Tiểu luận triết học Lý luận của chủ nghĩa Mác về con người và vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước | Học viện Ngân Hàng

Tiểu luận triết học Lý luận của chủ nghĩa Mác về con người và vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần. Mời bạn đọc đón xem!

lOMoARcPSD| 40419767
Tiu lun triết học Lý luận ca ch nghĩa Mác về
con người và vấn đ con người trong s nghip
công nghiệp hoá, hiện đại
Lời mở đầu
Phát triển con người mục tiêu cao cả nhất cả nhất của toàn nhân loại. Làn
sóng văn minh thứ ba đang được loài người tới một kỉ nguyên mới, mở ra bao khả
năng để họ tìm ra những con đường tối ưu đi tới tương lai. Trong bối cảnh đó sự
tan của hthống hội chủ nghĩa càng làm cho các tư tưởng tự do tìm kiếm
con đường khả quan nhất cho sự nghiệp phát triển con người Việt Nam càng dễ
đi đến phủ nhận vai trò và khả năng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Trong thực tế, không ít người rẽ ngang đi tìm khả năng phát triển đó trong
chủ nghĩa bản. Nhiều người trở về phục sinh và tìm shoàn thiện con người
trong các tôn giáohệ tư tưởng truyền thống, con người lại “sáng tạo” ra những
tưởng, tôn giáo mới cho phù hợp” hơn với con người Việt Nam hiện nay. Song
nhìn nhận lại một cách thật sự khách quan khoa học sự tồn tại của chủ nghĩa
Mác - Lênin trong xã hội ta, có lẽ không ai phủ nhận được vai trò ưu trội và triển
vọng của nó trong sự phát triển con người.
Trên sở vận dụng khoa học và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về con
người tại hội nghị lần thứ tư của ban chấp hành trung ương khoá VII, Đảng ta đã
đề ra thông qua nghị quyết về việc phát triển con người Việt Nam toàn diện
với tư cách quyết về việc phát triển con người Việt Nam toàn diện với tư cách là
“động lực của sự nghiệp xây dựng hội mới đồng thời là mục tiêu của chủ
nghĩa hội. Đó là “con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất,
phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức”.
Phát triển con người Việt Nam toàn diện - đó cũng chính động lực,
mục tiêu nhân đạo của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hmà chúng ta đang
từng béc tiến hành. Bởi lẽ, người lao động nước ta ngày càng đóng vai trò quan
lOMoARcPSD| 40419767
trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trong sự phát triển nền kinh tế đất
nước theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, thì chất lượng người lao động nhân tố quyết định. Nghị quyết đại
hội đại biểu toàn quốc lần thVIII của Đảng đã khẳng định: “Nâng cao dân trí,
bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Namnhân tố quyết
định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Thực tiễn đã chứng
tỏ rằng không người lao động chất lượng cao. Chúng ta không thể phát triển
kinh tế, đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Nhưng cũng chính nghèo
nàn, lạc hậu vkinh tế chất lượng của người lao động nước ta chưa cao. Để
thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn này và tạo đà cho bước phát triển tiếp theo của sự
nghiệp công nghiệp nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thì một nước đang còn
tình trạng kém phát triển như nước ta không thể không xây dựng một chính sách
phát triển lâu bền, có tầm nhìn xa trông rộng, phát triển con người, nâng cao dần
chất lượng của người lao động.
Do nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề con người, đặc biệt vấn
đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ta hiện nay,
nên em đã chọn đề tài tiểu luận: “Lý luận của chủ nghĩa Mác về con người
vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”.
Để hoàn thành bài tiểu luận này em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn
tận tình của Thầy
Nội dung
chương i. lý luận của chủ nghĩa mác về con người.
I.Bản chất của con người.
a. Quan điểm của các nhà triết học trước Mác về con người:
thể nói vấn đề con người một trong những vấn đề quan trọng nhất của
thế giới từ trước tới nay. Đó vấn đề luôn được các nhà khoa học, các nhà
nghiên cứu phân tích một cách sâu sắc nhất. Không những thế trong nhiều đề tài
khoa học của hội xưa nay thì đề tài con người một trung tâm được các
lOMoARcPSD| 40419767
nhà nghiên cứu cổ đại đặc biệt chú ý. Các lĩnh vực tâm học, sinh học, y học,
triết học, xã hội học.v.v...Từ rất sớm trong lịch sử đã quan tâm đến con người và
không ngừng nghiên cứu về nó. Mỗi lĩnh vực nghiên cứu đó đều có ý nghĩa riêng
đối vưói sự hiểu biết và làm lợi cho con người.
Hơn bất cứ một lĩnh vực nào khác, lĩnh vực triết học lại nhiều mâu thuẫn
trong quan điểm, nhận thức đã gây nên sự đấu tranh không biết khi nào
dừng. Những lập trường chính trị trình độ nhận thức tâm lý của những người
nghiên cứu khác nhau và do đó đã đưa ra những tư tưởng hướng giải quyết khác
nhau.
Khi đề cập tới vấn đề con người các nhà triết học đtự hỏi: Thực chất con
người là để tìm cách trả lời câu hỏi đó phải giải quyết hàng loạt mâu thuẫn
troch chính con người. Khi phân tích các nhà triết học cổ đại coi con người là một
tiểu vũ trụ, là một thực thể nhỏ trong thế giới rộng lớn, bản chất con người
bản chất vũ trụ. Con người là vật cao quý nhất trong trời đất, là chúa tể của muôn
loài. Chỉ đứng sau thần linh. Con người được chia làm hai phần là phần xác và
phần hồn. Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo thì cho rằng: Phần hồn là do thượng đế
sinh ra; quy định, chi phối mọi hoạt động của phần xác, linh hoòn con người tồn
tại mãi mãi. Chủ nghĩa duy vật thì ngược lại họ cho rằng phần xác quyết định và
chi phối phần hồn, không linh hồn nào là bất tử cả, và quá trình nhận thức đó
không ngừng được phát hiện. Càng ngày các ntriết học tìm ra được bản chất
của con người và không ngừng khắc phục lý luận trước đó.
Triết học thế kỷ XV - XVIII phát triển quan điểm triết học về con người
trên sở khoa học tự nhiên đã khắc phục bắt đầu phát triển. Chnghĩa duy
vật máy móc coi con người như một bộ máy vận động theo một quy luật cổ. Học
chủ nghĩa duy tâm chủ quan và thuyết không thể biết một mặt coi cái tôi và cảm
giác của cái tôi trung tâm sáng tạo ra cái không tôi, mặt khcho rằng cái tôi
không khả năng vượt quá cảm giác của mình nên về bản chất là nhỏ bé yếu ớt,
phụ thuộc đấng tới cao. Các nhà triết học thuộc một mặt đề cao vai trò sáng tạo
lOMoARcPSD| 40419767
của tính người, mặt khác coi con người, mặt khác coi con người sản phẩm
của tự nhiên và hoàn cảnh.
Các nhà triết học cđiển đức, tCartơ đến Heghen đã phát triển quan điểm
triêt học về con người theo hướng của chủ nghĩa duy tâm. Đặc biệt Heghen quan
niệm con người hiện thân của ý niệm tuyệt đối con người ý thức và do đó đời
sống con người chỉ được xem xét mặt tinh thần Song Heghen cũng người
đầu tiên thông qua việc xem xét cơ chế hoạt động của đời sống tinh thần mà phát
hiện ra quy luật về sự phát triển của đời sống tinh thần nhân. Đồng thời Heghen
cũng đã nghiên cứu bản chất quá trình duy khái quát các quy luật bản của
quá trình đó.
Sau khi đoạn tuyệt với chủ nghĩa duy tâm Heghen, phơ bách đã phê phán
tính siêu tự nhiên, phi thể xác trong quan niệm triết học Heghen, ông quan niệm
con người là sản phẩm cảu tự nhiên, có bản năng tự nhiên, là con người sinh học
trực quan, phụ thuộc vào hoàn cảnh, ông đã sử dụng thành tựu của khoa học tự
nhiên để chứng minh mối liên hệ không thể chia cắt của duy với những quá
trình vật chất diễn ra trong cơ thể con người, song khi giải thích con người trong
mối liên hệ cộng đồng thì phơ bách lại rơi vào lập trường của chủ nghĩa duy tâm.
Tóm lại: Các quan niệm triết học nói trên đã đi đến những các thức lý luận
xem xét người một cách trừu tượng. Đó kết quả của việc tuyệt đối hoá phần hồn
thành con người trừu tượng. Tự ý thức còn chủ nghĩa duy vật trực quan thì tuyệt
đối hoá phần xác thành con người trừu tượng. Sinh học, tuy nhiên họ vẫn còn
nhiều hạn chế, các quan niệm nói trên đều chưa chú ý đầy đủ đến bản chất con
người.
Sau này chủ nghĩa Mác đã kế thừa khắc phục những mặt hạn chế đó,
đồng thời phát triển những quan niệm về con người đã trong các học thuyết
triết học trước đây để đi tới quan niệm về con người thiện thực, con người thực
tiễn cải tạo tự nhiên và xã hội với cdách là con người hiện thực. Con người vừa
là sản phẩm của tự nhiên và xã hội đồng thời vừa là chủ thể cải tạo tự nhiên.
lOMoARcPSD| 40419767
b. Con người là chủ thể sinh động nhất của xã hội.
Sự “sinh động” ở đây có nghĩa là con người có thể chinh phục tự nhiên, cỉa
tạo tự nhiên. Tuy rằng con người đã bỏ xa giới động vật trong quá trình tiến hoá
nhưng như thế không có nghĩa là con người đã lột bỏ tất cả những cái tự nhiên để
không còn một sliên hệ nào với tổ tiên của mình. Con người sản phẩm tự
nhiên, là kết quả của quá trình tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh, đã là con người
thì phải trải qua giai đoạn sinh trưởng, tử vong, mỗi con người đều có nhu cầu ăn,
mặc ở, sinh hoạt... Song con người khong phải động vật thuần tuý như các động
vật khác mà xét trên khía cạnh hội thì con người động vật có tính xã hội, con
người sản phẩm của xã hội, mang bản tính hội. Những yếu tố xã hội là tất cả
những quan hệ, những biến đổi xuất hiện do ảnh hưởng của các điều kiện xã hội
khác nhau, những quy định về mặt hội toạ nên con người. Con người chỉ thể
tồn tịa được khi tiến hành lao động sản xuất của cải vật chất để thoả mãn nhu cầu
mình và chính lao động sản xuất là yếu tố quyết định hình thành con người và ý
thức. Lao động là nguồn gốc duy nhất của vật chất, vật chất quyết định tinh thần
theo logic thì lao động là nguồn gốc của văn hoá vật chất và tinh thần.
Mặt khác trong lao động con người quan hệ với nhau trong lĩnh vực sản
xuất, đó những quan hệ nền tảng đtừ đó hình thành các quan hệ hội khác
trong các lĩnh vực đời sống và tinh thần.
Chính vì con người là sản phẩm của tự nhiên và hội cho nên con người
chịu sự chi phối của môi trường tự nhiên và xã hội cùng các quy luật biến đổi của
chúng. Các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp giữa thể môi
trường, quy luật về quá trình trao đổi chất... tác động tạo nên phương diện sinh
học của con người. Các quy luật tâm, ý thức hình thành và hoạt động trên nền
tảng sinh học của con người hình thành tưởng tình cảm khát vọng niềm tin, ý
chí. Các quy luật hội quy định mối quan hệ giữa người với người, điều chỉnh
hành vi của con người. Hệ thống các quy luật trên cũng tác động lên con người,
tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh giữa sinh học cái xã hội trong con người.
lOMoARcPSD| 40419767
Với cách con người hội, con người hoạt động thực tiễn con người
sản xuất và của cải vật chất, tác động vào tự nhiên để cải tạo tự nhiên, con người
chủ thể cải tạo tự nhiên. Như vậy con người vừa do tự nhiên sinh ra, bị phụ
thuộc vào tự nhiên vừa tác động vào tự nhiên. Tình cảm thống trị tự nhiên chỉ có
con người mới khắc phục được tự nhiên bằng cách tạo ra những vật chất, hiện
tượng không như tnhiên bằng cách toạ ra những vật chất, hiện tượng không như
tự nhiên vốn bằng cách đó con người đã biến đổi bộ mặt của tự nhiên, bắt tự
nhiên phải phục vụ con người. Tuy sản phẩm của tự nhiên. Một điều chắc
chắn rằng có con người chỉ có thể thống trị tự nhiên nếu biết tuân theo và nắm bắt
các quy luật của chính bản thân đó. Quá trình cải biến tnhiên, con người cũng
tạo ra lịch sử cho mình. Con người không những sản phẩm của hội mà con
người còn chủ thể cải tạo chúng. Bằng mọi hoạt động lao động sản xuất con
người sáng tạo ra toàn bộ nền văn hoá vật chất, tinh thần. Bằng hoạt động cách
mạng. Con người đánh dấu thêm các trang sử mới cho chính mình mặc tự nhiên
và xã hội đều vận động theo những quy luật khách quan song quá trình vận động
của con người luôn xuất phát từ nhu cầu, động và hứng thú, theo đuổi những
mục đích nhất định và do đó đã tìm cách hạn chế hoặc mở rộng phạm vi tác dụng
cuả quy luật cho phù hợp với nhu cầu mục đích của mình. Nếu không con
người với tư cách chủ thể sinh động nhất của hội thì không thể hội,
không thể có sự vận động của xã hội mà vượt lên tất cả chính là của cải vật chất.
II. Quan điểm chủ nghĩa Mác về con người.
Chủ nghĩa hội do con người von người. Do vậy, hình thành mới
quan hệ đúng đắn về con người về vai tcủa con người trong sphát triển hội
nói chung, trong hội chủ nghĩa nói riêng một vấn đề không thể thiếu được
của thế giới quan Mác - Lênin.
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin con người khái niệm chỉ những thể người
như một chỉnh thể trong sự thống nhất giữa mặt sinh học mặt hội của nó.
Con người sản phẩm của sự tiến hoá lâu dài từ giới tự nhiên giới sinh vật.
Do vậy nhiều quy luật sinh vật học cùng tồn tại tác động đến con người. Để
lOMoARcPSD| 40419767
tồn tại với cách một con người trước hết con người cũng phải ăn, phải uống...
Điều đó giải thích vì sao Mác cho rằng co người trước hết phải ăn, mặc ở rồi mới
làm chính trị.
Nhưng chỉ dừng lại một số thuộc tỉnh sinh học của con người thì không
thể giải thích được bản chất của con người. Không chỉ có “con người là tổng hoà
các quan hệ xã hội” mà thực ra quan điểm của Mác là một quan điểm toàn diện.
Mác Anghen nhiều lần khẳng định lại quan điểm của những nhà triết
học đi trước rằng. Con người là một bộ phận của giới tự nhiên, là một động vật
hội, nhưng khác với họ, Mác, Anghen; xem xét mặt tự nhiên của con người, n
ăn, ngủ, đi lại, yêu thích... Không còn hoàn mang tính tự nhiên như ở con vật mà
đã được xã hội hoá. Mác viết: “Bản chất của con người không phải là một cái trừu
tượng cố hữu của nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của bản chất của con
người tổng hoà của những mối quan hệ hội” con người sự kết hợp giữa
mặt tự nhiên mặt xã hội nên Mác nhiều lần đã so sánh con người với con vật,
so sánh con người với những con vật bản năng gần giống với con người... Và
để tìm ra skhác biệt đó. Mác đã chỉ ra sự khác biệt ở nhiều chỗ như chỉ con
người làm ra tư liệu sinh hoạt của mình, con người biến đổi tnhiên theo quy luật
của tự nhiên, con người thước đo của vạn vật, con người sản xuất ra công cụ
sản xuất... Luận điểm xem con người sinh vật biết chế tạo ra công cụ sản xuất
được xem là luận điểm tiêu biểu của chủ nghĩa Mác về con người.
Luận điểm của Mác coi “Bản chất của con người tổng hoà các quan hệ
hội” Mác hoàn toàn không ý phủ nhận vai trò của các yếu tố đặc điểm
sinh học của con người, ông chỉ đối lập luận điểm coi con người đơn thuần như
một phần của giới tnhiên còn bỏ qua, không nói đến mặt hội của con người.
Khi xác định bản chất của con người trước hết Mác nêu bật cái chung, cái không
thể thiếu và có tính chất quyết định làm cho con người trở thành một con người.
Sau, thì khi nói đến “Sự định hướng hợp lý về mặt sinh học” Lênin cũng chỉ bác
bỏ các yếu tố xã hội thường xuyên tác động và ảnh hưởng to lớn đối với bản chất
và sự phát triển của con người. Chính Lênin cũng đã không tán thành quan điểm
lOMoARcPSD| 40419767
cho rằng mọ người đều ngang nhau về mặt sinh học. Ông viết “thực hiện một sự
bình đẳng về sức lực và tài năng con người thì đó là một điều ngu xuẩn... Nói tới
bình đẳng thì đó luôn luôn sự bình đẳng xã hội, bình đẳng về địa vị chỉ không
phải là sự bình đẳng về thể lực và trí lực của cá nhân”.
Để khẳng định cho tiến trình phát triển lịch sử của hội loài người sự
thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - hội, Mác đã nói tới việc lấy sự phát
triển toàn diện của con người làm thước đo chung cho sphát triển hội, Mác
cho rằng xu hướng chung của tiến trình phát triển lịch sử được quy định bởi sự
phát triển của lực lượng sản xuất xã hội bao gồm con người những công cụ lao
động do con người tạo ra, sự phát triển của lực lượng sản xuất hội, tự nó đã nói
lên trình độ phát triển của hội qua việc con người đã chiếm lĩnh hội sử
dụng ngày càng nhiều lực lượng tự nhiên với cách sở vật chất cho hoạt
động sống của chính con người và quyết định quan hệ giữa người với người trong
sản xuất. Sản xuất ngày càng phát triển tính chất xã hội hoá ngày cnàg tăng. Việc
tiến hành sản xuất tập thể bằng lực lượng của toàn hội và sphát triển mới của
nền sản xuất do mang lại sẽ cần đến những con người hoàn toàn mới. Những
con người năng lực phát triển toàn diện và đến lượt nó, nền sản xuất sẽ tạo nên
những con người mới, sẽ làm nên những thành viên trong xã hội khả năng sử
dụng một cách toàn diện năng lực phát triển của mình theo Mác "phát triển sản
xuất sự phồn vinh của hội, cuộc sống tốt đẹp hơn cho mỗi thành viên trong
cộng đồng hội phát triển con người toàn diện là một quá trình thống nhất để
làm tăng thêm nền sản xuất hội" để sản xuất ra những con người phát triển toàn
diện hơn nữa, Mác coi sự kết hợ chặt chẽ giữa phát triển sản xuất phát triển
con người là một trong những biện pháp mạnh mẽ để cải biến xã hội.
