



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 60794687 MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN…………………………………………………… 3
MỞ ĐẦU.……………………………………………………………. 5
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ………………. 7
1.1. Một số khái niệm………………………………………….……. . 7
1.2. Bối cảnh lịch sử mỹ thuật thời Lê……………………………..... 7
1.3. Khái quát về mỹ thuật thời Lê…………………………………... 9
1.4. Tiểu kết.…………………………………………..……………… 10
CHƯƠNG II: ĐẶC ĐIỂM TẠO HÌNH THỜI LÊ TRONG TRANH DÂN
GIAN ĐÔNG HỒ VÀ HÀNG TRỐNG……………..…………….. 11
2.1. Tranh dân gian Đông Hồ……..………………………………... 13
2.1.1. Khái quát chung về tranh dân gian Đông Hồ…………..….... 13
2.1.2. Về thể loại…………..…...…………..…...…………..…........ 14
2.1.3. Về quy trình sản xuất…...…………..…...…………..…......... 14
2.1.4. Về đặc điểm tạo hình………………..…...…………..…........ 15
2.1.4.1. Chất liệu và màu sắc……...……..…...…………..…........ 15
2.1.4.2. Bố cục……...……..…...…………..….............………….. 16
2.1.4.3. Đường nét và tạo hình……...……..….…………..…........ 18
2.1.5. Về nội dung………………..…...…………..…......................... 19
2.2. Tranh dân gian Hàng Trống……..……………………………… 22
2.2.1. Khái quát chung về tranh dân gian Hàng Trống…...…..…..... 22 2.2.2.
Về thể loại…………..…...…………..…...…………..…........ 23 lOMoAR cPSD| 60794687
2.2.3. Về quy trình sản xuất…...…………..…...…………..…......... 24
2.2.4. Về đặc điểm tạo hình………………..…...…………..…........ 25
2.2.4.1. Chất liệu và màu sắc……...……..…...…………..…........ 25
2.2.4.2. Bố cục……...……..…...…………..….............………….. 26
2.2.4.3. Đường nét và tạo hình……...……..….…………..…........ 27 2.2.5.
Về nội dung………………..…...…………..….......................... 31
2.3. Tranh Đông Hồ và tranh Hàng Trống đặt trong tạo hình mỹ thuật thời
Lê…………………………………………………………………....... 35
2.4. Sự khác biệt giữa tranh Hàng Trống và tranh Đông Hồ…………. 37
2.4.1. Tính chất trang trí và đồ họa của từng dòng tranh…………… 37
2.4.2. Kĩ thuật in……………………………………………………. 38
2.4.3. Giấy in và màu sắc…………………………………………… 39
2.4.4. Đề tài…………………………………………………………. 39
2.4.5. Kích thước……………………………………………………. 40
2.5. Tiểu kết…………………………………………………………… 40
CHƯƠNG III: TÌNH TRẠNG TỒN TẠI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HAI
DÒNG TRANH DÂN GIAN ĐÔNG HỒ VÀ HÀNG TRỐNG….. 42
3.1. Sự mai một trong văn hóa vẽ tranh và thú chơi tranh Đông Hồ… 42
3.2. Sự mai một trong văn hóa vẽ tranh và thú chơi tranh Hàng Trống 43
3.3. Tiểu kết……………………………………………………....... 44
CHƯƠNG IV: TÍNH ỨNG DỤNG VÀO SẢN PHẨM MỸ THUẬT CÔNG lOMoAR cPSD| 60794687
NGHIỆP HIỆN NAY………………………………..…………….. 45
4.1. Ứng dụng trong thiết kế bao bì sản phẩm……………………… 45
4.1.1. Họa tiết tranh Hàng Trống sử dụng trong dự án nghệ thuật “Họa sắc Việt –
sang tạo từ truyền thống”…………………………………………… 45
4.1.2. Họa tiết tranh Đông Hồ trong dự án “ĐƯƠNG ĐẠI HÓA TRANH
ĐÔNG HỒ” của Highland Coffee…………………………………. 47
4.2. Ứng dụng trong lĩnh vưc thời trang……………………………. 51
4.3. Ứng dụng trong nghệ thuật trang trí gốm……………………… 53
4.4. Tiểu kết………………………………………………………… 54
KẾT LUẬN………………………………………………………… 55
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................ 56 lOMoAR cPSD| 60794687 MỞ ĐẦU
1. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
1.1. Mục đích nghiên cứu:
- Giúp cho người nghiên cứu, học tập lịch sử mỹ thuật Việt Nam hiệu quả và hiểu rõ
hơn về giá trị vốn cổ dân tộc.
