Tiểu luận Triết học
Tiểu luận Triết học
Môn: Dẫn luận ngôn ngữ và thực hành Tiếng Việt
Trường: Đại học Quy Nhơn
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
CHƯƠNG I NỘI DUNG VỀ TƯ TƯỞNG ĐỨC TRỊ CỦA NHO GIA ................3
1.1 Sự ra đời và quá trình phát triển của Nho gia .................................................... 3
1.2 Nội dung về tư tưởng “Đức trị” của Nho gia .................................................... 4
CHƯƠNG II ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG ĐỨC TRỊ ĐẾN CÁC GIÁ TRỊ
TRUYỀN THỐNG ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM ........................................................10
2.1 Đạo đức Nho giáo Việt Nam và đạo đức truyền thống Việt Nam .....................10
2.1.1 Đạo đức Nho giáo Việt Nam ...........................................................................10
2.1.2 Đạo đức truyền thống Việt Nam ......................................................................13
2.2 Ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với đạo đức truyền thống Việt Nam ......15
2.2.1 Những ảnh hưởng tích cực của đạo đức Nho giáo đối với đạo đức truyền thống
Việt Nam ................................................................................................................15
2.2.2 Những ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức Nho giáo đối với đạo đức truyền thống
Việt Nam ................................................................................................................16
2.3 Giải pháp cơ bản nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực
của tư tưởng “Đức trị” của Nho gia đến giá trị truyền thống đạo đức Việt Nam ......19
2.3.1 Tạo lập môi trường giáo dục .........................................................................19
2.3.2 Tăng cường vai trò quản lý của Đảng và Nhà nước trong vấn đề tuyển dụng cán bộ
. ..............................................................................................................................20
KẾT LUẬN ...........................................................................................................21
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................22 1
PHẦN MỞ ĐẦU
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức ra đời và tồn tại đến nay
đã hơn 2500 năm. Trong suốt thời gian tồn tại, Nho giáo đã có ảnh hưởng ở
nhiều nước phương Đông, trong đó có Việt Nam. Nho gia đặt vấn đề xây
dựng con người một cách thiết thực. Nho gia hướng con người vào tu thân và
thực hành đạo đức là hoạt động thực tiễn căn bản nhất, luôn được đặt vào vị
trí thứ nhất của sinh hoạt xã hội. Quan điểm về vũ trụ, về nhân sinh, về nhận
thức luôn thấm đượm ý thức đạo đức. Tất cả mọi vấn đề đều lấy đạo đức làm
chuẩn. Vì vậy, vấn đề thiện và ác của con người thành tiêu điểm tranh luận
quan trọng nhất của lịch sử triết học. Trong học thuyết của Nho gia những nội
dung đạo đức chủ yếu của Nho giáo như tam cương (đạo đức xã hội gồm ba
mối quan hệ cơ bản là vua-tôi, cha-con, chồng-vợ), ngũ thường (gồm năm
chuẩn mực đạo đức cá nhân bất di bất dịch là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Đó là
những tiền đề để thực hiện thuyết chính danh, làm cho xã hội được ôn định, trật tự.
Ở Việt Nam tư tưởng đức trị của Nho gia có ảnh hưởng rất lớn, đã có
thời kỳ Phật giáo giữ vai trò chính yếu, nhưng nhìn chung càng về sau tư
tưởng “Đức trị” của Nho giáo càng chiếm ưu thế và trở thành công cụ tư
tưởng cho các triều đại phong kiến Việt Nam. Do có thời gian tồn tại lâu dài,
đặc biệt là từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIX được các triều đại phong kiến tiếp thu
và sử dụng có mục đích, cho nên Nho giáo có ảnh hưởng sâu rộng ở nhiều
lĩnh vực. Trong điều kiện đất nước Việt Nam đang phát triển và hòa nhập
cùng thế giới thì ảnh hưởng của tư tưởng Đức trị của Nho giáo ở nước ta cũng
có những biến đổi khác nhau, có nhân tố ảnh hưởng tích cực, có nhân tố ảnh
hưởng tiêu cực trong đạo đức Việt Nam. Vì vậy tôi chọn đề tài “Tư tưởng đức
trị của Nho gia ảnh hưởng của nó đến các giá trị truyền thống đạo đức Việt Nam”. 2
Đã có nhiều bài viết về ảnh hưởng của tư tưởng “Đức trị” của Nho gia
và ảnh hưởng của nó đến các giá trị truyền thống đạo đức Việt Nam và đạt
được những kết quả đáng trân trọng. Có thể nhận xét một cách khái quát,
những công trình nghiên cứu trên đều thống nhất ở một số điểm: Tư tưởng
đức trị của Nho giáo đã trở thành cơ sở cho đạo đức thời phong kiến Việt
Nam và ngày nay ảnh hưởng của nó vẫn còn. Phân tích những ảnh hưởng của
tư tưởng “Đức trị” của Nho gia và đưa ra những giải pháp nhằm phát huy
những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng
triết học này đến các giá trị truyền thống đạo đức Việt Nam là vấn đề được
nhiều nhà nghiên cứu đề cập tới. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng của Nho gia nói
chung và tư tưởng Đức trị của Nho gia nói riêng đối với giá trị truyền thống
đạo đức của con người Việt Nam dưới tác động mạnh mẽ của công cuộc đổi
mới ở nước ta hiện ta hiện nay rất đa dạng. Vì vậy, bài tiểu luận đưa ra một số
nội dung học thuyết Nho gia đặc biệt là tư tưởng đức trị và nêu ảnh hưởng
của nó đến các giá trị truyền thống đạo đức Việt Nam. Đề ra một số giải pháp
nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu
cực của tư tưởng “Đức trị” của Nho gia và ảnh hưởng của nó đến giá trị
truyền thống đạo đức Việt Nam. 3
CHƯƠNG I NỘI DUNG VỀ TƯ TƯỞNG ĐỨC TRỊ CỦA NHO GIA
1.1 Sự ra đời và quá trình phát triển của Nho gia
Thời Tây Chu, về tôn giáo, chính trị, đạo đức đã ra đời. Về tôn giáo,
thời Tây Chu đề cao tư tưởng “kính trời”, “hợp mệnh trời”, “thờ thượng đế”,
“trời người hợp nhất”. Họ cho rằng, “trời” là lực lượng có nhân cách, có ý chí
và uy quyền tuyệt đối. Về chính trị, các nhà tư tưởng Tây Chu dựa vào tư
tưởng tôn giáo xây dựng quan điểm chính trị phản động cho rằng triều đại nhà
Chu do biết làm theo “mệnh trời”, “trời” nên được “nhân dân” từ tay nhà Ân
để “hưởng dân” và “nhận dân”. Ai chống lại “mệnh trời”, “ý trời” thì nhà Chu
sẽ trừng phạt. Vua nhà Chu là thiên tử, thay trời thống trị thiên hạ, cai trị dân.
