Tiểu luận Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Mở Hà Nội

Tiểu luận Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Mở Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

1
MỤC LỤC
Đề mục Trang
Mục lục................................................................................................... 1
Mở đầu................................................................................................... 3
1. Tính cấp thiết...................................................................................... 3
2. Mục tiêu nghiên cứu........................................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...................................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu.................................................................... 3
5. Bố cục của Tiểu luận.......................................................................... 4
Chương I: Khái quát về phật giáo...................................................... 5
1.1. Nguồn gốc ra đời............................................................................. 5
1.2. Những tư tưởng cơ bản của Triết học Phật giáo............................. 6
1.3. Những điểm tích cực của Phật giáo.............................................. 10
1.4. Những hạn chế của Phật giáo....................................................... 13
Chương II: Một số ảnh hưởng của Phật giáo đến xã hội và con
người Việt Nam..................................................................................... 14
2.1. Phật giáo với xã hội và con người Việt Nam ngày nay...................
14
2.2. Ảnh hưởng của Phật giáo đến thế hệ trẻ........................................ 17
2.3. Phát huy tính hợp của Phật giáo trong xây dựng đời sống văn
hóa hiện nay...................................................................................... 19
Chương III: Vận dụng phật giáo đối với xây dựng tư tưởng đời
sống văn hóa ở nước ta hiện nay......................................................... 20
KẾT LUẬN............................................................................................ 21
2
MỞ ĐẦU
Tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng nhu cầu tinh thần của một bộ
phận nhân dân, có ảnh hưởng sâu sắc đến các lĩnh vực kinh tế, chính trị - xã hội,
văn hóa, đạo đức, an ninh quốc phòng... của đất nước. vậy khi đề cập đến sự
tín ngưỡng tâm linh, đời sống tinh thần của người Việt Nam thì không thể không
nói đến Phật giáo. Đa phần người dân Việt Nam điều tôn sùng đạo phật. Vì lẽ đó
mà Phật giáp trở thành quốc đạo ở các thời Đinh, Lý, Trần… hiện nay Phật giáo
giữ vai trò quan trọng trong công cuộc đổi mới phát triển đất nước. Đảng
nhà nước ta đã công nhận những thành quả tốt đẹp những cống hiến to lớn
của Phật giáo Việt Nam cho toàn dân, toàn hội đang khuyến khích phát
huy những giá trị tốt đẹp ấy.
Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta gặp biết bao áp lực, trở ngại của cuộc
sống cũng như hiểm họa thiên tai từ thiên nhiên… nếu tâm hồn chúng ta không
nơi nào để giải tỏa, để nương tựa để tin tưởng thì lẽ không một ai thể
vượt qua. Phật giáo như chỗ dựa tinh thần vững chắc của mỗi người Việt
Nam, như là người mẹ hiền, là ánh sáng soi đường cho những người con lầm lỡ,
là sự sống cho người chết và là trái tim lương thiện trong mỗi con người.
Vậy khi nghiên cứu về những tưởng bản của Phật giáo Ấn độ cổ đại
những ảnh hưởng tới đời sống tinh thần ở nước ta hiện nay cần quan tâm đến
các vấn đề thế giới quan triết học về thế giới, về con người, và về xã hội. Những
tưởng của Phật giáo, mối quan hệ giữa thế giới con người, giữa nhân
với cộng đồng hội mang lại nhiều giá trị to lớn qua nhiều thế kỷ nhiều nền
văn hóa khác nhau và những ảnh hưởng đối với thế hệ trẻ hiện nay.
3
Chương I
KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO
1.1. Nguồn gốc ra đời
Phật giáo một tôn giáo được Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) truyền
giảng miền Bắc Ấn Độ vào thế kỷ 6 trước công nguyên (TCN). Do được
truyền trong một thời gian dài ra nhiều nơi đến nhiều chủng tộc nên lịch sử
phát triển của đạo Phật khá đa dạng về các bộ phái cũng như các nghi thức hay
phương pháp tu học. Ngay từ buổi đầu, Thích Ca, người sáng lập đạo Phật, đã tổ
chức được một giáo hội với các giới luật chặt chẽ.
Điều kiện thiên nhiên ở Ấn Độ: Ấn Độ là đất nước có điều kiện tự nhiên đa
dạng. Đất nước này vừa dãy núi Hymalaya hùng phía Bắc, vừa biển
Ấn Độ Dương rộng mênh mông; vừa sông Ấn chảy về phía Tây, lại sông
Hằng chảy về phía Đông. thế Ấn Độ những vùng đồng bằng trù phú màu
mỡ, vùng nóng ẩm mưa nhiều, vùng lạnh giá quanh năm tuyết phủ, lại
những vùng xa mạc khô cằn, nóng bức. Những điều kiên tự nhiên đa dạng
khắc nghiệt ấy là cơ sở để hình thành sớm những tư tưởng tôn giáo triết học.
Về kinh tếhội: Từ thế kỷ VI – I TCN, nền kinh tếhội chiếm hữu
lệ Ấn Độ đã phát triển, thổ dân trên bán đảo Nam Á người Dravidian
Sumerian đã nền văn minh khá cao. Đầu thế kỷ II TCN, một nhánh người
Aryan thâm nhập vào bán đảo Ấn Độ, dần dần chuyển sang định sống
bằng nghề nông. Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế hội của Ấn Độ cổ đại,
trung đại sự tồn tại rất sớm kéo dài của kết cấu kinh tế hội theo
hình “công nông thôn”. nh này đặc trưng ruộng đất thuộc quyền
sở hữu nhà nước, gắn liền với sự bần cùng hóa của người dân trong công
xã và quan hệ giữa gia đình thân tộc được coi là quan hệ cơ bản, cùng với xã hội
được phân chia thành các đẳng cấp. hội thời kỳ này được phân chia thành 4
đẳng cấp lớn là: tăng lữ, quý tộc, bình dân tự do lệ cung đình. Sự phân
chia đẳng cấp đó làm cho hội xuất hiện những mâu thuẫn gay gắt dẫn đến
cuộc đấu tranh giai cấp giữa các đẳng cấp trong xã hội. Trong cuộc đấu tranh ấy,
nhiều tôn giáo và trường phái triết học đã ra đời, trong đó có Phật giáo.
4
Đặc điểm văn hóa – khoa học: Văn hoá Ấn Độ cổ – trung đại được chia m
ba giai đoạn. Khoảng thế kỷ XXV-XV TCN gọi nền văn minh ng Ấn, từ thế
kỷ XV – VII TCN gọi nền văn minh Vêđatừ thế kỷ VI I TCN là thời kỳ
hình thành các trường phái triết học tôn giáo lớn gồm hai hệ thống đối lập nhau là
chính thống không chính thống. Tiêu chuẩn của chính thống không chính
thống là có thừa nhận uy thế của kinh Vêđa và đạo Bàlamôn hay không. Về khoa
học, ngay từ thời kỳ cổ đại, người Ấn Độ đã đạt được những thành tựu về khoa học
tự nhiên. Đặc biệt là cácnh vực thiên văn, toán học, y học
Như vậy, tất cả những đặc điểm kinh tế, chính trị, văn hoá, hội nói trên
sở cho sự nảy sinh phát triển những tưởng triết học của Ấn Độ thời
cổ, trung đại với các hình thức phong phú đa dạng. Và Phật giáo ra đời trong làn
sóng phản đối sự ngự trị của đạo Bàlamôn chế độ đẳng cấp, giải căn
nguyên nỗi khổ tìm đường giải thoát cho con người khỏi nỗi khổ triền miên,
đè nặng trong hội lệ Ấn Độ. chống lại sự ngự trị của đạo Bàlamôn đặc
biệt quan điểm của kinh Vêđa nên Phật giáo được xem dòng triết học
không chính thống.
1.2. Những tư tưởng cơ bản của Triết học Phật giáo
tưởng triết học Phật Giáo ban đầu chỉtruyền miệng, sau đó được viết
thành văn thể trong một khối kinh điển rất lớn, gọi là “Tam Tạng”, Gồm 3 Tạng
kinh điển là: Tạng Kinh, Tạng Luật Tạng Luận. Trong đó thể hiện các quan
điểm về thế giới và con người.
1.2.1 Quan điểm của phật giáo về thế giới quan
Quan điểm về thế giới quan của Phật giáo thể hiện tập trung ở nội dung của
3 phạm trù: vô ngã, vô thường và duyên.
a. Vô ngã (không có cái tôi chân thật)
Trái với quan điểm của kinh đa, đạo Bàlamôn đa số các môn phái
triết học n giáo đương thời thừa nhận sự tồn tại của một thực thsiêu nhiên
tối cao, ng tạo chi phối trụ, Phật giáo cho rằng thế giới xung quanh ta
cả con người không phải do một vthần o sáng tạo ra được cấu thành
bởi sự kết hợp của 2 yếu t Sắc” và “Danh”. Trong đó, Sắc là yếu tố vật
chất, là cái có thể cảm nhận được, nó bao gồm đất, ớc, lửa kng khí;
Danh yếu t tinh thần, không hình chất ch tên gọi. Nó bao gồm:
th (cảm thụ), ởng (suy ng), hành muốn để nh động) thức (sự
nhận thức).
Danh sắc kết hợp lại tạo thành 5 yếu tố gọi là “Ngũ uẩn”. Ngũ uẩn bao
gồm sắc (vật chất), thụ (cảm giác), tưởng (ấn tượng), hành (suy lý) thức
5
thức), chúng tác động qua lại với nhau tạo nên vạn vật con người. Nhưng sự
tồn tại của sự vật chỉ tạm thời, thoáng qua, không có sự vật riêng biệt nào tồn
tại mãi mãi. Do đó, không có “Bản ngã” hay cái tôi chân thực.
b. Vô thường (vận động biến đổi không ngừng)
Đạo Phật cho rằng “Vô thường” không cố định, luôn biến đổi. Các sự
vật, hiện tượng trong trụ không đứng yên mà luôn luôn biến đổi không
ngừng, không nghỉ theo chu trình bất tận là “sinh – trụ – dị – diệt”. Nghĩa là sinh
ra, tồn tại, biến dạng và mất đi.
Do đó, không có gì trường tồn, bất định, chỉ có sự vận động biến đổi không
ngừng.Với quan niệm này, Đức Phật dạy: “tất cả những trong thế gian đó
biến đổi, hoại, đều thường”. vậy mọi sự vật không mãi yên trong
một trạng thái nhất định, luôn luôn thay đổi hình dạng, đi từ trạng thái hình
thành đến biến dị rồi tan rã. Sinh diệt hai quá trình xảy ra đồng thời trong
một sự vât, hiện tượng cũng như trong toàn thể trụ rộng lớn. Đức Phật cũng
dạy rằng không phải sự vật, hiện tượng sinh ra mới gọi sinh, mất (hay chết
đi) mới gọi diệt, trong sự sống sự chết, chết không phải hết, không
phải là hết khổ mà chết là điều kiện của một sinh thành mới.
c. Duyên (điều kiện cho nguyên nhân trở thành kết quả)
lan Phật giáo cho rằng, mọi sự vật, hiện tượng trong tr t cái nh
nhất đếni lớn nhất đều chịu sự chi phối của luật nhân duyên. Trong đó dun là
điều kiện gp cho nguyên nhân tr tnh kết quả. Kết quấy lại nhờ có dun mà
trở thành nn khác, nhân kc lại nhờ có dun mà trở tnh kết quả mới. Cứ n
vậy mà tạo nên sự biến đổi không ngừng của các s vật, tuân theo quy luật “Nhân-
Quả”, nn cái hạt, qu cái ti, cái trái do mầm ấy pt sinh. Nn quả là hai
trạng thái nối tiếp nhau, nương tựa vào nhaucó. Nếu kng có nhân thì không
th quả, nếu kngquthì không th nn, nn thế o thì quthế ấy.
Hạt lúa được gọi là “nhân” khi gặp “duyên” là điều kiện thuận lợi về không
khí, nước, ánh sáng, nhiệt độ…thì nhân sẽ phát triển thành “quả” là cây lúa.
Như vậy, thông qua các phạm trù Vô ngã, Vô tờng và Duyên, triết học Phật
giáo đã bác b quan điểm duy tâm lúc bấy gi cho rằng thần Brahman sáng tạo ra
con nời và thế giới. Phật go cho rằng sự vật và con người được cấu tnh từ các
yếu tố vật chất và tinh thần. Các sự vật hiện tượng thế giới nằm trong quá trình ln
hệ, vận động, biến đổi không ngừng. Ngun nhân của s vận động, biến đồi nằm
trong c sự vt. Đó là quan điểm biện chứng về thế giới tuy còn mộc mạc chất pt
nhưng rất đáng tn trng. Và đó cũng là quan điểm duy vật biện chứng về thế giới.
1.2.2. Quan điểm của phật giáo về nhân sinh quan
6
Nội dung triết nhân sinh của Phật giáo được thể hiện tập trung trong
thuyết “Tứ Diệu Đế” tức4 chântuyệt(Tứ thánh đếCatvary Arya Satya)
diệu đòi hỏi mọi người phải nhận thức được. Tứ diệu đế là:
a. Khổ đế
Chân về sự khổ, cho rằng mọi dạng tồn tại đều mang tính chất khổ não,
không trọn vẹn, cuộc đời con người một bể khổ. Phật xác nhận đặc tính của
cuộc đời thường, ngã và vậy con người phải chịu khổ. 8 nỗi
khổ là: sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, thụ biệt khổ (yêu thương nhau phải
xa nhau), oán tăng hội (ghét nhau phải gần nhau), sở cầu bất đắc (mong muốn
mà không đạt được) và ngũ thụ uẩn (do 5 yếu tố tạo nên con người).
Như vậy, cái khổ về mặt hiện tượng cảm giác khổ về thân, sự bức xúc
của hoàn cảnh, sự không toại nguyện của tâm về bản chất. Về phương triết
học, khổ đau một thực tại như thực đối với con người. Khổ đế một chân
khách quan hiện thực. Khổ hay hình thái bất ankết quả hàng loạt nhân duyên
được tạo tác từ tâm thức. Như vậy tri nhân thực tại một cách trực tiếp đi vào
soi sáng mọi hình thái khổ đau của con người. Để thấu hiểu triệt để cái căn
nguyên của khổ đau, con người không thể dừng lại sự thật của đau khổ hay
quay mặt chạy trốn, mà phải đi vào soi sáng cái bản chất nội tại của nó.