- Góp phần nâng cao hiểu biết và bảo tồn di sản văn hóa dòng tranh dân gian.
- Thấu hiểu và biết cách vận dụng những chi tiết đắt giá vào trong thiết kế mỹ thuật ứng dụng hiện đại.
1.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu các lý luận liên quan đến đề tài lOMoAR cPSD| 60794687
- Tìm hiểu vẻ đẹp và tính ứng dụng của hai dòng tranh dân gian Đông Hồ và Hàng
Trống trong mỹ thuật ngày nay.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu: Tranh dân gian Đông Hồ và Hàng Trống
2.2. Phạm vi nghiên cứu: Đặc điểm của từng loại tranh, của tạo hình thời Lê và tính
ứng dụng của những đặc điểm đó lên mỹ thuật công nghiệp hiện đại.
3. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp phân tích tổng hợp: Thu thập tài liệu, thông tin nghiên cứu liên quan đến đề tài
4. Bố cục: Tên các chương và dự kiến kết quả đạt được
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn bao gồm 03 chương:
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM TẠO HÌNH THỜI LÊ TRONG TRANH DÂN GIAN
ĐÔNG HỒ VÀ HÀNG TRỐNG
Chương 3: TÌNH TRẠNG TỒN TẠI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HAI DÒNG
TRANH DÂN GIAN ĐÔNG ĐỒ VÀ HÀNG TRỐNG
Chương 4: TÍNH ỨNG DỤNG VÀO SẢN PHẨM MỸ THUẬT CÔNG NGHIỆP HIỆN NAY lOMoAR cPSD| 60794687 Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Một số khái niệm 1.1.1. Tạo hình
Tạo hình là thủ pháp sáng tạo nghệ thuật bằng ngôn ngữ hình khối, màu sắc, chất
cảm, không gian, bố cục. Theo nghĩa rộng, tạo hình bao gồm hoạt động hội họa và
điêu khắc, mỹ thuật ứng dụng, kiến trúc, nhiếp ảnh. Theo nghĩa hẹp tạo hình là hoạt
động thuộc hội họa giá vẽ và điêu khắc. Hội họa là nghệ thuật tạo hình trên mặt
phẳng, các yếu tố đường nét, màu sắc, hình diện. Điêu khắc là nghệ thuật tạo hình
trong không gian ba chiều, bằng các khối thể tích. Mĩ thuật ứng dụng và kiến trúc sử
dụng các ph ơngƣ diện tạo hình vào việc tạo dáng sản phẩm, sáng tạo môi tr ờngƣ
không gian mang giá trị thẩm mỹ và công năng
1.2. Bối cảnh lịch sử mỹ thuật thời Lê:
Năm 1400, Hồ Quý Ly truất ngôi nhà Trần, tự xưng vua, lấy hiệu là Thánh Nguyên,
đổi tên nước là Đại Ngu. Như vậy là sau triều Trần một triều đại mới bắt đầu: đó là triều đại nhà Hồ
Đến ngày 19 tháng 11 năm 1406, nhà Minh vượt qua biên giới đánh về Thăng Long.
Đến ngày 10 tháng 01 năm 1407, thành Đa Bang thất thủ, tuyến phòng ngự chống
quân Minh của nhà Hồ bị phá vỡ. Tháng 6 năm 1407 cuộc kháng chiến của quân nhà
Hồ bị thất bại, nước ta rơi vào tay quân xâm lược nhà Minh. Tháng 9/1907 nước ta
bắt đầu thời kì đô hộ của nhà Minh. Trong 20 năm đầu thế kỉ XV, quân Minh đã tàn
phá nhiều công trình kiến trúc và điêu khắc của dân tộc ta, hòng hủy diệt nền văn lOMoAR cPSD| 60794687
hoá dân tộc của ta và âm mưu đồng hoá dân tộc. Khi sang xâm lược chúng đã được
lệnh: "khi tiến quân vào An Nam chỉ trừ những bản kinh và sách về thích, đạo không
huỷ còn tất cả các bản in sách các giấy tờ cho đến sách học của trẻ em.