Vì vậy, dân phải phục tùng vua. Về đạo đức, các nhà tư tưởng Tây Chu lấy
hai chữ “đức” và “hiếu” làm cốt để tuyên truyền, củng cố sự tồn tại vĩnh viễn
địa vị thống trị của tầng lớp quí tộc nhà Chu. Họ cho rằng các bậc tiên vương
nhà Chu có đức nên thượng đế cho hưởng nước, hưởng dân. Vì vậy, các vua
sau phải kính cái đức ấy, phải bồi dưỡng cho con cháu phải thờ tổ tiên, nhớ
công lao tổ tiên, giữ gìn phép tắc tổ tiên, đó là đức Hiếu. Có được đức hiếu
mới nhận được mệnh trời mà hưởng nước, hưởng dân mãi mãi. Quan điểm
đạo đức này là cơ sở góp phần hình thành đạo đức Nho giáo sau này. Nho
giáo ra đời tiếp nhận các tư tưởng trên của Tây Chu là tiếp nhận một phương
thức chính trị mà giai cấp thống trị Tây Chu đã thực hiện là sử dụng thần
quyền để củng cố, sử dụng vương quyền trong việc cai trị đất nước.
Đến thời Đông Chu (hay còn gọi là thời Xuân Thu - Chiến Quốc), Nho
giáo được ra đời do Khổng Tử (551 – 479 TCN) sáng lập. Sau khi ông mất, tư
tưởng của ông đã được các thế hệ học trò kế thừa. Đến thế kỷ II TCN, Nho
giáo mới được giai cấp phong kiến sử dụng vào việc trị quốc. Ở Trung Quốc,
Nho giáo đã tồn tại trong suốt thời phong kiến và là công cụ giúp các triều
vua cai trị đất nước. Khổng Tử và các học trò của ông đã thấy được sức mạnh 4
và vai trò to lớn của đạo đức đối với xã hội. Vì vậy, nội dung quan trọng của
Nho giáo là luận bàn về đạo đức. Vai trò của đạo đức trong quản lý xã hội lý
tưởng Nho gia nêu lên là:
- Đạo đức là công cụ, là phương tiện chủ yếu nhất của giai cấp phong
kiến trong việc trị nước và quản lý xã hội.
- Đạo đức là tiền đề, điều kiện quan trọng nhất để hình thành và hoàn
thiện đạo đức con người, góp phần vào việc củng cố, duy trì trật tự, kỷ cương, ổn định xã hội.
- Đạo đức và thực hành đạo đức đóng vai trò quyết định đối với việc tạo
lập ra mẫu người lý tưởng và góp phần tạo lập xã hội lý tưởng.
1.2 Nội dung về tư tưởng “Đức trị” của Nho gia
Trong học thuyết Nho gia, Khổng Tử thường xuyên nói đến trời, đạo
trời và mệnh trời với mục đích đi sâu các vấn đề chính trị - đạo đức xã hội. Về
sau, trong quá trình phát triển, những quan niệm của Khổng Tử đã được các
nhà triết học của trường phái Nho gia trong các thời kỳ bổ sung khác nhau.
Mạnh Tử đã hệ thống hóa, xây dựng quan niệm “thiên mệnh” của Khổng Tử
thành nội dung triết học duy tâm, coi con người và thế giới bên ngoài do
Thượng đế sinh ra, số phận con người do trời định.
Mục tiêu xây dựng của Nho gia là giúp con người xác định được năm
mối quan hệ cơ bản (ngũ luân) và làm tròn trách nhiệm trong năm mối quan
hệ ấy. Năm quan hệ ấy quyết định đạo làm người và quyết định đức tính cần
thiết nhất của con người để phục vụ mối quan hệ ấy. Kinh điển Nho gia nêu
lên năm quan hệ: Vua tôi, cha con, anh em, vợ chồng, bạn bè. Từ những quan
hệ ấy, kinh điển cũng nêu lên các đức lớn cần có là vua nhân, cha từ, con
hiếu, anh lành, em đễ, chồng có nghĩa, vợ vâng lời, bạn hữu phải có tín.
Để củng cố năm mối quan hệ cơ bản nêu trên. Nho gia đã nêu lênh
những phẩm chất quan trọng bậc nhất mà mọi người phải đạt tới. Con đường 5
phấn đấu là phải ra sức tu dưỡng bản thân để xây dựng cuộc sống gia đình,
góp phần vào việc quản lý đất nước, sau đó đem lại yên vui cho thiên hạ (Tu
thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ). Vấn đề tu dưỡng bản thân hàng đầu là tu
thân. Mục tiêu trước mắt của tu thân là thái độ ứng xử trong gia đình. Nho gia
đặt vấn đề rằng “Thiên hạ gốc ở nước, nước gốc ở nhà, nhà gốc ở thân mình”.
Vì vậy, tu sửa thân mình trước hết làm cho mình xứng đáng với vị trí là một
thành viên trong gia đình. Mối quan hệ và trách nhiệm của mỗi người trong
gia đình đã được Kinh Dịch xác định “Cha nên cha, con nên con, anh nên
anh, em nên em, chồng nên chồng, vợ nên vợ, ấy là gia đạo chính”. Đặc biệt
trong quan hệ gia đình, quan hệ cha – con, anh – em được biểu hiện tập trung
ở hai đức Hiếu và Đễ, hai đức ấy được Khổng Tử xác định là gốc của Đức
Nhân (Luận ngữ). Mục tiêu tiếp theo của tu thân là trách nhiệm với nước. Từ
phụng sự cha mẹ, người ta nâng lên phụng sự nhà vua, từ những phép tắc
trong nhà người ta suy rộng và vận dụng vào việc xây dựng thể chế, nghi thức
và tổ chức bộ máy cai trị và trật tự tôn ti trong cả nước. Nho giáo đã đem gắn
chặt nước với nhà, coi tề gia là tiền đề của trị quốc. Nói tới nước là nói tới
vua, vua có sứ mệnh lớn là cai trị đất nước của thần dân. Nho giáo khuyên họ
trau dồi đạo đức trong công việc trị nước. Tất cả tập trung vào chữ Nhân. Với
thần dân, số phận định đoạt cho họ là phụng sự. Nho gia khuyên họ hết lòng
phụng sự, nên sống yên phận, phục tùng sức mạnh và ý thức thực hiện mục đích của mình.