Đạo Phật cho rằng đời là bể khổ, nỗi đau khổvô tận, tuyệt đối. Do đó, con
người đâu, làm cũng khổ. Cuộc đời là đau kh kng còn tồn tại o kc. Ngay
c cái chếtng không chấm dứt sự khổ mà là tiếp tục sự khổ mới. Phật ví sự kh
của con nời bằng nhnh: “Nước mt của chúng sinh nhiều hơn nước biển”.
b. Nhân đế (hay Tập đế)
triết lý về sự phát sinh, nguyên nhân gây ra sự khổ. “Tập”tụ hợp, kết
tập lại. Nguyên nhân của khổ sự ham muốn, tìm sự thỏa mãn dục vọng, thỏa
mãn được trở thành, thỏa mãn được hoại diệt… Các loại ham muốn này gốc
của luân hồi. Đạo Phật cho rằng nguyên nhân sâu xa của sự khổ, phiền não
do tức 12 nhân duyên tạo ra chu trình khép kín trong“thập nhị nhân duyên”,
mỗi con người. 12 nhân duyên gồm:
- minh (không sáng suốt): đồng nghĩa với tối, ít hiểu biết, không
sáng suốt. Không hiểu được đời bể khổ, không tìm ra nguyên nhân con
đường thoát khổ. Trong mười hai nhân duyên, minh căn bản. Nếu không
thấu hiểu Tứ diệu đế cũng được gọi là Vô minh.
- : là ý muốn thúc đẩy hành động.Duyên hành
- : tâm từ trong sáng trở nên u tối.Duyên thức
7
- Duyên danh sắc: sự hội tụ các yếu tố vật chất và tinh thần sinh ra các
quan cảm giác (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể và ý thức).
- : quá trình xâm nhập của thế giới xung quanh vào cácDuyên lục nhập
giác quan cảm giác, lúc đó thân sẽ sinh ra sáu cửa là: nhãn, nhĩ, tỳ, thiệt, thân, ý
để thiêu hủy, đón nhận.
- : sự tiếp xúc của thế giới xung quanh sinh ra cảm giác. ĐóDuyên xúc
là sắc, thinh, hương vị, xúc và pháp khi tiếp xúc, đụng chạm vào.
- : sự cảm thụ, sự nhận thức khi thế giới bên ngoài tiếp xúcDuyên thụ
với lục căn sinh ra cảm giác.
- : yêu thích nảy sinh ham muốn, dục vọng trước sự tácDuyên ái
động của thế giới bên ngoài.
- : do yêu thích quyến luyến, không chịu xa lìa, rồi muốn chiếmDuyên thủ
lấy, giữ lấy không chịu buông ra.
- : cố để dành, tồn tại để tận hưởng cái đã chiếm đoạt được.Duyên hữu
- : sự ra đời, sinh thành do phải tồn tại.Duyên sinh
- : khi đã sinh thì xác thân phải tiêu hoại mỏi mòn, trẻ rồi già,Duyên lão tử
ốm đau rồi chết.
Thập nhị nhân duyên nhiều cách giải thích khác nhau nhưng nhìn chung
đều cho rằng chúng có quan hệ mật thiết với nhau, cái này là nhân, làm duyên cho
i kia, cái này là quả của cái trước, đồng thời là nhân cho cái sau. Cũng có lời giải
thích là 12 yếu tố tích luỹ đưa đếni kh sinh t hiện tại mà yếu tố căn bản là ái
thủ, nghĩa là tham lam, ích kỷ, còn gọi ngã chấp. ời hai nguyên nhân
kết quả nối tiếp nhau tạo ra cái vòng lẩn quẩn của nổi khđau nhân loại.
Nguyên nhân sâu hơn căn bản hơn chính minh, tức si không
thấy rõ bản chất của sự vật hiện tượng đều nương tựa vào nhau mà sinh khởi, đều
thường chuyển biến, không cái chủ thể, cái bền vững độc lập trong
chúng. Chúng ta thể nhận thấy một cách ràng, khổ hay không do lòng
mình. Hay nói cách khác, tùy theo cách nhìn của mỗi người đối với cuộc đời
khổ hay không. Nếu không bị sự chấp ngã dục vọng, vị kỷ hay phiền não
khuấy động, chi phối, ngự trị trong tâm thì cuộc đời đầy an lạc hạnh phúc.
c. Diệt đế
chân về diệt khổ. Phật giáo cho rằng mọi nỗi khổ đều có thể tiêu diệt
được để đạt tới trạng thái “niết bàn”. Một khi gốc của mọi tham ái được tận diệt
thì sự khổ cũng được tận diệt. Muốn diệt khổ phải đi ngược lại 12 nhân duyên,
bắt đầu từ diệt trừ vô minh.
8
minh bị diệt, trí tuệ được bừng sáng, hiểu rõ được bản chất tồn tại, thực
tướng của trụ con người, không còn tham dục kéo theo những hành
động tạo nghiệp nữa, tức là thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử. Nói cách khác diệt
trừ được vô minh, tham dục thì hoạt động ngũ uẩn dừng lại, tu đến niết bàn, tịch
diệt khi ấy mới hết luân hồi sinh tử.
Phật Giáo cho rằng, một khi người ta đã làm lắng dịu lòng tham ái, chấp
thủ, thì những nỗi lo âu, sợi hãi, bất an giảm dần, thâm tâm của bạn trở nên
thanh thản, đầu óc tỉnh táo hơn; lúc đó nhìn mọi vấn đề trở nên đơn giản hơn,
rộng lượng hơn. Đó một hình thức hạnh phúc, cũng nhờ vậy tâm trí không bị
chi phối bởi những tư tưởng chấp thủ, nhờ không bị nung nóng bởi các ngọn lửa
phiền muộn, lo lắng sợ hãi tâm của bạn trầm tĩnh sáng suốt hơn, khả
năng nhận thức sự vật hiện tượng sâu sắc hơn, chính xác hơn, thâm tâm được
chuyển hóa, thái độ ứng xử của bạn với mọi người xung quanh rộng lượng
bao dung hơn. Tùy vào khả năng giảm thiểu lòng tham, minh đến mức độ
nào thì đời sống của bạn sẽ tăng phần hạnh phúc đến mức độ ấy.
d. Ðạo đế
chân về con đường dẫn đến diệt khổ. Đây con đường tu đạo để
hoàn thiện đạo đức nhân. Khổ được giải thích xuất phát Thập nhị nhân
duyên một khi dứt được những nguyên nhân đó thì ta thể thoát khỏi vòng
sinh tử. Chấm dứt luân hồi, vòng sinh tử đồng nghĩa với việc chứng ngộ niết
bàn. 8 con đường chân chính để đạt sự diệt khổ dẫn đến niết bàn gọi “Bát
chính đạo”. Bát chính đạo bao gồm:
- Chính kiến: hiểu biết đúng đắn và gìn giữ một quan niệm xác đáng về Tứ
diệu đế và giáo lí vô ngã.
- Chính duy: suy nghĩ luôn một mục đích đúng đắn, suy xét về ý
nghĩa của bốn chân lí một cách không sai lầm.
- Chính ngữ: nói năng phải đúng đắn, không nói dối hay nói phù phiếm.
- Chính nghiệp: giữ nghiệp đúng đắn, tránh phạm giới luật, không làm
việc xấu, nên làm việc thiện.
- Chính mệnh: giữ ngăn dục vọng đúng đắn, tránh các nghề nghiệp liên
quan đến sát sinh.
- Chính tinh tiến: cố gắng nỗ lực đúng hướng không biết mệt mỏi để phát
triển nghiệp tốt, diệt trừ nghiệp xấu.
- Chính niệm: tâm niệm luôn tin tưởng vững chắc vào sự giải thoát, luôn
tỉnh giác trên ba phương diện Thân, Khẩu, Ý.
9
- Chính định: kiên định, tập trung tưởng cao độ suy nghĩ về tứ diệu đế,
vô ngã, vô thường, tâm ý đạt bốn định xuất thế gian .
Theo con đường bát chính đạo nói trên, con người thể diệt trừ minh,
đạt tới sự giải thoát, nhập vào niết bàn là trạng thái hoàn toàn yên tĩnh, sáng
suốt, chấm dứt sinh tử luân hồi.
Ngoài ra Phật giáo còn đưa ra 5 điều nhằm răn đe đem lại lợi ích cho con
người hội. Chúng bao gồm: bất sát (không sát sinh), bất dâm (không dâm
dục), bất vọng ngữ (không nói năng thô tục, bậy bạ), bất âm tửu (không rượu,
chè) và bất đạo (không trộm cướp).
Như vậy, Phật giáo ngun thủy có ởng thần, có yếu t duy vật
tưởng biện chứng của thế giới. Phật go khuyên con nời suy nghĩ
thiện và làm việc thiện nhằm góp phần hoàn thiện đạo đức cá nhân. Tuy nhn
trong triết nhân sinh và con đường giải png của phật giáo vẫn mang nặng
nh chất bi quan kng tưởng và duy m v hội. những tư tưởng xã
hội phật giáo đã phản ánh thực trạng xã hội đẳng cấp khắc nghiệt của hội
Ấn Đ c trung đại và u lên ước vọng giải thoát nỗi bi kịch cho con
người lúc đó. Phật giáong nói n được tự do bình đẳng trong xã hội nng
triết nhân sinh vẫn n mang nặng tính chất bi quan không ởng và duy
m v hội.
1.3. Những điểm tích cực của Phật giáo
1.3.1. Điểm tích cực trong Nhân – Sinh – Quan
Phật giáo như ánh sáng mặt trời nhìn ánh sáng ấy chúng ta chỉ cặp
mắt nhỏ hẹp. Tuy nhiên chúng ta thể căn cứ một vài điều sau đây biết tất
cả đặc điểm của Phật giáo.
a. Đặc điểm th nhất, đặc điểm của Phật giáo in như s thật thuyết,
phương pp cùng kết quả đều hợp lý, đều như thật. Phật go kng chen chủ quan
của mình vào tớc hay trong khi suy nghiệm sự thật và cn lý của đạo Phật là lời
kết luận sau ssuy nghiệm trung thực ấy. Đạo Pht chỉ thấy và chỉ nói những sự thật
s vật , không tm, không bớt. Đạo Phật, nhân đó, cấm đoán những tín
ngưỡng và những nh động không phát sinh từ sự hiểu biết như thật, luôn theo, đạo
Phật kng ng nhận những kết qu của n ngưỡng muội, nh động manh
động hợp lý. Chon đạo Phật ng được gọi Đạo N Thật.
b. Đặc điểm thứ hai, “tôn trọng sự sống”. Ăn chay, không sát sanh
những điều tượng trưng cụ thể cho đặc điểm ấy. Đạo Phật xem sự sống trên tất
cả. Hết thảy cái gọi giá trị phải bảo vệ sự sống ấy. Giết sự sống để
nuôi sự sống muội, ham sống nên hại sự sống cũng minh. Cho nên
10
tôn trọng sự sống không những bằng cách giúp nhau để sống còn phải hy
sinh sự sống để bảo vệ sự sống, nghĩa khi tiêu cực như ăn chay để cứu
muôn loài. Đạo Phật đặc biệt chú trọng nêu cao chủ nghĩa lợi tha, nhưng chữ
lợi ấy là phải hướng về mục đích tôn trọng sự sống
c. Đặc điểm thứ ba, của đạo Phật là ch thừa nhận stương quan sinh tồn”.
Đạo Phật dạy cho người ta thấy đời phải tự lập ch không thể biệt lập. Phật tử
không thấy, không tạo nên một đối tượng. Vũ trụ một lò tương quan; không có gì
là trung tâm, không có gì là phụ thuộc hay là ngược lại. Bởi thế cho nên phân ly là
tự tạo một ung nhọt, chiến đấu (theo nghĩa hẹp) ch tương đối. Chiến đấu
phải một hành động bảo vệ s sinh tồn bất đắc phải áp dụng trong
trường hợp bất đắc dĩ. Nếu hợp bất đắc dĩ. Nếu biến sự bất đắc dĩ ấy thành sự tuyệt
đối cần thiết trong mọi trường hợp, thì chiến đấu sẽ trở thành chiến tranh.
d. Đặc điểm thứ , của đạo Phật xác nhận “người trung tâm điểm
của hội loài người”. Đạo Phật không nói duy tâm, không nói duy vật, tất
cả đều do người phát sinh đều phát sinh người. Kết luận này thực tế đâu
cũng rõ rệt cả. Trên thế giới loài người này không tự nhiên sinh ra hay từ
không rơi xuống, đều do năng lực hoạt động của con người tạo thành.
Năng lực hoạt động của con người tạo tác chi phối tất cả. Tất cả khổ hay vui,
tiến hóa hay thoái hóa, là đều do con người dã man hay văn minh. Người là chúa
tể của xã hội loài người, xã hội loài người không thể có chúa trời thứ hai.
e. Đặc điểm thứ năm, đạo Phật chú trọng “đối trị tâm bệnh con người
trước hết”. do rất dễ hiểu. Con người trung tâm điểm của hội loài
người, xã hội ấy tiến hoá hay thoái hóahoàn toàn do hoạt động con người chi
phối; hoạt động con người lại do tâm trí con người chủ đạo, vậy hội
phản ảnh trung thành của tâm trí con người. Cho nên muốn cải tạo hội, căn
bản phải cải tạo con người, cải tạo tâm bệnh con người. Tâm bệnh con người
nếu còn độc tài, tham lam, thì xã hội loài người là địa ngục; tâm bệnh con người
được đối trị rồi thì hoạt động con người rất sáng suốt hội con người, kết
quả của hoạt động ấy, cũng rất cực lạc.
, mục đích đạo Phật là “đào luyện con người thành bi,f. Đặc điểm thứ sáu
trí, dũng”. Bi tôn trọng quyền sống của người khác. Trí hành động sáng
suốt lợi lạc. Dũng quyết tâm quả cảm hành động. Dũng không bi trí thì
sẽ thành tàn ác manh động. Trí không bi dũng thì sẽ thành gian xảo
mộng tưởng. Bi không trí dũng sẽ thành tình cảm nhút nhát. Bi
cách tiến hóa, trí trí thức tiến hoá, dũng năng lực tiến hoá. Con người như
thế là con người mới, căn bản của xã hội mới.
11
g. Đặc điểm thứ bảy, đạo Phật “kiến thiết một hội mới” căn bản
con người mới. Cho nên tranh đấu cho hội mới ấy, trở lại vấn đề, phải
chiến thắng chính mình trước hết. Con người tự chiến thắng con người, nghĩa
cái “nhân cũ” (bóc lột, đàn áp, độc tài, xâm lược) không còn nữa, thì kết quả
được cái “quả mới” một hội mới. Trong hội ấy, quyền sống tuyệt đối
bình đẳng như sự sống: bình đẳng trong nhiệm vụ, bình đẳng trong hưởng thụ.
h. Đặc điểm thứ tám, đạo Phật “tiến lên thượng giác”. Đào luyện
một con người mới, kiến thiết một hội mới rồi, không phải mục đích của đạo
Phật cứu cánh đó. Cao xa, đạo Phật còn hướng dẫn con người tiến dần lên
chóp đỉnh của sự tiến hoá địa vị thượng giác, địa vị minh toàn diệt, trí
tuệ toàn giác, địa vị Phật đà.
i. Đặc điểm thứ chín, đạo Phật dạy phải “tự lực giải thoát”. Đấy một
tinh thần tuyệt đối cần thiết. Đức Phật chỉ là một đạo sư dẫn đạo con đường sáng
cho chúng ta. Còn chúng ta phải tự thắp đuốc trí tuệ của mình soi đường,
phải tự động cặp chân năng lực của mình đi. Con người mới phải tự rèn
luyện; xã hội mới là phải tự kiến thiết; vô thượng giác là phải tự tu, tự chứng. Tự
lục giải thoát con đường duy nhất của mười phương các đức Phật Bồ-Tát. An
lạc không phải cầu xin, trí giác không do cầu hồ. Phật tử không đứng vào
hàng ngũ thông minh mà phải hướng về lớp người ngu dốt dìu dắt họ.
k. Đặc điểm thứ mười, đạo Phật là “hiện chứng thể nghiệm”. Đức Phật chỉ
hướng dẫn chúng ta, chứ chân không phải thứ đem quay phim cho người
thấy được. Đức Phật là đạo sư, nhưng trí giác không phải là thứ ai dạy khôn cho
ai. Cho nên đối với chân tối cao, ta phải tự lực thể nghiệm. Sự tự lực thể
nghiệm ấy, không những áp dụng với tinh thần tự lực giải thoát mà thôi,còn
đặc biệt chú ý đến sự biện chứng. Đức Phật tạo cho ta cái thang, nhưng không
kéo dàn hoa xuống hay đẩy thẳng ta lên được. Ta phải tự lực trèo từng nấc
thang lên dàn hoa chân lý. Trèo được nấc nào tự thể nghiệm chân nấc ấy.