Con người không chỉ chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất yếu tố
hàng đầu, yếu tố đóng vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất của xã hội
hơn nữa, con người còn đóng vai trò là chủ thể hoạt động của quá trình lịch sử.
Thông qua hoạt động sản xuất vật chật con người sáng tạo ra lịch sử của mình,
lịch sử 7của xã hội loài ngoài. Từ đó quan niệm đó Mác khẳng định sự phát triển
lOMoARcPSD| 40419767
của lực lượng sản xuất xã hội có ý nghĩa là sự phát triển phong phú bản chất con
người, coi như một mục đích tự thân. Bởi vậy theo Mác ý nghĩa lịch sử mục
đích cao cả của sự phát triển hội phát triển con người toàn diện, nâng cao
năng lực phẩm giá con người, giải phóng con người, loại trừ ra khỏi cuộc sống
con người để con người được sống với cuộc sống đích thực. Và bước quan trọng
nhất trên con đường đó là giải phóng con người về mặt xã hội.
Điều đó cho thấy trong quan niệm của Mác thực chất của tiến trình phát
triển lịch sử hội loài người con người, vì cuộc sống ngày cnàg tốt đẹp hơn
cho con người, phát triển con người toàn diện giải phóng con người, nói theo
Anghen là đưa con người từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do,
con người cuối cùng cũng người tôn tại của hội của chính mình, đồng thời
cũng trở thành người chủ của tự nhiên, người chủ bản thân mình. Đó là quá trình
nhân loại đã tự tạo ra cho mình những điều kiện, những khả năng cho chính
mình nhằm đem lại sự phát triển toàn diện, tự do hài hoà cho mỗi con người
trong cộng đồng nhân loại tạo cho con người năng lực làm chtiến trình lịch sử
của chính mình.
Quan niệm của Mác về định hướng phát triển hội lấy sự phát triển của
con người làm thước đo chung càng được khẳng định trong bối cảnh lịch sử của
hội loài người. Ngày nay loài người đang sống trong bối cảnh quốc tế đầy
những biến động, cộng đồng thế giới đang thể hiện hết sức ràng tính đa dạng
trong các hình thức phát triển của nó xã hội loài người kể từ thời tiền sử cho đến
nay bao giờ cũng là một hệ thống thống nhất tuy nhiên cũng một hệ thống hết
sức phức tạp và chính vì sự phức tạp đó đã tạo nên tính không đồng đều trong sự
phát triển kinh tế xã hội ở các nước, các khu vực khác nhau. Đến lượt mình, tính
không đồng đều của sự phát triển này lại hình thành nên một bức tranh nhiều màu
sắc về định hướng nào, thì mọi định hướng phát triển vẫn phải hướng tới giá trị
nhân văn của - tới sự phát triển con người.
hội bao giờ cũng tồn tại nhiều giai cấp đó điều quan trọng là giai cấp đó
phục tùng được lòng dân hay không. Trải qua thời kphát triển ca hội loại
lOMoARcPSD| 40419767
người chỉ giai cấp sản giai cấp đáp ứng đầy đủ mọi quy luật của cuộc
sống và đó chính do tại sao mác lại lấy giai cấp sản để nghiên cứu trong
đó Mác tập trung nghiên cứu con người vô sản là chủ yếu.
Theo Mác, người sản là ngừơi sản xuất ra của cải vật chất cho hội
hiện đại, nhưng lao động của họ lại bị tha hoá, lao động từ chỗ gắn bó với họ nay
trở nên xa lạ nghiêm trọng hơn nữa chính nó đã thống trị họ, tình trạng bất hợp lý
này cần phải được giải quyết. Với Mác, người sản người tiêu biểu cho
phương thức sản xuất mới, sứ mệnh hoàn toàn khả ng giải phóng mình,
giải phóng xã hội để xây dựng hội mới tốt đẹp hơn. Theo Mác ến hội cộng
sản chủ nghĩa, con người không còn thất nghiệp, không còn bị ràng buộc vào một
nghề nghiệp nhất định họ thể làm bất kỳ một nghề nào nếu khả năng
thích thú, họ có quyền làm theo năng lực, hướng theo nhu cầu tuy nhiên những ý
muốn đó không xảy ra bởi vì cách mạng cộng sản chủ nghĩa không diễn ra theo ý
của họ. không diễn ra đồng loạt tren tất cả các nước tư bản, ít ra là ở các nước
bản tiên tiến, trái lại lại diễn ra những nước hội chủ nghĩa tiêu biểu
nước Nga (Liên cũ)… Một nước công nghiệp chưa phát triển, nông dân chiếm
số đông trong dân số. vậy quan niệm của ông về con người khó điều kiện
được chứng minh.
III. Vai trò của chủ nghĩa Mác về con người trong đời sống xã hội.
Do nhân thức được vai trò và tầm quan trọng của vấn đề con người đạc biệt
vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ta
hiện nay. Đảng nhân dân ta đã đang xây dựng phát triển đất nước toàn
diện về nhiều mặt đặc biệt lĩnh vực kinh tế, phụ thuộc rất nhiều vào nhiều
chiến lược con người: Cần đào tạo con người một cách có chiều sâu lấy tư tương
chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng, cũng như trên thế giới nước ta chiến
lược con người nó có một ý nghĩa hết sức quan trọng để phát triển đúng hướng
chiến lược đó cần có một chính sách phát triển con người, không để con người đi
lệch tư tưởng tuy nhiên trong thực tế không ít người sẽ ngang đi tìm khả năng phát
triển trong chủ nghĩa bản. Nhiều người trở về phục sinh tìm sự hoàn thiện
lOMoARcPSD| 40419767
con người trong các tôn giáo các hệ tưởng truyền thống. Có người lại sáng
tạo ra tư tưởng tôn giáo mới cho phù hợp với con người Việt Nam. Song nhìn lại
một cdách khách quan và khoa học sự tồn tại của chủ nghĩa Mác - Lênin trong xã
hội Việt Nam lẽ không ai thể phủ nhận được vai trò ưu trội triển vọng
cuả trong snghiệp phát triển con người tạo đà cho bước phát triển tiếp theo
của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đi hoá tmột nước đang còn tình trạng
kém phát triển như nước ta không thể không xây dựng một chính sách phát triển
lâu dài, tầm nhìn xa trông rộng phát triển con người nâng cao chất lượng của
người lao động. Hơn bất cứ một lĩnh vực nghiên cứu nào khác, lĩnh vực phát triển
con người mục tiêu cao cả nhất của toàn dân, đưa loài người tới một kỷ nguyên
mới, mở ra nhiều khả năng để tìm ra những con đường tối ưu đi tới tương lai con
đường khả quan nhất cho sự nghiệp phát triển con người trong sự nghiệp công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Trong đời sống xã hội thực tiễn sở vận dụng
khoa học và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về con người tại hội nghị lần thứ
của ban chấp hành trung ương
Đảng khoá VII đề ra nghị quyết thông qua nghị quyết về việc phát triển con
người Việt Nam toàn diện với cách "Động lực của sự nghiệp xây dựng
hội mới, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội" Đó là "con người phát triển
cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo
đức". Bởi lẽ, người lao động nước ta ngày càng đóng vai trò quan trọng trong mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội và trong sự phát triển của nền kinh tế đất nước theo
cớ chế thị trường, dưới sự quản của nhà nước, theo định hướng hội chủ nghĩa
thì chất lượng của người lao động nhân tố quyết định nghị quyết đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định "Nâng cao dân trí, bồi dưỡng
phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Namnhân tố quyết định thắng
lợi cuả công cuộc đổi mới đất nước". Thực tiễn đã chứng tỏ hội ta hiện nay
tình trạng mất hài hoà về mặt bản thể của mi cá nhân là chủ yếu, là tất cả bản thể
cá nhân phát triển toàn diện và hài hoà về đạo đức, trí tuệ, thể lực là mục tiêu xây
dựng con người trong chủ nghĩa xã hội nhưng mục tiêu cơ bản và quan trọng hơn
lOMoARcPSD| 40419767
cả là vấn đề con người phải trở thành nhân tố quyết định lịch sử xã hộivà lịch sử
của chính mình.
Các nhà tưởng sản xuyên tạc chủ nghĩa Mác cho rằng đó là "chủ nghĩa
không con người" thực tế thì, chủ nghĩa Mác là một chỉnh thể thống nhất của
ba bphận triết học nghiên cứu các quy luật của thế giới, giúp ta hiểu bản chất,
mới quan hệ tự nhiên - xã hội - con người, chính trị kinh tế vạch ra quy luật đi lên
của xã hội, chủ nghĩa hội khoa học chỉ ra con đường và phương pháp nghiên
cứu con người. Chủ nghĩa Mác là mt chỉ nghĩ vì con người, chủ nghĩa nhân đạo.
Học thuyết đó không chỉ chứng minh bản chất của con người ("tổng hoà của các
quan hệ hội") bản tính con người ("luôn vươn tới sự hoàn thiện") còn
vạch hướng đưă con người đi đúng bản chất bản tính của mình, giải phóng, xoá
bỏ sự tha hoá, tạo điều kiện phát huy mọi sức mạnh bản chất người, phát triển
toàn diện, hài hoà cho từng nhân. Sự phù hợp giữa tưởng Mác Xít với bản
chất bản tính người đã thu phục và làm say những con người hằng mong
vươn lên xây dựng xã hội mới, mở ra mi khả năng cho sự phát triển con người.
Chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin mới có thẻ vạch rõ được hướng đi đúng cho
con đường đi lên xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực tế cho thấy ng với tưởng
Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam đã làm nên thắng lợi cách
mạng giải phòng dân tộc (1945), thống nhất đất nước (1975) thực hiện ý chí độc
lập tự do con người việt Nam điều mà bao nhiêu học thuyết trước Mác không thể
áp dụng được, chính chủ nghĩa Mác - Lênin đã làm thay đổi, trở thành hệ
tưởng chính thống của toàn hội, thay đổi nhanh chóng đời sống tinh thần đại
đa số nhân dân Việt Nam. Thực tiễn hoạt động cách mạng hội chủ nghĩa vừa
nhanh chóng nâng cao trình độ nhận thức toàn diện. Bằng hệ thống giáo dục với
các hình thức đào tạo đa dạng, với các hình thức khoa học thấm nhuần tinh thần
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin đã hình thành kế tiếp nhau những lớp người lao
động mới ngày càng tư tưởng, trình độ chung, chuyên môn cao ngày nay chúng
ta đã một đội ngũ cán bộ văn hoá khoa học công nghệ với trình độ luận
quản lý tốt đồng đều trong cả nước.
lOMoARcPSD| 40419767
Có thể nói chỉ trong một thời gian ngắn hệ tư tưởng Macxít đã thể hiện xu
hướng của mình đối với nền văn hoá dân dã, xoá bỏ dần dần sự thống trị của các
loại tưởng tự phát, lạc hậu, thấp kém trong con người cũ, tín dị đoan, các
niềm tin mù quáng… Với sức mạnh có tính khoa học, học thuyết Mác - Lênin đã
vạch được những yếu tố phi khoa học, phi nhân đạo, các loại thế giới quan,
nhân sinh quan sai lệch trước đó đã làm mai một trí tuệ, tính tích cực trong
con người của các hệ tưởng truyền thống. Mặt khác, chủ nghĩa Mác - Lênin còn
thể hiện tính ưu việt trong con người đối với các luồng tưởng sản ngoại
nhập của Phương Tây, các trào lưu tưởng sản hiện tại đang làm lệch hướng
đi của những con người chân chính trong điều kiện đời sống vật chất khó khăn.
Lần đầu tiên trong lịch sdân tộc xiềng xích của chân cổ truyền, của nền sản
xuất tiểu nông với duy còn hạn chế, kinh nghiệm, phi khoa học trong con người
thiếu văn hoá do xã hội cũ để lại đã được tri thức khoa học Mác xít phá tan. Một
ý thức tiên tiến ra đời. Các tín ngưỡng dần dần cũng phải nhường chỗ cho niềm
tin khoa học. Các yếu tố duy duy vật biện chứng hình thành trong đời sống
thường ngày, trong lao động, cũng như trong mọi hoạt động của xã hội. Thế giới
quan khoa học ngày càng ăn sâu ở những con người luôn phấn đấu cho thắng lợi
của chủ nghĩa hội nhìn thế giới, xã hội, con người trong sự vận động và phát
triển trong tính hiện thực tiềm ẩn những khả năng, sự tồn tại khách quan điều
kiện sống và sự phát triển con người.
Thế giới quan đó hàm chứa nhân sinh quan tiến bộ, khắc phục dần những
quan niệm sai lầm, phiến diện về con người của các hệ tư tưởng khác.
Sự chuyển đổi hệ tưởng dẫn đến chuyển đổi hệ giá trị của xã hội giá
trị con người, con người từ chỗ phục tùng chuyển sang tự chủ, sáng tạo, tchỗ
dựa trên tập quán chuyển sang trí, dân chủ, từ chí tìm cách hoà đồng chuyển
sang tôn trọng cả cá tính bản lĩnh riêng. Các chuẩn mực mới của con người đòi
hỏi không chỉ phát triển từng mặt riêng lẻ phải nhân phát triển hài hoà
tính cách mạng của học thuyết Mác xít khắc phục dần lối sống thụ động, hẹp hòi,
lOMoARcPSD| 40419767
làm cơ sở cho lối sống tích cực, vì xã hội, phát triển ý thức luôn vươn lên làm chủ
và xây dựng cuộc sống mới xuất hiện những nhân cách mới.
Tuy nhiên sự phát triển con người ngày nay không chỉ là sản phẩm của hệ
tưởng Mác xít vì ngay khi chủ nghĩa c xít trở thành hệ tư tưởng chính thống
Việt Nam thì các tôn giáo, các hệ tư tưởng văn hoá bản địa đã sức sống
riêng của nó. Chủ nghĩa Mác - Lênin thâm nhập, như một hệ tưởng khoa
học vượt hẳn lên cái nền văn hoá bản địa, nhưng cũng chịu sự chi phối tác động
đan xen của các yếu tố sai - đúng, yếu - mạnh, mới - cũ, v.v.. Các yếu tố tích cực
đã thúc đẩy, còn các yếu tố tiêu cực thì kìm hãm sự phát triển con người.
Sự văn minh, phát triển hoá con người Việt Nam của chủ nghĩa Mác Lênin
vừa có lợi thế song cũng không tránh khỏi những sai lầm. Sai lầm là sự chống trả
của tưởng văn hoá bản địa đã thành truyền thống. Lợi thế văn hoá bản địa
chưa có một hệ tư tưởng khoa học định hình vững chắc, nó dường như đang thiếu
một thuyết khoa học. Nếu như không chủ nghĩa Mác - Lênin hội Việt
Nam phát triển hơn, đó là tư tưởng của những người thiếu hiểu biết vmột xã hội
tiến bộ, luôn coi cái trước mắt mình là những thứ vô giá trị mà chỉ chạy theo trào
lưu, điều đáng trách hơn là họ cần cho rằng văn hoá Việt Nam sẽ phong phú hơn,
đặc sắc hơn. Thực tế, từ khi xuất hiện chủ nghĩa Mác - Lênin hội Việt Nam
như được tiếp thêm sức mạnh, phát triển khoa học hơn, khía cạnh nào đó
trình độ dân trí, trình độ năng lực, văn hoá, khoa học, nghệ thuật… Con người
Việt Nam không thua kém con người của các nước văn minh khác.
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin con người chỉ những thể, sự thống nhất
giữa mặt sinh học mặt hội của nó. Cái chnghĩa Mác - Lênin đã làm
được đó luận con người trong xã hội chứ không chỉ mặt sinh học như trước
đây. Và chính vậy mà nó đã được áp dụng vào hội Việt Nam, trong cách mạng
xã hội chủ nghĩa con người là yếu tố quyết định vừa là điểm xuất phát vừa mục
tiêu của mọi chính sách kinh tế - hội. Xây dựng chủ nghĩa xã hội xây dựng
được một xã hội ở đó có đủ những điều kiện vật chất và tinh thần để thực hiện
trong thực tế nguyên tắc "Sự phát triển tự do của mỗi người điều kiện cho sự
lOMoARcPSD| 40419767
phát triển tự do của tất cả mọi người" một đất nước ta, một đất nước đang
còn nghèo nàn thì việc phát triển yếu tố con người một vấn đề Đảng ta đã
xác định đó vấn đề then chốt cho sự phát triển kinh tế đất nước lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin là kim chỉ nam cho mọi hoạt động.
Chúng ta cũng đã những đổi mới rệt, sự phát triển hàng hoá nhiều
thành phần theo chế thị trường, sự phân hoá giàu nghèo sự phân tầng hội,
việc mở rộng dân chủ đối thoại trong sinh hoạt chính trị của đất nước, việc mở
cửa và phát triển giao lưu quốc tế về các mặt kinh tế, văn hoá chính trị, trên thế
giớ. Sự biến đổi nhanh chóng của tình hình chính trị quốc tế, sự phát triển vũ bão
của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ… Điều đó đòi hỏi chúng ta phải biết
vận dụng chủ nghĩa Mác một cách khoa học, hợp lý và sáng tạo để đáp ứng được
những đòi hỏi của xã hội mới nếu muốn tồn tại và vươn lên một tầm cao mới.
