quy mô và thời gian kéo dài của dịch bệnh. Đại dịch Covid-19 cũng cho thấy cần
phải cải cách mạnh mẽ hơn để kinh tế phục hồi trong thời gian tới, như: cải thiện
môi trường kinh doanh, thúc đẩy kinh tế số, nâng cao hiệu quả đầu tư công. Đây là
các nội dung chính mà Việt Nam cần thực hiện để cải cách nhanh và mạnh hơn. Kếết lu nậ
Có thể nói những dấu ấn trong sự phát triển kinh tế – xã hội của nước ta kể từ năm
1945 đến nay khẳng định Đảng ta đã vận dụng quan điểm duy vật biện chứng về
mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội vào thực tiễn, phát triển nền kinh tế
- xã hội từ việc nâng cao nhận thức mỗi con người. Tuy vẫn còn tồn tại những hạn
chế, nhưng nước ta đã đạt được những dấu ấn to lớn, toàn diện và có ý nghĩa lịch sử
trên các mặt trận kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, làm thay đổi căn bản bộ mặt của
đất nước. Từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, qua quá trình phấn đấu, chuyển đổi
mô hình, hoàn thiện môi trường thể chế, kinh doanh, hội nhập kinh tế sâu rộng, đến
nay nền kinh tế nước ta từng bước gia tăng về quy mô; được xếp vào hàng ngũ các
nền kinh tế có mức tăng trưởng cao trên thế giới; trở thành một nước có nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thành tựu đó khẳng định Đảng ta đã quán
triệt sâu sắc mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội trong quá
trình lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung và công cuộc đổi mới
nói riêng đã tạo thành nhân tố quyết định thành công của đổi mới, khích lệ, động
viên nhân dân tiếp tục hưởng ứng, góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn định
chính trị - xã hội, tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước với những
bước tiến cao hơn tạo nên sự chuyển mình và phát triển nền kinh tế và xã hội trong
thời đại mở cửa và hội nhập. lOMoAR cPSD| 36844358 )