Đối với chân lý chưa biện chứng, chúng ta chỉ nói học, không nói biết. Tinh thần
tu chứng đạo Phật là thế.
Do tất cả đặc điểm trên đây, chúng ta thấy đạo Phật không phải chỉ một
tôn giáo. “Đạo Phật tất cả”, đó một đặc điểm vừa cuối cùng vừa trước hết
của đạo Phật. Phật tử t nhiên không thể không phủ nhận sự tàn sát, sự manh
động và sự nô lệ. Cho nên họ phải tự lực hành động để thượng thượng năng tiến.
hành động ấy không lĩnh vực trong không gian, không giới hạn trên
thời gian, không có phạm vi trong tổ chức, không có khu phân trong trường hợp.
đâu và lúc nào, với ai cảnh nào, Phật tử cũng áp dụng căn bản và tinh thần
bi, trí dũng của đạo Phật vào để hoàn thiện mình.
12
1.3.2. Điểm tích cực trong lý luận triết học
Giới nghiên cứu đều thấy rằng, triết học phương y thường gắn với những
thành tựu khoa học, đặc biệt khoa học tự nhn. n triết học phương Đông
thường gắn với tôn giáo (Ấn Độ), vi cnh tr, xã hội, đạo đức (Trung Quốc). Dù ra
đời rất sớm (2500 năm trước) nhưng tnh độ tư duy, phân tích của triết học đã đạt
đến mức cao: Phật go nhìn nhận thế giới tự nhn cũng như nhân sinh bằng sự
phân tích nn quả. Theo Phật giáo, nhân – qu là một chuỗi liên tục không gn
đoạn và kng hỗn đn, có nga là nn nào quả ấy. Mối quan hệ nhân – quả Phật
giáo thường gọi là nhân dun với ý nghĩa là một kết quả của ngun nhân của một
kết quả khác. Bằng pn tích nhân quả, Phật giáo cho rằng không th m nguyên
nhân đầu tiên cho vũ trụ, có nghĩa là không có một đấng tối cao nàong tạo ra vũ
trụ.Với lý luận như vậy, Phật go nghiên hẳn về chnghĩa duy vật. Người tu Phật
đều có mt đnh hướng duy nhất: giải tht thân tâm ra khỏi mạng ớithực tại” giả
lập, nhìn thẳngo thế giới trùng trùng dun khởi, thấu hiểu bản chất kng tính
của vạn hữu và pt khởi Bồ Đề m đi với tất cả cng sinh còn đang vướng mắc
trongng vây của ảo gc. ảo giác lớn nhất của con nờ là cho rằng có tồn tại một
thế giới thực hữu hoàn toàn biệt lập với nhn thức của chủ thể và thế giới đó hiện
hữu, tồng tại như một đối tượng của ham muốn chinh phục hoặc khao khát sở hữu.
Triết học Pht go không phải là một chủ thuyết duy tâm chủ quan giống như toàn
b hệ thống triết học duy niệm Đức thế kỷ XIX, cũng không phải là một chủ nga
duy thực ngây thơ (nave realism). Trọng điểm cnh trong thực tại luận Phật giáo
xoay quanh lời khẳng định rằng thế giới khách quan (cảnh/sắc) mối quan hcộng
sinh với th ch nhận thức của chủ thể (tâm/thức). Chính vậy về phương diện
triết học Phật go u mang tinh thần xã hội mức cao nhất: s cải tạo thế giới
khách quan là một tiến trình gắn bó chặt chẽ với sự cải tạo bản tn, sự chuyn hóa
nhận thức ca chthể. Hai tiến trình y liên lập và bổ sung cho nhau không ngng.
1.4. Những hạn chế của Phật giáo
1.4.1. Hạn chế chủ quan:
Phật giáo thể hiện cách nhìn cuộc đời khá bi quan. “Nước mắt chúng sinh
nhiều hơn bể cả”. Trong kinh phật ta thể thấy nhiều đoạn nói về cuộc sống
khổ đau con người phải chịu đựng. cuộc sống bể khổ như vậy nên
tưởng của Phật giáo xuất thế xa rời hiện thực. Những nhà chùa thường lui
về những nơi vắng vẻ, ít người qua lại. Phật giáo răn dạy con người cố gắng tìm
đến cõi niết bàn bỏ lại cuộc sống trần gian đầy rẫy bất công, đau khổ. Phật
giáo răn dạy con người biết chịu đựng không biết đấu tranh, phản kháng.
Điều này đã phần nào thủ tiêu tính chiến đấu của con người. Phật giáo quan
niệm về hôn nhân rất khai phóng. Phật tử không có lý do gì để hạn chế việc sinh
13
đẻ. Quan niệm này không còn phù hợp với thời đại hiện nay khi vấn đề dân
số đang được nhắc tới nhiều.
1.4.2. Hạn chế khách quan:
Khi xưa, trước khi nhập Niết Bàn, Phật tổ từng dặn đệ tử không được
bói toán, xem sao, xem tướng làm hoặc quần chúng. Nhưng một số kẻ lợi
dụng chùa làm nơi bói toán, lên đồng, xem sao, xem tướng, giải hạn… để kiếm
tiền bất chính. Trước cổng chùa bày bán đủ loại tử vi, cúng sao, giải hạn không
có nguồn gốc xuất xứ làm mê hoặc quần chúng. Lợi dụng lòng tốt của khách đến
chùa, một số người trẻ tuổi, lành lặn, khỏe khoắn, lười lao động ngồi dọc lối vào
chùa làm nghề ăn xin, níu khéo làm mất lòng khách. Biểu hiện móc túi, lừa đảo
khách, bán đồ giả xu hướng gia tăng. Trong các ngôi chùa trang bị thùng
rác, nhưng vẫn nhiều người thiếu ý thức xả rác bừa bãi, gây ô nhiễm môi
trường. Những năm gần đây, người đến chùa càng đông, đa số cử chỉ nhã nhặn,
ăn mặc trang nhã, thể hiện sự thành kính chốn trang nghiêm. Nhưng vẫnhiện
tượng một số người ăn mặc hở hang không phù hợp với cảnh chùa. vậy để
xóa bỏ các hiện tượng tiêu cực như đã nêu, khai thác những ảnh hưởng tích
cực của Phật giáo tới đạo đức, lối sống nhân dân, chính quyền các quan
chức năng cần những biện pháp nhằm loại trừ các tệ nạn trên, ổn định trật tự
an toàn xã hội, giữ gìn sự tinh khiết của Phật giáo.
Chương II
MỘT SỐ ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN XÃ HỘI VÀ CON
NGƯỜI VIỆT NAM
2.1. Phật giáo với xã hội và con người Việt Nam ngày nay
Phật giáo xây dựng hệ thống đạo đức trên cơ sở hệ thống giáo lý, đó là mối
quan hệ giữa giới, định, tuệ để đi đến giải thoát giải thoát tri kiến, trong đó
giới có vai trò làm nền tảng cho việc giải thoát.
Đạo đức Phật go bao gồm các giới cùng các chuẩn mực và các phạm trù có
liên quan tới nhau một ch chặt chẽ. Pht giáo xây dựng một hệ thống đạo đức hn
chỉnh t nhận thức, lý luận đến thc hành và việc áp dụng nó để xây dựng một nếp
sống tốt đẹp. n cạnh đó Phật giáo còn y dựng mẫu người đạo đức đó con
người t bi, hỷ, xả, vô n, vị tha mà tu tóm là đứng vững tn hai cn: t bi và
trí tuệ. Đạo đức Phật giáo có nhiều điểm tương đồng với đạo đức người Việt. Những
phạm t bản của đạo đức Phật giáo đã nh hưởng khá sâu đậm o đời sống
14
người Việt. Ngày nay, với sự chấn hưng của Phật go Việt Nam, đạo đức Phật go
sẽ góp phần hết sức to lớn o việc y dựng mt hội hài hòa, phát triển.
2.1.1. Đạo đức Phật giáo với đạo đức truyền thống của người Việt Nam
Đạo Phật đồng hành với dân tộc Việt Nam, từ khi du nhập vào Việt Nam đến
nay đã 2000 năm lịch sử, nên thể xem như một phần tài sản văn hóa dân
tộc. Trong quá trình phát triển tại Việt Nam, đạo Phật không chỉ đơn thuần
chuyền tải niềm tin của con ngườinvai trò góp phần duy trì đạo đức
hội nơi trần thế. Ngoài những điểm phù hợp với tình cảm đạo đức của con người,
đạo đức Phật giáo còn thực hiện thông qua tình cảm, tín ngưỡng, niềm tin vào
giáo lý. Do đó, tình cảm đạo đức Phật giáo được người Việt tiếp thu, tạo thành
đức tin thiêng liêng bên trong và chi phối nh vi ứng xử của họ trong các quan
hệ cộng đồng. Do tuân thủ những điều răn dạy về đạo đức của Phật giáo, người
Việt đã sống và ứng xử đúng đạo lý, góp phần làm cho xã hội ngày thêm tốt đẹp.
Đạo đức Phật go thông qua những go luật, giáo c giá trị, chuẩn mực
đã đi vào cuộc sống của người dân Việt Nam. Sự ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo
đến đời sống của nời Việt Nam không chỉ là giáo lý qua kinh kệ, sách vở mà đã
trở thành phong tục, cách sống của dân tộc, của mọi gia đình. Nời Vit Nam
truyền thống với tinh thần yêu thương, đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau, phụng dưỡng
cha mẹ, tri ân những người có công với cộng đồng, làm điều thin… đó cũng cnh
những điều ln lý đạo đức cụ thể Phật go đã truyền dạy. Đạo đức Phật giáo
đã thực sđi vào cuộc sống, đi o m linh mỗi con người. Trong suốt chiều i của
lịch sử, đạo đức Phật go đã có nhiều đóng góp đáng kể đối với sự phát trin của
dân tộc, những nn tố quan trọng p phn định hình n các quan niệm chuẩn
mực, hgiá trđạo đức trong hội Việt Nam truyền thống và hiện đại.
2.1.2. Đạo đức Phật giáo với kinh tế trong bối cảnh thị trường hiện nay
Trong giáo lý “Bát chính đạo” đức Phật có đề cập đến “chính niệm” sinh sống
bằng nghề nghiệp chân chính. Người khuyên mọi người kiếm sống bằng chính sức
lao động và tiền vốn của mình, trí tuệ của mình chứ không được buôn gian bán lận,
buôn bán hàng quốc cấm và các loại hàng hóa có hại cho sức khỏe con người và xã
hội. Trong cuộc sống mỗi người phải lao động làm việc để tạo ra nguồn của cải vật
chất để nuôi sống mình gia đình. Như vậy, trong nền kinh tế thị trường ngày
nay, đạo đức Phật giáo góp phần không nhỏ trong việc giáo dục con người, hướng
con người tới những điều thiện, từ đó giảm bớt thiệt hại cho nời tiêu dùng và đặc
biệt những nguy hiểm chết người. Đây chính mặt tích cực của đạo đức Phật
giáo giúp con người và nhân loại có cuộc sống an lạc hạnh phúc.
“Chính mệnh” trong Bát chính đạo của Phật giáo còn có nghĩa là biết làm chủ
cuộc sống, không lãng phí, không bủn xỉn, biết m phúc. Biết chăm lo cuộc sống
15
của người thân, quyến thuộc, biết tích lũy cho đời nay và chuẩn bị cho đời sau. Đức
Phật dạy rằng các cư sĩ sống bình thường ở gia đình có 4 điều lạc thú: Một là được
ởng cảm giác an toàn do có của cải và cơ sở kinh tế có được bằng phương pháp
chính đáng; Hai là có thể khảng khái s dụng của cải ấy chonh, cho người nhà
và cho bạn hữu, đồng thời dùng nó để làm nhiều việc từ thiện; Ba là không bị kh
sở nợ nần; Bốn là có thể sống cuộc đời thanh tịnh, không lỗi lầm.
Trong điều kiện kinh tế thị tờng hiện nay, chúng ta cần coi trọng việc y
dựng hoàn thiện đạo đức nhằm phát triển con người một cách toàn diện. Nền đạo
đức mà chúng ta đang xây dựng là s kết tinh, kế thừa những giá trị đạo đức truyền
thống của nhân loại, của dân tộc. trong đó có những giá trị đạo đức Phật go.
2.1.3. Đạo đức Phật giáo với văn hóa
Thực tế cho thấy Phật giáo Việt Nam từ thế kỷ XX đã những đóng góp
cùng to lớn cho nền văn hóa dân tộc hiện đại. Trong triển vọng phát triển
chung của Tôn giáo thế giới, Phật giáo Việt Nam cũng đồng hành hướng tới giải
quyết những nhiệm vụ bản đặt ra với con người hiện đại, đặc biệt bước đi
tương đồng với những quốc gia lân bang cùng điều kiện và hoàn cảnh.
Triết của Phật giáo về Tbi, về tình thương yêu rất phù hợp với truyền
thống giàu lòng nhân ái vốn của người Việt: “Một con ngựa đau, cả tàu bỏ
cỏ”; “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”; “Lá lành đùm lá rách”’ “Thương
người như thể thương thân”…sự kết hợp những nét độc đáo trong phương pháp
duy, trong văn học, nghệ thuật của người Việt Nam. Những giá trị, khuyến
thiện, hướng thiện không chỉ phát huy tác dụng trong hàng ngũ tín đồ còn
ảnh hưởng rộng rãi trong đời sống nhân dân, góp phần hình thành nên những
quan niệm sống giàu tính nhân văn sâu sắc.