Chương II: Vấn đề con người trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước
I. Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xu hướng phát triển của các nước trên thế
giới. Đó cũng là con đường phát triển tất yếu của nước ta để đi lên mục tiêu "Xã
hội công bằng văn minh, dân giàu nước mạnh" công nghiệp hoá, hiện đại hoá
không chỉ là công cuộc xây dựng kinh tế chính quá trình biến đổi cách mạng
sâu sắc với lĩnh vực đời sống hội (kinh tế, chính trị, khoa học của con người…)
làm cho xã hội phát triển lên một trạng thái mới vchất. Sự thành công của quá
tình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi ngoài mới trường chính trị ổn định,
phải nguồn lực cần thiết như nguồn lực con người, vốn tài nguyên thiên nhiên,
cơ sở vật chất kỹ thuật. Các nguồn lực này quan hệ chặt chẽ với nhau. Cùng tham
gia vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng mức độ tác động vào vai
trò của chúng đối với toàn bộ quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá không giống
nhau, tỏng đó nguồn nhân lực phải đủ về số lượng mạnh về chất lượng. Nói cách
khác nguồn nhân lực phải trở thành động lực phát triển. Nguồn nhân lực phát triển
thì tất yếu công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải tién hành để đáp ứng nhu cầu đó.
lOMoARcPSD| 40419767
Theo các nhà kinh điều của chủ nghĩa Mác - Lênin, con người vừa là điểm
khởi đầu vừa là sự kết thúc, đồng thời lại vừa trung tâm của sbiến đổi lịch
sử, nói cách khác con người là chủ thể chân chính của các quá trình hội. Trước
đây tỏng sách báo con người được xem xét trên phương diện "con người tập thể"
"con người giai cấp" con người xã hội.
ở đây tính tích cực của con người với tư cách là chủ thể được tập trung chú
ý khai thác bồi dưỡng chủ yếu những phẩm chất cần cù, trung thành, nhiệt
tình, quyết tâm với cách mạng. Một quan niệm một cách làm như vậy đã góp
phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và khôi phục kinh tế sau chiến
tranh. Tuy nhiên quan niệm cách làm này cũng bộc lộ những hạn chế nhất định
trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện.
Trong xã hội con người không chỉ tạo ra các hệ thống và các quá trình khác
nhau của hội (giai cấp, đảng phía, nhà nước, sản xuất, văn hoá), họ còn làm
người, chính họ đã in đậm dấu ấn của tiến trình lịch sử. Lịch sử (suy đến cùng)
cũng chính lịch sử phát triển cá nhân của con người, dù họ nhận thức được
điều đó hay không. Từ đây cho phép tách ra một bình diện đặc biệt trong việc xem
xét "con người chủ thể" bình diện " con người nhân" nghĩa nâng nhận
thứac lên một trình độ mới - quan niệm "cái nhân" sthể hiện (hiện thân)
một cách cụ thể sinh động của "cái hội" khi con người trở thành chủ thể của
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường con người không chỉ nhận được sự
tích cực, mà còn cả những tác động tiêu cực của trước con người không chỉ có
những thời những triển vọng tươi sáng còn chứa đựng những thách thức,
nguy cơ, thậm chí cả những tai hoạ khủng khiếp. (Thất nghiệp, ô nhiễm môi
trường, bệnh tật những tệ nạn hội). vậy trong mỗi con người luôn
những "giằng xé" bởi những cực "chủ tớ" giầu nghèo, thiện ác, trong điều keịen
này cần xem xét con người chủ thể với những phẩm chất nghề nghiệp chuyên môn
cụ thể trong những hoàn cảnh cụ thể của họ.
lOMoARcPSD| 40419767
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình biến đổi căn bản và sâu sắc toàn
bộ đời sống xã hội, nó đòi hỏi vật chất cao với người "chủ thể", ở đây chỉ cần sự
cần cù, trung thành, nhiệt tình quyết tâm cách mạng chưa đủđiều quan trọng
hơn trí tuệ khoa học, ý chí chiến thắng cái nghèo nàn lạc hậu, tính năng động
luôn thích ứng với hoàn cảnh, ý thức kỷ luật, bản lĩnh lãnh đạo, nghệ thuật quản
lý, kỹ thuật kinh doanh…
Như vậy trong điều kiện mới cần xem xét đánh giá bồi dưỡng "con người
chủ thể" không chỉ trên bình diện "con người - hội" còn trên cả bình diện
"con người cá nhân".
Hơn nữa "con người - chuyên môn nghề nghiệp" nhất định (như nhà lãnh
đạo, quản lý, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp công nhân…). Bởi vì ấn dấu đằng
sau những chủ thcụ thể này lợi ích tương ứng với chúng. Chỉ quan niệm
cách làm như vậy chúng ta mới biết tác động vào đâu và tác động như thế nào đ
nâng cao tích cực của chủ thể hành động.
Nói đến nguồn nhân lực tức là nói đến chủ thể tham gia vào quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên nó không phải là chủ thể biệ lập riêng rẽ, mà
chủ thể được tổ chức thành lực lượng thống nhất về tưởng hành động. Nói
cách khác công nghiệp hoá, hiện đại hoá tổng hợp những chủ thể với những
phẩm chất nhất định tham gia vào quá trình ng nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhưng
cần phải hiểu rằng tổng hợp những chủ thể này không phải là tập hợp giản đơn số
lượng người mà sức mạnh tổng hợp của chỉnh thể người trong hành động.
Sức mạnh này bắt nguồn trước hết là những phẩm chất vốn có bên trong của mỗi
chủ thể được nhân lên gấp đôi trong hoạt động thực tiễn. Động lực công
nghiệp hoá, hiện đại hnhững thúc đẩy quá trình vận động và phát triển.
vậy khi nói "nguồn lực với tính cách là động lực của quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá" chủ yếu nói đến những phẩm chất tích cực của tổng hợp những
chủ thể được bộc lộ trong quá trinfh công nghiệp hoá, hiện đại hoá thúc đẩy
quá trình này vận động phát triển và thể hiện mặt tích cực, đồng thời hạn chế mặt
tiêu cực tối đa của mình.
lOMoARcPSD| 40419767
Mặt khác để xem xét vai trò nguồn lực của con người, cần đặt trong quan
hệ so sánh với các nguồn lực khác và ở mức độ chi phối của nó đến sự thành bại
của công cuộc đổi mới đất nước. Khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công
nghiệp hiện đại phát triển mạnh mẽ, lao động trí tuệ ngày càng gia tăng trở
thành xu thế phổ biến của nhân loại. Khi công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại
hoá mà thực chất là hiện đại hoá lực lượng sản xuất với cách tiếp cận như vậy vai
trò quyết định nguồn lực của con người được biểu hiện ở những điểm như sau:
Trước hết các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa
lý… tựchỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng chúng chỉ tác dụng vàý thức ca
con người. Bởi lẽ con người ngùn lực duy nhất biết duy, có trí tuệ ý chí
biết lợi dụng, các nguồn lực khác gắn kết chúng lại với nhau tạo thành sức mạnh
tổng hợp cũng tác động vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. các nguồn
lực khác là những khách thể, chịu sự cải tạo, khai thác của con người và nói đúng
thì chúng đều phục vụ nhu cầu, lợi ích của con người nên con người biết cách tác
động và chi phối. thế trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, người lao
động là yếu tố quan trọng nhất.
Thứ hai: Các nguồn lực khác hạn, thể bị cạn kiệt khi khai thác.
Trong khi đó nguồn lực con người cốt lõi ttuệ lại nguồn lực tận.
Tính tận, trí tuệ con người biểu hiện chỗ khả năng không chỉ tái sinh
còn tự sản sinh về mặt sinh học còn đổi mới không ngừng phát triển về
chất trong con người xã hội, nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và khai thác hợp lý. Đó
sở làm cho năng lực nhận thức hoạt động thực tiễn của con người phát
triển như mt quá trình vô tận. Xét trên bình diện cộng đồng nhân loại.
Nhờ vậy con người đã từng bước làm chủ tự nhiên, khám phá ra những tài
nguyên mới sáng tạo ra những tài nguyên vốn không sẵn trong tnhiên. Với
bản chất hoạt động có mục đích sáng tạo ra những hệ thống công cụ sản xuất mới
đã tác động vào tự nhiên một cách dễ dàng hơn. Chính sự phát triển không ngừng
của công cụ sản xuất từ thủ công đến cơ khí và ngày nay là tự động hoá được
lOMoARcPSD| 40419767
hội loài người chuyển qua các nền văn minh từ thấp đến cao, từ đó nói lên trình
độ vô tận của con người.
Thứ ba: Trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó được vật
thể hoá, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Dự báo này của Mác đã đang
trở thành hiện thực. Sự phát triển bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật
công nghệ hiện đại đang dẫn các nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển
vận động đến nền kinh tế trí tuệ (mà gọi là tri thức). ở những nước này lực lượng
sản xuất trí tuệ ngày càng phát triển và chiếm tỷ trọng cao. Nguồn lợi mà họ thu
được từ lao động chất xám chiếm tới 1/2 tổng giá trị tài sản quốc gia. Giờ đây sức
mạnh của trí tuệ đạt đến mức nhờ cuộc cách mạng con người có thể tạo ra
những máy móc "bắt chước" hay phỏng theo những đặc tính trí tuệ của chính con
người. Rõ ràng bằng những kỹ thuật công nghệ hiện đại do chính bàn tay khối óc
con người mà ngày nay nhân loại đang chứng kiến sự biến đổi thần kỳ của mình.
Thứ tư: Kinh nghiệm của nhiều nước thực tiễn của chính nước ta cho thấy
sự thành công của công nghiệp hoá hiện đại hoá phụ thuộc chủ yếu vào hoạch
định đường lối chính sách cũng như tổ chức thực hiện nghĩa phụ thuộc vào năng
lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Việc thực hiện hoàn thành tốt công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá có
ý nghĩa đặc biệt to lớn và có tác dụng hoàn thiện nhiều mặt.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá làm thay đổi căn bản kỹ thuật, công nghệ, sản
xuất, tăng năng suất lao động công nghiệp hoá hiện đại hoá chính là thực hiện xã
hội hnhiều mặt, góp phần ổn định, ngày càng nâng cao đời sống vật chất
văn hoá của mọi thành viên trong cộng đồng xã hội.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phát triển mối quan hệ kinh tế giữa các ngành,
các vùng trong phạm vi mỗi nước và các nước với nhau, nâng cao trình độ quản
lý kinh tế của nhà nước nâng cao khả năng tích luỹ mở rộng sản xuất.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá không ngừng nâng cao vai trò của nhân tố con
người trong nền sản xuất đặc biệt trong nền sản xuất lớn hiện đại, kỹ thuật cao.
lOMoARcPSD| 40419767
Chỉ trên sở thực hiện tốt công nghiệp hoá, hiện đại hoá mới có khả năng thực
hiện và quan tâm đầy đủ đến sự phát triển tự do và toàn diện nhân tố con người.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố
tăng cường tiềm lực quốc phòng khả năng đảm bảo an ninh quốc phòng, các
yếu tố vật chất, kỹ thuật đáp ứng yêu cầu đó, công nghiệp hoá, hiện đại htác
dụng trực tiếp và chủ yếu trong việc tạo ra tiềm lực to lớn cho quốc phòng.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn tạo nhiều khả năng cho việc thực hiện tốt
sự phân công hợp tác quốc tế về kinh tế, khoa học, công nghệ văn hoá hội
v.v..
II. Mục tiêu con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước
ta hiện nay.
Mục tiêu "Xây dựng nước ta thành thành một nước công nghiệp có cơ sở vật
chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý quan hsản xuất tiến bộ, phù hợp với
trình độ của lực lượng sản xuất đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an
ninh giữ vững, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh". Đó trước hết là
cuộc cách mạng con người con người do con người. Bởi khi chúng ta nói về
những ưu việt của chủ nghĩa hội thì những ưu việt đó không do ai đưa đến. Đó
phải kết quả những nỗ lực vượt bậc bền bỉ của toàn dân ta với những con
người phát triển cả về trí lực về cả khả năng lao động tính tích cực chính trị -
xã hội và đạo đức tình cảm trong sáng.
Nhìn lại toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng từ ngày thành lập (3-21930)
đến nay. Đảng ta đã nhiều lần khẳng định "con người vốn quý nhất chăm lo cho
hạnh phúc của con người mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta". Trên thực tế
trong suốt những năm tháng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác Đảng ta đã cố gắng làm nhiều việc theo hướng đó. Dân sự chăm lo
cho hạnh phúc con người chưa nhiều thành công như mong muốn, việc nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho những người lao động còn thấp, song phần
nào đã đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, của những người lao động chăm lo
cho hạnh phúc của nhân dân". Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm, việc gì
lOMoARcPSD| 40419767
hại cho dân ta phải hết sức tránh" đã được Đảng ta đặt lên vị trí hàng đầu
coi đó là nhiệm vụ Trung tâm. Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh - "Vì lợi ích
mười năm trồng cây, lợi ích trăm m trồng người" "muốn xây dựng chủ
nghĩa hội trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa" - đã trở thành
tưởng quán xuyến toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng ta với tư cách là Đảng
cầm quyền ngay từ đầu mọi chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng đều quán
triệt việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người.
Trong "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội" Đảng ta đã chỉ rõ: "Phương hướng lớn của chính sách hội là: Phát huy
nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng vnghĩa vụ quyền
lợi công dân kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật
chất đời sống tinh thần, giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi
ích lâu dài giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội". Định hướng có ý nghĩa
chiến lược đó chính thể hiện tưởng con người, của mục tiêu phát triển con
người Việt Nam, toàn diện trong công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Việc đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước đòi hỏi
chúng ta phải nhận thức một cách sâu sắc đầy đủ những giá tlớn lao ý nghĩa
quyết định của nhân tố con người chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật
chất và văn hoá tinh thần. Phải có sự thay đổi sâu sắc cách nhìn, cách nghĩ, cách
hành động của con người và coi việc bồi dưỡng phát huy nhân tố con người Việt
Nam hiện đại nmột cuộc cách mạng. Hơn nữa, với tinh tất yếu khách quan của
sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước và cách mạng con người phải được nhận thức là hai mặt
thống nhất, không thể tách rời của sự nghiệp xây dựng đó.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng hội chnghĩa
không thể không xuất phát từ tinh thần nhân văn sâu sắc, không thể không phát
triển con người Việt Nam toàn diện để lấy đó làm động lực xây dựng hội ta
thành một hội "công bằng, nhân ái", "tốt đẹp toàn diện" để bồi dưỡng
lOMoARcPSD| 40419767
phát huy nhân tố con người, đặc biệt đối với thế hệ trẻ, nhất thiết phải từng bước
hiện đại hoá đất nước và đời sống xã hội và chúng ta "tăng trưởng nguồn lực con
người khi quá hiện đại hoá các ngành giáo dục, văn hoá, văn nghệ, bảo vệ sức
khoẻ, dân số kế hoạch hoá gia đình gắn liền với việc kế thừa phát huy những
giá trị truyền thống bản sắc dân tộc" chỉ trên sở đó khi phát triển nền kinh
tế hàng hoá theo chế thị trường chúng ta mới thể tránh được nguy tha
hoá, không xa rời những giá trị truyền thống, không đánh mất bản sắc dân tộc,
đánh mất bản thân mình trở thành cái bóng của người khác.
Nền công nghiệp hoá, hiện đại hoá mục tiêu phát triển con người toàn
diện thì con người đây không chỉ hiểu với cách là người lao động sản xuất
mà còn với cách là công dân của xã hội, một cá nhân trong tập thể, một thành
viên trong cộng đồng dân tộc, một con người trí tuệ trước vận mệnh quốc gia. Đó
không chỉ là đội ngũ những người lao động có năng suất cao những nhà khoa học
giỏi, các chuyên gia kỹ thuật, các nhà doanh nghiệp biết làm ăn, những nhà quản
lý, lãnh đạo tài, đó còn hàng triệu những công dân yêu nước, ý thức được
cuộc sống đói nghèo và nguy cơ tụt hậu để cùng nhau gắn bó vì sự nghiệp chung.
Qua sự phân tích trên thể khẳng định rằng bước sang thời kỳ phát triển
mới - đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước theo định hướng hội
chủ nghĩa, chúng ta phải lấy việc phát huy nguồn lực con người Việt Nam hiện
đại làm yếu tố bản cho việc phát triển nhanh, bền vững phải gắn tăng trưởng
kinh tế với cải thiện đời sống nhân dân phát triển văn hoá, giáo dục, thực hiện tiến
bộ công bằng hội. Nếu công nghiệp hoá, hiện đại hoá sự nghiệp phát
triển con người, thì con người phải được coi là giá trị tối cao.
III. Nguồn lực con người là yếu tố quyết định cho sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là thành công hay thất bại nó chỉ được trả lời
khi yếu tố con người được đáp ứng. Việc định hướng đi vào sự phát triển con
người đòi hỏi phải nghiên cứu nhiều. Nghiên cứu con người để phát triển con
người, phát triển con người để đáp ứng các sự phát triển khác. Sự phát triển người
lOMoARcPSD| 40419767
quyết định sự phát triển của mọi mặt. Sự thách thức đối với sự phát triển con người
đó là quá trình công nghiệp hoá, do đó con người cần phải được chăm lo đào tạo
về trí lực và thể lực.
Yếu tố hàng đầu của nguồn lực con người trước hết phải là trí tuệ, bởi "tất cả
những gì thúc đẩy con người hành động đều tất nhiên phải thông qua đầu óc của
nó", túc nói cách khác đi ttuệ làm chủ con người trình độ trí tuphản ánh qua
trình độ học vấn tài năng sáng tạo. biểu hiện khả năng áp dụng những
thành tựu khoa học để sáng chế ra những kỹ thuật tiên tiến, ở sự nhạy bén, thích
ứng nhanh và làm chủ được kỹ thuật, công nghệ hiện đại, kỹ năng lao động
nghề nghiệp, năng lực hoạch định chính sách lựa chọn giải pháp tổ chức
thực hiện.