Theo Khổng Tử, đạo là năm mối quan hệ xã hội cơ bản của con người
được gọi là nhân luân, Mạnh Tử gọi là ngũ luân: vua - tôi, cha - con, chồng -
vợ, anh em, bạn bè. Trong đó, ba mối quan hệ cơ bản nhất, Đổng Trọng Thư
gọi là Tam cương - ba sợi dây ràng buộc con người từ trong quan hệ gia đình
đến ngoài xã hội. Đức chính là các phẩm chất quan trọng nhất mà con người
cần phải có để thực hiện tốt các mối quan hệ cơ bản trên. Khổng Tử nhấn 6
mạnh “Tam đức” (nhân, trí, dũng); ở Mạnh Tử là “Tứ đức” (nhân, nghĩa, lễ,
trí); Đổng Trọng Thư là “ngũ thường” (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Tam cương và
ngũ thường được kết hợp và gọi tắt là đạo cương - thường.
Cương - thường là nội dung cơ bản trong đạo làm người của Nho giáo,
là nguyên tắc chi phối mọi suy nghĩ, hành động và là khuôn vàng thước ngọc
để đánh giá phẩm hạnh của con người. Một mặt, đạo cương - thường góp
phần điều chỉnh hành vi của con người, đưa con người vào khuôn phép theo
chế độ lễ pháp của nhà Chu trước đây và các triều đại phong kiến sau này đặt
ra. Cương - thường là nhân tố quan trọng làm cho xã hội ổn định theo thứ bậc,
là cơ sở đảm bảo quyền thống trị của thiên tử. Mặt khác, đạo cương - thường
với nội dung “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”, “phụ xử tử vong, tử bất
vong bất hiếu” (vua xử bề tôi chết, bề tôi không chết là không có lòng trung,
cha xử con chết, con không chết là không có hiếu) là sợi dây trói buộc con
người, làm cho con người thụ động trong cả suy nghĩ và hành động. Tư tưởng
này là lực cản sự phát triển của xã hội và là một trong những nguyên nhân
làm cho xã hội phương Đông trì trệ.
Phạm trù đạo đức đầu tiên, cơ bản nhất trong đạo cương - thường là
Nhân (đức nhân). Tất cả các phạm trù đạo đức khác đều xoay quanh phạm trù
trung tâm này. Từ đức nhân mà phát ra các đức khác và các đức khác lại quy
tụ về đức này. Cả cuộc đời mình, Khổng Tử đã dành nhiều tâm huyết để làm
cho đức nhân trở thành hiện thực. Ông mong muốn các học trò rèn luyện để
đạt được đức nhân và ứng dụng nó trong thực tiễn. Đức nhân được Khổng tử
bàn đến với nội dung cơ bản sau:
- Nhân có nghĩa là yêu người : “Phàn Trì hỏi về người nhân, Khổng Tử
nói: đó là người biết yêu người” (Phàn Trì vấn nhân, Tử viết: “ái nhân”).
- Nhân có nghĩa là trung và thứ. Bàn về chữ trung, ông giải thích:
“Người nhân là người mình muốn lập thân thì cũng giúp người lập thân, mình 7
muốn thành đạt thì cũng giúp người thành đạt” (Phù nhân giả, kỉ dục lập nhi
lập nhân, kỉ dục đạt nhi đạt nhân). Về chữ thứ, ông viết: “Điều gì mình không
muốn, chớ thi hành cho người khác” (Kỉ sở bất dục vật thi từ nhân). Như vậy,
trung thứ tức là từ lòng mình suy ra lòng người, phải giúp người. Khổng Tử
khuyên rằng nên làm cho người những cái mà mình muốn và đừng làm cho
người những cái mình không muốn.
- Đối với bản thân mình, người có đức nhân là phải thực hiện đúng lễ:
“Dẹp bỏ tư dục, trở về với lễ là phát huy điều nhân” (Khắc kỉ phục lễ vi
nhân). Lễ là hình thức thể hiện nhân và cũng là một chuẩn mực của Ngũ thường.
Phạm trù đức nhân tuy bao chứa nhiều nội hàm khác nhau, song cái gốc
và cốt lõi của nhân là hiếu đễ. Theo Khổng Tử, tình cảm giữa cha mẹ và con
cái, giữa chồng và vợ, giữa anh em với nhau (quan hệ gia đình) là những tình
cảm tự nhiên, vốn có thuộc về bản tính con người. Từ cách hiểu này, ông cho
rằng, trong gia đình nếu người cha đứng đầu thì mở rộng ra trong nước có ông
vua đứng đầu. Khổng Tử hình dung quốc gia là một gia đình lớn, ông vua là
người cha của gia đình ấy. Nho giáo đặt vua đứng đầu trong tam cương và
ngũ luân. Vì vậy, đạo làm người phải tận hiếu với cha mẹ, tận trung với vua.
Một người biết yêu thương kính trọng cha mẹ mình thì mới biết yêu thương
người ngoài. Khổng Tử bàn đến đạo đức từ xuất phát điểm đầu tiên là gia
đình, từ đó suy rộng ra đến quốc gia và thiên hạ. Coi trọng vai trò gia đình
trong việc hình thành và tu dưỡng đạo đức của con người ở Nho giáo là một
khía cạnh hợp lý và vẫn còn có ý nghĩa nhất định đối với ngày nay, bỡi lẽ, gia
đình là một tế bào của xã hội, xã hội không thể ổn định, thịnh trị nếu các gia
đình lục đục và vô đạo. Vì vậy, người cầm quyền nếu không “tề gia” (cai
quản gia đình) của mình thì cũng không thể “trị quốc” (cai trị đất nước) được. 8
Nhân còn gắn liền với Nghĩa (nghĩa vụ, thấy việc đúng cần phải làm để
giúp người). Khổng Tử cho rằng người quân tử cần chú ý đến nghĩa và coi
thường lợi. Muốn thực hiện nhân, nghĩa thì cần có lòng dũng cảm (dũng) và
có Trí (trí tuệ). Có trí mới biết cách giúp người mà không làm hại đến người,
đến mình, mới biết yêu và ghét người, mới biết đề bạt người chính trực và gạt
bỏ người không ngay thẳng. Tuy nhiên, trí theo Khổng Tử và các môn đệ của
ông không phải là những tri thức phản ánh thực tại khách quan của tự nhiên
và xã hội để từ đó chỉ đạo hành động của con người mà là những tri thức
mang tính giáo điều, chỉ gói gọn trong sự hiểu biết sách vở của Nho giáo (Tứ thư và Ngũ kinh).