Đồng hành ng với sự phát triển của đất nước, đạo đức Phật giáo đã p
phần tạo nên truyền thống văn hóa thực sự giàu bản sắc. Ngày nay, đạo đức Phật
giáo đã có vị trí vững chắc trong nền văn hóa dân tộc- hiện đại. Một thời đại mới
đang mở rộng ra cùng với những thách thức của hội nhập và phát triển, lợi ích
nhân và cộng đồng, phẩm chất vị tha và cạnh tranh thị tờng đòi hỏi sự năng động
của đạo đức Phật giáo, yêu cầu phát huy và dung hợp những g trị nhân bản bền
vững của Phật giáo Việt Nam trong nền văn hóa dân tộc – hiện đại.thể khẳng
định vị trí vững chắc của đạo đức Phật giáo Việt Nam trong nền văna dân tộc.
2.1.4. Đạo đức Phật giáo với xã hội Việt Nam hiện nay
Đức Phật dạy từ việc lớn như quốc gia, chính sự đến việc nhỏ như a khí
trong gia đình. tưởng Từ bi, hỷ, xả, cứu khổ, cứu nạn của nhà Phật vẫn đang
được nhân dân Việt Nam nói riêng nhân loại nói chung tiếp thu phát huy
trong đời sống xã hội. Một số quy tắc của đạo đức Phật giáo (Ngũ giới, Thập thiện,
16
) những nétơng đồng với các quy tắc, chuẩn mực của nền đạo đức hội
vẫn đang được nhiều người tin theo và khuyến khích phát huy. Đó là những quy tắc
sống mà xã hội nào cũng rất cần đến để duy trì một nền đạo đức, một nếp sống lành
mạnh và hạnh phúc cho con người (Kinh Thiện sinh – Gingalovada)
Cùng với thời gian, Phật giáo Việt Nam đã điểm vào trang lịch sử của mình
những nét vàng son. Những chuẩn mực của đạo đức Phật giáo vẫn đang
những đóng góp cho việc duy trì một nền đạo đức xã hội, khơi dậy truyền thống
yêu nước, nhân nghĩa, tương thân tương ái trong cộng đồng, xây dựng con người
Việt Nam đạo đức và văn hóa tốt đẹp.
2.1.5. Đạo đức Phật giáo với việc xây dựng đạo đức, lối sống của người
Việt Nam
Với triết lý từ bi, hỷ xả, khuyến khích con người hướng thiện, đạo đức Phật
giáo đã dễ dàng đi vào lòng người, tác dụng hoàn thiện nhân cách đạo đức,
hướng con người đến lối sống, vị tha, bình đẳng, bác ái. Thực tế đã chứng minh,
đạo đức Phật giáo phù hợp với đạo đức lẽ sống của con người Việt Nam
đã những đóng góp tích cực trong việc xây dựng một nền tảng đạo đức mới
cho xã hội trên cơ sở kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống đã được đặt ra.
Tính ớng thiện của Phật giáo một trong những nguồn gốc của chủ
nghĩa nhân đạo, tưởng bình đẳng, hòa bình của Phật giáo phù hợp với xu
hướng hòa đồng liên kết giữa các n tộc trên thế giới trong xu thế toàn cầu
hóa hiện nay, lòng t bi, c ái góp phần cứu giúp người hoạn nạn, giữ vững
tinh thần lành đùm lá rách của dân tộc, triết lý vô thường, vô ngã giúp con
người giảm bớt cái tôi vị kỷ…Những giá trị ch cực đó của đạo đức Phật giáo
càng được nhân lên với những hành động c thể như kẻ đói được cho ăn, k
rách được cho mặc, người ốm đau bệnh tật được chăm sóc…Đạo đức Phật giáo
khuyên con người luôn nh đến “đạo hiếu”, lấy ch hiếu làm đầu: “hạnh hiếu
hạnh Phật, tâm hiếu tâm Phật”, “muôn việc thế gian không hơn công
ơn nuôi dưỡng của cha mẹ”. Thêm vào đó, những không gian chùa chiền của
Phật giáo luôn thu hút con người m về chốn tĩnh tâm, nơi chiêm nghiệm và
cảm nhận…Tất cả những điều đó những giá tr đạo đức tích cực, thiết thực
góp phần giáo hóa con người, giúp cho thế htrẻ vững bước trước cám dỗ của
cuộc đời, khích l họ quan tâm đến số phận của cộng đồng, sống lương thiện,
coi trọng tính nhân bản, coi trọng thiên nhiên…Bên cạnh đó, lối sống Phật giáo
nêu cao tinh thần “cư trần lạc đạo” đã góp phần y dựng lối sống trách
nhiệm với một ý thức không tham quyền cố vị, không bám lấy lợi ích vật chất,
sống thanh cao tự tại. Bởi theo định nghĩa của đức Phật, tham sân hai
năng lực tiêu cực mạnh mẽ nhất trong tâm thức con người, chúng che khuất
tầm nhìn làm nhiễu loạn Phật tính của ta, cho n, ng theo Ngài, diệt trừ
17
được tham n đích thực một thành tựu rất to lớn của con người. Như thế
đạo đức Phật giáo đã đóng góp những giá trị văn hóa ch cực vào việc y
dựng đạo đức lối sống cho con người, nhất cho tầng lớp tr hiện nay. Đặc
biệt, đạo đức Phật giáo còn p phần n luyện một lối sống kham nhẫn, khắc
kỷ. Đó những hình thức tu tập kiên nhẫn, vượt qua những m dỗ của cuộc
đời để lòng được thanh cao, tâm hồn được giải thoát.
Ngày nay với phương châm Đạo pháp Dân tộc Chủ nghĩa hội, đạo
đức Phật giáo đã góp phần tích cực vào các phong trào phát triển hội, bảo vệ
môi trường. Đặc biệt công tác từ thiện với tinh thần cứu khổ, cứu nạn của đạo
Phật, hòa cùng truyền thống lành đùm rách của dân tộc, tăng ni phật tử đã
tổ chức cứu trợ cho đồng bào bị thiên tai bão lụt, cho những vùng quê nghèo
khó, cho những mảnh đời bất hạnh…Những hoạt động từ thiện đó của đạo Phật
cùng nhằm điều chỉnh tính cách, lối sống, góp phần hình thành nhân cách của
một con người có ích cho xã hội.
2.2. Ảnh hưởng của Phật giáo đến thế hệ trẻ
Phật giáo một tôn giáo lớn của thế giơi, được du nhập vào Việt Nam từ
rất sớm. Trong mỗi thời kỳ lịch sử của nước ta, Phật giáo luôn gắn mật thiết
với dân tộc và thấm sâu vào tiềm thức của nhiều người.
tưởng Phật giáo suy nghĩ của người Việt Nam mối quan hệ mật
thiết, gắn bó. Phật giáo với những giá trị tích cực như từ bi, hỷ xả, cứu khổ, cứu
nạn, bình đẳng, bác ái dễ đi vào lòng người, phù hợp với phong tục, tập quán
của người Việt Nam. Từ lịch sử dân tộc Việt Nam với gần nghìn năm Bắc thuộc,
chịu nhiều đau khổ, khi được truyền vào Việt Nam, với những giá trị của
mình, Phật giáo đã góp phần xoa dịu nỗi đau tinh thần đối với nhân dân ta. Sự
dung hợp và ảnh hưởng của Phật giáo được biểu hiện trên các vấn đề cơ bản sau.
2.2.1. Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo trong quan hệ ứng xử, giao tiếp
Đạo đức Phật giáo a nhập với các giá trị đạo đức của dân tộc trở thành
phương tiện diễn đạt quan niệm đạo đức truyền thống của người Việt Nam. Các
thuật ngữ như “từ bi, hỷ xả”, “vô ngã, vị tha”, “cứu nhân độ thế”, “tu nhân tích
đức”, “sống nhân từ để phúc cho đời sau”… đã không còn nguyên nghĩa của
riêng Phật giáo, trở thành một phần trong lẽ sống của người Việt, trở thành
ngôn ngữ của đời sống thường ngày. Cách thức giao tiếp, ứng xử của người Việt
Nam cũng chịu ảnh hưởng rất lớn bởi các quan niệm Phật giáo. Nét phổ biến
trong quan hệ ứng xử giao tiếp của Phật giáo cái thật, cái thiện cả thân,
khẩu, ý. Trong bát chính đạo của Phật giáo, chính ngữ (giữ cho lời nói được
đúng mực), đó chính một trong c điều kiện để mỗi con người những ứng
xử phù hợp với mọi người trong xã hội. Về ứng xử, giao tiếp trong gia đình, Phật
18
giáo đề cao sự hòa thuận và trách nhiệm của các bậc cha mẹ, anh em, vợ chồng…
đề cao sự hiếu thuận thông qua thực hiện Tứ ân. Điều này được thể hiện rất nhiều
trong ca dao, tục ngữ Việt Nam: “Công cha như núi Thái Sơn/Nghĩa mẹ như nước
trong nguồn chảy ra/Một ng thờ mẹ, kính cha/Cho tròn chữ hiếu mới đạo
con”, hay như: “Đi khắp thế gian, không ai tốt bằng mẹ/Gánh nặng cuộc đời,
không ai khổ bằng cha” đã trở thành đạo lý, lẽ sống của người Việt.
2.2.2. Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo trong sự công bằng, bình đẳng
ởng bình đẳng, công bằng của Phật giáo khi du nhập pt triển
Việt Nam đã hòa nhập với ởng, ng bằng, nh đẳng của người Việt
Nam. sở của sảnh hưởng a nhập y dường nbắt nguồn từ tư ởng
nh quân nguyên thủy của nền n minh làng xã. Phật go chủ trương thiết
lập quan hệ công bằng, nh đẳng giữa mọi nời và cho rằng mọi nời đều
nh đẳng như nhau, trong mỗi người đều có phật nh; trong quan h với
người kc, mỗi nhân kng được cầu lợi cho mình… nh ởng rất
lớn đối với quan niệm sống của người Việt, điển hình n: “Một người vì mọi
người, mọi người vì một người”.
2.2.3. Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo về tính trung thực
Trong giáo của nhà Phật, tính trung thực thuộc vào giới “không nói dối
của ngũ giới. Thập thiện bao gồm: thực cả “thân, khẩu, ý” Trung thực ý .
trung tâm điều chỉnh hành vi theo luật nhân quả, nhân nào quả ấy. Theo đó, sự
dối trá sẽ bị nghiệp báo. Thuyết nhân quả, nghiệp báo của Phật giáo gặp gỡ với
tín ngưỡng của người Việt Nam đã lan tỏa thành nếp sống, nếp nghĩ “ở hiền gặp
lành”, “ác giả ác báo”… trong nhân dân.
2.2.4. Ảnh hưởng trong tính thiện, tình nghĩa và tình thương
Tính thiện, tình nghĩa tình thương mang bản sắc Việt Nam được con
người Việt Nam hun đúc trong quá trình dựng nước giữ nước. Cái thiện của
con người Việt Nam mang tinh thần bình đẳng, vị tha, tôn trọng, yêu thương con
người. Phật giáo đã hòa đồng với tưởng truyền thống Việt Nam để xây dựng
tính thiện, tình nghĩa tình thương. Đó là, tình “thương người như thể thương
thân”, “lá lành đùm lá rách”… Tình thương, tình nghĩa, tính thiện không chỉ thể
hiện trong quan hệ với hiện tại mà còn được thể hiện trong quan hệ với quá khứ
như: uống nước nhớ nguồn hoặc ăn quả nhớ kẻ trồng cây…
2.2.5. Ảnh hưởng trong tấm lòng bao dung rộng lớn
Phật go đã p phần cùng với n tộc Việt Nam trong việc xây dựng
tấm lòng bao dung rộng lớn, ngã, vị tha. Tinh thần bao dung rộng lớn được
th hiện trước lỗi lầm của con nời. Trong ch ng x của người Việt th
19
hiện rất rõ như: biển c mênh ng, quay đầu là bờ”, “đánh k chạy đi
không ai đánh nời chạy lại”Tinh thần bao dung còn được thể hiện trong
ch ng xvới kẻ t khi chúng bại trận, trong chính ch nhân đạo đối với
binh, hàng binh...
2.2.6. Ảnh hưởng trong tinh thần tự lực, tự chủ của mỗi người
Phật giáo khẳng định mỗi nhân chủ nhân của chính mình, không phải
làm nô lệ của người khác kể cả lệ cho đức Phật, hãy “tự đốt đuốc mà đi”.
tưởng này của Phật giáo khiến con người được giải phóng khỏi sự trói buộc của
thần quyền, nhờ đó được tự do. Chính con người phải tự quyết định số phận
tiền đồ của chính mình. Quan điểm tự lực, tự chủ của Phật giáo đã góp phần
xác định thêm cho tinh thần tự lực, tự chủ của mỗi người Việt Nam.
2.3. Phát huy tính hợp của Phật giáo trong xây dựng đời sống văn
hóa hiện nay
Trong giai đoạn hiện nay, cần sự đánh giá đầy đủ những giá trị ảnh
hưởng của tưởng Phật giáo đối với con người Việt Nam, từ đó kế thừa, phát
huy những giá trị của tư tưởng Phật giáo.
Tôn giáo nói chung Phật giáo nói riêng, ngoài mặt tiêu cực còn
những “hạt nhân hợp lý” hiện vẫn còn phù hợp với hội. Đó mặt văn hóa,
đạo đức đáp ứng được yêu cầu đời sống tâm linh của con người. Đảng ta đã
khẳng định: “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo”.
Trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Phật giáo vẫn giữ khả năng tự biến
đổi thích nghi theo xu hướng đi cùng với dân tộc, sống “tốt đời đẹp đạo”,
“đồng hành cùng dân tộc”, “Đạo pháp - dân tộc - hội chủ nghĩa”. Quan điểm
này của Đảng Nhà nước ta cần phải được phát huy thành các định hướng cụ
thể trên tinh thần khai thác các yếu tố văn hóa, đạo đức, tinh thần tích cực của
Phật giáo. Trong quá trình xây dựng phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng hội chủ nghĩa hội nhập quốc tế hiện nay, tưởng Phật giáo đang
góp phần cùng pháp luật chống lại những biểu hiện tiêu cực, phi nhân tính trong
sản xuất, kinh doanh, phai nhạt bản sắc dân tộc trong đời sống hội, góp phần
phát huy những nét đẹp trong quan hệ giữa con người với con người; xây dựng
điều chỉnh nhân cách con người Việt Nam trong thời đại mới vừa hiện đại
vừa giàu bản sắc dân tộc.
Những điều kiện về kinh tế, hội, nhận thức, tâm sở cho Phật
giáo phát triển vẫn còn tồn tại trong xã hội hiện đại. Hơn nữa, bản thân Phật giáo
cũng không ngừng tự vận động biến đổi cho phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện
mới. vậy, cần phải quan điểm khoa học để nghiên cứu một cách toàn diện
những cơ duyên tồn tại và phát triển của Phật giáo. Đây cũng là cơ sở để tiếp tục
20
khái quát, tìm ra những ảnh hưởng của tưởng Phật giáo, từ đó quan điểm,
biện pháp phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của tưởng Phật giáo
đến suy nghĩ, lối sống của người Việt Nam hiện nay.