Những người thợ tài giỏi, trong đó có Nguyễn An bị chúng bắt đem về nước. Sau khi
lên ngôi vua, Lê Lợi đã ra nhiều chính sách để phục hồi nền kinh tế nhất là những
chính sách về nông nghiệp như khai khẩn ruộng hoang, những người đi phiêu bạt
các nơi nay được lệnh trở về quê quán làm ăn, hệ thống đê điều được tu bổ, sửa
sang...Tất cả những điều đó làm cho nền kinh tế nông nghiệp thời lê phát triển, cải
thiện một phần đời sống của nhân dân.
Cùng với việc phát triển chế độ quân chủ chuyên chế, nhà Lê củng cố chế độ đẳng
cấp phong kiến và truyền bá ý thức hệ nho giáo. Do đó mặc dù cuối thời Trần các
nho sĩ đã đấu tranh mạnh với phật giáo thì sang thời Lê Sơ, nho giáo đã phát triển
mạnh, được nhà nước ủng hộ và nhanh chóng dành được địa vị thống trị . Về mặt tư
tưởng thì nhà nước ra nhiều sắc lệnh để hạn chế phật giáo. Nho sĩ được đề cao, việc
đào tạo nhân tài chủ yếu qua con đường thi cử.
Tất cả tình hình trên đã góp phần tác động đến sự phát triển của nghệ thuật tạo hình
thời Lê Sơ. Nếu như ở thời Lý, Trần nghệ thuật nho giáo phát triển mạnh thì đến nay
bị hạn chế. Đến thời vua Lê Thánh Tông, phật giáo và cả đạo giáo bị hạn chế chặt
chẽ hơn, nghiêm ngặt hơn. Vì vậy có thể nói vào thời Lê Sơ, mĩ thuật phục vụ tư
tưởng nho giáo của giai cấp thống trị phát triển mạnh hơn nghệ thuật phật giáo và
nghệ thuật dân gian. Bên cạnh việc thừa kế những tinh hoa của mỹ thuật thời Lý,
thời Trần thì mỹ thuật thời Lê Sơ phát triển với nhiều nguồn ảnh hưởng khác nhau.
Nho giáo được phát triển, nhà nước phong kiến lấy nho giáo làm mẫu mực cho việc
dựng nước trị dân. Lúc này vai trò của vua được thần thánh hoá, sự phân biệt đẳng
cấp trên dưới và các trật tự phong kiến được củng cố. Điều này khiến cho mỹ thuật
thời Lê phần nào bị ảnh hưởng văn hoá phương bắc, nhất là ở khu vực mỹ thuật cung lOMoAR cPSD| 60794687
đình. Tuy vậy sau khi kháng chiến chống quân Minh thắng lợi, ý thức độc lập dân
tộc càng được khẳng định. Bởi vậy khi xây dựng các công trình kiến trúc hoặc sáng
tạo nghệ thuật tạo hình. Mặc dù công trình thuộc về những người thợ vẫn đưa vào
tác phẩm các biểu hiện của mỹ thuật dân gian.
Sau đó cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo đã thu hút nhiều sĩ phu yêu
nước mà nhân dân kéo dài trong 10 năm (1417-1427) đã thắng lợi vẻ vang .Quân
Minh bị đánh đuổi, Lê Lợi lên ngôi vua, lập ra triều đại nhà Lê. Thời kì này còn được
gọi là nhà Lê Sơ hay hậu Lê để phân biệt với thời tiền Lê của vua Lê Đại Hành.
1.3. Khái quát về hội họa thời Lê:
Cũng giống như các thời kỳ trước, tranh của thời kỳ Lê Sơ hầu như không còn giữ
được đến ngày nay. Việc tìm hiểu nghệ thuật qua thơ, qua sử sách lưu truyền đã trở
nên quen thuộc khi nghiên cứu về hội hoạ thời phong kiến. Hội Tao Đàn do vua Lê
Thánh Tông đứng đầu đã tập hợp nhiều văn sĩ của thời Lê Sơ. Qua những bài thơ
của họ trong "Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập" có thể chứng minh cho sự có mặt của
nghệ thuật hội hoạ thời Lê Sơ bên cạnh các loại hình nghệ thuật khác. Nhiều bức
tranh được "xem" qua như tranh vẽ hoa mai, hoa sen....cùng với thể loại tranh phong
cảnh, thời Lê còn có nhiều tranh vẽ theo đề tài ca ngợi tình bạn ,tình người tri kỷ.đó
là các tranh vẽ "Bá Nha Gảy Đàn", "Chim Núi Gọi Người"....