Sau trí tuệ yếu tố sức khoẻ - yêu cầu không thể thiếu được đối với người
lao động. Sức khoẻ điều kiện tiên quyết đduy trì phát triển trí tuệ, phương
tiện tất yếu đẻ chuyển tải tri thức vào hoạt động thực tiễn để biến tri thức thành
sức mạnh vật chất.
Sản xuất công nghiệp đòi hỏi ở người lao động hàng loạt các phẩm chất như
có tính kỷ luật tự giác, tiết kiệm nguyên vật liệu và thời gian, tích cực bảo dưỡng
thiết bị máy móc, tinh thần hiệp tác tác phong lao động công nghiệp
lương tâm nghề nghiệp có trách nhiệm cao đôí với sản phẩm.
Mặt khác quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, còn đụng chạm đến vấn
đề phức tạp trong quan hệ giữa con người với thiên nhiên. Đây là vấn đề cấp bách
sống còn không chỉ với mỗi quốc gia mà còn đối với nền văn minh nhân loại. Vì
vậy sự hiểu biết và trách nhiệm cao trước vấn đề môi sinh cũng là một năng lực
phẩm chất quan trọng của người lao động trong quá trình tiến hành ng nghiệp
hoá, hiện đại hoá.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá khó thể đạt được kết quả tốt nếu
không có những công dân yêu nước ham học hỏi, cần cù lao động và sáng tạo có
tinh thần hợp tác, ý chí tự chủ vươn lên và lòng tự trọng dân tộc cao không cam
chịu nghèo nàn, lạc hậu, hiểu biết tôn trọng pháp luật, đạo lý, biết kết hợp
lOMoARcPSD| 40419767
hài hoà yếu tố truyền thống hiện đại… Điều chúng ta cần phải học tập nhiều
nước đã đi trước ta một bước, ở các nước đó việc coi trọng giáo dục là quốc sách
hàng đầu bởi sự yếu kém về trí tuệ, coi thường tài năng và đầu óc hẹp hòi, đố
kỵ, thờ ơ trước tương lai của cộng đồng dân tộc sẽ lực cản nguy hại đến tiến
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. vậy "Sự phát triển người giáo dục được
coi yếu tố quan trọng to lớn đối với tiến bộ kinh tế" (Tư tưởng của Adam Smith).
IV. Hiện trạng và giải pháp cho nguồn lực con người ở nước ta hiện nay.
Để thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
chúng ta phải sử dụng đúng nguồn lực trong đó nguồn lực con người là nguồn lực
quan trọng nhất. Muốn sử dụng tốt nguồn lực này chúng ta phải hiểu thực trạng
tiềm năng của nó. Khi đó chúng ta mới thể khắc phúc phát triển nguồn
nhân lực được.
Nhìn thực trạng nguồn lực nước ta hiện nay không thể không có những băn
khoăn. Bên cạnh những ưu thế như, lực lượng lao động dồi dào (hơn 65 triệu lao
động). Con người Việt Nam cần cù chịu khó, thông minh và sáng tạo khả năng
vận dụng và thích ứng nhanh, thì những hạn chế về mặt chất lượng người lao
động, sự bất hợp về phân công lao động được đào tạo trong các lĩnh vực sản
xuất những khó khăn trong phân bổ dân cũng không phải là nhỏ. Đại bộ
phận lao động nước ta chưa được đào tạo đầy đủ, số người đào tạo mới chỉ chiếm
10%, nền kinh tế quốc dân còn thiếu nhiều lao động cán bộ tay nghề trình
độ kỹ thuật, nghiệp vụ cao trong tổng số người lao động chỉ hơn 1,65% trình
độ cao đẳng trở lên 30% (số liệu mới) tốt nghiệp phổ thông trung học, 50% chưa
tốt nghiệp phổ thông sở. Mặt khác mặt bằng dân trí còn thấp, số năm đi học
của mỗi người dân từ 7 tuổi trở lên mới đạt bình quân 4,5 năm. Điều đáng kể lo
ngại đau đầu nhất của nhà nước ta đó nạn chữ, tới nay nước ta 8% dân
số mù chữ, chưa phổ cập được giáo dục tiểu học. Mặt khác người lao động Việt
Nam n hạn chế về thể lực, sự phát triển về phương diện sinh thế lực dường
như còn chững lại, hơn nữa người lao động nước ta nói chung văn hoá còn kém,
lao động công nghiệp quen theo kiểu sản xuất nhỏ và lao động giản đơn.
lOMoARcPSD| 40419767
Cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường thực trạng đội ngũ cán bộ
tri thức Việt Nam đặc biệt là tri thức cao đang đặt ra một vấn đề được giải quyết,
sự già hoá của đội ngũ tthức, trong các ngành khoa học trọng yếu tuổi bình quân
của tiến sỹ 52,8, phó tiến sỹ 48,1, giáo 59,5, phó giáo 56,4. Cấp viện
trưởng 55 (số liệu này cho tới nay đã thay đổi). Như vậy đến năm 2001 hơn
80% số người học hàm, học vị hiện nay đã đến tuổi về hưu. Điều đó gây nên
sự hẫng hụt cán bộ khoa học kế cận.
Trong khi số người học vấn cao giảm thì số sinh viên tốt nghiệp đại học
cao đẳng không tìm được việc làm lại tăng lên phải chăng chúng ta đã quá thừa
những người học vấn chắc chắn không. Sự thừa đó chính tác động của mặt
trái của kinh tế thị trường. Rõ ràng sự chậm cải tạo giáo dục và nội dung đào tạo
không theo kịp những đòi hỏi của người sử dụng đã dẫn đến sự lãng phí trong đầu
tư cho giáo dục, lực lượng lao động ở nước ta hiện nay rất hạn chế về chất lượng
nhất trình độ chuyên môn, nghề nghiệp, kỹ năng lao động, thể lực văn hoá
lao động công nghiệp. Thêm vào đó việc sử dụng khai thác số lao động, đã
được đào tạo, có trình độ lại không hợp lý và kém hiệu quả. Nếu chúng ta không
có một nỗ lực phi thường bằng hành động thực tế trong việc xây dựng và sử dụng
nguồn lực lao động thì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hkhó thể thực
hiện được thành công; và đó cũng là lý do vì sao nhiều nhà khoa học kêu gọi phải
tiến hành một cuộc cách mạng về con người thực chất cách mạng về chất
lượng lao động mỗi bước tiến của "cách mạng con người" sẽ đem lại những thành
tựu to lớn cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, như chúng ta đã biết "cách
mạng con người" với công nghiệp hoá, hiện đại hoá là hai mặt của một quá trình
phát triển thống nhất, giữa chúng có một quan hệ biện chứng lần nhau.
Để tạo ra sthay đổi căn bản về chất lượng trong nguồn lực con người cần
hàng loạt những giải pháp thích ứng nhằm phát triển tốt yếu tố của con người
trong sự nghiệp đi lên của đất nước.
Chăm sóc đào tạo phát huy nguồn lực con người phục vụ cho công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
lOMoARcPSD| 40419767
Vấn đề con người trong công cuộc đổi mới vì công nghiệp hoá, hiện đại hoá
tập trung thành vấn đề quan trọng bậc nhất trong "kết cấu hạ tầng xã hội, kinh tế"
tức một trong những tiền đề bản để phát triển hội, đi vào công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
Đại hội VIII của Đảng ta đại hội công nghiệp hoá, hiện đại hoá mở ra bước
ngoặt lịch sử đưa nước ta tiến lên một thời kỳ phát triển toàn diện mỗi "Lấy việc
phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững". vậy cần được tập trung chăm sóc bồi dưỡng, đào tạo phát huy sức
mạnh của con người Việt Nam thành lực lượng lao động hội, lực lượng sản
xuất có đủ bản lĩnh và kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước,
đủ sức xây dựng và bảo vệ tổ quốc hợp tác cạnh tranh trong kinh tế thị trường m
cửa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sức mạnh của con người
các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam. Phải thể hiện thành sức mạnh của
đội ngũ nhân lực, trong đó có bộ phận nhân tài trên nền dân trí với cốt lõi là nhân
cách nhân phẩm đậm đà bản sắc dân tộc của từng người, từng nhà cộng đồng, giai
cấp và cả dân tộc.
Nói đến nguồn lực con người nói đến sức mạnh trí tuệ tay nghề. Phương
hướng chủ yếu của đổi mới giáo dục - đào tạo là phục vụ đắc lực cho công cuộc
phát triển đất nước, tức cuối cùng phải tạo ra được nguồn lực con người. Các
trường chuyên nghiệp đại học tập trung vào đào tạo nguồn nhân lực đủ khả
năng tiếp cận công nghệ tiên tiến, công nghệ coi như báo cáo chính trị đại hội VIII
đã chỉ ra. Phải mau chóng làm cho khoa học và công nghệ trở thành nền tảng của
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Giáo dục đại học phải kết hợp với nghiên cứu khoa
học, phát triển khoa học cả về cơ bản và ứng dụng. Bảo đảm tập trung đào tạo đội
ngũ nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá với diện đại trà, đồng thời đặc
biệt chú ý tới mũi nhọn - có chính sách phát hiện bồi dưỡng và sử dụng người tài
mau chóng tăng cường đội ngũ nhân lực có trình độ và năng lực cao, từ các nghệ
nhân làm các nghề truyền thống đến các chuyên gia công nghệ cao. Giáo dục và
đào tạo kết hợp chặt chẽ với khoa học kthuật công nghệ mới thể đóng góp
lOMoARcPSD| 40419767
xứng đangs vào phát huy nguồn lực con người, tuy nhiên một yếu tố mà ngày nay
con người cần phải hoàn thiện đó là. Cần coi trọng mặt đạo đức nhân cách của
nguồn lực con người.
Muốn nguồn lực con người đáp ứng được công cuộc đổi mới giáo dục nhà
trường cùng với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội phải làm tốt việc phát động
một cao trào học tập trong toàn Đảng toàn dân, toàn quân nhằm đào tạo nên những
con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú vtinh
thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa hội. Vậy mọi chủ trương chính sách
của Đảng và Nhà nước cần phải quán triệt việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát triển
nhân tố con người.
lOMoARcPSD| 40419767
ý kiến bản thân.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường tất yếu duy nhất để đưa nước ta
từ một nước kém phát triển đạt được những thành tựu to lớn cả những mặt kinh tế
cũng như hội nhưng để thành công quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá,
chúng ta phải biết tận dụng các nguồn lực sẵn trong nước cũng như nước ngoài.
Một trong những nguồn lực đó là nguồn nhân lực, con người không những chỉ có
vai trò về sự vận đồng và phát triển của xã hội mà trong điều kiện nay, con người
nguồn lực cho quá trình đổi mới đất nước. Sự phát triển vượt bậc về mặt trí tuệ.
Đồng thời trí tuệ còn giúp con người khám phá ra khoa học kỹ thuật giúp con
người phát triển lực lượng sản xuất từ giản đơn đến phức tạp để tđó biến con
người từ lạc hậu sang văn minh như ngày nay. Còn đối với công nghiệp hoá, hiện
đại hoá con người là nguồn lực chủ thể quan trọng trong suốt quá trình tiến hành.
Bởi tiềm năng con người với trí tuệ lao động định hướng, trí tuệ đó đã đang
là sản phẩm quý giá nhất của nguồn lực, quyết định sự tiến bộ của mỗi quốc gia.
Làm thế nào để nhanh chóng tạo ra sự thay đổi căn bản về chất lượng trong
nguồn lực con người? Để giải quyết vấn đề này cần phải hàng loạt các giải
pháp thích ứng nhằm phát huy tốt yếu tố con người. Với bản thân sinh viên
đang ngồi trên ghế nhà trường bản thân tôi cũng có hai ý kiến cơ bản mà đã được
các nhà kinh tế; các nhà lý luận đúc kết từ trước tới, nhằm nâng cao trình độ nhận
thức phát huy tối đa nguồn lực con người thì cần phải đề cập hia vấn đề khi
tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thứ nhất: Quan tâm đúng mức tới nhu cầu lợi ích của người lao động
trong sản xuất cũng như trong hoạt động hội, con người luôn luôn bị kích thích,
bị thôi thúc bởi hàng loạt các động lực nước ta hiện nay, nền kinh tế tuy đã thoát
khỏi khủng hoảng bước vào thời kỳ phát triển mi, nhưng đời sống vật chất
của người lao động còn khó khăn, do đó cần sự quan tâm đúng mức tới nhu
cầu lợi ích của người lao động mà trước hết là lợi ích kinh tế. Trước đây chúng
ta đã lúc chúng ta nặng về kêu gọi nhân dân thắt lưng buộc bụng” đxây
lOMoARcPSD| 40419767
dựng chủ nghĩa hội ít chú ý đến lợi ích kinh tế ca họ cho nên chừng mực
nhất định, chúng ta chẳng những đã không kích thích người lao động, hăng say
sản xuất, n có khi ngược lại, làm cho họ quay lưng lại với sản xuất chúng ta
đã quên rằng nhu cầu thiết thực trước mắt bảo đảm sự tồn tại của người lao động
chính những động lực to lớn thúc đẩy lợi ích, kinh tế cho người lao động làm
một khâu rất quan trọng tạo ra động lực phát huy tính năng động.
Thứ hai: Xây dựng môi trường xã hội, tạo điều kiện để phát huy yếu tố con
người. Con người chủ thể, đồng thời con người cũng sản phẩm của sự vận
động xã hội, của chế độ xã hội. Vì vậy muốn phát huy được yếu tố con người cần
phải có môi trường thích ứng. Việc giải phóng lực lượng sản xuất được thực hiện
trước tiên chủ yếu nhất khâu xoá bỏ những chế đã đang kìm m
tính tích cực chủ động sáng tạo của người lao động, do đó xây dựng môi trường
tiềm đề cho xây dựng con người mới tỏng công nghiệp hhiện đại hoá đất
nước.
kết luận
Chủ nghĩa xã hội do con người, vì con người. Do vậy hình thành mối quan
hệ đúng đắn về con người về vai trò của con người trong sự phát triển xã hội nói
chung trong xã hội, hội chủ nghĩa nói riêng một ván đề không thể thiếu được
của thế giới quan Mác - Lênin.
Con người là khái niệm chỉ những cá thể người như một chỉnh thể, trong sự
thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội của nó.
Nếu chỉ dừng lại một số trước tính sinh học của con người thì không thể
giải thích được bản chất của con người, con người là một thực thể đặc biệt hoạt
động ý thức, khả năng sáng tạo cho mình. Từ tự nhiên chính trong quá
trình hoạt động đó những quan hệ hội được hình thành tác động mạnh mẽ
tới sự hình thành nhân cách, bản chất con người Mác viết “Con người là tổng hoà
của những quan hệ xã hội”.
Con người là chủ thể lịch sử, sáng tạo và lịch sử. Trong CMXHCN con người
yếu tố quyết định vừa điểm xuất phát vừa là mục đích của một chính sách
lOMoARcPSD| 40419767
kinh tế - hội xây dựng xã hội chủ nghĩa xây dựng hội chủ nghĩa xây
dựng một xã hội mà ở đó có đủ những điều kiện vật chất và tinh thần.
Việt Nam đã làm được điều đó hay chưa; cho tới nay tuy chúng ta đã đạt
được những thành tựu đáng kể nhưng đời sống vật chất tinh thần của đại đa số,
người dân còn thiếu. Do vậy luận chủ nghĩa Mác Lênin nói chung quan điểm
chủ nghĩa Mác Lênin về con người là kim chỉ nam để hướng đất nước ta cần pahỉ
đi đâu, làm làm như thế nào, để thực hiện thành công công cuộc công nghiệp
hoá hiện đại hóa đất nước, như vậy chúng ta mới vượt qua được cái ngưỡng
của nghèo nàn và lạc hậu...
Tài liệu tham khảo
1. Giáo tình triết học Mác Lên của NXB chính trị quốc gia (tập I, tập
II).
2. Giáo trình kinh tế chính trị học của NXB giáo dục 1996,
3. Tài liệu học tập lý luận chính trị phổ thông (NXB chính trị quốc gia
(tập1).
4. Tap chí cộng sản.
5. Vấn đề con người trong sự ngihệp CNH, HĐH.
Phạm Minh Hạc.
NXB chính trị quốc gia 1996.
6. Con người Việt Nam công cuộc đổi mới kỷ yếu hội nghị khoa học
từ28 - 29 /7/1993. Tại TPHCM.
7.Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam - lý luận và thực tiễn.
Nguyễn Trọng Chuẩn.
NXB chính trị quốc gia.
8. Chiến lược huy động vốn nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH,
HĐHđất nước.
Trần Kiên
9. Định hướng phát triển đội ngũ tthức Việt Nam trong quá trình
CNH,
lOMoARcPSD| 40419767
HĐH.
Phạm Tất Dong.