Chương III
VẬN DỤNG PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI XÂY DỰNG TƯ TƯỞNG ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Hiện nay, Phật giáo tôn giáo đông tín đồ nhất trong các tôn giáo
Việt Nam, ước lượng khoảng 15 triệu tín đồ, Số Tăng ni các cấp được ghi nhận
trong cả nước vào khoảng 30.000 người, trong đó có một phần basư sãi Khơ-
me (trong đó phần đông là đi tu nghĩa vụ trong thời gian ngắn). Trong tổng số
12.000 chùa trong cả nước, có 440 chùa Khơ-me.
Phải nói rằng, Phật giáo đã ảnh hưởng đến mọi sinh hoạt của người Việt từ
triết lý, tưởng, đạo đức, văn học, nghệ thuật cho đến phong tục tập quán, nếp
sống, nếp nghĩ...Từ quan niệm nhân sinh quan, thế giới quan, đạo lý, thẩm m
cho đến lời ăn tiếng nói của quảng đại quần chúng ít nhiều đều chịu ảnh hưởng
của triết lý và tư tưởng Phật giáo. Những ngày đại lễ Phật giáo, ngày rằm, mùng
một hay lễ tết dân tộc mọi người dânbận rộn đến mấy cũng vài lần trong đời
đến viếng cảnh chùa để chiêm bái chư Phật, chung vui lễ hội hoặc để gần gũi,
tìm hiểu những di tích lịch sử văn hóa của dân tộc, Chùa làng một thời đã đóng
vai trò trung tâm trong sinh hoạt văn hóa tinh thần cộng đồng làng của người
Việt. Tại sao Phật giáo đã để lại nhiều dấu ấn sâu đậm trong tâm hồn, tình cảm,
trong phong tục tập quán và cảnh quan của dân tộc Việt Nam như vậy?
Người Việt vốn hiền lành, hiếu hòa, hiếu sinh, chân thật, yêu thương đồng
loại. Đạo Phật t dạy con người biết ăn hiền lành, thấy lẽ phải trái, bỏ ác
làm lành, cải quy chánh trau dồi đức hạnh thăng hoa trí tuệ, cho nên được
quảng đại quần chúng chấp nhận. Qua quá trình lịch sử, trải qua bao cuộc biến
đổi thăng trầm của đất nước, Phật giáo đã khẳng định mình một chỗ đứng
vững chắc trong lòng của dân tộc, tồn tại và phát triển cùng với dân tộc
Hiện nay tưởng chính thống Việt Nam chủ nghĩa Mác Nin
tưởng Hồ Chí Minh. Những tưởng này không chỉ ý nghĩa trong đời
sống chính trị - hội còn được vận dụng mang lại nhiều hiệu quả tích
cực trong nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, cuộc sống luôn những biến đổi “con
người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội” cho nên việc giáo dục về đạo đức, lối
sống cho thế hệ trẻ hết sức cần thiết.. Vận dụng tưởng đạo đức của Phật
giáo thể mang lại những hiệu quả tích cực trước mắt lâu dài cho việc giáo
dục đạo đức lối sống cho thế hệ trẻ Việt Nam trong thời đại hiện nay. Giáo
21
dục đạo đức Phật giáo giáo hóa con người, giúp cho thế hệ trẻ vững bước
trước những cám dỗ của cuộc đời, khích lệ họ quan tâm đến số phận của cộng
đồng, sống lương thiện, coi trọng tính nhân bản, coi trọng thiên nhiên, bên cạnh
đó góp phần xây dựng lối sống có trách nhiệm với một ý thức không tham quyền
cố vị, không bám lấy lợi ích vật chất, sống thanh cao tự tạ.
Vấn đề đây phải hướng đạo đức Phật giáo hướng đến các mục đích xa
hơn, rộng lớn hơn của hội - mục đích phát triển hội bền vững. Mặc dầu
trong sự nghiệp giáo dục con người, triết lý từ bi, vô vi xuất thế lấy bình yên làm
cứu cánh đã làm bớt đi tham vọng tiến thân, sống nhẫn nhịn, an phận thủ
thường… ít nhiều mang yếu tố tiêu cực, nhưng chúng ta phải phát huy yếu tố
tích cực của đạo đức Phật giáo trong việc giáo dục con người hướng thiện, góp
phần duy trì phát huy những giá trị tốt đẹp nếp sống đạo đức trong sáng
của dân tộc. Làm được điều đó, giáo dục đạo đức Phật giáo sẽ góp phần thúc
đẩy bền vững xã hội Việt Nam trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay.
Đến đây, chúng ta thể kết luận rằng những tưởng hình ảnh của
Phật giáo nói chung đạo đức của phật giáo nói riêng đã để lại những dấu ấn
sâu đậm trong tưởng, đạo đức, phong tục tập quán, nếp sống, ý nghĩ của
người Việt Nam trong lịch sử và nó sẽ tiếp tục tỏa sáng cái tinh hoa độc đáo của
mình cho dân tộc Việt nói riêng và cả nhân loại nói chung trong tương lai.
KẾT LUẬN
Trong giai đoạn đất nước đang mở của để hòa nhập vào trào lưu phát triển
với thế giới, Việt Nam đã đang giao lưu với bạn quốc tế tiếp thu học
tập những tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại. Điều đó sẽ dẫn đến sự du nhập
nhiều luồng văn hóa ngoại lai. Trong đó cái tốt, cái xấu, làm sao chúng ta
có thể phân biệt và tiếp thu cái tốt và giải trừ cái xấunó đã trở thành một vấn
đề của quốc gia chứ không phải chỉ là chuyên cá nhân hay riêng tư nữa. Lời giải
đáp rõ ràng nhấtnếu chúng ta có một nền văn hóa lành mạnh; đậm đà bản sắc
dân tộc với những tưởng truyền thống tốt đẹp sẽ giúp chúng ta nhận định,
chắc lọc và cũng là liều thuốc tốt nhất giúp chúng ta chống lại những cặn bã văn
hóa ngoại nhập hoặc văn hóa mê tín phát sinh từ bản địa. Những yếu tố tích cực
của Phật giáo là một phần tưởng văn hóa Việt sẽ cùng với văn hóa dân tộc
Việt làm nhiệm vụ chọn lọc phát triển văn hóa Phật giáo văn hóa dân tộc
trong thời điểm hiện nay.
| 1/21

Preview text:

1 MỤC LỤC Đề mục Trang
Mục lục................................................................................................... 1
Mở đầu................................................................................................... 3
1. Tính cấp thiết...................................................................................... 3
2. Mục tiêu nghiên cứu........................................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...................................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu.................................................................... 3
5. Bố cục của Tiểu luận.......................................................................... 4
Chương I: Khái quát về phật giáo...................................................... 5
1.1. Nguồn gốc ra đời............................................................................. 5
1.2. Những tư tưởng cơ bản của Triết học Phật giáo............................. 6
1.3. Những điểm tích cực của Phật giáo.............................................. 10
1.4. Những hạn chế của Phật giáo....................................................... 13
Chương II: Một số ảnh hưởng của Phật giáo đến xã hội và con
người Việt Nam
..................................................................................... 14
2.1. Phật giáo với xã hội và con người Việt Nam ngày nay................... 14
2.2. Ảnh hưởng của Phật giáo đến thế hệ trẻ........................................ 17
2.3. Phát huy tính hợp lý của Phật giáo trong xây dựng đời sống văn
hóa hiện nay...................................................................................... 19
Chương III: Vận dụng phật giáo đối với xây dựng tư tưởng đời
sống văn hóa ở nước ta hiện nay
......................................................... 20
KẾT LUẬN............................................................................................ 21 2 MỞ ĐẦU
Tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng là nhu cầu tinh thần của một bộ
phận nhân dân, có ảnh hưởng sâu sắc đến các lĩnh vực kinh tế, chính trị - xã hội,
văn hóa, đạo đức, an ninh quốc phòng... của đất nước. Vì vậy khi đề cập đến sự
tín ngưỡng tâm linh, đời sống tinh thần của người Việt Nam thì không thể không
nói đến Phật giáo. Đa phần người dân Việt Nam điều tôn sùng đạo phật. Vì lẽ đó
mà Phật giáp trở thành quốc đạo ở các thời Đinh, Lý, Trần… hiện nay Phật giáo
giữ vai trò quan trọng trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Đảng và
nhà nước ta đã công nhận những thành quả tốt đẹp và những cống hiến to lớn
của Phật giáo Việt Nam cho toàn dân, toàn xã hội và đang khuyến khích phát
huy những giá trị tốt đẹp ấy.
Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta gặp biết bao áp lực, trở ngại của cuộc
sống cũng như hiểm họa thiên tai từ thiên nhiên… nếu tâm hồn chúng ta không
có nơi nào để giải tỏa, để nương tựa để tin tưởng thì có lẽ không một ai có thể
vượt qua. Phật giáo như là chỗ dựa tinh thần vững chắc của mỗi người Việt
Nam, như là người mẹ hiền, là ánh sáng soi đường cho những người con lầm lỡ,
là sự sống cho người chết và là trái tim lương thiện trong mỗi con người.
Vậy khi nghiên cứu về những tư tưởng cơ bản của Phật giáo Ấn độ cổ đại
và những ảnh hưởng tới đời sống tinh thần ở nước ta hiện nay cần quan tâm đến
các vấn đề thế giới quan triết học về thế giới, về con người, và về xã hội. Những
tư tưởng của Phật giáo, mối quan hệ giữa thế giới và con người, giữa cá nhân
với cộng đồng xã hội mang lại nhiều giá trị to lớn qua nhiều thế kỷ ở nhiều nền
văn hóa khác nhau và những ảnh hưởng đối với thế hệ trẻ hiện nay. 3 Chương I
KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO
1.1. Nguồn gốc ra đời
Phật giáo là một tôn giáo được Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) truyền
giảng ở miền Bắc Ấn Độ vào thế kỷ 6 trước công nguyên (TCN). Do được
truyền bá trong một thời gian dài ra nhiều nơi đến nhiều chủng tộc nên lịch sử
phát triển của đạo Phật khá đa dạng về các bộ phái cũng như các nghi thức hay
phương pháp tu học. Ngay từ buổi đầu, Thích Ca, người sáng lập đạo Phật, đã tổ
chức được một giáo hội với các giới luật chặt chẽ.
Điều kiện thiên nhiên ở Ấn Độ: Ấn Độ là đất nước có điều kiện tự nhiên đa
dạng. Đất nước này vừa có dãy núi Hymalaya hùng vĩ ở phía Bắc, vừa có biển
Ấn Độ Dương rộng mênh mông; vừa có sông Ấn chảy về phía Tây, lại có sông
Hằng chảy về phía Đông. Vì thế Ấn Độ có những vùng đồng bằng trù phú màu
mỡ, có vùng nóng ẩm mưa nhiều, có vùng lạnh giá quanh năm tuyết phủ, lại có
những vùng xa mạc khô cằn, nóng bức. Những điều kiên tự nhiên đa dạng và
khắc nghiệt ấy là cơ sở để hình thành sớm những tư tưởng tôn giáo triết học.
Về kinh tế – xã hội: Từ thế kỷ VI – I TCN, nền kinh tế – xã hội chiếm hữu
nô lệ Ấn Độ đã phát triển, thổ dân trên bán đảo Nam Á là người Dravidian và
Sumerian đã có nền văn minh khá cao. Đầu thế kỷ II TCN, một nhánh người
Aryan thâm nhập vào bán đảo Ấn Độ, dần dần chuyển sang định cư và sống
bằng nghề nông. Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế – xã hội của Ấn Độ cổ đại,
trung đại là sự tồn tại rất sớm và kéo dài của kết cấu kinh tế – xã hội theo mô
hình “công xã nông thôn”. Mô hình này có đặc trưng là ruộng đất thuộc quyền
sở hữu nhà nước, gắn liền với nó là sự bần cùng hóa của người dân trong công
xã và quan hệ giữa gia đình thân tộc được coi là quan hệ cơ bản, cùng với xã hội
được phân chia thành các đẳng cấp. Xã hội thời kỳ này được phân chia thành 4
đẳng cấp lớn là: tăng lữ, quý tộc, bình dân tự do và nô lệ cung đình. Sự phân
chia đẳng cấp đó làm cho xã hội xuất hiện những mâu thuẫn gay gắt dẫn đến
cuộc đấu tranh giai cấp giữa các đẳng cấp trong xã hội. Trong cuộc đấu tranh ấy,
nhiều tôn giáo và trường phái triết học đã ra đời, trong đó có Phật giáo. 4
Đặc điểm văn hóa – khoa học: Văn hoá Ấn Độ cổ – trung đại được chia làm
ba giai đoạn. Khoảng thế kỷ XXV-XV TCN gọi là nền văn minh sông Ấn, từ thế
kỷ XV – VII TCN gọi là nền văn minh Vêđa và từ thế kỷ VI – I TCN là thời kỳ
hình thành các trường phái triết học tôn giáo lớn gồm hai hệ thống đối lập nhau là
chính thống và không chính thống. Tiêu chuẩn của chính thống và không chính
thống là có thừa nhận uy thế của kinh Vêđa và đạo Bàlamôn hay không. Về khoa
học, ngay từ thời kỳ cổ đại, người Ấn Độ đã đạt được những thành tựu về khoa học
tự nhiên. Đặc biệt là các lĩnh vực thiên văn, toán học, y học…
Như vậy, tất cả những đặc điểm kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội nói trên
là cơ sở cho sự nảy sinh và phát triển những tư tưởng triết học của Ấn Độ thời
cổ, trung đại với các hình thức phong phú đa dạng. Và Phật giáo ra đời trong làn
sóng phản đối sự ngự trị của đạo Bàlamôn và chế độ đẳng cấp, lý giải căn
nguyên nỗi khổ và tìm đường giải thoát cho con người khỏi nỗi khổ triền miên,
đè nặng trong xã hội nô lệ Ấn Độ. Vì chống lại sự ngự trị của đạo Bàlamôn đặc
biệt là quan điểm của kinh Vêđa nên Phật giáo được xem là dòng triết học không chính thống.
1.2. Những tư tưởng cơ bản của Triết học Phật giáo
Tư tưởng triết học Phật Giáo ban đầu chỉ là truyền miệng, sau đó được viết
thành văn thể trong một khối kinh điển rất lớn, gọi là “Tam Tạng”, Gồm 3 Tạng
kinh điển là: Tạng Kinh, Tạng Luật và Tạng Luận. Trong đó thể hiện các quan
điểm về thế giới và con người.