Đặc biệt thể loại tranh chân dung đã phát triển từ các thế kỉ trước nay vẫn được chú
trọng. Đó là tranh chân dung của những người nổi tiếng trung quân ái quốc. Đồng
thời cũng là hình thức ban thưởng của vua đối với người mình yêu quý, mến mộ tài
năng, đức độ. Bức tranh được nhắc đến nhiều hơn cả là tranh chân dung Nguyễn
Trãi.Sau vụ án "Lệ Chi Viên"với hình thức "chu di tam tộc" Nguyễn Trãi được minh
oan ở thời Hồng Đức. Vua Lê Thánh Tông sau khi minh oan cho ông, đã cho vẽ chân lOMoAR cPSD| 60794687
dung ông để lưu truyền lại đời sau, đây có lẽ là một bức chân dung vẽ theo lối tượng
trưng, lí tưởng hoá và dựa trên cơ sở mô tả của những người biết về Nguyễn Trãi .
Các nhà nghiên cứu mỹ thuật còn đưa ra một chứng minh về hình vẽ của thời Lê Sơ.
Đó là những hình vẽ trên đồ gốm của thời kỳ này. Có thể nói các hình vẽ này khá
phong phú về thể loại và có bút pháp rất đặc biệt. Hình vẽ ở đây có thể là một hình
đơn lẻ, cũng có thể là một đồ án trang trí được bố cục chặt chẽ, đậm nhạt phong phú,
đường nét sinh động. Thường là các dải hoa văn ngang, vòng quanh thân gốm. Thỉnh
thoảng cũng có những tác phẩm gốm được trang trí chia thành các ô dọc.
1.4. Tiểu kết:
Trải qua 100 năm tồn tại lịch sử và mĩ thuật thời Lê Sơ có sự chuyển biến và phát
triển theo một chiều hướng khác .Một mặt nó kế thừa những tinh hoa truyền thống
trong mỹ thuật thời Lý – thời Trần .Mặt khác do sự thay đổi của hoàn cảnh XH nên
mỹ thuật Lê Sơ mang một phong cách riêng biệt .Trong một số tác phẩm từ thời Lê
Thánh Tông về sau có nhiều ảnh hưởng của tinh thần nho giáo .Tuy vậy phong cách
nghệ thuật Lê Sơ vẫn không xa rời với truyền thống dân tộc .Có thể vì tính chất chính
thống Nho Giáo thể hiện ở nội dung ,đề tài những hình thức thể hiện vẫn mang nét
chân thực ,đơn giản ,giàu chất sống động ,hồn nhiên.
Chúng ta có thể nói mỹ thuật Lê Sơ là một dấu gạch nối giữa nguồn mỹ cảm dân
gian thời Trần với những thế kỷ sau ,là tiền đề cho một thời đại huy hoàng của nghệ
thuật dân gian Việt Nam với những sáng tạo kì diệu.
Chương 2 ĐẶC ĐIỂM TẠO HÌNH THỜI LÊ TRONG TRANH lOMoAR cPSD| 60794687
DÂN GIAN ĐÔNG HỒ VÀ HÀNG TRỐNG
2.1. Tranh dân gian Đông Hồ:
2.1.1. Khái quát chung về tranh Đông Hồ:
Tranh Đông Hồ, hay tên đầy đủ là tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ, đây là một dòng
tranh dân gian Việt Nam với xuất xứ từ làng Đông Hồ thuộc xã Song Hồ, huyện
Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Theo tìm hiểu, trước kia tranh được bán ra chủ yếu
phục vụ cho dịp Tết Nguyên Đán, người dân nông thôn mua tranh về dán trên tường,
hết năm lại lột bỏ, dùng tranh mới.
Tranh Đông Hồ mang tính thẩm mỹ của người nông dân nguyên chất gắn với một số
cá nhân có tài vẽ, mầu in trước lên giấy quét điện nét đen in sau cùng. Với những nét
tinh túy riêng và mang đậm những giá trị văn hóa to lớn, tranh tết Đông Hồ bằng
những hình ảnh biểu tượng dân dã, gần gũi nhưng lại chứa đựng những thông điệp
ẩn ngữ đầy tính nhân văn. Sự phong phú và đa dạng cả về mẫu mã, thể loại, chủ đề,
tranh dân gian Đông Hồ phản ánh hầu như tất cả những gì diễn ra trong đời sống
bình dị của người lao động như: Chăn trâu thổi sáo, Hứng dừa, Đấu vật, Đánh ghen…
cho tới những ước mơ, khát vọng cuộc sống tốt đẹp hơn như Lễ trí, Nhân nghĩa, Vinh
hoa, Phú quý, Lợn đàn, Gà đàn… Nét hấp dẫn của tranh dân gian Đông Hồ không
chỉ đề cập đến cuộc sống: thóc đầy bồ, gà đầy sân, mong ước vinh hoa phú quý…
mà còn đề cập đến cuộc sống lứa đôi, vợ chồng với cái nhìn hóm hỉnh mà sâu sắc.