Mục lục
Lời mở đầu .................................................................................................... 1
Nội dungChương II. Lý luận của chủ nghĩa Mác về con người ................... 2
I. Bản chất của con người ............................................................................ 2
a. Quan điểm của các nhà triết học trước Mác về con người ....................... 2
b. Con người là chủ thể sinh động nhất của xã hội ....................................... 5
II. Quan điểm chủ nghĩa Mác về con người ................................................. 6
III. Vai trò của chủ nghĩa Mác về con người trong đời sống xã hội ........... 10
Chương II. Vấn đề con người trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước ............................................................................................................. 15
I. Tính tấ yếu khách quan của công nghiệp hoá hiện đại hoá ..................... 15
II. Mục tiêu con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước
ta hiện nay ................................................................................................... 20
III. Nguồn lực con người yếu tố quyết định cho snghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nướ ............................................................................ 22
IV. Hiện trạng và giải pháp cho nguồn lực con người ở nước ta hiện na ... 24
ý kiến bản thân ............................................................................................ 28
Kết luận ....................................................................................................... 29
Tài liệu tham khảo ....................................................................................... 30
| 1/31

Preview text:

lOMoAR cPSD| 40419767
Tiểu luận triết học Lý luận của chủ nghĩa Mác về
con người và vấn đề con người trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại Lời mở đầu
Phát triển con người là mục tiêu cao cả nhất cả nhất của toàn nhân loại. Làn
sóng văn minh thứ ba đang được loài người tới một kỉ nguyên mới, mở ra bao khả
năng để họ tìm ra những con đường tối ưu đi tới tương lai. Trong bối cảnh đó sự
tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa càng làm cho các tư tưởng tự do tìm kiếm
con đường khả quan nhất cho sự nghiệp phát triển con người Việt Nam càng dễ
đi đến phủ nhận vai trò và khả năng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Trong thực tế, không ít người rẽ ngang đi tìm khả năng phát triển đó trong
chủ nghĩa tư bản. Nhiều người trở về phục sinh và tìm sự hoàn thiện con người
trong các tôn giáo và hệ tư tưởng truyền thống, con người lại “sáng tạo” ra những
tư tưởng, tôn giáo mới cho “phù hợp” hơn với con người Việt Nam hiện nay. Song
nhìn nhận lại một cách thật sự khách quan và khoa học sự tồn tại của chủ nghĩa
Mác - Lênin trong xã hội ta, có lẽ không ai phủ nhận được vai trò ưu trội và triển
vọng của nó trong sự phát triển con người.
Trên cơ sở vận dụng khoa học và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về con
người tại hội nghị lần thứ tư của ban chấp hành trung ương khoá VII, Đảng ta đã
đề ra và thông qua nghị quyết về việc phát triển con người Việt Nam toàn diện
với tư cách quyết về việc phát triển con người Việt Nam toàn diện với tư cách là
“động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới đồng thời là mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội. Đó là “con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất,
phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức”.
Phát triển con người Việt Nam toàn diện - đó cũng chính là động lực, là
mục tiêu nhân đạo của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà chúng ta đang
từng béc tiến hành. Bởi lẽ, người lao động nước ta ngày càng đóng vai trò quan lOMoAR cPSD| 40419767
trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và trong sự phát triển nền kinh tế đất
nước theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, thì chất lượng người lao động là nhân tố quyết định. Nghị quyết đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “Nâng cao dân trí,
bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết
định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Thực tiễn đã chứng
tỏ rằng không có người lao động chất lượng cao. Chúng ta không thể phát triển
kinh tế, đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Nhưng cũng chính vì nghèo
nàn, lạc hậu về kinh tế mà chất lượng của người lao động nước ta chưa cao. Để
thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn này và tạo đà cho bước phát triển tiếp theo của sự
nghiệp công nghiệp nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thì một nước đang còn ở
tình trạng kém phát triển như nước ta không thể không xây dựng một chính sách
phát triển lâu bền, có tầm nhìn xa trông rộng, phát triển con người, nâng cao dần
chất lượng của người lao động.
Do nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề con người, đặc biệt là vấn
đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ta hiện nay,
nên em đã chọn đề tài tiểu luận: “Lý luận của chủ nghĩa Mác về con người và
vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”.
Để hoàn thành bài tiểu luận này em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của Thầy Nội dung
chương i. lý luận của chủ nghĩa mác về con người.
I.Bản chất của con người.
a. Quan điểm của các nhà triết học trước Mác về con người:
Có thể nói vấn đề con người là một trong những vấn đề quan trọng nhất của
thế giới từ trước tới nay. Đó là vấn đề mà luôn được các nhà khoa học, các nhà
nghiên cứu phân tích một cách sâu sắc nhất. Không những thế trong nhiều đề tài
khoa học của xã hội xưa và nay thì đề tài con người là một trung tâm được các lOMoAR cPSD| 40419767
nhà nghiên cứu cổ đại đặc biệt chú ý. Các lĩnh vực tâm lý học, sinh học, y học,
triết học, xã hội học.v.v...Từ rất sớm trong lịch sử đã quan tâm đến con người và
không ngừng nghiên cứu về nó. Mỗi lĩnh vực nghiên cứu đó đều có ý nghĩa riêng
đối vưói sự hiểu biết và làm lợi cho con người.
Hơn bất cứ một lĩnh vực nào khác, lĩnh vực triết học lại có nhiều mâu thuẫn
trong quan điểm, nhận thức và nó đã gây nên sự đấu tranh không biết khi nào
dừng. Những lập trường chính trị trình độ nhận thức và tâm lý của những người
nghiên cứu khác nhau và do đó đã đưa ra những tư tưởng hướng giải quyết khác nhau.
Khi đề cập tới vấn đề con người các nhà triết học để tự hỏi: Thực chất con
người là gì và để tìm cách trả lời câu hỏi đó phải giải quyết hàng loạt mâu thuẫn
troch chính con người. Khi phân tích các nhà triết học cổ đại coi con người là một
tiểu vũ trụ, là một thực thể nhỏ bé trong thế giới rộng lớn, bản chất con người là
bản chất vũ trụ. Con người là vật cao quý nhất trong trời đất, là chúa tể của muôn
loài. Chỉ đứng sau thần linh. Con người được chia làm hai phần là phần xác và
phần hồn. Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo thì cho rằng: Phần hồn là do thượng đế
sinh ra; quy định, chi phối mọi hoạt động của phần xác, linh hoòn con người tồn
tại mãi mãi. Chủ nghĩa duy vật thì ngược lại họ cho rằng phần xác quyết định và
chi phối phần hồn, không có linh hồn nào là bất tử cả, và quá trình nhận thức đó
không ngừng được phát hiện. Càng ngày các nhà triết học tìm ra được bản chất
của con người và không ngừng khắc phục lý luận trước đó.
Triết học thế kỷ XV - XVIII phát triển quan điểm triết học về con người
trên cơ sở khoa học tự nhiên đã khắc phục và bắt đầu phát triển. Chủ nghĩa duy
vật máy móc coi con người như một bộ máy vận động theo một quy luật cổ. Học
chủ nghĩa duy tâm chủ quan và thuyết không thể biết một mặt coi cái tôi và cảm
giác của cái tôi là trung tâm sáng tạo ra cái không tôi, mặt khả cho rằng cái tôi
không có khả năng vượt quá cảm giác của mình nên về bản chất là nhỏ bé yếu ớt,
phụ thuộc đấng tới cao. Các nhà triết học thuộc một mặt đề cao vai trò sáng tạo lOMoAR cPSD| 40419767
của lý tính người, mặt khác coi con người, mặt khác coi con người là sản phẩm
của tự nhiên và hoàn cảnh.
Các nhà triết học cổ điển đức, từ Cartơ đến Heghen đã phát triển quan điểm
triêt học về con người theo hướng của chủ nghĩa duy tâm. Đặc biệt Heghen quan
niệm con người là hiện thân của ý niệm tuyệt đối là con người ý thức và do đó đời
sống con người chỉ được xem xét vè mặt tinh thần Song Heghen cũng là người
đầu tiên thông qua việc xem xét cơ chế hoạt động của đời sống tinh thần mà phát
hiện ra quy luật về sự phát triển của đời sống tinh thần cá nhân. Đồng thời Heghen
cũng đã nghiên cứu bản chất quá trình tư duy khái quát các quy luật cơ bản của quá trình đó.
Sau khi đoạn tuyệt với chủ nghĩa duy tâm Heghen, phơ bách đã phê phán
tính siêu tự nhiên, phi thể xác trong quan niệm triết học Heghen, ông quan niệm
con người là sản phẩm cảu tự nhiên, có bản năng tự nhiên, là con người sinh học
trực quan, phụ thuộc vào hoàn cảnh, ông đã sử dụng thành tựu của khoa học tự
nhiên để chứng minh mối liên hệ không thể chia cắt của tư duy với những quá
trình vật chất diễn ra trong cơ thể con người, song khi giải thích con người trong
mối liên hệ cộng đồng thì phơ bách lại rơi vào lập trường của chủ nghĩa duy tâm.
Tóm lại: Các quan niệm triết học nói trên đã đi đến những các thức lý luận
xem xét người một cách trừu tượng. Đó là kết quả của việc tuyệt đối hoá phần hồn
thành con người trừu tượng. Tự ý thức còn chủ nghĩa duy vật trực quan thì tuyệt
đối hoá phần xác thành con người trừu tượng. Sinh học, tuy nhiên họ vẫn còn
nhiều hạn chế, các quan niệm nói trên đều chưa chú ý đầy đủ đến bản chất con người.
Sau này chủ nghĩa Mác đã kế thừa và khắc phục những mặt hạn chế đó,
đồng thời phát triển những quan niệm về con người đã có trong các học thuyết
triết học trước đây để đi tới quan niệm về con người thiện thực, con người thực
tiễn cải tạo tự nhiên và xã hội với tư cdách là con người hiện thực. Con người vừa
là sản phẩm của tự nhiên và xã hội đồng thời vừa là chủ thể cải tạo tự nhiên. lOMoAR cPSD| 40419767
b. Con người là chủ thể sinh động nhất của xã hội.
Sự “sinh động” ở đây có nghĩa là con người có thể chinh phục tự nhiên, cỉa
tạo tự nhiên. Tuy rằng con người đã bỏ xa giới động vật trong quá trình tiến hoá
nhưng như thế không có nghĩa là con người đã lột bỏ tất cả những cái tự nhiên để
không còn một sự liên hệ nào với tổ tiên của mình. Con người là sản phẩm tự
nhiên, là kết quả của quá trình tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh, đã là con người
thì phải trải qua giai đoạn sinh trưởng, tử vong, mỗi con người đều có nhu cầu ăn,
mặc ở, sinh hoạt... Song con người khong phải là động vật thuần tuý như các động
vật khác mà xét trên khía cạnh xã hội thì con người là động vật có tính xã hội, con
người là sản phẩm của xã hội, mang bản tính xã hội. Những yếu tố xã hội là tất cả
những quan hệ, những biến đổi xuất hiện do ảnh hưởng của các điều kiện xã hội
khác nhau, những quy định về mặt xã hội toạ nên con người. Con người chỉ có thể
tồn tịa được khi tiến hành lao động sản xuất của cải vật chất để thoả mãn nhu cầu
mình và chính lao động sản xuất là yếu tố quyết định hình thành con người và ý
thức. Lao động là nguồn gốc duy nhất của vật chất, vật chất quyết định tinh thần
theo logic thì lao động là nguồn gốc của văn hoá vật chất và tinh thần.
Mặt khác trong lao động con người quan hệ với nhau trong lĩnh vực sản
xuất, đó là những quan hệ nền tảng để từ đó hình thành các quan hệ xã hội khác
trong các lĩnh vực đời sống và tinh thần.
Chính vì con người là sản phẩm của tự nhiên và xã hội cho nên con người
chịu sự chi phối của môi trường tự nhiên và xã hội cùng các quy luật biến đổi của
chúng. Các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp giữa cơ thể và môi
trường, quy luật về quá trình trao đổi chất... tác động tạo nên phương diện sinh
học của con người. Các quy luật tâm lý, ý thức hình thành và hoạt động trên nền
tảng sinh học của con người hình thành tư tưởng tình cảm khát vọng niềm tin, ý
chí. Các quy luật xã hội quy định mối quan hệ giữa người với người, điều chỉnh
hành vi của con người. Hệ thống các quy luật trên cũng tác động lên con người,
tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh giữa sinh học cái xã hội trong con người. lOMoAR cPSD| 40419767
Với tư cách là con người xã hội, là con người hoạt động thực tiễn con người
sản xuất và của cải vật chất, tác động vào tự nhiên để cải tạo tự nhiên, con người
là chủ thể cải tạo tự nhiên. Như vậy con người vừa do tự nhiên sinh ra, bị phụ
thuộc vào tự nhiên vừa tác động vào tự nhiên. Tình cảm thống trị tự nhiên chỉ có
con người mới khắc phục được tự nhiên bằng cách tạo ra những vật chất, hiện
tượng không như tự nhiên bằng cách toạ ra những vật chất, hiện tượng không như
tự nhiên vốn có bằng cách đó con người đã biến đổi bộ mặt của tự nhiên, bắt tự
nhiên phải phục vụ con người. Tuy nó là sản phẩm của tự nhiên. Một điều chắc
chắn rằng có con người chỉ có thể thống trị tự nhiên nếu biết tuân theo và nắm bắt
các quy luật của chính bản thân đó. Quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng
tạo ra lịch sử cho mình. Con người không những là sản phẩm của xã hội mà con
người còn là chủ thể cải tạo chúng. Bằng mọi hoạt động lao động sản xuất con
người sáng tạo ra toàn bộ nền văn hoá vật chất, tinh thần. Bằng hoạt động cách
mạng. Con người đánh dấu thêm các trang sử mới cho chính mình mặc dù tự nhiên
và xã hội đều vận động theo những quy luật khách quan song quá trình vận động
của con người luôn xuất phát từ nhu cầu, động cơ và hứng thú, theo đuổi những
mục đích nhất định và do đó đã tìm cách hạn chế hoặc mở rộng phạm vi tác dụng
cuả quy luật cho phù hợp với nhu cầu và mục đích của mình. Nếu không có con
người với tư cách là chủ thể sinh động nhất của xã hội thì không thể có xã hội,
không thể có sự vận động của xã hội mà vượt lên tất cả chính là của cải vật chất.
II. Quan điểm chủ nghĩa Mác về con người.
Chủ nghĩa xã hội do con người và vì von người. Do vậy, hình thành mới
quan hệ đúng đắn về con người về vai trò của con người trong sự phát triển xã hội
nói chung, trong xã hội chủ nghĩa nói riêng là một vấn đề không thể thiếu được
của thế giới quan Mác - Lênin.
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin con người là khái niệm chỉ những cá thể người
như một chỉnh thể trong sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội của nó.
Con người là sản phẩm của sự tiến hoá lâu dài từ giới tự nhiên và giới sinh vật.
Do vậy nhiều quy luật sinh vật học cùng tồn tại và tác động đến con người. Để lOMoAR cPSD| 40419767
tồn tại với tư cách là một con người trước hết con người cũng phải ăn, phải uống...
Điều đó giải thích vì sao Mác cho rằng co người trước hết phải ăn, mặc ở rồi mới làm chính trị.
Nhưng chỉ dừng lại ở một số thuộc tỉnh sinh học của con người thì không
thể giải thích được bản chất của con người. Không chỉ có “con người là tổng hoà
các quan hệ xã hội” mà thực ra quan điểm của Mác là một quan điểm toàn diện.
Mác và Anghen nhiều lần khẳng định lại quan điểm của những nhà triết
học đi trước rằng. Con người là một bộ phận của giới tự nhiên, là một động vật xã
hội, nhưng khác với họ, Mác, Anghen; xem xét mặt tự nhiên của con người, như
ăn, ngủ, đi lại, yêu thích... Không còn hoàn mang tính tự nhiên như ở con vật mà
đã được xã hội hoá. Mác viết: “Bản chất của con người không phải là một cái trừu
tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó bản chất của con
người là tổng hoà của những mối quan hệ xã hội” con người là sự kết hợp giữa
mặt tự nhiên và mặt xã hội nên Mác nhiều lần đã so sánh con người với con vật,
so sánh con người với những con vật có bản năng gần giống với con người... Và
để tìm ra sự khác biệt đó. Mác đã chỉ ra sự khác biệt ở nhiều chỗ như chỉ có con
người làm ra tư liệu sinh hoạt của mình, con người biến đổi tự nhiên theo quy luật
của tự nhiên, con người là thước đo của vạn vật, con người sản xuất ra công cụ
sản xuất... Luận điểm xem con người là sinh vật biết chế tạo ra công cụ sản xuất
được xem là luận điểm tiêu biểu của chủ nghĩa Mác về con người.
Luận điểm của Mác coi “Bản chất của con người là tổng hoà các quan hệ
xã hội” Mác hoàn toàn không có ý phủ nhận vai trò của các yếu tố và đặc điểm
sinh học của con người, ông chỉ đối lập luận điểm coi con người đơn thuần như
một phần của giới tự nhiên còn bỏ qua, không nói gì đến mặt xã hội của con người.
Khi xác định bản chất của con người trước hết Mác nêu bật cái chung, cái không
thể thiếu và có tính chất quyết định làm cho con người trở thành một con người.
Sau, thì khi nói đến “Sự định hướng hợp lý về mặt sinh học” Lênin cũng chỉ bác
bỏ các yếu tố xã hội thường xuyên tác động và ảnh hưởng to lớn đối với bản chất
và sự phát triển của con người. Chính Lênin cũng đã không tán thành quan điểm lOMoAR cPSD| 40419767
cho rằng mọ người đều ngang nhau về mặt sinh học. Ông viết “thực hiện một sự
bình đẳng về sức lực và tài năng con người thì đó là một điều ngu xuẩn... Nói tới
bình đẳng thì đó luôn luôn là sự bình đẳng xã hội, bình đẳng về địa vị chỉ không
phải là sự bình đẳng về thể lực và trí lực của cá nhân”.
Để khẳng định cho tiến trình phát triển lịch sử của xã hội loài người là sự
thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội, Mác đã nói tới việc lấy sự phát
triển toàn diện của con người làm thước đo chung cho sự phát triển xã hội, Mác
cho rằng xu hướng chung của tiến trình phát triển lịch sử được quy định bởi sự
phát triển của lực lượng sản xuất xã hội bao gồm con người và những công cụ lao
động do con người tạo ra, sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, tự nó đã nói
lên trình độ phát triển của xã hội qua việc con người đã chiếm lĩnh xã hội và sử
dụng ngày càng nhiều lực lượng tự nhiên với tư cách là cơ sở vật chất cho hoạt
động sống của chính con người và quyết định quan hệ giữa người với người trong
sản xuất. Sản xuất ngày càng phát triển tính chất xã hội hoá ngày cnàg tăng. Việc
tiến hành sản xuất tập thể bằng lực lượng của toàn xã hội và sự phát triển mới của
nền sản xuất do nó mang lại sẽ cần đến những con người hoàn toàn mới. Những
con người có năng lực phát triển toàn diện và đến lượt nó, nền sản xuất sẽ tạo nên
những con người mới, sẽ làm nên những thành viên trong xã hội có khả năng sử
dụng một cách toàn diện năng lực phát triển của mình theo Mác "phát triển sản
xuất vì sự phồn vinh của xã hội, vì cuộc sống tốt đẹp hơn cho mỗi thành viên trong
cộng đồng xã hội và phát triển con người toàn diện là một quá trình thống nhất để
làm tăng thêm nền sản xuất xã hội" để sản xuất ra những con người phát triển toàn
diện hơn nữa, Mác coi sự kết hợ chặt chẽ giữa phát triển sản xuất và phát triển
con người là một trong những biện pháp mạnh mẽ để cải biến xã hội.