1.2.1 Quan điểm của phật giáo về thế giới quan
Quan điểm về thế giới quan của Phật giáo thể hiện tập trung ở nội dung của
3 phạm trù: vô ngã, vô thường và duyên.
a. Vô ngã (không có cái tôi chân thật)
Trái với quan điểm của kinh Vêđa, đạo Bàlamôn và đa số các môn phái
triết học tôn giáo đương thời thừa nhận sự tồn tại của một thực thể siêu nhiên
tối cao, sáng tạo và chi phối vũ trụ, Phật giáo cho rằng thế giới xung quanh ta
và cả con người không phải do một vị thần nào sáng tạo ra mà được cấu thành
bởi sự kết hợp của 2 yếu tố là “Sắc” và “Danh”. Trong đó, Sắc là yếu tố vật
chất, là cái có thể cảm nhận được, nó bao gồm đất, nước, lửa và không khí;
Danh là yếu tố tinh thần, không có hình chất mà chỉ có tên gọi. Nó bao gồm:
thụ (cảm thụ), tưởng (suy nghĩ), hành (ý muốn để hành động) và thức (sự nhận thức).
Danh và sắc kết hợp lại tạo thành 5 yếu tố gọi là “Ngũ uẩn”. Ngũ uẩn bao
gồm sắc (vật chất), thụ (cảm giác), tưởng (ấn tượng), hành (suy lý) và thức (ý 5
thức), chúng tác động qua lại với nhau tạo nên vạn vật và con người. Nhưng sự
tồn tại của sự vật chỉ là tạm thời, thoáng qua, không có sự vật riêng biệt nào tồn
tại mãi mãi. Do đó, không có “Bản ngã” hay cái tôi chân thực.
b. Vô thường (vận động biến đổi không ngừng)
Đạo Phật cho rằng “Vô thường” là không cố định, luôn biến đổi. Các sự
vật, hiện tượng trong vũ trụ không đứng yên mà luôn luôn biến đổi không
ngừng, không nghỉ theo chu trình bất tận là “sinh – trụ – dị – diệt”. Nghĩa là sinh
ra, tồn tại, biến dạng và mất đi.
Do đó, không có gì trường tồn, bất định, chỉ có sự vận động biến đổi không
ngừng.Với quan niệm này, Đức Phật dạy: “tất cả những gì trong thế gian đó là
biến đổi, hư hoại, đều là vô thường”. Vì vậy mọi sự vật không mãi ở yên trong
một trạng thái nhất định, luôn luôn thay đổi hình dạng, đi từ trạng thái hình
thành đến biến dị rồi tan rã. Sinh và diệt là hai quá trình xảy ra đồng thời trong
một sự vât, hiện tượng cũng như trong toàn thể vũ trụ rộng lớn. Đức Phật cũng
dạy rằng không phải là sự vật, hiện tượng sinh ra mới gọi là sinh, mất (hay chết
đi) mới gọi là diệt, mà trong sự sống có sự chết, chết không phải là hết, không
phải là hết khổ mà chết là điều kiện của một sinh thành mới.
c. Duyên (điều kiện cho nguyên nhân trở thành kết quả)
Bàlamôn Phật giáo cho rằng, mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ từ cái nhỏ
nhất đến cái lớn nhất đều chịu sự chi phối của luật nhân duyên. Trong đó duyên là
điều kiện giúp cho nguyên nhân trở thành kết quả. Kết quả ấy lại nhờ có duyên mà
trở thành nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà trở thành kết quả mới. Cứ như
vậy mà tạo nên sự biến đổi không ngừng của các sự vật, tuân theo quy luật “Nhân-
Quả”, nhân là cái hạt, quả là cái trái, cái trái do mầm ấy phát sinh. Nhân và quả là hai
trạng thái nối tiếp nhau, nương tựa vào nhau mà có. Nếu không có nhân thì không
thể có quả, nếu không có quả thì không thể có nhân, nhân thế nào thì quả thế ấy.
Hạt lúa được gọi là “nhân” khi gặp “duyên” là điều kiện thuận lợi về không
khí, nước, ánh sáng, nhiệt độ…thì nhân sẽ phát triển thành “quả” là cây lúa.
Như vậy, thông qua các phạm trù Vô ngã, Vô thường và Duyên, triết học Phật
giáo đã bác bỏ quan điểm duy tâm lúc bấy giờ cho rằng thần Brahman sáng tạo ra
con người và thế giới. Phật giáo cho rằng sự vật và con người được cấu thành từ các
yếu tố vật chất và tinh thần. Các sự vật hiện tượng thế giới nằm trong quá trình liên
hệ, vận động, biến đổi không ngừng. Nguyên nhân của sự vận động, biến đồi nằm
trong các sự vật. Đó là quan điểm biện chứng về thế giới tuy còn mộc mạc chất phát
nhưng rất đáng trân trọng. Và đó cũng là quan điểm duy vật biện chứng về thế giới.
1.2.2. Quan điểm của phật giáo về nhân sinh quan 6
Nội dung triết lý nhân sinh của Phật giáo được thể hiện tập trung trong
thuyết “Tứ Diệu Đế” (Tứ thánh đế – Catvary Arya Satya) tức là 4 chân lý tuyệt
diệu đòi hỏi mọi người phải nhận thức được. Tứ diệu đế là: a. Khổ đế
Chân lí về sự khổ, cho rằng mọi dạng tồn tại đều mang tính chất khổ não,
không trọn vẹn, cuộc đời con người là một bể khổ. Phật xác nhận đặc tính của
cuộc đời là vô thường, vô ngã và vì vậy mà con người phải chịu khổ. Có 8 nỗi
khổ là: sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, thụ biệt khổ (yêu thương nhau phải
xa nhau), oán tăng hội (ghét nhau phải gần nhau), sở cầu bất đắc (mong muốn
mà không đạt được) và ngũ thụ uẩn (do 5 yếu tố tạo nên con người).
Như vậy, cái khổ về mặt hiện tượng là cảm giác khổ về thân, sự bức xúc
của hoàn cảnh, sự không toại nguyện của tâm lý về bản chất. Về phương triết
học, khổ đau là một thực tại như thực đối với con người. Khổ đế là một chân lý
khách quan hiện thực. Khổ hay hình thái bất an là kết quả hàng loạt nhân duyên
được tạo tác từ tâm thức. Như vậy tri nhân thực tại là một cách trực tiếp đi vào
soi sáng mọi hình thái khổ đau của con người. Để thấu hiểu triệt để cái căn
nguyên của khổ đau, con người không thể dừng lại ở sự thật của đau khổ hay
quay mặt chạy trốn, mà phải đi vào soi sáng cái bản chất nội tại của nó.
Đạo Phật cho rằng đời là bể khổ, nỗi đau khổ là vô tận, là tuyệt đối. Do đó, con
người ở đâu, làm gì cũng khổ. Cuộc đời là đau khổ không còn tồn tại nào khác. Ngay
cả cái chết cũng không chấm dứt sự khổ mà là tiếp tục sự khổ mới. Phật ví sự khổ
của con người bằng hình ảnh: “Nước mắt của chúng sinh nhiều hơn nước biển”.
b. Nhân đế (hay Tập đế)
Là triết lý về sự phát sinh, nguyên nhân gây ra sự khổ. “Tập” là tụ hợp, kết
tập lại. Nguyên nhân của khổ là sự ham muốn, tìm sự thỏa mãn dục vọng, thỏa
mãn được trở thành, thỏa mãn được hoại diệt… Các loại ham muốn này là gốc
của luân hồi. Đạo Phật cho rằng nguyên nhân sâu xa của sự khổ, phiền não là
do “thập nhị nhân duyên”, tức 12 nhân duyên tạo ra chu trình khép kín trong
mỗi con người. 12 nhân duyên gồm:
- Vô minh (không sáng suốt): đồng nghĩa với mê tối, ít hiểu biết, không
sáng suốt. Không hiểu được đời là bể khổ, không tìm ra nguyên nhân và con
đường thoát khổ. Trong mười hai nhân duyên, vô minh là căn bản. Nếu không
thấu hiểu Tứ diệu đế cũng được gọi là Vô minh.
- Duyên hành: là ý muốn thúc đẩy hành động. -
: tâm từ trong sáng trở nên u tối. Duyên thức 7
- Duyên danh sắc: sự hội tụ các yếu tố vật chất và tinh thần sinh ra các cơ
quan cảm giác (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể và ý thức).
- Duyên lục nhập: là quá trình xâm nhập của thế giới xung quanh vào các
giác quan cảm giác, lúc đó thân sẽ sinh ra sáu cửa là: nhãn, nhĩ, tỳ, thiệt, thân, ý
để thiêu hủy, đón nhận.
- Duyên xúc: là sự tiếp xúc của thế giới xung quanh sinh ra cảm giác. Đó
là sắc, thinh, hương vị, xúc và pháp khi tiếp xúc, đụng chạm vào.
- Duyên thụ: là sự cảm thụ, sự nhận thức khi thế giới bên ngoài tiếp xúc
với lục căn sinh ra cảm giác.
- Duyên ái: là yêu thích mà nảy sinh ham muốn, dục vọng trước sự tác
động của thế giới bên ngoài.
- Duyên thủ: do yêu thích quyến luyến, không chịu xa lìa, rồi muốn chiếm
lấy, giữ lấy không chịu buông ra.
- Duyên hữu: cố để dành, tồn tại để tận hưởng cái đã chiếm đoạt được.
- Duyên sinh: sự ra đời, sinh thành do phải tồn tại.
- Duyên lão tử: khi đã sinh thì xác thân phải tiêu hoại mỏi mòn, trẻ rồi già, ốm đau rồi chết.
Thập nhị nhân duyên có nhiều cách giải thích khác nhau nhưng nhìn chung
đều cho rằng chúng có quan hệ mật thiết với nhau, cái này là nhân, làm duyên cho
cái kia, cái này là quả của cái trước, đồng thời là nhân cho cái sau. Cũng có lời giải
thích là 12 yếu tố tích luỹ đưa đến cái khổ sinh tử hiện tại mà yếu tố căn bản là ái
và thủ, nghĩa là tham lam, ích kỷ, còn gọi là ngã chấp. Mười hai nguyên nhân và
kết quả nối tiếp nhau tạo ra cái vòng lẩn quẩn của nổi khổ đau nhân loại.
Nguyên nhân sâu hơn và căn bản hơn chính là vô minh, tức là si mê không
thấy rõ bản chất của sự vật hiện tượng đều nương tựa vào nhau mà sinh khởi, đều
vô thường và chuyển biến, không có cái chủ thể, cái bền vững độc lập ở trong
chúng. Chúng ta có thể nhận thấy một cách rõ ràng, khổ hay không là do lòng
mình. Hay nói cách khác, tùy theo cách nhìn của mỗi người đối với cuộc đời mà
có khổ hay không. Nếu không bị sự chấp ngã và dục vọng, vị kỷ hay phiền não
khuấy động, chi phối, ngự trị trong tâm thì cuộc đời đầy an lạc hạnh phúc. c. Diệt đế
Là chân lý về diệt khổ. Phật giáo cho rằng mọi nỗi khổ đều có thể tiêu diệt
được để đạt tới trạng thái “niết bàn”. Một khi gốc của mọi tham ái được tận diệt
thì sự khổ cũng được tận diệt. Muốn diệt khổ phải đi ngược lại 12 nhân duyên,
bắt đầu từ diệt trừ vô minh. 8
Vô minh bị diệt, trí tuệ được bừng sáng, hiểu rõ được bản chất tồn tại, thực
tướng của vũ trụ là con người, không còn tham dục và kéo theo những hành
động tạo nghiệp nữa, tức là thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử. Nói cách khác diệt
trừ được vô minh, tham dục thì hoạt động ngũ uẩn dừng lại, tu đến niết bàn, tịch
diệt khi ấy mới hết luân hồi sinh tử.
Phật Giáo cho rằng, một khi người ta đã làm lắng dịu lòng tham ái, chấp
thủ, thì những nỗi lo âu, sợi hãi, bất an giảm dần, thâm tâm của bạn trở nên
thanh thản, đầu óc tỉnh táo hơn; lúc đó nhìn mọi vấn đề trở nên đơn giản hơn,
rộng lượng hơn. Đó là một hình thức hạnh phúc, cũng nhờ vậy tâm trí không bị
chi phối bởi những tư tưởng chấp thủ, nhờ không bị nung nóng bởi các ngọn lửa
phiền muộn, lo lắng sợ hãi mà tâm lý của bạn trầm tĩnh và sáng suốt hơn, khả
năng nhận thức sự vật hiện tượng sâu sắc hơn, chính xác hơn, thâm tâm được
chuyển hóa, thái độ ứng xử của bạn với mọi người xung quanh rộng lượng và
bao dung hơn. Tùy vào khả năng giảm thiểu lòng tham, vô minh đến mức độ
nào thì đời sống của bạn sẽ tăng phần hạnh phúc đến mức độ ấy. d. Ðạo đế
Là chân lý về con đường dẫn đến diệt khổ. Đây là con đường tu đạo để
hoàn thiện đạo đức cá nhân. Khổ được giải thích là xuất phát Thập nhị nhân
duyên và một khi dứt được những nguyên nhân đó thì ta có thể thoát khỏi vòng
sinh tử. Chấm dứt luân hồi, vòng sinh tử đồng nghĩa với việc chứng ngộ niết
bàn. Có 8 con đường chân chính để đạt sự diệt khổ dẫn đến niết bàn gọi là “Bát
chính đạo”. Bát chính đạo bao gồm:
- Chính kiến: hiểu biết đúng đắn và gìn giữ một quan niệm xác đáng về Tứ
diệu đế và giáo lí vô ngã.
- Chính tư duy: suy nghĩ luôn có một mục đích đúng đắn, suy xét về ý
nghĩa của bốn chân lí một cách không sai lầm.
- Chính ngữ: nói năng phải đúng đắn, không nói dối hay nói phù phiếm.
- Chính nghiệp: giữ nghiệp đúng đắn, tránh phạm giới luật, không làm
việc xấu, nên làm việc thiện.
- Chính mệnh: giữ ngăn dục vọng đúng đắn, tránh các nghề nghiệp liên quan đến sát sinh.
- Chính tinh tiến: cố gắng nỗ lực đúng hướng không biết mệt mỏi để phát
triển nghiệp tốt, diệt trừ nghiệp xấu.
- Chính niệm: tâm niệm luôn tin tưởng vững chắc vào sự giải thoát, luôn
tỉnh giác trên ba phương diện Thân, Khẩu, Ý. 9
- Chính định: kiên định, tập trung tư tưởng cao độ suy nghĩ về tứ diệu đế,
vô ngã, vô thường, tâm ý đạt bốn định xuất thế gian .
Theo con đường bát chính đạo nói trên, con người có thể diệt trừ vô minh,
đạt tới sự giải thoát, nhập vào niết bàn là trạng thái hoàn toàn yên tĩnh, sáng
suốt, chấm dứt sinh tử luân hồi.
Ngoài ra Phật giáo còn đưa ra 5 điều nhằm răn đe đem lại lợi ích cho con
người và xã hội. Chúng bao gồm: bất sát (không sát sinh), bất dâm (không dâm
dục), bất vọng ngữ (không nói năng thô tục, bậy bạ), bất âm tửu (không rượu,
chè) và bất đạo (không trộm cướp).