2.1.2. Về thể loại
Theo nội dung chủ đề, tranh Đông Hồ có thể chia thành 7 loại chính: tranh thờ, tranh
chúc tụng, tranh lịch sử, tranh truyện, tranh phương ngôn, tranh cảnh vật và tranh phản ánh sinh hoạt. lOMoAR cPSD| 60794687
2.1.3. Về quy trình sản xuất
Có nhiều công đoạn, trong đó có 2 khâu chính gồm: sáng tác mẫu (khắc ván) và in
(vẽ tranh). Ở đây có thể thấy mỗi nghệ nhân đòi hỏi có ít nhiều năng khiếu bẩm sinh
cũng như kỹ năng lao động cao.
Ván khắc in tranh có 2 loại: ván in nét và ván in màu. Ván in nét được làm từ gỗ thị
hoặc gỗ thừng mực. Dụng cụ khắc ván là những mũi đục hay còn gọi là bộ ve làm
bằng thép cứng (khoảng 30 - 40 chiếc/bộ).
Vật liệu và dụng cụ dùng để in tranh gồm: giấy dó, các loại màu, ván in, co ván, bìa
và thét (chổi làm bằng lá thông). Cách thức in tranh như sau: trước khi in tranh, phải
chuẩn bị sẵn giấy in để thành 1 tập (khoảng từ 100 đến 200 tờ ở trước mặt). Khi in,
người ta nhúng thét lá thông vào chậu màu để lấy màu, rồi quét đều trên mặt bìa.
Phương pháp lấy mực để in tranh dân gian Đông Hồ theo cách xếp ván, tức là cầm
"co" ván dập đi, dập lại tấm ván xuống mặt bìa đã được phết màu, để màu thấm đều
trên bề mặt ván, sau đó đặt ván in lên tờ giấy định in sao cho cân đối, chính xác, ấn
mạnh ván in vào tờ giấy, để có sự liên kết nhất định, rồi lật ngửa ván in có dính cả tờ
giấy in tranh lên; lấy xơ mướp xoa đều lên mặt sau tờ giấy, để cho phẩm mầu trên
mặt ván tiếp tục thấm đều trên mặt giấy. Tiếp đó, gỡ tờ tranh ra khỏi ván in, rồi mang
tranh ra phơi ở những nơi thoáng mát. Tranh khô rồi mới tiếp tục lần lượt in các màu
khác. Bản nét đen bao giờ cũng được in cuối cùng.
Trước kia, chỉ có nghê ̣nhân làng Hồ sáng tác mẫu mới vẽ tranh bằng tay. Các công
đoạn khác trong sản xuất tranh dân gian Đông Hồ đều dùng ván in. Ngày nay, người
ta còn vẽ tranh theo cách thức khác (ngoài in), đó là tô màu, vờn màu trên tranh đã
được in ván nét trước (theo lối vẽ tranh Hàng Trống) và vẽ tranh trên giấy trắng hoặc
giấy màu bồi. Khi vẽ tranh trên giấy đã in ván nét, người nghệ nhân chỉ việc phân bố lOMoAR cPSD| 60794687
màu sắc sao cho hài hoà, hợp lý, thể hiện rõ nội dung của bức tranh, mà vẫn biểu đạt
được giá trị thẩm mỹ.