Như vậy, đối với Khổng Tử, nhân chính là đạo lý làm người, vừa
thương người (ái nhân), vừa phải giúp người (cứu nhân). Ông cho rằng, khi
thi hành điều nhân phái phân biệt thân sơ, trên dưới. Nếu ở Khổng Tử đức
nhân mang tính phức tạp rất khó thực hiện, nó vừa là lý tưởng nhưng lại mang
yếu tố không tưởng thì đến thời Hán, đức nhân lại được khoác thêm cái vỏ tôn
giáo thần bí, do vậy càng không tưởng hơn.
Về phạm trù Lễ, theo Nho giáo, lễ là quy định về mặt đạo đức trong
quan hệ ứng xử giữa người với người. Con cái phải có hiếu với cha mẹ, bề tôi
phải trung với vua, chồng vợ có nghĩa với nhau, anh em phải trên kính dưới
nhường, bạn bè phải giữ được lòng tin. Những quy tắc này là bất di bất dịch
mà ai cũng phải tuân theo. Lễ là sợi dây buộc chặt con người với chế độ
phong kiến tập quyền. Khổng Tử yêu cầu, từ vua cho đến dân phải rèn luyện
và thực hiện theo lễ. Đến Đổng Trọng Thư, lễ đã được đẩy lên đến cực điểm
của sự khắt khe. Chỉ vì giữ lễ mà dẫn đến những hành vi ngu trung, ngu hiếu
một cách mù quáng ở không ít người trong xã hội trước đây.
Tóm lại theo Nho giáo, năm mối quan hệ mà con người phải xác định và
làm tròn trách nhiệm của mình trong các quan hệ ấy là vua tôi, cha con, anh 9
em, chồng vợ, bè bạn (Ngũ Luân), trong đó có ba điều chính là vua tôi, cha
con, chồng vợ (Tam cương). Trong ba điều chính có hai điều mấu chốt là vua
– tôi, biểu hiện bằng đức trung, cha – con biểu hiện bằng đức hiếu. Giữa trung
và hiếu thì trung đứng đầu. Những đức con người thường xuyên phải trau dồi
là: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín (Ngũ thường). Đứng đầu ngũ thường là nhân, nghĩa
trong đó nhân là chủ. Vì vậy gọi đạo của Khổng Tử là đạo nhân. 10
CHƯƠNG II ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG ĐỨC TRỊ ĐẾN CÁC
GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM
2.1 Đạo đức Nho giáo Việt Nam và đạo đức truyền thống Việt Nam
2.1.1 Đạo đức Nho giáo Việt Nam
2.1.1.1 Sự truyền bá đạo đức Nho giáo vào Việt Nam
Đã có một số bằng chứng cho thấy Nho giáo được truyền vào thế kỷ 1
TCN khi ở Trung Quốc nhà Tây Hán đã đánh bại tập đoàn phong kiến họ
Triệu và giành lấy quyền thống trị và cho lập 3 quận tại Bắc Bộ. Tuy nhiên
tầm ảnh hưởng Nho giáo còn rất hạn chế, song song đó Nho giáo là công cụ
thống trị của chính quyền đô hộ và phục vụ cho chính quyền đô hộ, Nho
giáo còn được xem để du nhập chữ Hán vào Việt Nam và dần Hán hóa ngôn
ngữ của dân tộc Việt Nam tạo ra về mặt kỹ thuật với một kho tàng tri thức về
xã hội và tự nhiên. Đó là nền văn học, sử học, triết học, thiên văn học và y
học được tiếp thu từ người Trung Hoa cổ đại.
Đến thế kỷ 9, sau chiến thắng Bạch Đằng vĩ đại của Ngô Quyền, khi dân
tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên độc lập, tự chủ và thực sự bắt tay vào xây
dựng nền văn minh Đại Việt trong khuôn khổ của một Nhà nước phong kiến
quân chủ tập quyền, thì xã hội Việt Nam lúc này mới đặt ra những yêu cầu đối
với sự tồn tại và phát triển của Nho giáo ở Việt Nam. Đầu tiên phải kể đến là
muốn tồn tại thì phải truyền bá Nho giáo đến người dân, củng cố quyền lực
phong kiến lớn mạnh và không bị giặc ngoài tấn công. Nho giáo được du
nhập vào nước ta và đã tồn tại trong suốt thời kỳ phong kiến. Trong khoảng
thời gian không ngắn đó, lịch sử tư tưởng Việt Nam đã tiếp thu nhiều tư tưởng
khác như Phật giáo, Đạo giáo… Đức Nhân, Nghĩa của Nho giáo đã làm cho
con người có sự đối xử nhân ái, khoan dung, độ lượng với nhau. Đức lễ, với
hệ thống các quy định chặt chẽ đã giúp con người có thái độ và hành vi ứng 11
xử với nhau theo thứ bậc, theo khuôn phép. Xét theo phương diện pháp luật
thì lễ của Nho giáo có tác dụng tích cực trong việc duy trì trật tự, kỷ cương
của xã hội, ngày nay chúng ta có thể kế thừa. Nho giáo quan niệm trong nước
cần phải có pháp lễ (luật pháp) thì nước mới nghiêm; trong gia đình phải có
gia pháp thì mới có trên có dưới. Điều này đã tạo cho con người nếp sống trên
kính dưới nhường. Tư tưởng chính danh giúp cho con người xác định được
nghĩa vụ và trách nhiệm của mình để từ đó suy nghĩ và xử thế đúng trong các quan hệ xã hội.
Vì quyền lực của Nhà nước đó nằm trong tay nhà vua, nên chữ “trung”
của Nho giáo cần được tiếp thu để củng cố quyền lực của nhà vua. Ngay từ
thời Lý – Trần, trung với vua không tách rời trung với nước, vì đó là những
ông vua thực sự điều hành cuộc chiến tranh giữ nước của dân tộc Việt Nam đi
đến thắng lợi. Ở Việt Nam, “trung” thường gắn với “nghĩa” nhằm đề cao trách
nhiệm của con người đối với Tổ quốc, quê hương, làng xóm. Cũng chính vì
thế, trong Hịch tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn thường gắn “trung” với “nghĩa”.