Như vậy, Phật giáo nguyên thủy có tư tưởng vô thần, có yếu tố duy vật
và tư tưởng biện chứng của thế giới. Phật giáo khuyên con người suy nghĩ
thiện và làm việc thiện nhằm góp phần hoàn thiện đạo đức cá nhân. Tuy nhiên
trong triết lý nhân sinh và con đường giải phóng của phật giáo vẫn mang nặng
tính chất bi quan không tưởng và duy tâm về xã hội. Và những tư tưởng xã
hội phật giáo đã phản ánh thực trạng xã hội đẳng cấp khắc nghiệt của xã hội
Ấn Độ cổ – trung đại và nêu lên ước vọng giải thoát nỗi bi kịch cho con
người lúc đó. Phật giáo cũng nói lên được tự do bình đẳng trong xã hội nhưng
triết lý nhân sinh vẫn còn mang nặng tính chất bi quan không tưởng và duy tâm về xã hội.
1.3. Những điểm tích cực của Phật giáo
1.3.1. Điểm tích cực trong Nhân – Sinh – Quan

Phật giáo như ánh sáng mặt trời mà nhìn ánh sáng ấy chúng ta chỉ có cặp
mắt nhỏ hẹp. Tuy nhiên chúng ta có thể căn cứ một vài điều sau đây mà biết tất
cả đặc điểm của Phật giáo.
a. Đặc điểm thứ nhất, đặc điểm của Phật giáo là “in như sự thật” lý thuyết,
phương pháp cùng kết quả đều hợp lý, đều như thật. Phật giáo không chen chủ quan
của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật và chân lý của đạo Phật là lời
kết luận sau sự suy nghiệm trung thực ấy. Đạo Phật chỉ thấy và chỉ nói những sự thật
mà sự vật có, không thêm, không bớt. Đạo Phật, nhân đó, cấm đoán những tín
ngưỡng và những hành động không phát sinh từ sự hiểu biết như thật, luôn theo, đạo
Phật không công nhận những kết quả của tín ngưỡng mê muội, hành động manh
động là hợp lý. Cho nên đạo Phật cũng được gọi là Đạo Như Thật.
b. Đặc điểm thứ hai, là “tôn trọng sự sống”. Ăn chay, không sát sanh là
những điều tượng trưng cụ thể cho đặc điểm ấy. Đạo Phật xem sự sống trên tất
cả. Hết thảy cái gì gọi là có giá trị là phải bảo vệ sự sống ấy. Giết sự sống để
nuôi sự sống là mê muội, ham sống nên hại sự sống cũng là vô minh. Cho nên 10
tôn trọng sự sống không những bằng cách giúp nhau để sống mà còn phải hy
sinh sự sống để bảo vệ sự sống, nghĩa là có khi tiêu cực như ăn chay để cứu
muôn loài. Đạo Phật đặc biệt chú trọng và nêu cao chủ nghĩa lợi tha, nhưng chữ
lợi ấy là phải hướng về mục đích tôn trọng sự sống
c. Đặc điểm thứ ba, của đạo Phật là chỉ thừa nhận sự “tương quan sinh tồn”.
Đạo Phật dạy cho người ta thấy ở đời phải tự lập chứ không thể biệt lập. Phật tử
không thấy, không tạo nên một đối tượng. Vũ trụ là một lò tương quan; không có gì
là trung tâm, không có gì là phụ thuộc hay là ngược lại. Bởi thế cho nên phân ly là
tự tạo một ung nhọt, mà chiến đấu (theo nghĩa hẹp) chỉ là tương đối. Chiến đấu
phải là một hành động vì bảo vệ sự sinh tồn mà bất đắc dĩ phải áp dụng trong
trường hợp bất đắc dĩ. Nếu hợp bất đắc dĩ. Nếu biến sự bất đắc dĩ ấy thành sự tuyệt
đối cần thiết trong mọi trường hợp, thì chiến đấu sẽ trở thành chiến tranh.
d. Đặc điểm thứ tư, của đạo Phật là xác nhận “người là trung tâm điểm
của xã hội loài người”. Đạo Phật không nói duy tâm, không nói duy vật, mà tất
cả đều do người phát sinh và đều phát sinh vì người. Kết luận này thực tế ở đâu
cũng rõ rệt cả. Trên thế giới loài người này không có gì tự nhiên sinh ra hay từ
hư không rơi xuống, mà đều do năng lực hoạt động của con người tạo thành.
Năng lực hoạt động của con người tạo tác chi phối tất cả. Tất cả khổ hay vui,
tiến hóa hay thoái hóa, là đều do con người dã man hay văn minh. Người là chúa
tể của xã hội loài người, xã hội loài người không thể có chúa trời thứ hai.
e. Đặc điểm thứ năm, là đạo Phật chú trọng “đối trị tâm bệnh con người
trước hết”. Lý do rất dễ hiểu. Con người là trung tâm điểm của xã hội loài
người, xã hội ấy tiến hoá hay thoái hóa là hoàn toàn do hoạt động con người chi
phối; mà hoạt động con người lại do tâm trí con người chủ đạo, vậy xã hội là
phản ảnh trung thành của tâm trí con người. Cho nên muốn cải tạo xã hội, căn
bản là phải cải tạo con người, cải tạo tâm bệnh con người. Tâm bệnh con người
nếu còn độc tài, tham lam, thì xã hội loài người là địa ngục; tâm bệnh con người
được đối trị rồi thì hoạt động con người rất sáng suốt mà xã hội con người, kết
quả của hoạt động ấy, cũng rất cực lạc.
f. Đặc điểm thứ sáu, mục đích đạo Phật là “đào luyện con người thành bi,
trí, dũng”. Bi là tôn trọng quyền sống của người khác. Trí là hành động sáng
suốt lợi lạc. Dũng là quyết tâm quả cảm hành động. Dũng không có bi và trí thì
sẽ thành tàn ác và manh động. Trí không có bi và dũng thì sẽ thành gian xảo và
mộng tưởng. Bi không có trí và dũng sẽ thành tình cảm và nhút nhát. Bi là tư
cách tiến hóa, trí là trí thức tiến hoá, dũng là năng lực tiến hoá. Con người như
thế là con người mới, căn bản của xã hội mới. 11
g. Đặc điểm thứ bảy, đạo Phật là “kiến thiết một xã hội mới” mà căn bản
là con người mới. Cho nên tranh đấu cho xã hội mới ấy, trở lại vấn đề, là phải
chiến thắng chính mình trước hết. Con người tự chiến thắng con người, nghĩa là
cái “nhân cũ” (bóc lột, đàn áp, độc tài, xâm lược) không còn nữa, thì kết quả
được cái “quả mới” là một xã hội mới. Trong xã hội ấy, quyền sống tuyệt đối
bình đẳng như sự sống: bình đẳng trong nhiệm vụ, bình đẳng trong hưởng thụ.
h. Đặc điểm thứ tám, đạo Phật là “tiến lên vô thượng giác”. Đào luyện
một con người mới, kiến thiết một xã hội mới rồi, không phải mục đích của đạo
Phật cứu cánh ở đó. Cao xa, đạo Phật còn hướng dẫn con người tiến dần lên
chóp đỉnh của sự tiến hoá là địa vị vô thượng giác, địa vị vô minh toàn diệt, trí
tuệ toàn giác, địa vị Phật đà.
i. Đặc điểm thứ chín, đạo Phật dạy phải “tự lực giải thoát”. Đấy là một
tinh thần tuyệt đối cần thiết. Đức Phật chỉ là một đạo sư dẫn đạo con đường sáng
cho chúng ta. Còn chúng ta phải tự thắp đuốc trí tuệ của mình mà soi đường,
phải tự động cặp chân năng lực của mình mà đi. Con người mới là phải tự rèn
luyện; xã hội mới là phải tự kiến thiết; vô thượng giác là phải tự tu, tự chứng. Tự
lục giải thoát là con đường duy nhất của mười phương các đức Phật Bồ-Tát. An
lạc không phải cầu xin, trí giác không do cầu hồ. Phật tử không có đứng vào
hàng ngũ thông minh mà phải hướng về lớp người ngu dốt dìu dắt họ.
k. Đặc điểm thứ mười, đạo Phật là “hiện chứng thể nghiệm”. Đức Phật chỉ
hướng dẫn chúng ta, chứ chân lý không phải là thứ đem quay phim cho người
thấy được. Đức Phật là đạo sư, nhưng trí giác không phải là thứ ai dạy khôn cho
ai. Cho nên đối với chân lý tối cao, ta phải tự lực thể nghiệm. Sự tự lực thể
nghiệm ấy, không những áp dụng với tinh thần tự lực giải thoát mà thôi, mà còn
đặc biệt chú ý đến sự biện chứng. Đức Phật tạo cho ta cái thang, nhưng không
kéo dàn hoa xuống hay đẩy thẳng ta lên được. Ta phải tự lực mà trèo từng nấc
thang lên dàn hoa chân lý. Trèo được nấc nào là tự thể nghiệm chân lý nấc ấy.
Đối với chân lý chưa biện chứng, chúng ta chỉ nói học, không nói biết. Tinh thần
tu chứng đạo Phật là thế.
Do tất cả đặc điểm trên đây, chúng ta thấy đạo Phật không phải chỉ là một
tôn giáo. “Đạo Phật là tất cả”, đó là một đặc điểm vừa cuối cùng vừa trước hết
của đạo Phật. Phật tử tự nhiên không thể không phủ nhận sự tàn sát, sự manh
động và sự nô lệ. Cho nên họ phải tự lực hành động để thượng thượng năng tiến.
Và hành động ấy không có lĩnh vực trong không gian, không có giới hạn trên
thời gian, không có phạm vi trong tổ chức, không có khu phân trong trường hợp.
Ở đâu và lúc nào, với ai và cảnh nào, Phật tử cũng áp dụng căn bản và tinh thần
bi, trí dũng của đạo Phật vào để hoàn thiện mình. 12
1.3.2. Điểm tích cực trong lý luận triết học
Giới nghiên cứu đều thấy rằng, triết học phương Tây thường gắn với những
thành tựu khoa học, đặc biệt là khoa học tự nhiên. Còn triết học phương Đông
thường gắn với tôn giáo (Ấn Độ), với chính trị, xã hội, đạo đức (Trung Quốc). Dù ra
đời rất sớm (2500 năm trước) nhưng trình độ tư duy, phân tích của triết học đã đạt
đến mức cao: Phật giáo nhìn nhận thế giới tự nhiên cũng như nhân sinh bằng sự
phân tích nhân – quả. Theo Phật giáo, nhân – quả là một chuỗi liên tục không gián
đoạn và không hỗn độn, có nghĩa là nhân nào quả ấy. Mối quan hệ nhân – quả Phật
giáo thường gọi là nhân duyên với ý nghĩa là một kết quả của nguyên nhân của một
kết quả khác. Bằng phân tích nhân quả, Phật giáo cho rằng không thể tìm nguyên
nhân đầu tiên cho vũ trụ, có nghĩa là không có một đấng tối cao nào sáng tạo ra vũ
trụ.Với lý luận như vậy, Phật giáo nghiên hẳn về chủ nghĩa duy vật. Người tu Phật
đều có một định hướng duy nhất: giải thoát thân tâm ra khỏi mạng lưới “thực tại” giả
lập, nhìn thẳng vào thế giới trùng trùng duyên khởi, thấu hiểu bản chất không tính
của vạn hữu và phát khởi Bồ Đề Tâm đối với tất cả chúng sinh còn đang vướng mắc
trong vòng vây của ảo giác. ảo giác lớn nhất của con ngườ là cho rằng có tồn tại một
thế giới thực hữu hoàn toàn biệt lập với nhận thức của chủ thể và thế giới đó hiện
hữu, tồng tại như một đối tượng của ham muốn chinh phục hoặc khao khát sở hữu.
Triết học Phật giáo không phải là một chủ thuyết duy tâm chủ quan giống như toàn
bộ hệ thống triết học duy niệm Đức thế kỷ XIX, cũng không phải là một chủ nghĩa
duy thực ngây thơ (nave realism). Trọng điểm chính trong thực tại luận Phật giáo
xoay quanh lời khẳng định rằng thế giới khách quan (cảnh/sắc) có mối quan hệ cộng
sinh với thể cách nhận thức của chủ thể (tâm/thức). Chính vì vậy về phương diện
triết học Phật giáo cưu mang tinh thần xã hội ở mức cao nhất: sự cải tạo thế giới
khách quan là một tiến trình gắn bó chặt chẽ với sự cải tạo bản thân, sự chuyển hóa
nhận thức của chủ thể. Hai tiến trình này liên lập và bổ sung cho nhau không ngừng.
1.4. Những hạn chế của Phật giáo
1.4.1. Hạn chế chủ quan:
Phật giáo thể hiện cách nhìn cuộc đời khá bi quan. “Nước mắt chúng sinh
nhiều hơn bể cả”. Trong kinh phật ta có thể thấy nhiều đoạn nói về cuộc sống
khổ đau mà con người phải chịu đựng. Vì cuộc sống là bể khổ như vậy nên tư
tưởng của Phật giáo là xuất thế và xa rời hiện thực. Những nhà chùa thường lui
về những nơi vắng vẻ, ít người qua lại. Phật giáo răn dạy con người cố gắng tìm
đến cõi niết bàn mà bỏ lại cuộc sống trần gian đầy rẫy bất công, đau khổ. Phật
giáo răn dạy con người biết chịu đựng mà không biết đấu tranh, phản kháng.
Điều này đã phần nào thủ tiêu tính chiến đấu của con người. Phật giáo quan
niệm về hôn nhân rất khai phóng. Phật tử không có lý do gì để hạn chế việc sinh 13
đẻ. Quan niệm này không còn phù hợp với thời đại hiện nay khi mà vấn đề dân
số đang được nhắc tới nhiều.
1.4.2. Hạn chế khách quan:
Khi xưa, trước khi nhập Niết Bàn, Phật tổ từng dặn dò đệ tử không được
bói toán, xem sao, xem tướng làm mê hoặc quần chúng. Nhưng một số kẻ lợi
dụng chùa làm nơi bói toán, lên đồng, xem sao, xem tướng, giải hạn… để kiếm
tiền bất chính. Trước cổng chùa bày bán đủ loại tử vi, cúng sao, giải hạn không
có nguồn gốc xuất xứ làm mê hoặc quần chúng. Lợi dụng lòng tốt của khách đến
chùa, một số người trẻ tuổi, lành lặn, khỏe khoắn, lười lao động ngồi dọc lối vào
chùa làm nghề ăn xin, níu khéo làm mất lòng khách. Biểu hiện móc túi, lừa đảo
khách, bán đồ giả có xu hướng gia tăng. Trong các ngôi chùa có trang bị thùng
rác, nhưng vẫn có nhiều người thiếu ý thức xả rác bừa bãi, gây ô nhiễm môi
trường. Những năm gần đây, người đến chùa càng đông, đa số cử chỉ nhã nhặn,
ăn mặc trang nhã, thể hiện sự thành kính chốn trang nghiêm. Nhưng vẫn có hiện
tượng một số người ăn mặc hở hang không phù hợp với cảnh chùa. Vì vậy để
xóa bỏ các hiện tượng tiêu cực như đã nêu, khai thác những ảnh hưởng tích
cực của Phật giáo tới đạo đức, lối sống nhân dân, chính quyền và các cơ quan
chức năng cần có những biện pháp nhằm loại trừ các tệ nạn trên, ổn định trật tự
an toàn xã hội, giữ gìn sự tinh khiết của Phật giáo. Chương II
MỘT SỐ ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN XÃ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM
2.1. Phật giáo với xã hội và con người Việt Nam ngày nay
Phật giáo xây dựng hệ thống đạo đức trên cơ sở hệ thống giáo lý, đó là mối
quan hệ giữa giới, định, tuệ để đi đến giải thoát và giải thoát tri kiến, trong đó
giới có vai trò làm nền tảng cho việc giải thoát.