2.1.4. Về đặc điểm tạo hình:
2.1.4.1. Chất liệu và màu sắc:
Nét độc đáo đầu tiên thu hút cảm quan người xem của tranh chính là ở màu sắc và
chất liệu giấy in. Giấy dùng in tranh là giấy dó được làm từ vỏ cây dó, với đặc tính
xốp, mềm, mỏng, dai, dễ hút màu mà khi in không bị nhòe. Trên giấy được quét lên
một lớp hồ điệp có nét sáng óng ánh rất đặc thù bằng cách: người ta nghiền nát vỏ
con điệp (một loại sò vỏ mỏng ở biển) trộn với hồ (loại bột gạo tẻ, hoặc gạo nếp, có
khi là bột sắn), dùng chổi lá thông quét lên mặt giấy dó. Với chổi lá thông sẽ tạo
thành những đường ganh chạy theo đường quét và vỏ điệp tự nhiên cho màu trắng
có ánh lấp lánh của những mảnh điệp nhỏ dưới ánh sáng, trong quá trình làm giấy
điệp có thể pha thêm màu khác vào hồ. Màu sắc được sử dụng trong tranh là màu tự
nhiên từ cây cỏ như màu đen từ than cây xoan hay than lá tre, màu xanh từ gỉ đồng,
lá chàm, màu vàng từ hoa hòe, màu đỏ từ sỏi son, gỗ vang… Đây là những màu cơ
bản, không pha trộn. Điều này phản ánh cuộc sống và tâm hồn gần gũi với thiên
nhiên của con người Việt Nam. Cách pha chế màu cũng tùy thuộc vào điều kiện thời
tiết, chất giấy... Đây là kinh nghiệm, sự sáng tạo, thậm chí còn là bí quyết gia truyền
của mỗi nghệ nhân. Chính nhờ sự cầu kỳ, cẩn thận trong cách chế màu mà tranh
Đông Hồ luôn tươi sáng, rực rỡ và không bị bay màu. 2.1.4.2. Bố cục:
Tranh Đông Hồ sử dụng đa dạng các loại bố cục khác nhau, rất chặt chẽ nhưng lại
hoàn toàn tự do. Ví dụ như dạng bố cục tròn, e-líp được thể hiện trong rất nhiều bức
tranh thuộc đề tài chúc tụng như Vinh hoa, Phú quý, Bé ôm tôm, Bé ôm cá… Các lOMoAR cPSD| 60794687
nhân vật thường được thể hiện đan xen thành một khối thống nhất cả về hình mảng,
đường nét tạo thành một mảng lớn có xu hướng của hình e-líp trên nền giấy điệp.
Với bố cục trên rất thuận lợi cho việc liên tưởng đến các yếu tố về sự thống nhất,
khăng khít hay tròn trịa, đầy đặn… làm toát lên tư tưởng ẩn sau đề tài. tranh “Vinh hoa”
Ngoài ra còn có bố cục dạng hình vuông hình chữ nhật phù hợp với các đề tài thể
hiện tính quy củ, có tổ chức hoặc tạo sự cân bằng có trên dưới, có trật tự trước sau.
Tranh dân gian Đông Hồ có nhiều tác phẩm thể hiện theo lối bố cục dạng hình vuông,
chữ nhật. Các mảng hình trong tranh thường được kết hợp sinh động liên kết tạo
thành một kết cấu chặt chẽ trong các khuôn hình chữ nhật lúc ngang, lúc dọc theo
đặc điểm của khổ tranh và theo từng nội dung cụ thể. Điều này được thấy trong các
tranh như: Hạnh phúc, Lợn đàn, Gà đàn, Bé ôm phật thủ… lOMoAR cPSD| 60794687 Tranh “Lợn đàn”
Không chỉ vậy, tranh Đông Hồ còn sử dụng bố cục hình thang và dạng đồ thị hình
sin, thể hiện rõ trong tranh Đấu mộc. Toàn bộ các nhân vật trong tranh hiện lên theo
hình sin chuyển động từ trái sang phải như nhịp của sóng nước tạo nên yếu tố động
để phản ánh một phần nội dung cần diễn giải. Bức tranh vẽ về hoạt động đấu mộc,
một trong những môn võ để rèn sức khỏe cho trai tráng trong các hoạt động luyện
quân và được duy trì trong các làng xóm xưa kia. Hình ảnh các nhân vật, người ngồi
nghỉ đợi đến lượt, người vung dao, người co chân… tạo ra một nhịp liên hoàn có tính
thống nhất. Màu sắc tối giản, đậm nhạt được xử lý cô đọng, hình ảnh các đấu sĩ với
tay cầm mác, tay cầm lá chắn, cởi trần đóng khố được lặp lại trên mặt tranh mà chỉ
thay đổi tư thế, động tác và một vài chi tiết càng làm cho tính nhịp điệu được tăng lên. lOMoAR cPSD| 60794687 Tranh “Đấu mộc”
2.1.4.3. Đường nét và tạo hình:
Tranh dân gian Ðông Hồ không áp dụng chặt chẽ về hình dạng cơ thể học, các nguyên
tắc về ánh sáng hay luật xa gần của tranh hiện đại. Những nghệ sĩ sáng tác tranh dân
gian mang nhiều tính ước lệ trong bố cục, trong cách miêu tả hình tượng nghệ thuật
khái quát, chắt lọc về đường nét, về màu sắc. Tất cả đều sử dụng lối vẽ đơn tuyến
bình đồ để thể hiện, do đó xem tranh dân gian ta thường bắt gặp cái thú vị ở những
nét ngây ngô đơn giản nhưng hợp lý hợp tình.