Con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất là yếu tố
hàng đầu, yếu tố đóng vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất của xã hội mà
hơn nữa, con người còn đóng vai trò là chủ thể hoạt động của quá trình lịch sử.
Thông qua hoạt động sản xuất vật chật con người sáng tạo ra lịch sử của mình,
lịch sử 7của xã hội loài ngoài. Từ đó quan niệm đó Mác khẳng định sự phát triển lOMoAR cPSD| 40419767
của lực lượng sản xuất xã hội có ý nghĩa là sự phát triển phong phú bản chất con
người, coi như là một mục đích tự thân. Bởi vậy theo Mác ý nghĩa lịch sử mục
đích cao cả của sự phát triển xã hội là phát triển con người toàn diện, nâng cao
năng lực và phẩm giá con người, giải phóng con người, loại trừ ra khỏi cuộc sống
con người để con người được sống với cuộc sống đích thực. Và bước quan trọng
nhất trên con đường đó là giải phóng con người về mặt xã hội.
Điều đó cho thấy trong quan niệm của Mác thực chất của tiến trình phát
triển lịch sử xã hội loài người là vì con người, vì cuộc sống ngày cnàg tốt đẹp hơn
cho con người, phát triển con người toàn diện và giải phóng con người, nói theo
Anghen là đưa con người từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do,
con người cuối cùng cũng là người tôn tại của xã hội của chính mình, đồng thời
cũng trở thành người chủ của tự nhiên, người chủ bản thân mình. Đó là quá trình
mà nhân loại đã tự tạo ra cho mình những điều kiện, những khả năng cho chính
mình nhằm đem lại sự phát triển toàn diện, tự do và hài hoà cho mỗi con người
trong cộng đồng nhân loại tạo cho con người năng lực làm chủ tiến trình lịch sử của chính mình.
Quan niệm của Mác về định hướng phát triển xã hội lấy sự phát triển của
con người làm thước đo chung càng được khẳng định trong bối cảnh lịch sử của
xã hội loài người. Ngày nay loài người đang sống trong bối cảnh quốc tế đầy
những biến động, cộng đồng thế giới đang thể hiện hết sức rõ ràng tính đa dạng
trong các hình thức phát triển của nó xã hội loài người kể từ thời tiền sử cho đến
nay bao giờ cũng là một hệ thống thống nhất tuy nhiên cũng là một hệ thống hết
sức phức tạp và chính vì sự phức tạp đó đã tạo nên tính không đồng đều trong sự
phát triển kinh tế xã hội ở các nước, các khu vực khác nhau. Đến lượt mình, tính
không đồng đều của sự phát triển này lại hình thành nên một bức tranh nhiều màu
sắc về định hướng nào, thì mọi định hướng phát triển vẫn phải hướng tới giá trị
nhân văn của nó - tới sự phát triển con người.
Xã hội bao giờ cũng tồn tại nhiều giai cấp đó điều quan trọng là giai cấp đó
có phục tùng được lòng dân hay không. Trải qua thời kỳ phát triển của xã hội loại lOMoAR cPSD| 40419767
người chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp đáp ứng đầy đủ mọi quy luật của cuộc
sống và đó chính là lý do tại sao mác lại lấy giai cấp vô sản để nghiên cứu trong
đó Mác tập trung nghiên cứu con người vô sản là chủ yếu.
Theo Mác, người vô sản là ngừơi sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội
hiện đại, nhưng lao động của họ lại bị tha hoá, lao động từ chỗ gắn bó với họ nay
trở nên xa lạ nghiêm trọng hơn nữa chính nó đã thống trị họ, tình trạng bất hợp lý
này cần phải được giải quyết. Với Mác, người vô sản là người tiêu biểu cho
phương thức sản xuất mới, có sứ mệnh và hoàn toàn có khả năng giải phóng mình,
giải phóng xã hội để xây dựng xã hội mới tốt đẹp hơn. Theo Mác "đến xã hội cộng
sản chủ nghĩa, con người không còn thất nghiệp, không còn bị ràng buộc vào một
nghề nghiệp nhất định họ có thể làm bất kỳ một nghề nào nếu có khả năng và
thích thú, họ có quyền làm theo năng lực, hướng theo nhu cầu tuy nhiên những ý
muốn đó không xảy ra bởi vì cách mạng cộng sản chủ nghĩa không diễn ra theo ý
của họ. Nó không diễn ra đồng loạt tren tất cả các nước tư bản, ít ra là ở các nước
tư bản tiên tiến, trái lại nó lại diễn ra ở những nước xã hội chủ nghĩa tiêu biểu là
nước Nga (Liên Xô cũ)… Một nước công nghiệp chưa phát triển, nông dân chiếm
số đông trong dân số. Vì vậy quan niệm của ông về con người khó có điều kiện được chứng minh.
III. Vai trò của chủ nghĩa Mác về con người trong đời sống xã hội.
Do nhân thức được vai trò và tầm quan trọng của vấn đề con người đạc biệt
là vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ta
hiện nay. Đảng và nhân dân ta đã và đang xây dựng và phát triển đất nước toàn
diện về nhiều mặt đặc biệt là lĩnh vực kinh tế, nó phụ thuộc rất nhiều vào nhiều
chiến lược con người: Cần đào tạo con người một cách có chiều sâu lấy tư tương
và chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng, cũng như trên thế giới ở nước ta chiến
lược con người nó có một ý nghĩa hết sức quan trọng và để phát triển đúng hướng
chiến lược đó cần có một chính sách phát triển con người, không để con người đi
lệch tư tưởng tuy nhiên trong thực tế không ít người sẽ ngang đi tìm khả năng phát
triển nó trong chủ nghĩa tư bản. Nhiều người trở về phục sinh và tìm sự hoàn thiện lOMoAR cPSD| 40419767
con người trong các tôn giáo và các hệ tư tưởng truyền thống. Có người lại sáng
tạo ra tư tưởng tôn giáo mới cho phù hợp với con người Việt Nam. Song nhìn lại
một cdách khách quan và khoa học sự tồn tại của chủ nghĩa Mác - Lênin trong xã
hội Việt Nam có lẽ không ai có thể phủ nhận được vai trò ưu trội và triển vọng
cuả nó trong sự nghiệp phát triển con người tạo đà cho bước phát triển tiếp theo
của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì một nước đang còn ở tình trạng
kém phát triển như nước ta không thể không xây dựng một chính sách phát triển
lâu dài, có tầm nhìn xa trông rộng phát triển con người nâng cao chất lượng của
người lao động. Hơn bất cứ một lĩnh vực nghiên cứu nào khác, lĩnh vực phát triển
con người là mục tiêu cao cả nhất của toàn dân, đưa loài người tới một kỷ nguyên
mới, mở ra nhiều khả năng để tìm ra những con đường tối ưu đi tới tương lai con
đường khả quan nhất cho sự nghiệp phát triển con người trong sự nghiệp công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Trong đời sống xã hội thực tiễn cơ sở vận dụng
khoa học và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về con người tại hội nghị lần thứ tư
của ban chấp hành trung ương
Đảng khoá VII đề ra nghị quyết và thông qua nghị quyết về việc phát triển con
người Việt Nam toàn diện với tư cách là "Động lực của sự nghiệp xây dựng xã
hội mới, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội" Đó là "con người phát triển
cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo
đức". Bởi lẽ, người lao động nước ta ngày càng đóng vai trò quan trọng trong mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội và trong sự phát triển của nền kinh tế đất nước theo
cớ chế thị trường, dưới sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa
thì chất lượng của người lao động là nhân tố quyết định nghị quyết đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định "Nâng cao dân trí, bồi dưỡng
và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng
lợi cuả công cuộc đổi mới đất nước". Thực tiễn đã chứng tỏ xã hội ta hiện nay
tình trạng mất hài hoà về mặt bản thể của mỗi cá nhân là chủ yếu, là tất cả bản thể
cá nhân phát triển toàn diện và hài hoà về đạo đức, trí tuệ, thể lực là mục tiêu xây
dựng con người trong chủ nghĩa xã hội nhưng mục tiêu cơ bản và quan trọng hơn lOMoAR cPSD| 40419767
cả là vấn đề con người phải trở thành nhân tố quyết định lịch sử xã hộivà lịch sử của chính mình.
Các nhà tư tưởng tư sản xuyên tạc chủ nghĩa Mác cho rằng đó là "chủ nghĩa
không có con người" thực tế thì, chủ nghĩa Mác là một chỉnh thể thống nhất của
ba bộ phận triết học nghiên cứu các quy luật của thế giới, giúp ta hiểu bản chất,
mới quan hệ tự nhiên - xã hội - con người, chính trị kinh tế vạch ra quy luật đi lên
của xã hội, chủ nghĩa xã hội khoa học chỉ ra con đường và phương pháp nghiên
cứu con người. Chủ nghĩa Mác là một chỉ nghĩ vì con người, chủ nghĩa nhân đạo.
Học thuyết đó không chỉ chứng minh bản chất của con người ("tổng hoà của các
quan hệ xã hội") và bản tính con người ("luôn vươn tới sự hoàn thiện") mà còn
vạch hướng đưă con người đi đúng bản chất và bản tính của mình, giải phóng, xoá
bỏ sự tha hoá, tạo điều kiện phát huy mọi sức mạnh bản chất người, phát triển
toàn diện, hài hoà cho từng cá nhân. Sự phù hợp giữa tư tưởng Mác Xít với bản
chất và bản tính người đã thu phục và làm say mê những con người hằng mong
vươn lên xây dựng xã hội mới, mở ra mọi khả năng cho sự phát triển con người.
Chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin mới có thẻ vạch rõ được hướng đi đúng cho
con đường đi lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, thực tế cho thấy cùng với tư tưởng
Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam đã làm nên thắng lợi cách
mạng giải phòng dân tộc (1945), thống nhất đất nước (1975) thực hiện ý chí độc
lập tự do con người việt Nam điều mà bao nhiêu học thuyết trước Mác không thể
áp dụng được, và chính chủ nghĩa Mác - Lênin đã làm thay đổi, trở thành hệ tư
tưởng chính thống của toàn xã hội, thay đổi nhanh chóng đời sống tinh thần đại
đa số nhân dân Việt Nam. Thực tiễn hoạt động cách mạng xã hội chủ nghĩa vừa
nhanh chóng nâng cao trình độ nhận thức toàn diện. Bằng hệ thống giáo dục với
các hình thức đào tạo đa dạng, với các hình thức khoa học thấm nhuần tinh thần
cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin đã hình thành kế tiếp nhau những lớp người lao
động mới ngày càng có tư tưởng, trình độ chung, chuyên môn cao ngày nay chúng
ta đã có một đội ngũ cán bộ văn hoá khoa học công nghệ với trình độ lý luận và
quản lý tốt đồng đều trong cả nước. lOMoAR cPSD| 40419767
Có thể nói chỉ trong một thời gian ngắn hệ tư tưởng Macxít đã thể hiện xu
hướng của mình đối với nền văn hoá dân dã, xoá bỏ dần dần sự thống trị của các
loại tư tưởng tự phát, lạc hậu, thấp kém trong con người cũ, mê tín dị đoan, các
niềm tin mù quáng… Với sức mạnh có tính khoa học, học thuyết Mác - Lênin đã
vạch rõ được những yếu tố phi khoa học, phi nhân đạo, các loại thế giới quan,
nhân sinh quan sai lệch mà trước đó đã làm mai một trí tuệ, tính tích cực trong
con người của các hệ tư tưởng truyền thống. Mặt khác, chủ nghĩa Mác - Lênin còn
thể hiện rõ tính ưu việt trong con người đối với các luồng tư tưởng tư sản ngoại
nhập của Phương Tây, và các trào lưu tư tưởng tư sản hiện tại đang làm lệch hướng
đi của những con người chân chính trong điều kiện đời sống vật chất khó khăn.
Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc xiềng xích của chân lý cổ truyền, của nền sản
xuất tiểu nông với tư duy còn hạn chế, kinh nghiệm, phi khoa học trong con người
thiếu văn hoá do xã hội cũ để lại đã được tri thức khoa học Mác xít phá tan. Một
ý thức tiên tiến ra đời. Các tín ngưỡng dần dần cũng phải nhường chỗ cho niềm
tin khoa học. Các yếu tố tư duy duy vật biện chứng hình thành trong đời sống
thường ngày, trong lao động, cũng như trong mọi hoạt động của xã hội. Thế giới
quan khoa học ngày càng ăn sâu ở những con người luôn phấn đấu cho thắng lợi
của chủ nghĩa xã hội nó nhìn thế giới, xã hội, con người trong sự vận động và phát
triển trong tính hiện thực và tiềm ẩn những khả năng, sự tồn tại khách quan là điều
kiện sống và sự phát triển con người.
Thế giới quan đó hàm chứa nhân sinh quan tiến bộ, khắc phục dần những
quan niệm sai lầm, phiến diện về con người của các hệ tư tưởng khác.
Sự chuyển đổi hệ tư tưởng dẫn đến chuyển đổi hệ giá trị của xã hội và giá
trị con người, con người từ chỗ phục tùng chuyển sang tự chủ, sáng tạo, từ chỗ
dựa trên tập quán chuyển sang lý trí, dân chủ, từ chí tìm cách hoà đồng chuyển
sang tôn trọng cả cá tính và bản lĩnh riêng. Các chuẩn mực mới của con người đòi
hỏi không chỉ phát triển từng mặt riêng lẻ mà phải là cá nhân phát triển hài hoà
tính cách mạng của học thuyết Mác xít khắc phục dần lối sống thụ động, hẹp hòi, lOMoAR cPSD| 40419767
làm cơ sở cho lối sống tích cực, vì xã hội, phát triển ý thức luôn vươn lên làm chủ
và xây dựng cuộc sống mới xuất hiện những nhân cách mới.
Tuy nhiên sự phát triển con người ngày nay không chỉ là sản phẩm của hệ
tư tưởng Mác xít vì ngay khi chủ nghĩa Mác xít trở thành hệ tư tưởng chính thống
ở Việt Nam thì các tôn giáo, các hệ tư tưởng và văn hoá bản địa đã có sức sống
riêng của nó. Chủ nghĩa Mác - Lênin thâm nhập, nó như một hệ tư tưởng khoa
học vượt hẳn lên cái nền văn hoá bản địa, nhưng nó cũng chịu sự chi phối tác động
đan xen của các yếu tố sai - đúng, yếu - mạnh, mới - cũ, v.v.. Các yếu tố tích cực
đã thúc đẩy, còn các yếu tố tiêu cực thì kìm hãm sự phát triển con người.
Sự văn minh, phát triển hoá con người Việt Nam của chủ nghĩa Mác Lênin
vừa có lợi thế song cũng không tránh khỏi những sai lầm. Sai lầm là sự chống trả
của tư tưởng văn hoá bản địa đã thành truyền thống. Lợi thế là văn hoá bản địa
chưa có một hệ tư tưởng khoa học định hình vững chắc, nó dường như đang thiếu
một lý thuyết khoa học. Nếu như không có chủ nghĩa Mác - Lênin xã hội Việt
Nam phát triển hơn, đó là tư tưởng của những người thiếu hiểu biết về một xã hội
tiến bộ, luôn coi cái trước mắt mình là những thứ vô giá trị mà chỉ chạy theo trào
lưu, điều đáng trách hơn là họ cần cho rằng văn hoá Việt Nam sẽ phong phú hơn,
đặc sắc hơn. Thực tế, từ khi xuất hiện chủ nghĩa Mác - Lênin xã hội Việt Nam
như được tiếp thêm sức mạnh, phát triển có khoa học hơn, ở khía cạnh nào đó
trình độ dân trí, trình độ năng lực, văn hoá, khoa học, nghệ thuật… Con người
Việt Nam không thua kém con người của các nước văn minh khác.
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin con người chỉ những cá thể, là sự thống nhất
giữa mặt sinh học và mặt xã hội của nó. Cái mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã làm
được đó là lý luận con người trong xã hội chứ không chỉ mặt sinh học như trước
đây. Và chính vậy mà nó đã được áp dụng vào xã hội Việt Nam, trong cách mạng
xã hội chủ nghĩa con người là yếu tố quyết định vừa là điểm xuất phát vừa là mục
tiêu của mọi chính sách kinh tế - xã hội. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng
được một xã hội mà ở đó có đủ những điều kiện vật chất và tinh thần để thực hiện
trong thực tế nguyên tắc "Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự lOMoAR cPSD| 40419767
phát triển tự do của tất cả mọi người" và ở một đất nước ta, một đất nước đang
còn nghèo nàn thì việc phát triển yếu tố con người là một vấn đề mà Đảng ta đã
xác định đó là vấn đề then chốt cho sự phát triển kinh tế đất nước lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin là kim chỉ nam cho mọi hoạt động.
Chúng ta cũng đã có những đổi mới rõ rệt, sự phát triển hàng hoá nhiều
thành phần theo cơ chế thị trường, sự phân hoá giàu nghèo sự phân tầng xã hội,
việc mở rộng dân chủ đối thoại trong sinh hoạt chính trị của đất nước, việc mở
cửa và phát triển giao lưu quốc tế về các mặt kinh tế, văn hoá và chính trị, trên thế
giớ. Sự biến đổi nhanh chóng của tình hình chính trị quốc tế, sự phát triển vũ bão
của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ… Điều đó đòi hỏi chúng ta phải biết
vận dụng chủ nghĩa Mác một cách khoa học, hợp lý và sáng tạo để đáp ứng được
những đòi hỏi của xã hội mới nếu muốn tồn tại và vươn lên một tầm cao mới.