Hơn nữa, nếu Nhà nước phong kiến tập quyền muốn trở nên hùng mạnh thì
phải quan tâm đến con người, đến nhân dân và do đó, “nghĩa” không tách rời
“nhân”. Ngọn cờ nhân nghĩa là để “yên dân”, để giải phóng nhân dân khỏi áp
bức của quân xâm lược. Nét đặc sắc của Nho giáo là chú trọng đến vấn đề tu
dưỡng đạo đức cá nhân, đặc biệt là chú ý đến đạo đức người cầm quyền
(những người có chức, quyền). G.S. Vũ Khiêu đã nhận xét: Ở đây Nho giáo
đã nhận thức được một thực tế là những người trong bộ máy Nhà nước mà
mất đạo đức thì không thể cai trị được nhân dân. Cho nên đạo đức là một
phương tiện để tranh thủ được lòng dân. Theo Nho giáo, đạo đức người cầm
quyền có ảnh hưởng lớn đến sự hưng vong của một triều đại. Vì vậy, Khổng
Tử khuyên người cầm quyền phải “tu thân” để làm tấm gương cho người
dưới. Với việc đề cao tu thân, coi đây là cái gốc trong rèn luyện nhân cách, 12
Nho giáo đã tạo nên một lớp người sống có đạo đức. Trong lịch sử dân tộc
Việt nam đã có nhiều tấm gương sáng ngời về đạo đức của các vị vua, của các
anh hùng hào kiệt. Theo các nhà kinh điển của Nho giáo, người làm quan phải
có đức, phải lấy nhân nghĩa, lấy chữ tín làm mục tiêu để cảm hóa lòng người,
để cai trị. Muốn vậy, phải đặt lợi ích của thiên hạ lên trên lợi ích của vua
quan. Thiết nghĩ, ngày nay tư tưởng nêu trên vẫn còn nguyên giá trị. Người
cán bộ trong bộ máy Nhà nước phải có đức, đó là điều kiện đầu tiên để dân tin
yêu, kính phục. Nho giáo coi những người làm quan mà hà hiếp dân là độc ác,
để dân đói rét là nhà vua có tội. Nho giáo đã đề cao việc cai trị dân bằng đạo
đức, bằng nhân nghĩa, bằng lễ giáo. Muốn thực hiện được đường lối đức trị,
người cầm quyền phải luôn “tu, tề, trị, bình”.
Thời kỳ khi chế độ phong kiến lâm vào khủng hoảng, Nho giáo không
ngừng củng cố và phát triển cho đến vào giữa thế kỷ 19, yêu cầu tất yếu này
dần như bị suy sụp và dần nhạt phai khi sự du nhập mạnh mẽ của phương Tây
của thực dân Pháp. Tuy nhiên Nho giáo vẫn là công cụ ảnh hưởng đối với
những nhà yêu nước cách mạng như Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học hay Hồ Chí Minh,...
Qua quá trình truyền bá đạo đức Nho giáo vào Việt Nam trong lịch sử,
ta thấy một số đặc điểm:
- Thứ nhất, quá trình diễn ra sự truyền bá đạo đức Nho giáo gắn liền với
quá trình đạo đức Phật giáo và Đạo giáo.
- Thứ hai, sự truyền bá đạo đức Nho giáo phát triển chủ yếu ở thời kỳ đất
nước giành được độc lập dân tộc. Sự truyền bá đạo đức Nho giáo không diễn
ra một chiều mà thông qua sự đấu tranh với nền đạo đức truyền thống của dân
tộc, cho nên dân tộc ta chủ động lựa chọn những mặt tích cực của đạo đức
Nho giáo để kế thừa. Do đó, đạo đức Nho giáo khi vào Việt Nam đã trở thành
đạo đức Nho giáo ở Việt Nam. 13
2.1.1.2 Nội dung đạo đức Nho giáo Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử và đặc điểm
- Thứ nhất, các nhà tư tưởng Việt Nam thời phong kiến tiếp nhận và sử
dụng tư tưởng đạo đức Nho giáo thời Hán của Đổng Trọng Thư và thời Tống
của các nhà họ Trịnh và họ Chu. Tuy nhiên, do xuất phát từ thực tiễn kinh tế -
xã hội Việt Nam nên đạo đức Nho giáo Việt Nam không mang tính chất khắt
khe, nghiêm ngặt như Hán Nho, không rườm rà, chi tiết, tỉ mỉ như Tống Nho.
- Thứ hai, song song với việc tiếp nhận đạo đức Nho giáo, dân tộc ta còn
tiếp nhận nhiều khía cạnh của đạo đức Phật giáo với những nội dung “từ bi hỷ
xả”, “nhẫn nhịn”... Vì vậy, đạo đức thời phong kiến Việt N am có sự giao
thoa, ảnh hưởng của các quan niệm đạo đức Nho - Phật - Đạo.
- Thứ ba, đạo đức Nho giáo Việt Nam là một sản phẩm của quá trình kế
thừa, loại bỏ để phát triển. Sự tiếp nhận, sử dụng những khía cạnh tích cực
của đạo đức Nho giáo là do nhu cầu của thực tiễn xã hội, vì mục đích có lợi cho dân tộc.
- Thứ tư, các nhà Nho Việt Nam thời phong kiến không luận bàn, không
xây dựng hệ thống lý luận đạo đức mà chỉ dừng lại ở việc nêu lên những yêu
cầu đạo đức cụ thể để mọi người thực hiện nhằm củng cố, ổn định gia đình,
xã hội. Do đó, đạo đức Nho giáo Việt Nam là đạo đức Nho giáo thực hành,
chú ý nhiều vào thực tiễn đời sống đạo đức xã hội, ít chú ý học thuật.
2.1.2 Đạo đức truyền thống Việt Nam
Đạo đức truyền thống Việt Nam là giá trị tinh thần của con người Việt
Nam được hình thành trong hoạt động, trong quan hệ ứng xử, được truyền từ
thế hệ này đến thế hệ khác, được mọi người nhận thức, thừa nhận, tự giác
thực hiện và tự điều chỉnh nhờ dư luận cộng đồng, xã hội.