Tranh dân gian Đông Hồ được khắc họa một cách chắt lọc về đường nét; tỉ lệ hình
ước lệ theo một sự hợp lý của bản năng nghệ thuật và cảm thức trong sáng, hồn hậu,
dí dỏm…Những quan niệm, mĩ cảm của người nghệ sĩ- nghệ nhân được thoát thai từ
hiện thực cuộc sống được đưa vào tranh một cách tài tình và sâu sắc qua bố cục, lOMoAR cPSD| 60794687
đường nét của hình thể được khái quát và điển hình hóa nên cái không gian hiện thực trên tranh. 2.1.5. Về nội dung
Tranh dân gian Đông Hồ phản ánh sâu sắc đời sống tinh thần, vật chất của con người,
xã hội theo quan điểm mỹ học dân gian của người dân vùng này. Những bức tranh
nói lên ước mơ ngàn đời của người lao động về một cuộc sống gia đình thuận hòa,
ấm no, hạnh phúc và một xã hội công bằng, tốt đẹp.
Ý nghĩa của một số bức tranh dân gian Đông Hồ:
Tranh “Gà mẹ và đàn con”: nói về tình mẫu tử, tình yêu thương, đùm bọc nhau giữa
các thành viên trong gia đình, trách nhiệm của cha mẹ với con cái.
Tranh “Đàn lợn âm dương”: gắn bó với cuộc sống sinh hoạt bình dân, mong muốn
cuộc sống sung túc, an nhàn. Đây chính là chiều sâu của sự cảm nhận về yêu
thương, chở che của tình mẫu tử. lOMoAR cPSD| 60794687
Tranh “Vinh Quy bái tổ”: Vinh quy bái tổ không chỉ là vinh dự cho vị tân khoa,
cho cha mẹ họ hàng, làng xóm mà còn là dịp để tân khoa bày tỏ lòng biết ơn đối
với tổ tiên, cha mẹ và người thầy dạy theo đúng đạo lý Việt Nam “Công cha, nghĩa
mẹ, ơn thầy”. Đây là một truyền thống văn hóa rất đáng quý, đáng trân trọng. lOMoAR cPSD| 60794687
Tranh “Đấu vật”: đề cao tinh thần thượng võ. Đấu vật là môn võ cổ truyền của
Việ Nam xuất hiện từ khi lập quốc và tồn tại gắn liền với hoạt động bảo vệ tổ
quốc và lễ hội xuân. Bức tranh nổi tiếng của làng Đông Hồ.
Tranh “Đám cưới chuột” (Chuột vinh qui): thể hiện đậm đà tâm hồn, tính cách
thuần hậu, chất phác của người bình dân và cũng giàu chất triết lý dân gian, mang
tính nhân văn sâu sắc, ý nhị. Đám cưới chuột bề ngoài là một đám cưới vui vẻ thế
phải có cống vật dâng lên mèo. Bức tranh khoác lên vẻ đẹp duyên dáng của tầng
lớp xã hội phong kiến thông qua hình tượng các con vật một cách dí dỏm và sâu sắc… lOMoAR cPSD| 60794687
Ngoài những bức tranh dân gian Đông Hồ mang nội dung bình dân với cuộc sống
giản dị mà đầy ý nghĩa, còn có những màu sắc tôn quý hơn với những bức tranh
tứ quý thể hiện sự sang trọng, cao quý chỉ dùng cho vua chúa, quan lại thời xưa.
Ví dụ: Tứ quý, Tứ bình, Tứ quý hạc, Tứ quý tố nữ… mang đậm chất vương giả
bởi những hình ảnh tượng trưng cho sự sang trọng, quyền quý, mong ước mọi sự
như ý trong một năm mới.