Chương II: Vấn đề con người trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
I. Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xu hướng phát triển của các nước trên thế
giới. Đó cũng là con đường phát triển tất yếu của nước ta để đi lên mục tiêu "Xã
hội công bằng văn minh, dân giàu nước mạnh" công nghiệp hoá, hiện đại hoá
không chỉ là công cuộc xây dựng kinh tế mà chính là quá trình biến đổi cách mạng
sâu sắc với lĩnh vực đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, khoa học của con người…)
làm cho xã hội phát triển lên một trạng thái mới về chất. Sự thành công của quá
tình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi ngoài mới trường chính trị ổn định,
phải có nguồn lực cần thiết như nguồn lực con người, vốn tài nguyên thiên nhiên,
cơ sở vật chất kỹ thuật. Các nguồn lực này quan hệ chặt chẽ với nhau. Cùng tham
gia vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng mức độ tác động vào vai
trò của chúng đối với toàn bộ quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá không giống
nhau, tỏng đó nguồn nhân lực phải đủ về số lượng mạnh về chất lượng. Nói cách
khác nguồn nhân lực phải trở thành động lực phát triển. Nguồn nhân lực phát triển
thì tất yếu công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải tién hành để đáp ứng nhu cầu đó. lOMoAR cPSD| 40419767
Theo các nhà kinh điều của chủ nghĩa Mác - Lênin, con người vừa là điểm
khởi đầu vừa là sự kết thúc, đồng thời lại vừa là trung tâm của sự biến đổi lịch
sử, nói cách khác con người là chủ thể chân chính của các quá trình xã hội. Trước
đây tỏng sách báo con người được xem xét trên phương diện "con người tập thể"
"con người giai cấp" con người xã hội.
ở đây tính tích cực của con người với tư cách là chủ thể được tập trung chú
ý khai thác và bồi dưỡng chủ yếu ở những phẩm chất cần cù, trung thành, nhiệt
tình, quyết tâm với cách mạng. Một quan niệm và một cách làm như vậy đã góp
phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và khôi phục kinh tế sau chiến
tranh. Tuy nhiên quan niệm và cách làm này cũng bộc lộ những hạn chế nhất định
trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện.
Trong xã hội con người không chỉ tạo ra các hệ thống và các quá trình khác
nhau của xã hội (giai cấp, đảng phía, nhà nước, sản xuất, văn hoá), mà họ còn làm
người, chính họ đã in đậm dấu ấn của tiến trình lịch sử. Lịch sử (suy đến cùng)
cũng chính là lịch sử phát triển cá nhân của con người, dù họ có nhận thức được
điều đó hay không. Từ đây cho phép tách ra một bình diện đặc biệt trong việc xem
xét "con người chủ thể" bình diện " con người cá nhân" có nghĩa là nâng nhận
thứac lên một trình độ mới - quan niệm "cái cá nhân" là sự thể hiện (hiện thân)
một cách cụ thể sinh động của "cái xã hội" khi con người trở thành chủ thể của
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường con người không chỉ nhận được sự
tích cực, mà còn cả những tác động tiêu cực của nó trước con người không chỉ có
những thời cơ và những triển vọng tươi sáng mà còn chứa đựng những thách thức,
nguy cơ, thậm chí là cả những tai hoạ khủng khiếp. (Thất nghiệp, ô nhiễm môi
trường, bệnh tật và những tệ nạn xã hội). Vì vậy trong mỗi con người luôn có
những "giằng xé" bởi những cực "chủ tớ" giầu nghèo, thiện ác, … trong điều keịen
này cần xem xét con người chủ thể với những phẩm chất nghề nghiệp chuyên môn
cụ thể trong những hoàn cảnh cụ thể của họ. lOMoAR cPSD| 40419767
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình biến đổi căn bản và sâu sắc toàn
bộ đời sống xã hội, nó đòi hỏi vật chất cao với người "chủ thể", ở đây chỉ cần sự
cần cù, trung thành, nhiệt tình quyết tâm cách mạng chưa đủ mà điều quan trọng
hơn là trí tuệ khoa học, ý chí chiến thắng cái nghèo nàn lạc hậu, tính năng động
luôn thích ứng với hoàn cảnh, ý thức kỷ luật, bản lĩnh lãnh đạo, nghệ thuật quản
lý, kỹ thuật kinh doanh…
Như vậy trong điều kiện mới cần xem xét đánh giá bồi dưỡng "con người
chủ thể" không chỉ trên bình diện "con người - xã hội" mà còn trên cả bình diện "con người cá nhân".
Hơn nữa là "con người - chuyên môn nghề nghiệp" nhất định (như nhà lãnh
đạo, quản lý, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp công nhân…). Bởi vì ấn dấu đằng
sau những chủ thể cụ thể này là lợi ích tương ứng với chúng. Chỉ có quan niệm và
cách làm như vậy chúng ta mới biết tác động vào đâu và tác động như thế nào để
nâng cao tích cực của chủ thể hành động.
Nói đến nguồn nhân lực tức là nói đến chủ thể tham gia vào quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên nó không phải là chủ thể biệ lập riêng rẽ, mà
là chủ thể được tổ chức thành lực lượng thống nhất về tư tưởng hành động. Nói
cách khác công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tổng hợp những chủ thể với những
phẩm chất nhất định tham gia vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhưng
cần phải hiểu rằng tổng hợp những chủ thể này không phải là tập hợp giản đơn số
lượng người mà nó là sức mạnh tổng hợp của chỉnh thể người trong hành động.
Sức mạnh này bắt nguồn trước hết là những phẩm chất vốn có bên trong của mỗi
chủ thể và nó được nhân lên gấp đôi trong hoạt động thực tiễn. Động lực công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là những gì thúc đẩy quá trình vận động và phát triển. Vì
vậy khi nói "nguồn lực với tính cách là động lực của quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá" là chủ yếu nói đến những phẩm chất tích cực của tổng hợp những
chủ thể được bộc lộ trong quá trinfh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và thúc đẩy
quá trình này vận động phát triển và thể hiện mặt tích cực, đồng thời hạn chế mặt
tiêu cực tối đa của mình. lOMoAR cPSD| 40419767
Mặt khác để xem xét vai trò nguồn lực của con người, cần đặt nó trong quan
hệ so sánh với các nguồn lực khác và ở mức độ chi phối của nó đến sự thành bại
của công cuộc đổi mới đất nước. Khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công
nghiệp hiện đại phát triển mạnh mẽ, lao động trí tuệ ngày càng gia tăng và trở
thành xu thế phổ biến của nhân loại. Khi công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại
hoá mà thực chất là hiện đại hoá lực lượng sản xuất với cách tiếp cận như vậy vai
trò quyết định nguồn lực của con người được biểu hiện ở những điểm như sau:
Trước hết các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa
lý… tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng chúng chỉ có tác dụng và có ý thức của
con người. Bởi lẽ con người là ngùn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý chí
biết lợi dụng, các nguồn lực khác gắn kết chúng lại với nhau tạo thành sức mạnh
tổng hợp cũng tác động vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. các nguồn
lực khác là những khách thể, chịu sự cải tạo, khai thác của con người và nói đúng
thì chúng đều phục vụ nhu cầu, lợi ích của con người nên con người biết cách tác
động và chi phối. Vì thế trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, người lao
động là yếu tố quan trọng nhất.
Thứ hai: Các nguồn lực khác là có hạn, có thể bị cạn kiệt khi khai thác.
Trong khi đó nguồn lực con người mà cốt lõi là trí tuệ lại là nguồn lực vô tận.
Tính vô tận, trí tuệ con người biểu hiện ở chỗ nó có khả năng không chỉ tái sinh
mà còn tự sản sinh về mặt sinh học mà còn đổi mới không ngừng phát triển về
chất trong con người xã hội, nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và khai thác hợp lý. Đó
là cơ sở làm cho năng lực và nhận thức hoạt động thực tiễn của con người phát
triển như một quá trình vô tận. Xét trên bình diện cộng đồng nhân loại.
Nhờ vậy con người đã từng bước làm chủ tự nhiên, khám phá ra những tài
nguyên mới và sáng tạo ra những tài nguyên vốn không có sẵn trong tự nhiên. Với
bản chất hoạt động có mục đích sáng tạo ra những hệ thống công cụ sản xuất mới
đã tác động vào tự nhiên một cách dễ dàng hơn. Chính sự phát triển không ngừng
của công cụ sản xuất từ thủ công đến cơ khí và ngày nay là tự động hoá được xã lOMoAR cPSD| 40419767
hội loài người chuyển qua các nền văn minh từ thấp đến cao, từ đó nói lên trình
độ vô tận của con người.
Thứ ba: Trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó được vật
thể hoá, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Dự báo này của Mác đã và đang
trở thành hiện thực. Sự phát triển vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật
công nghệ hiện đại đang dẫn các nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển
vận động đến nền kinh tế trí tuệ (mà gọi là tri thức). ở những nước này lực lượng
sản xuất trí tuệ ngày càng phát triển và chiếm tỷ trọng cao. Nguồn lợi mà họ thu
được từ lao động chất xám chiếm tới 1/2 tổng giá trị tài sản quốc gia. Giờ đây sức
mạnh của trí tuệ đạt đến mức nhờ có cuộc cách mạng con người có thể tạo ra
những máy móc "bắt chước" hay phỏng theo những đặc tính trí tuệ của chính con
người. Rõ ràng bằng những kỹ thuật công nghệ hiện đại do chính bàn tay khối óc
con người mà ngày nay nhân loại đang chứng kiến sự biến đổi thần kỳ của mình.
Thứ tư: Kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn của chính nước ta cho thấy
sự thành công của công nghiệp hoá hiện đại hoá phụ thuộc chủ yếu vào hoạch
định đường lối chính sách cũng như tổ chức thực hiện nghĩa là phụ thuộc vào năng
lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Việc thực hiện và hoàn thành tốt công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá có
ý nghĩa đặc biệt to lớn và có tác dụng hoàn thiện nhiều mặt.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá làm thay đổi căn bản kỹ thuật, công nghệ, sản
xuất, tăng năng suất lao động công nghiệp hoá hiện đại hoá chính là thực hiện xã
hội hoá nhiều mặt, góp phần ổn định, ngày càng nâng cao đời sống vật chất và
văn hoá của mọi thành viên trong cộng đồng xã hội.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phát triển mối quan hệ kinh tế giữa các ngành,
các vùng trong phạm vi mỗi nước và các nước với nhau, nâng cao trình độ quản
lý kinh tế của nhà nước nâng cao khả năng tích luỹ mở rộng sản xuất.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá không ngừng nâng cao vai trò của nhân tố con
người trong nền sản xuất và đặc biệt trong nền sản xuất lớn hiện đại, kỹ thuật cao. lOMoAR cPSD| 40419767
Chỉ trên cơ sở thực hiện tốt công nghiệp hoá, hiện đại hoá mới có khả năng thực
hiện và quan tâm đầy đủ đến sự phát triển tự do và toàn diện nhân tố con người.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố và
tăng cường tiềm lực quốc phòng khả năng đảm bảo an ninh và quốc phòng, các
yếu tố vật chất, kỹ thuật đáp ứng yêu cầu đó, công nghiệp hoá, hiện đại hoá có tác
dụng trực tiếp và chủ yếu trong việc tạo ra tiềm lực to lớn cho quốc phòng.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn tạo nhiều khả năng cho việc thực hiện tốt
sự phân công và hợp tác quốc tế về kinh tế, khoa học, công nghệ văn hoá xã hội v.v..
II. Mục tiêu con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta hiện nay.
Mục tiêu "Xây dựng nước ta thành thành một nước công nghiệp có cơ sở vật
chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với
trình độ của lực lượng sản xuất đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an
ninh giữ vững, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh". Đó trước hết là
cuộc cách mạng con người vì con người và do con người. Bởi khi chúng ta nói về
những ưu việt của chủ nghĩa xã hội thì những ưu việt đó không do ai đưa đến. Đó
phải là kết quả những nỗ lực vượt bậc và bền bỉ của toàn dân ta với những con
người phát triển cả về trí lực về cả khả năng lao động và tính tích cực chính trị -
xã hội và đạo đức tình cảm trong sáng.
Nhìn lại toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng từ ngày thành lập (3-21930)
đến nay. Đảng ta đã nhiều lần khẳng định "con người là vốn quý nhất chăm lo cho
hạnh phúc của con người mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta". Trên thực tế
trong suốt những năm tháng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác Đảng ta đã cố gắng làm nhiều việc theo hướng đó. Dân sự chăm lo
cho hạnh phúc con người chưa có nhiều thành công như mong muốn, việc nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho những người lao động còn thấp, song phần
nào đã đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, của những người lao động chăm lo
cho hạnh phúc của nhân dân". Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm, việc gì lOMoAR cPSD| 40419767
có hại cho dân ta phải hết sức tránh" đã được Đảng ta đặt lên vị trí hàng đầu và
coi đó là nhiệm vụ Trung tâm. Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh - "Vì lợi ích
mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người" và "muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa" - đã trở thành tư
tưởng quán xuyến toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng ta với tư cách là Đảng
cầm quyền ngay từ đầu mọi chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng đều quán
triệt việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người.
Trong "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội" Đảng ta đã chỉ rõ: "Phương hướng lớn của chính sách xã hội là: Phát huy
nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền
lợi công dân kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật
chất và đời sống tinh thần, giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi
ích lâu dài giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội". Định hướng có ý nghĩa
chiến lược đó chính là thể hiện tư tưởng vì con người, của mục tiêu phát triển con
người Việt Nam, toàn diện trong công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Việc đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước đòi hỏi
chúng ta phải nhận thức một cách sâu sắc đầy đủ những giá tị lớn lao và có ý nghĩa
quyết định của nhân tố con người chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật
chất và văn hoá tinh thần. Phải có sự thay đổi sâu sắc cách nhìn, cách nghĩ, cách
hành động của con người và coi việc bồi dưỡng phát huy nhân tố con người Việt
Nam hiện đại như một cuộc cách mạng. Hơn nữa, với tinh tất yếu khách quan của
sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước và cách mạng con người phải được nhận thức là hai mặt
thống nhất, không thể tách rời của sự nghiệp xây dựng đó.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
không thể không xuất phát từ tinh thần nhân văn sâu sắc, không thể không phát
triển con người Việt Nam toàn diện để lấy đó làm động lực xây dựng xã hội ta
thành một xã hội "công bằng, nhân ái", "tốt đẹp và toàn diện" để bồi dưỡng và lOMoAR cPSD| 40419767
phát huy nhân tố con người, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ, nhất thiết phải từng bước
hiện đại hoá đất nước và đời sống xã hội và chúng ta "tăng trưởng nguồn lực con
người khi quá hiện đại hoá các ngành giáo dục, văn hoá, văn nghệ, bảo vệ sức
khoẻ, dân số và kế hoạch hoá gia đình gắn liền với việc kế thừa và phát huy những
giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc" chỉ có trên cơ sở đó khi phát triển nền kinh
tế hàng hoá theo cơ chế thị trường chúng ta mới có thể tránh được nguy cơ tha
hoá, không xa rời những giá trị truyền thống, không đánh mất bản sắc dân tộc,
đánh mất bản thân mình trở thành cái bóng của người khác.
Nền công nghiệp hoá, hiện đại hoá là vì mục tiêu phát triển con người toàn
diện thì con người ở đây không chỉ hiểu với tư cách là người lao động sản xuất
mà còn với tư cách là công dân của xã hội, một cá nhân trong tập thể, một thành
viên trong cộng đồng dân tộc, một con người trí tuệ trước vận mệnh quốc gia. Đó
không chỉ là đội ngũ những người lao động có năng suất cao những nhà khoa học
giỏi, các chuyên gia kỹ thuật, các nhà doanh nghiệp biết làm ăn, những nhà quản
lý, lãnh đạo có tài, mà đó còn là hàng triệu những công dân yêu nước, ý thức được
cuộc sống đói nghèo và nguy cơ tụt hậu để cùng nhau gắn bó vì sự nghiệp chung.
Qua sự phân tích trên có thể khẳng định rằng bước sang thời kỳ phát triển
mới - đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, chúng ta phải lấy việc phát huy nguồn lực con người Việt Nam hiện
đại làm yếu tố cơ bản cho việc phát triển nhanh, bền vững phải gắn tăng trưởng
kinh tế với cải thiện đời sống nhân dân phát triển văn hoá, giáo dục, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội. Nếu công nghiệp hoá, hiện đại hoá là vì sự nghiệp phát
triển con người, thì con người phải được coi là giá trị tối cao.
III. Nguồn lực con người là yếu tố quyết định cho sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là thành công hay thất bại nó chỉ được trả lời
khi yếu tố con người được đáp ứng. Việc định hướng đi vào sự phát triển con
người đòi hỏi phải nghiên cứu nhiều. Nghiên cứu con người để phát triển con
người, phát triển con người để đáp ứng các sự phát triển khác. Sự phát triển người lOMoAR cPSD| 40419767
quyết định sự phát triển của mọi mặt. Sự thách thức đối với sự phát triển con người
đó là quá trình công nghiệp hoá, do đó con người cần phải được chăm lo đào tạo
về trí lực và thể lực.
Yếu tố hàng đầu của nguồn lực con người trước hết phải là trí tuệ, bởi "tất cả
những gì thúc đẩy con người hành động đều tất nhiên phải thông qua đầu óc của
nó", túc nói cách khác đi là trí tuệ làm chủ con người trình độ trí tuệ phản ánh qua
trình độ học vấn và tài năng sáng tạo. Nó biểu hiện ở khả năng áp dụng những
thành tựu khoa học để sáng chế ra những kỹ thuật tiên tiến, ở sự nhạy bén, thích
ứng nhanh và làm chủ được kỹ thuật, công nghệ hiện đại, có kỹ năng lao động
nghề nghiệp, có năng lực hoạch định chính sách lựa chọn giải pháp và tổ chức thực hiện.