2.1.2.1 Đặc điểm của sự hình thành, phát triển của đạo đức truyền thống Việt Nam 14
- Thứ nhất, đạo đức truyền thống Việt Nam bắt nguồn từ xã hội Văn
Lang - Âu Lạc - thời đại độc lập mang tên Hùng Vương.
- Thứ hai, đạo đức truyền thống Việt Nam ra đời, phát triển trong điều
kiện vừa phải chịu ách đô hộ vừa phải chống sự đô hộ và đồng hóa của phương Bắc.
- Thứ ba, đạo đức truyền thống Việt Nam chịu ảnh hưởng sớm, sâu sắc của Phật giáo.
- Thứ tư, Nho giáo thành đạt ở nước ta trên dưới 500 năm. Trong năm
trăm năm ấy, Nhà nước có ý thức mở mang giáo dục, thi cử căn bản là Nho
giáo. Nhà nước Lê - Nguyễn ra sức cải tạo văn hóa, phong tục nhân dân Việt
Nam trên cơ sở Nho giáo. Đạo đức truyền thống Việt Nam đã thu hoạch được
những mặt tích cực của đạo đức Nho giáo trong thời kỳ này, đặc biệt là lĩnh
vực gia đình, thôn xã của xã hội nông nghiệp.
- Thứ năm, sự sụp đổ của Nho giáo và sự phát triển của đạo đức truyền
thống thành đạo đức cách mạng.
2.1.2.2 Những truyền thống đạo đức cơ bản của dân tộc Việt Nam
- Thứ nhất, truyền thống yêu nước: Yêu nước là một truyền thống đạo
đức ăn sâu vào con người Việt Nam qua nhiều thế hệ, bắt đầu từ thời Vua
Hùng dựng nước. Truyền thống yêu nước Việt Nam ra đời và được củng cố,
phát huy cùng với sự ra đời của đất nước, sự phát triển, trường tồn của dân
tộc suốt mấy ngàn năm. Truyền thống yêu nước là biểu hiện tình cảm, ý chí,
hành động của con người Việt Nam từ thế hệ này qua thế hệ khác trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
- Thứ hai, truyền thống nhân nghĩa: Nhân nghĩa là truyền thống đạo lý
rất cao thượng của dân tộc ta, thể hiện đạo đức của các thế hệ người Việt Nam
từ xưa đến nay luôn được duy trì, phát triển. 15
- Thứ ba, truyền thống cần cù, sáng tạo: Dân tộc Việt Nam hình thành,
phát triển trong điều kiện tự nhiên, xã hội có nhiều khó khăn. Để tồn tại và
phát triển, người Việt Nam từ thế hệ này đến thế hệ khác đã phải lao động cần
mẫn và luôn sáng tạo để chiến thắng khó khăn, chiến thắng kẻ thù. Đồng thời
với những chiến thắng để tồn tại và phát triển, dân tộc ta đã sáng tạo nên một
nền văn hóa phong phú, góp phần phát triển nền văn hóa thế giới.
- Thứ tư, truyền thống đoàn kết cộng đồng: Đoàn kết cộng đồng bắt
nguồn từ truyền thống yêu nước, là biểu hiện của truyền thống yêu nước. Việt
Nam là quốc gia có điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý thuận lợi nên đã chứa
đựng nhiều tiềm năng to lớn, đồng thời đặt ra nhiều thử thách to lớn đối với
con người trước sự khắc nghiệt của tự nhiên và sự xâm lược của ngoại bang.
Ngoài những truyền thống nêu trên, dân tộc ta còn nhiều truyền thống
khác như truyền thống trọng giáo dục, cần kiệm, lòng dũng cảm, tinh thần bất
khuất, tính khiêm tốn, giản dị, trung thực, thủy chung. Tất cả những truyền
thống trên gắn quyện với nhau, làm cho nền đạo đức truyền thống đứng vững,
phát triển và là tiền đề rất cơ bản khi chuyển sang nền đạo đức mới - đạo đức cách mạng.
2.2 Ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với đạo đức truyền thống Việt Nam
2.2.1 Những ảnh hưởng tích cực của đạo đức Nho giáo đối với đạo đức
truyền thống Việt Nam
- Thứ nhất, Nho giáo là học thuyết quan tâm đến con người, đến cuộc
đời và tìm thú vui trong cuộc sống. Phật giáo cho cuộc đời là bể khổ nên tìm
cách siêu thoát cuộc đời trần thế. Lão giáo thì yếm thế, bi quan với cuộc đời.
Nho giáo trọng sự sống, hướng nhập thế biến đổi để tồn tại. Khổng Tử cho
rằng chuyện chết không phải là chuyện cần kíp nên ông ít bàn tới chuyện quỷ
thần, quái lạ, huyền bí, chuyện cần kíp là cuộc sống, là việc nghĩa của con 16
người, phải lấy chuyện đời làm vui, hãy yêu lấy cuộc sống. Nhà Nho Việt
Nam yêu đời, vui đời hơn nữa là muốn có ích cho đời, cho xã hội vì họ cho
rằng bỏ việc đời là trái với đạo. Sống là hành động, đem cái trí giúp đời và
theo Khổng Tử thú vui không phải nơi ẩn dật mà là ở chỗ hành động, hành đạo.
- Thứ hai, đạo làm người của Nho giáo là đạo làm người trong xã hội
phong kiến. Quan điểm đạo đức của Nho giáo không phải là vĩnh cửu nhưng
có nhiều phương châm xử thế đã giúp cho các nhà Nho sống giữa một xã hội
có giai cấp và tồn tại nhiều mối quan hệ vẫn giữ được tâm hồn cao thượng.
Suy đến cùng, đạo làm người ấy bao gồm trong hai chữ nhân nghĩa.
- Thứ ba, trong Nho giáo có nhiều điểm có tác dụng hạn chế quyền lực
của giai cấp thống trị, có lợi cho dân như tư tưởng “trọng dân”, “thân dân”,
“dung dân”... Cha ông ta đã dựa vào những tư tưởng đó để đấu tranh nhằm
hạn chế sự thống trị, bóc lột của giai cấp thống trị.