Thông thường, người ta đề thơ lên tranh bằng chữ Hán. Những câu thơ ngắn gọn,
súc tích, hàm chứa chủ đề của bức tranh. Nhờ vậy, người xem dễ dàng nắm bắt
được ý nghĩa của bức tranh và tư tưởng mà người nghệ nhân muốn truyền đạt.
Nói tóm lại, tranh dân gian Đông Hồ với ngôn ngữ tạo hình đơn giản, dễ hiểu, hình
tượng rõ ràng, nói lên tư tưởng, tình cảm và mong ước, khát vọng sống của con
người về một cuộc sống no đủ, hạnh phúc. Từ những bức tranh dân gian mộc mạc,
tươi sáng, các nghệ nhân Đông Hồ đã đưa vào trong tranh những lời hay, ý đẹp,
những kinh nghiệm đúc rút qua cuộc sống mà bao đời nay để lại bằng cách thể
hiện rất riêng, độc đáo, tinh tế, đầy chất biểu cảm mà sâu sắc.
Được tôn vinh và công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia, mong
rằngNghề làm tranh dân gian Đông Hồ sẽ tồn tại và phát triển mãi với thời gian,
là một phần không thể thiếu trong đời sống người dân lao động Việt Nam.
2.2. Tranh dân gian Hàng Trống:
2.2.1. Khái quát chung về tranh Hàng Trống:
Tranh Hàng Trống từ lâu đã được biết đến là một trong những dòng tranh dân gian
nổi tiếng của dân tộc Việt Nam. Loại tranh này chủ yếu được làm tại phố Hàng Nón,
Hàng Trống – Hà Nội. Phố Hàng Trống nằm kề các phố Hàng Nón, Hàng Hòm, Hàng lOMoAR cPSD| 60794687
Quạt. Đây là nơi chuyên sản xuất cả đồ thủ công mỹ nghệ nhất là đồ thờ như: tranh
thờ, trống, quạt, lọng, cờ…
Hiện không có tài liệu nào chứng minh về thời điểm ra đời của dòng tranh này, nhưng
nhìn chung nhiều thông tin cho thấy dòng tranh này ra đời vào khoảng thế kỷ 16. Và
chịu ảnh hưởng rõ rệt của các luồng tư tưởng, văn hoá, tôn giáo, của vùng miền, các
dân. Là kết quả của sự giao thoa tinh hoa giữa Phật giáo, Nho giáo; giữa loại hình
tượng thờ, điêu khắc ở đình, chùa với những nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa hằng ngày.
Từ xa xưa, tranh được bày bán do các họa sĩ tài hoa của bản địa vẽ. Sau đó, một số
những họa sĩ từ nhiều nơi khác nhau đến vẽ và sản xuất tranh. Do đó, loại tranh này
còn được biết đến với những tên hiệu nổi tiếng như Phúc Bình, Vĩnh Lợi và Thanh An.
Phát triển trong một thời gian khá dài nhưng tới thế kỷ 20 dòng tranh này bắt đầu
suy tàn, nhất là kể từ sau kết thúc chiến tranh Việt Nam hầu như các nhà làm tranh
đều bỏ nghề. Nhiều nhà còn đốt bỏ hết những dụng cụ làm tranh như ván, bản khắc.
2.2.2. Về thể loại:
Dòng tranh này cũng như các dòng tranh phổ biến khác đều có hai dòng tranh chính
là tranh thờ và tranh Tết. Tranh Hàng Trống được chia thành nhiều loại như tranh
thờ, sinh hoạt, thiên nhiên, tranh truyện, tranh Tết. Tuy nhiên, tranh thờ là loại tranh
nổi tiếng và phát triển nhất. Đó là những bức tranh được dùng trong sinh hoạt tín
ngưỡng dân gian. Đặc biệt là tranh thờ của Đạo Mẫu – Phủ Giày, Nam Định; Tranh
Tứ phủ công đồng; Bà chúa thượng ngàn; Ông Hoàng cưỡi cá, cưỡi lốt; Ngũ Hổ…
Thể loại tranh chúc Tết cũng không kém phần đặc sắc. Tranh chúc Tết Hàng Trống
thể hiện ước nguyện của đầu năm của người dân. Mong muốn sự may mắn, phát đạt
và những hình ảnh tiêu biểu cho mùa xuân như chim muông, hoa cỏ với màu sắc vô