Sau trí tuệ là yếu tố sức khoẻ - yêu cầu không thể thiếu được đối với người
lao động. Sức khoẻ là điều kiện tiên quyết để duy trì và phát triển trí tuệ, là phương
tiện tất yếu đẻ chuyển tải tri thức vào hoạt động thực tiễn để biến tri thức thành sức mạnh vật chất.
Sản xuất công nghiệp đòi hỏi ở người lao động hàng loạt các phẩm chất như
có tính kỷ luật tự giác, tiết kiệm nguyên vật liệu và thời gian, tích cực bảo dưỡng
thiết bị máy móc, có tinh thần hiệp tác và tác phong lao động công nghiệp có
lương tâm nghề nghiệp có trách nhiệm cao đôí với sản phẩm.
Mặt khác quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, còn đụng chạm đến vấn
đề phức tạp trong quan hệ giữa con người với thiên nhiên. Đây là vấn đề cấp bách
sống còn không chỉ với mỗi quốc gia mà còn đối với nền văn minh nhân loại. Vì
vậy sự hiểu biết và trách nhiệm cao trước vấn đề môi sinh cũng là một năng lực
và phẩm chất quan trọng của người lao động trong quá trình tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá khó có thể đạt được kết quả tốt nếu
không có những công dân yêu nước ham học hỏi, cần cù lao động và sáng tạo có
tinh thần hợp tác, ý chí tự chủ vươn lên và lòng tự trọng dân tộc cao không cam
chịu nghèo nàn, lạc hậu, có hiểu biết và tôn trọng pháp luật, đạo lý, biết kết hợp lOMoAR cPSD| 40419767
hài hoà yếu tố truyền thống và hiện đại… Điều mà chúng ta cần phải học tập nhiều
nước đã đi trước ta một bước, ở các nước đó việc coi trọng giáo dục là quốc sách
hàng đầu bởi vì sự yếu kém về trí tuệ, coi thường tài năng và đầu óc hẹp hòi, đố
kỵ, thờ ơ trước tương lai của cộng đồng dân tộc sẽ là lực cản nguy hại đến tiến
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vì vậy "Sự phát triển người và giáo dục được
coi là yếu tố quan trọng to lớn đối với tiến bộ kinh tế" (Tư tưởng của Adam Smith).
IV. Hiện trạng và giải pháp cho nguồn lực con người ở nước ta hiện nay.
Để thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
chúng ta phải sử dụng đúng nguồn lực trong đó nguồn lực con người là nguồn lực
quan trọng nhất. Muốn sử dụng tốt nguồn lực này chúng ta phải hiểu rõ thực trạng
và tiềm năng của nó. Khi đó chúng ta mới có thể khắc phúc và phát triển nguồn nhân lực được.
Nhìn thực trạng nguồn lực nước ta hiện nay không thể không có những băn
khoăn. Bên cạnh những ưu thế như, lực lượng lao động dồi dào (hơn 65 triệu lao
động). Con người Việt Nam cần cù chịu khó, thông minh và sáng tạo có khả năng
vận dụng và thích ứng nhanh, thì những hạn chế về mặt chất lượng người lao
động, sự bất hợp lý về phân công lao động được đào tạo trong các lĩnh vực sản
xuất và những khó khăn trong phân bổ dân cư cũng không phải là nhỏ. Đại bộ
phận lao động nước ta chưa được đào tạo đầy đủ, số người đào tạo mới chỉ chiếm
10%, nền kinh tế quốc dân còn thiếu nhiều lao động và cán bộ có tay nghề và trình
độ kỹ thuật, nghiệp vụ cao trong tổng số người lao động chỉ hơn 1,65% có trình
độ cao đẳng trở lên 30% (số liệu mới) tốt nghiệp phổ thông trung học, 50% chưa
tốt nghiệp phổ thông cơ sở. Mặt khác mặt bằng dân trí còn thấp, số năm đi học
của mỗi người dân từ 7 tuổi trở lên mới đạt bình quân 4,5 năm. Điều đáng kể lo
ngại và đau đầu nhất của nhà nước ta đó là nạn mù chữ, tới nay nước ta 8% dân
số mù chữ, chưa phổ cập được giáo dục tiểu học. Mặt khác người lao động Việt
Nam còn hạn chế về thể lực, sự phát triển về phương diện sinh lý và thế lực dường
như còn chững lại, hơn nữa người lao động nước ta nói chung văn hoá còn kém,
lao động công nghiệp quen theo kiểu sản xuất nhỏ và lao động giản đơn. lOMoAR cPSD| 40419767
Cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường thực trạng đội ngũ cán bộ
tri thức Việt Nam đặc biệt là tri thức cao đang đặt ra một vấn đề được giải quyết,
sự già hoá của đội ngũ trí thức, trong các ngành khoa học trọng yếu tuổi bình quân
của tiến sỹ là 52,8, phó tiến sỹ 48,1, giáo sư 59,5, phó giáo sư 56,4. Cấp viện
trưởng là 55 (số liệu này cho tới nay đã thay đổi). Như vậy đến năm 2001 hơn
80% số người có học hàm, học vị hiện nay đã đến tuổi về hưu. Điều đó gây nên
sự hẫng hụt cán bộ khoa học kế cận.
Trong khi số người có học vấn cao giảm thì số sinh viên tốt nghiệp đại học
và cao đẳng không tìm được việc làm lại tăng lên phải chăng chúng ta đã quá thừa
những người có học vấn chắc chắn là không. Sự thừa đó chính là tác động của mặt
trái của kinh tế thị trường. Rõ ràng sự chậm cải tạo giáo dục và nội dung đào tạo
không theo kịp những đòi hỏi của người sử dụng đã dẫn đến sự lãng phí trong đầu
tư cho giáo dục, lực lượng lao động ở nước ta hiện nay rất hạn chế về chất lượng
nhất là trình độ chuyên môn, nghề nghiệp, kỹ năng lao động, thể lực và văn hoá
lao động công nghiệp. Thêm vào đó việc sử dụng và khai thác số lao động, đã
được đào tạo, có trình độ lại không hợp lý và kém hiệu quả. Nếu chúng ta không
có một nỗ lực phi thường bằng hành động thực tế trong việc xây dựng và sử dụng
nguồn lực lao động thì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá khó có thể thực
hiện được thành công; và đó cũng là lý do vì sao nhiều nhà khoa học kêu gọi phải
tiến hành một cuộc cách mạng về con người mà thực chất là cách mạng về chất
lượng lao động mỗi bước tiến của "cách mạng con người" sẽ đem lại những thành
tựu to lớn cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, như chúng ta đã biết "cách
mạng con người" với công nghiệp hoá, hiện đại hoá là hai mặt của một quá trình
phát triển thống nhất, giữa chúng có một quan hệ biện chứng lần nhau.
Để tạo ra sự thay đổi căn bản về chất lượng trong nguồn lực con người cần
có hàng loạt những giải pháp thích ứng nhằm phát triển tốt yếu tố của con người
trong sự nghiệp đi lên của đất nước.
Chăm sóc đào tạo phát huy nguồn lực con người phục vụ cho công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. lOMoAR cPSD| 40419767
Vấn đề con người trong công cuộc đổi mới vì công nghiệp hoá, hiện đại hoá
tập trung thành vấn đề quan trọng bậc nhất trong "kết cấu hạ tầng xã hội, kinh tế"
tức là một trong những tiền đề cơ bản để phát triển xã hội, đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đại hội VIII của Đảng ta là đại hội công nghiệp hoá, hiện đại hoá mở ra bước
ngoặt lịch sử đưa nước ta tiến lên một thời kỳ phát triển toàn diện mỗi "Lấy việc
phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững". Vì vậy cần được tập trung và chăm sóc bồi dưỡng, đào tạo phát huy sức
mạnh của con người Việt Nam thành lực lượng lao động xã hội, lực lượng sản
xuất có đủ bản lĩnh và kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước,
đủ sức xây dựng và bảo vệ tổ quốc hợp tác cạnh tranh trong kinh tế thị trường mở
cửa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sức mạnh của con người
và các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam. Phải thể hiện thành sức mạnh của
đội ngũ nhân lực, trong đó có bộ phận nhân tài trên nền dân trí với cốt lõi là nhân
cách nhân phẩm đậm đà bản sắc dân tộc của từng người, từng nhà cộng đồng, giai cấp và cả dân tộc.
Nói đến nguồn lực con người là nói đến sức mạnh trí tuệ tay nghề. Phương
hướng chủ yếu của đổi mới giáo dục - đào tạo là phục vụ đắc lực cho công cuộc
phát triển đất nước, tức là cuối cùng phải tạo ra được nguồn lực con người. Các
trường chuyên nghiệp và đại học tập trung vào đào tạo nguồn nhân lực đủ khả
năng tiếp cận công nghệ tiên tiến, công nghệ coi như báo cáo chính trị đại hội VIII
đã chỉ ra. Phải mau chóng làm cho khoa học và công nghệ trở thành nền tảng của
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Giáo dục đại học phải kết hợp với nghiên cứu khoa
học, phát triển khoa học cả về cơ bản và ứng dụng. Bảo đảm tập trung đào tạo đội
ngũ nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá với diện đại trà, đồng thời đặc
biệt chú ý tới mũi nhọn - có chính sách phát hiện bồi dưỡng và sử dụng người tài
mau chóng tăng cường đội ngũ nhân lực có trình độ và năng lực cao, từ các nghệ
nhân làm các nghề truyền thống đến các chuyên gia công nghệ cao. Giáo dục và
đào tạo kết hợp chặt chẽ với khoa học kỹ thuật công nghệ mới có thể đóng góp lOMoAR cPSD| 40419767
xứng đangs vào phát huy nguồn lực con người, tuy nhiên một yếu tố mà ngày nay
con người cần phải hoàn thiện đó là. Cần coi trọng mặt đạo đức nhân cách của nguồn lực con người.
Muốn có nguồn lực con người đáp ứng được công cuộc đổi mới giáo dục nhà
trường cùng với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội phải làm tốt việc phát động
một cao trào học tập trong toàn Đảng toàn dân, toàn quân nhằm đào tạo nên những
con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh
thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Vậy mọi chủ trương chính sách
của Đảng và Nhà nước cần phải quán triệt việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát triển nhân tố con người. lOMoAR cPSD| 40419767 ý kiến bản thân.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường tất yếu duy nhất để đưa nước ta
từ một nước kém phát triển đạt được những thành tựu to lớn cả những mặt kinh tế
cũng như xã hội nhưng để thành công quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá,
chúng ta phải biết tận dụng các nguồn lực sẵn có trong nước cũng như nước ngoài.
Một trong những nguồn lực đó là nguồn nhân lực, con người không những chỉ có
vai trò về sự vận đồng và phát triển của xã hội mà trong điều kiện nay, con người
là nguồn lực cho quá trình đổi mới đất nước. Sự phát triển vượt bậc về mặt trí tuệ.
Đồng thời trí tuệ còn giúp con người khám phá ra khoa học kỹ thuật giúp con
người phát triển lực lượng sản xuất từ giản đơn đến phức tạp để từ đó biến con
người từ lạc hậu sang văn minh như ngày nay. Còn đối với công nghiệp hoá, hiện
đại hoá con người là nguồn lực chủ thể quan trọng trong suốt quá trình tiến hành.
Bởi tiềm năng con người với trí tuệ và lao động định hướng, trí tuệ đó đã và đang
là sản phẩm quý giá nhất của nguồn lực, quyết định sự tiến bộ của mỗi quốc gia.
Làm thế nào để nhanh chóng tạo ra sự thay đổi căn bản về chất lượng trong
nguồn lực con người? Để giải quyết vấn đề này cần phải có hàng loạt các giải
pháp thích ứng nhằm phát huy tốt yếu tố con người. Với bản thân là sinh viên
đang ngồi trên ghế nhà trường bản thân tôi cũng có hai ý kiến cơ bản mà đã được
các nhà kinh tế; các nhà lý luận đúc kết từ trước tới, nhằm nâng cao trình độ nhận
thức và phát huy tối đa nguồn lực con người thì cần phải đề cập hia vấn đề khi
tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thứ nhất: Quan tâm đúng mức tới nhu cầu và lợi ích của người lao động
trong sản xuất cũng như trong hoạt động xã hội, con người luôn luôn bị kích thích,
bị thôi thúc bởi hàng loạt các động lực ở nước ta hiện nay, nền kinh tế tuy đã thoát
khỏi khủng hoảng và bước vào thời kỳ phát triển mới, nhưng đời sống vật chất
của người lao động còn khó khăn, do đó cần có sự quan tâm đúng mức tới nhu
cầu và lợi ích của người lao động mà trước hết là lợi ích kinh tế. Trước đây chúng
ta đã có lúc chúng ta nặng về kêu gọi nhân dân “ thắt lưng buộc bụng” để xây lOMoAR cPSD| 40419767
dựng chủ nghĩa xã hội mà ít chú ý đến lợi ích kinh tế của họ cho nên ở chừng mực
nhất định, chúng ta chẳng những đã không kích thích người lao động, hăng say
sản xuất, mà còn có khi ngược lại, làm cho họ quay lưng lại với sản xuất chúng ta
đã quên rằng nhu cầu thiết thực trước mắt bảo đảm sự tồn tại của người lao động
chính là những động lực to lớn thúc đẩy lợi ích, kinh tế cho người lao động làm
một khâu rất quan trọng tạo ra động lực phát huy tính năng động.
Thứ hai: Xây dựng môi trường xã hội, tạo điều kiện để phát huy yếu tố con
người. Con người là chủ thể, đồng thời con người cũng là sản phẩm của sự vận
động xã hội, của chế độ xã hội. Vì vậy muốn phát huy được yếu tố con người cần
phải có môi trường thích ứng. Việc giải phóng lực lượng sản xuất được thực hiện
trước tiên và chủ yếu nhất là ở khâu xoá bỏ những cơ chế đã và đang kìm hãm
tính tích cực chủ động sáng tạo của người lao động, do đó xây dựng môi trường
là tiềm đề cho xây dựng con người mới tỏng công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. kết luận
Chủ nghĩa xã hội do con người, vì con người. Do vậy hình thành mối quan
hệ đúng đắn về con người về vai trò của con người trong sự phát triển xã hội nói
chung trong xã hội, xã hội chủ nghĩa nói riêng là một ván đề không thể thiếu được
của thế giới quan Mác - Lênin.
Con người là khái niệm chỉ những cá thể người như một chỉnh thể, trong sự
thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội của nó.
Nếu chỉ dừng lại ở một số trước tính sinh học của con người thì không thể
giải thích được bản chất của con người, con người là một thực thể đặc biệt hoạt
động có ý thức, có khả năng sáng tạo cho mình. Từ tự nhiên và chính trong quá
trình hoạt động đó những quan hệ xã hội được hình thành có tác động mạnh mẽ
tới sự hình thành nhân cách, bản chất con người Mác viết “Con người là tổng hoà
của những quan hệ xã hội”.
Con người là chủ thể lịch sử, sáng tạo và lịch sử. Trong CMXHCN con người
là yếu tố quyết định vừa là điểm xuất phát vừa là mục đích của một chính sách lOMoAR cPSD| 40419767
kinh tế - xã hội xây dựng xã hội chủ nghĩa là xây dựng xã hội chủ nghĩa là xây
dựng một xã hội mà ở đó có đủ những điều kiện vật chất và tinh thần.
Việt Nam đã làm được điều đó hay chưa; cho tới nay tuy chúng ta đã đạt
được những thành tựu đáng kể nhưng đời sống vật chất tinh thần của đại đa số,
người dân còn thiếu. Do vậy lý luận chủ nghĩa Mác Lênin nói chung và quan điểm
chủ nghĩa Mác Lênin về con người là kim chỉ nam để hướng đất nước ta cần pahỉ
đi đâu, làm gì và làm như thế nào, để thực hiện thành công công cuộc công nghiệp
hoá hiện đại hóa đất nước, có như vậy chúng ta mới vượt qua được cái ngưỡng
của nghèo nàn và lạc hậu...
Tài liệu tham khảo 1.
Giáo tình triết học Mác Lên của NXB chính trị quốc gia (tập I, tập II). 2.
Giáo trình kinh tế chính trị học của NXB giáo dục 1996, 3.
Tài liệu học tập lý luận chính trị phổ thông (NXB chính trị quốc gia (tập1). 4. Tap chí cộng sản. 5.
Vấn đề con người trong sự ngihệp CNH, HĐH. Phạm Minh Hạc.
NXB chính trị quốc gia 1996. 6.
Con người Việt Nam và công cuộc đổi mới kỷ yếu hội nghị khoa học
từ28 - 29 /7/1993. Tại TPHCM.
7.Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam - lý luận và thực tiễn. Nguyễn Trọng Chuẩn. NXB chính trị quốc gia. 8.
Chiến lược huy động vốn và nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐHđất nước. Trần Kiên 9.
Định hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong quá trình CNH, lOMoAR cPSD| 40419767 HĐH. Phạm Tất Dong. Mục lục
Lời mở đầu .................................................................................................... 1
Nội dungChương II. Lý luận của chủ nghĩa Mác về con người ................... 2
I. Bản chất của con người ............................................................................ 2
a. Quan điểm của các nhà triết học trước Mác về con người ....................... 2
b. Con người là chủ thể sinh động nhất của xã hội ....................................... 5
II. Quan điểm chủ nghĩa Mác về con người ................................................. 6
III. Vai trò của chủ nghĩa Mác về con người trong đời sống xã hội ........... 10
Chương II. Vấn đề con người trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước ............................................................................................................. 15
I. Tính tấ yếu khách quan của công nghiệp hoá hiện đại hoá ..................... 15
II. Mục tiêu con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước
ta hiện nay ................................................................................................... 20
III. Nguồn lực con người là yếu tố quyết định cho sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nướ ............................................................................ 22
IV. Hiện trạng và giải pháp cho nguồn lực con người ở nước ta hiện na ... 24
ý kiến bản thân ............................................................................................ 28
Kết luận ....................................................................................................... 29
Tài liệu tham khảo ....................................................................................... 30