- Thứ tư, từ những điều học được, các nhà Nho Việt Nam đã ứng dụng
vào hoàn cảnh trước mắt của Việt Nam để giải quyết các vấn đề. Nhờ những
điều học được của Khổng Mạnh mà trong lịch sử đã xuất hiện nhiều nhà Nho
yêu nước, có thể chết vì nước, có thể từ chối quyền cao chức trọng mà sống
nghèo khổ trong xóm làng với mảnh vườn và dăm ba người học trò, có thể bỏ
các hôn quân bạo chúa mà giúp các cuộc khởi nghĩa của nông dân. Nếu viết
sách, làm văn thì họ có tiêu chuẩn để đánh giá giai cấp thống trị, phê phán
chúng, bóc trần, vạch tội ác của chúng, tố cáo bọn tham quan, ô lại...
2.2.2 Những ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức Nho giáo đối với đạo đức
truyền thống Việt Nam
Bên cạnh ảnh hưởng tích cực, Nho giáo cũng có một số tác động tiêu cực, cụ thể là: 17
- Một số người do quá “trọng đức”, “duy tình” trong khi xử lý các công
việc và các mối quan hệ xã hội, dẫn đến buông lỏng kỷ cương phép nước và
vi phạm pháp luật. Coi trọng đạo đức là cần thiết nhưng vì tuyệt đối hóa vai
trò của đạo đức mà quên pháp luật là sai lầm. Tiếp thu truyền thống trọng đức
của phương Đông, nhấn mạnh quan hệ đạo đức “thân thân”, “thân hiền” của
Nho giáo, nhiều người khi có chức quyền đã kéo bè kéo cánh, đưa người thân,
anh em họ hàng vào cơ quan mình đang quản lý. Sắp xếp và bố trí cán bộ
không theo năng lực, trình độ và đòi hỏi của công việc mà dựa vào sự thân
thuộc, gần gũi trong quan hệ tông tộc, dòng họ. Trong công tác tổ chức cán
bộ, vì đề cao quan hệ thân thích dẫn đến tư tưởng cục bộ địa phương. Nhiều
người vì quan hệ thân thuộc mà không dám đấu tranh với những sai lầm của
người khác. Do quan niệm sai lệch về đức Nhân Nghĩa với nội dung đền ơn
trả nghĩa mà trong thực tế một số cán bộ có thái độ ban ơn, cố tình lợi dụng
kẽ hở của chính sách và luật pháp để trục lợi, móc ngoặc, hối lộ, cửa quyền…
Thậm chí, một số người dùng tư tưởng gia trưởng để giải quyết các công việc
chung. Một trong những phẩm chất của người lãnh đạo là tính quyết đoán.
Nhưng quyết đoán theo kiểu độc đoán, chuyên quyền là biểu hiện của thói gia trưởng.
- Việc coi trọng lễ và cách giáo dục con người theo lễ một cách cứng
nhắc, bảo thủ là cơ sở cho tư tưởng tôn ti, tư tưởng bè phái, cục bộ, đề cao địa
vị, coi thường lớp trẻ, trọng nam khinh nữ… Hiện nay những tư tưởng đó vẫn
còn tồn tại trong suy nghĩ và hành động của không ít người. Những tư tưởng
trên phản ánh cơ sở hạ tầng của xã hội phong kiến phụ quyền gia trưởng:
Đứng đầu gia đình là người cha, người chồng gọi là gia trưởng, đứng đầu
dòng họ là trưởng họ, đại diện cho cả làng là ông lý, cả tổng là ông chánh, hệ
thống quan lại là cha mẹ dân và cao nhất là vua (thiên tử - gia trưởng của gia 18
đình lớn – quốc gia, nước). Vì vậy, mọi người có nghĩa vụ theo và lệ thuộc vào “gia trưởng”.
- Thực chất đạo cương – thường của Nho giáo là bắt bề dưới phải phục
tùng bề trên đã tạo nên thói gia trưởng. Thói gia trưởng biểu hiện ở quan hệ
xã hội, ở tổ chức Nhà nước. Trong gia đình là quyền quyết định của người
cha, người chồng: “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”; “phu xướng phụ tòng”
(chồng đề xướng, vợ phải theo). Ở cơ quan là quyền duy nhất là của lãnh đạo.
Ở đâu vẫn còn có cán bộ mang tư tưởng gia trưởng, bè phái thì ở đó quần
chúng nhân dân sẽ không phát huy được khả năng sáng tạo, chủ động được.
Ngày nay, trong thời kỳ đất nước đang ngày càng hội nhập và phát triển với
các nước khác trên thế giới, một đội ngũ những con người năng động, sáng
tạo, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm là rất cần thiết.
- Cũng từ việc coi trọng lễ giáo, coi trọng quan hệ gia đình thân thuộc
nên nhiều người đã đưa quan hệ gia đình vào cơ quan hình thành nên quan hệ
“chú cháu”, “anh em” khiến cho người cấp dưới không dám góp ý và đấu
tranh với khuyết điểm của họ vì vị nể bậc cha chú. Từ việc xem xét và giải
quyết các vấn đề của xã hội thông qua lăng kính gia đình nhiều khi dẫn đến
những quyết định thiếu khách quan, không công bằng. Tư tưởng trọng nam
khinh nữ đã dẫn đến một số người lãnh đạo không tin vào khả năng của phụ
nữ, ngại tiếp nhận nữ giới vào cơ quan hoặc cho rằng họ chỉ là người thừa
hành mà không được tham gia góp ý kiến… là những trở ngại cho việc đấu
tranh vì quyền bình đẳng giới. Vì quan hệ thứ bậc đã tạo nên quan niệm chạy
theo chức quyền. Trong xã hội phong kiến, địa vị luôn gắn với danh vọng và
quyền lợi. Địa vị càng cao thì quyền và lợi càng lớn. Hơn nữa, khi có chức,
không những bản thân được vinh hoa phú quý mà “một người làm quan cả họ
được nhờ”. Hám danh, tìm mọi cách để có danh, để thăng quan, tiến chức đã 19
trở thành lẽ sống của một số người. Thậm chí việc học tập theo họ cũng là
“học để làm quan” và nảy sinh tư tưởng coi khinh lao động chân tay.
Sự giáo dục và tu dưỡng đạo đức của Nho giáo còn mang tính cứng
nhắc đã tạo nên những con người sống theo khuôn mẫu, hành động một cách
thụ động. Những tàn dư tư tưởng trên đang làm cản trở và gây khó khăn cho
việc xây đựng đạo đức mới và xã hội mới ở nước ta hiện nay.
2.3 Giải pháp cơ bản nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh
hưởng tiêu cực của tư tưởng “Đức trị” của Nho gia đến giá trị truyền
thống đạo đức Việt Nam
2.3.1 Tạo lập môi trường giáo dục
Hoạt động nghề nghiệp trong bất kỳ lĩnh vực nào cũng cần phải có
những tiêu chuẩn, chuẩn mực đạo đức, gọi là đạo đức nghề nghiệp. Hoạt động
nghề nghiệp của cán bộ, công chức là hoạt động công vụ. Đạo đức nghề
nghiệp của cán bộ, công chức là đạo đức công vụ. Đạo đức công vụ là phạm
trù phản ánh mối quan hệ giữa người với người trong công việc, gắn liền với
hoạt động của những người công tác trong bộ máy hành chính Nhà nước.
Cán bộ, công chức chính là “cầu nối” giữa bộ máy hành chính Nhà
nước và Nhân dân; gần gũi, tiếp xúc thường xuyên với Nhân dân. Do vậy, bên
cạnh yêu cầu về năng lực chuyên môn nghiệp vụ, đội ngũ cán bộ, công chức
còn cần đáp ứng những phẩm chất đạo đức như: tận tâm, mẫn cán với công
việc, thể hiện trách nhiệm và đạo đức công vụ trong khi thực hiện công việc
được giao; thực hiện đúng các quy định của pháp luật với ý thức tự giác và kỷ
luật nghiêm minh; kính trọng, lễ phép với Nhân dân, gần dân, lắng nghe ý
kiến, nguyện vọng của Nhân dân và khiêm tốn học hỏi Nhân dân; gương mẫu
trong việc chấp hành đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước… 20
Hiện nay, để đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính và hội nhập quốc
tế, việc kế thừa những giá trị tích cực. Phát huy truyền thống ham học, truyền
thống tôn sư trọng đạo, truyền thống coi trọng người có học, lễ phép và tôn
trọng các quy tắc đạo đức xã hội. Từ đó các kiến thức học tập được tích lũy,
có điều kiện để duy trì và phát triển. Ngoài ra còn tạo cho con người biết đạo
ăn ở, biết quan tâm đến người khác, biết sống có văn hóa và đạo đức. Thường
xuyên giáo dục con người trong đạo lý ngũ thường “Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín”.
Bên cạnh đó, cần hạn chế và loại bỏ những ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức
Nho giáo trong việc rèn luyện đạo đức công vụ cho cán bộ, công chức ở nước
ta có ý nghĩa hết sức quan trọng.
2.3.2 Tăng cường vai trò quản lý của Đảng và Nhà nước trong vấn đề tuyển
dụng cán bộ
Tạo được cơ chế tuyển dụng người tài qua thi cử. Bất cả xuất thân ra
sao (nông dân, người thợ, lính tráng...) nếu học giỏi đỗ đạt thì có thể ra làm
quan giúp nước . Từ đó tạo nên một tâm lý xã hội: “Không tham ruộng cả ao
liền, tham vì cái bút, cái nghiên anh đồ”. Nhiều thanh niên, trai tráng lấy việc
học tập, thi cử làm mục tiêu cao nhất trong cuộc đời mình. Xã hội nhờ vậy coi
trọng sự học tập cần cù. 21 KẾT LUẬN
Qua những điều phân tích ở trên có thể thấy rằng, tư tưởng đạo đức
Nho giáo đã có ảnh hưởng đáng kể ở nước ta. Sự tác động, ảnh hưởng này ở
hai mặt vừa có tính tích cực, vừa có những hạn chế nhất định. Đường lối đức
trị của Nho giáo từ Khổng Tử tới Mạnh Tử lấy nhân nghĩa làm gốc, coi trọng
vai trò của dân tuy đã thể hiện được những quan điểm nhân bản khá sâu sắc.
Đường lối đó nặng “đức” “nhẹ hình”, khuyến khích người đời từ thường dân
đến bậc vua chúa đều phải tu thân rèn đức theo mẫu người quân tử. Học
thuyết “Đức trị” của Khổng, Mạnh chứa đựng hầu hết các giá trị tinh hoa của
Nho giáo tiên Tần và ngày nay vẫn rất cần được chúng ta tiếp tục nghiên cứu
sâu thêm nữa và chắc chắn sẽ còn tìm được trong đó nhiều bài học bổ ích.
Đối với Việt Nam dù ít, dù nhiều gần 2.000 năm chịu ảnh hưởng của
Nho giáo, cho đến ngày nay trong xã hội, trong cuộc sống và tinh thần của
người Việt Nam vẫn còn mang dấu ấn Nho giáo khá rõ nét. Vì vậy, Để xây
dựng đạo đức mới cho con người Việt Nam hiện nay chúng ta cần kế thừa mặt
tích cực, đồng thời khắc phục và xóa bỏ dần những ảnh hưởng tiêu cực của tư
tưởng đạo đức Nho giáo để chọn lọc kế thừa và làm phong phú hơn đời sống
văn hóa, tinh thần của người Việt Nam, đặc biệt là góp phần thúc đẩy xã hội
phát triển trong điều kiện mở rộng giao lưu, hội nhập quốc tế của đất nước ta hiện nay. 22 TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình triết học (dùng cho học viên cao
học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành Triết học), Nhà xuất bản lý luận chính trị, 2007; (2)
Nguyễn Thanh Bình: Học thuyết chính trị - xã hội Nho giáo và sự
ảnh hưởng của nó ở Việt Nam (từ nửa đầu thế kỷ XI đến giữa thế kỷ
XXI), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
(3) Trương Quốc Chính (Chủ nhiệm): Những giá trị của Nho giáo với
việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Việt Nam trong sạch, vững
mạnh, Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Nội vụ, tháng 12/2018.
(4) Nguyễn Thị Kim Chung: “Mẫu người quân tử - con người toàn
thiện trong “Luận ngữ” của Khổng Tử”, Tạp chí Triết học, số tháng 11, 2006.
(5) Vũ Khiêu: Nho giáo xưa và nay, Nxb. Khoa học xã hôi ̣, Hà Nôi ̣, 2007.
(6) Trần Trọng Kim: Nho giáo, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nôi ̣, 2001.
Document Outline
- MỤC LỤC
- PHẦN MỞ ĐẦU
- 2.1.1 Đạo đức Nho giáo Việt Nam
- 2.1.2 Đạo đức truyền thống Việt Nam
- 2.3.1 Tạo lập môi trường giáo dục
- KẾT LUẬN