Đạo đức Phật giáo bao gồm các giới cùng các chuẩn mực và các phạm trù có
liên quan tới nhau một cách chặt chẽ. Phật giáo xây dựng một hệ thống đạo đức hoàn
chỉnh từ nhận thức, lý luận đến thực hành và việc áp dụng nó để xây dựng một nếp
sống tốt đẹp. Bên cạnh đó Phật giáo còn xây dựng mẫu người đạo đức đó là con
người từ bi, hỷ, xả, vô ngã, vị tha mà thâu tóm là đứng vững trên hai chân: từ bi và
trí tuệ. Đạo đức Phật giáo có nhiều điểm tương đồng với đạo đức người Việt. Những
phạm trù cơ bản của đạo đức Phật giáo đã ảnh hưởng khá sâu đậm vào đời sống 14
người Việt. Ngày nay, với sự chấn hưng của Phật giáo Việt Nam, đạo đức Phật giáo
sẽ góp phần hết sức to lớn vào việc xây dựng một xã hội hài hòa, phát triển.
2.1.1. Đạo đức Phật giáo với đạo đức truyền thống của người Việt Nam
Đạo Phật đồng hành với dân tộc Việt Nam, từ khi du nhập vào Việt Nam đến
nay đã 2000 năm lịch sử, nên có thể xem nó như một phần tài sản văn hóa dân
tộc. Trong quá trình phát triển tại Việt Nam, đạo Phật không chỉ đơn thuần
chuyền tải niềm tin của con người mà còn có vai trò góp phần duy trì đạo đức xã
hội nơi trần thế. Ngoài những điểm phù hợp với tình cảm đạo đức của con người,
đạo đức Phật giáo còn thực hiện thông qua tình cảm, tín ngưỡng, niềm tin vào
giáo lý. Do đó, tình cảm đạo đức Phật giáo được người Việt tiếp thu, tạo thành
đức tin thiêng liêng bên trong và chi phối hành vi ứng xử của họ trong các quan
hệ cộng đồng. Do tuân thủ những điều răn dạy về đạo đức của Phật giáo, người
Việt đã sống và ứng xử đúng đạo lý, góp phần làm cho xã hội ngày thêm tốt đẹp.
Đạo đức Phật giáo thông qua những giáo luật, giáo lý và các giá trị, chuẩn mực
đã đi vào cuộc sống của người dân Việt Nam. Sự ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo
đến đời sống của người Việt Nam không chỉ là giáo lý qua kinh kệ, sách vở mà đã
trở thành phong tục, cách sống của dân tộc, của mọi gia đình. Người Việt Nam
truyền thống với tinh thần yêu thương, đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau, phụng dưỡng
cha mẹ, tri ân những người có công với cộng đồng, làm điều thiện… đó cũng chính
là những điều luân lý đạo đức cụ thể mà Phật giáo đã truyền dạy. Đạo đức Phật giáo
đã thực sự đi vào cuộc sống, đi vào tâm linh mỗi con người. Trong suốt chiều dài của
lịch sử, đạo đức Phật giáo đã có nhiều đóng góp đáng kể đối với sự phát triển của
dân tộc, những nhân tố quan trọng góp phần định hình nên các quan niệm chuẩn
mực, hệ giá trị đạo đức trong xã hội Việt Nam truyền thống và hiện đại.
2.1.2. Đạo đức Phật giáo với kinh tế trong bối cảnh thị trường hiện nay
Trong giáo lý “Bát chính đạo” đức Phật có đề cập đến “chính niệm” sinh sống
bằng nghề nghiệp chân chính. Người khuyên mọi người kiếm sống bằng chính sức
lao động và tiền vốn của mình, trí tuệ của mình chứ không được buôn gian bán lận,
buôn bán hàng quốc cấm và các loại hàng hóa có hại cho sức khỏe con người và xã
hội. Trong cuộc sống mỗi người phải lao động làm việc để tạo ra nguồn của cải vật
chất để nuôi sống mình và gia đình. Như vậy, trong nền kinh tế thị trường ngày
nay, đạo đức Phật giáo góp phần không nhỏ trong việc giáo dục con người, hướng
con người tới những điều thiện, từ đó giảm bớt thiệt hại cho người tiêu dùng và đặc
biệt là những nguy hiểm chết người. Đây chính là mặt tích cực của đạo đức Phật
giáo giúp con người và nhân loại có cuộc sống an lạc hạnh phúc.
“Chính mệnh” trong Bát chính đạo của Phật giáo còn có nghĩa là biết làm chủ
cuộc sống, không lãng phí, không bủn xỉn, biết làm phúc. Biết chăm lo cuộc sống 15
của người thân, quyến thuộc, biết tích lũy cho đời nay và chuẩn bị cho đời sau. Đức
Phật dạy rằng các cư sĩ sống bình thường ở gia đình có 4 điều lạc thú: Một là được
hưởng cảm giác an toàn do có của cải và cơ sở kinh tế có được bằng phương pháp
chính đáng; Hai là có thể khảng khái sử dụng của cải ấy cho mình, cho người nhà
và cho bạn hữu, đồng thời dùng nó để làm nhiều việc từ thiện; Ba là không bị khổ
sở vì nợ nần; Bốn là có thể sống cuộc đời thanh tịnh, không lỗi lầm.
Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, chúng ta cần coi trọng việc xây
dựng hoàn thiện đạo đức nhằm phát triển con người một cách toàn diện. Nền đạo
đức mà chúng ta đang xây dựng là sự kết tinh, kế thừa những giá trị đạo đức truyền
thống của nhân loại, của dân tộc. trong đó có những giá trị đạo đức Phật giáo.
2.1.3. Đạo đức Phật giáo với văn hóa
Thực tế cho thấy Phật giáo Việt Nam từ thế kỷ XX đã có những đóng góp
vô cùng to lớn cho nền văn hóa dân tộc – hiện đại. Trong triển vọng phát triển
chung của Tôn giáo thế giới, Phật giáo Việt Nam cũng đồng hành hướng tới giải
quyết những nhiệm vụ cơ bản đặt ra với con người hiện đại, đặc biệt ở bước đi
tương đồng với những quốc gia lân bang cùng điều kiện và hoàn cảnh.
Triết lý của Phật giáo về Từ bi, về tình thương yêu rất phù hợp với truyền
thống giàu lòng nhân ái vốn có của người Việt: “Một con ngựa đau, cả tàu bỏ
cỏ”; “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”; “Lá lành đùm lá rách”’ “Thương
người như thể thương thân”…sự kết hợp những nét độc đáo trong phương pháp
tư duy, trong văn học, nghệ thuật của người Việt Nam. Những giá trị, khuyến
thiện, hướng thiện không chỉ phát huy tác dụng trong hàng ngũ tín đồ mà còn
ảnh hưởng rộng rãi trong đời sống nhân dân, góp phần hình thành nên những
quan niệm sống giàu tính nhân văn sâu sắc.
Đồng hành cùng với sự phát triển của đất nước, đạo đức Phật giáo đã góp
phần tạo nên truyền thống văn hóa thực sự giàu bản sắc. Ngày nay, đạo đức Phật
giáo đã có vị trí vững chắc trong nền văn hóa dân tộc- hiện đại. Một thời đại mới
đang mở rộng ra cùng với những thách thức của hội nhập và phát triển, lợi ích cá
nhân và cộng đồng, phẩm chất vị tha và cạnh tranh thị trường đòi hỏi sự năng động
của đạo đức Phật giáo, yêu cầu phát huy và dung hợp những giá trị nhân bản bền
vững của Phật giáo Việt Nam trong nền văn hóa dân tộc – hiện đại. Có thể khẳng
định vị trí vững chắc của đạo đức Phật giáo Việt Nam trong nền văn hóa dân tộc.
2.1.4. Đạo đức Phật giáo với xã hội Việt Nam hiện nay
Đức Phật dạy từ việc lớn như quốc gia, chính sự đến việc nhỏ như hòa khí
trong gia đình. Tư tưởng Từ bi, hỷ, xả, cứu khổ, cứu nạn của nhà Phật vẫn đang
được nhân dân Việt Nam nói riêng và nhân loại nói chung tiếp thu và phát huy
trong đời sống xã hội. Một số quy tắc của đạo đức Phật giáo (Ngũ giới, Thập thiện, 16
…) có những nét tương đồng với các quy tắc, chuẩn mực của nền đạo đức xã hội
vẫn đang được nhiều người tin theo và khuyến khích phát huy. Đó là những quy tắc
sống mà xã hội nào cũng rất cần đến để duy trì một nền đạo đức, một nếp sống lành
mạnh và hạnh phúc cho con người (Kinh Thiện sinh – Gingalovada)
Cùng với thời gian, Phật giáo Việt Nam đã điểm vào trang lịch sử của mình
những nét vàng son. Những chuẩn mực của đạo đức Phật giáo vẫn đang có
những đóng góp cho việc duy trì một nền đạo đức xã hội, khơi dậy truyền thống
yêu nước, nhân nghĩa, tương thân tương ái trong cộng đồng, xây dựng con người
Việt Nam đạo đức và văn hóa tốt đẹp.
2.1.5. Đạo đức Phật giáo với việc xây dựng đạo đức, lối sống của người Việt Nam
Với triết lý từ bi, hỷ xả, khuyến khích con người hướng thiện, đạo đức Phật
giáo đã dễ dàng đi vào lòng người, có tác dụng hoàn thiện nhân cách đạo đức,
hướng con người đến lối sống, vị tha, bình đẳng, bác ái. Thực tế đã chứng minh,
đạo đức Phật giáo phù hợp với đạo đức lẽ sống của con người Việt Nam và nó
đã có những đóng góp tích cực trong việc xây dựng một nền tảng đạo đức mới
cho xã hội trên cơ sở kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống đã được đặt ra.
Tính hướng thiện của Phật giáo là một trong những nguồn gốc của chủ
nghĩa nhân đạo, tư tưởng bình đẳng, hòa bình của Phật giáo phù hợp với xu
hướng hòa đồng liên kết giữa các dân tộc trên thế giới trong xu thế toàn cầu
hóa hiện nay, lòng từ bi, bác ái góp phần cứu giúp người hoạn nạn, giữ vững
tinh thần lá lành đùm lá rách của dân tộc, triết lý vô thường, vô ngã giúp con
người giảm bớt cái tôi vị kỷ…Những giá trị tích cực đó của đạo đức Phật giáo
càng được nhân lên với những hành động cụ thể như kẻ đói được cho ăn, kẻ
rách được cho mặc, người ốm đau bệnh tật được chăm sóc…Đạo đức Phật giáo
khuyên con người luôn nhớ đến “đạo hiếu”, lấy chữ hiếu làm đầu: “hạnh hiếu
là hạnh Phật, tâm hiếu là tâm Phật”, “muôn việc ở thế gian không gì hơn công
ơn nuôi dưỡng của cha mẹ”. Thêm vào đó, những không gian chùa chiền của
Phật giáo luôn thu hút con người tìm về chốn tĩnh tâm, nơi chiêm nghiệm và
cảm nhận…Tất cả những điều đó là những giá trị đạo đức tích cực, thiết thực
góp phần giáo hóa con người, giúp cho thế hệ trẻ vững bước trước cám dỗ của
cuộc đời, khích lệ họ quan tâm đến số phận của cộng đồng, sống lương thiện,
coi trọng tính nhân bản, coi trọng thiên nhiên…Bên cạnh đó, lối sống Phật giáo
nêu cao tinh thần “cư trần lạc đạo” đã góp phần xây dựng lối sống có trách
nhiệm với một ý thức không tham quyền cố vị, không bám lấy lợi ích vật chất,
sống thanh cao tự tại. Bởi theo định nghĩa của đức Phật, tham và sân là hai
năng lực tiêu cực mạnh mẽ nhất trong tâm thức con người, chúng che khuất
tầm nhìn và làm nhiễu loạn Phật tính của ta, cho nên, cũng theo Ngài, diệt trừ 17
được tham và sân đích thực là một thành tựu rất to lớn của con người. Như thế
đạo đức Phật giáo đã đóng góp những giá trị văn hóa tích cực vào việc xây
dựng đạo đức lối sống cho con người, nhất là cho tầng lớp trẻ hiện nay. Đặc
biệt, đạo đức Phật giáo còn góp phần rèn luyện một lối sống kham nhẫn, khắc
kỷ. Đó là những hình thức tu tập kiên nhẫn, vượt qua những cám dỗ của cuộc
đời để lòng được thanh cao, tâm hồn được giải thoát.
Ngày nay với phương châm Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội, đạo
đức Phật giáo đã góp phần tích cực vào các phong trào phát triển xã hội, bảo vệ
môi trường. Đặc biệt công tác từ thiện với tinh thần cứu khổ, cứu nạn của đạo
Phật, hòa cùng truyền thống lá lành đùm lá rách của dân tộc, tăng ni phật tử đã
tổ chức cứu trợ cho đồng bào bị thiên tai bão lụt, cho những vùng quê nghèo
khó, cho những mảnh đời bất hạnh…Những hoạt động từ thiện đó của đạo Phật
cùng nhằm điều chỉnh tính cách, lối sống, góp phần hình thành nhân cách của
một con người có ích cho xã hội.
2.2. Ảnh hưởng của Phật giáo đến thế hệ trẻ
Phật giáo là một tôn giáo lớn của thế giơi, được du nhập vào Việt Nam từ
rất sớm. Trong mỗi thời kỳ lịch sử của nước ta, Phật giáo luôn gắn bó mật thiết
với dân tộc và thấm sâu vào tiềm thức của nhiều người.
Tư tưởng Phật giáo và suy nghĩ của người Việt Nam có mối quan hệ mật
thiết, gắn bó. Phật giáo với những giá trị tích cực như từ bi, hỷ xả, cứu khổ, cứu
nạn, bình đẳng, bác ái dễ đi vào lòng người, phù hợp với phong tục, tập quán
của người Việt Nam. Từ lịch sử dân tộc Việt Nam với gần nghìn năm Bắc thuộc,
chịu nhiều đau khổ, khi được truyền bá vào Việt Nam, với những giá trị của
mình, Phật giáo đã góp phần xoa dịu nỗi đau tinh thần đối với nhân dân ta. Sự
dung hợp và ảnh hưởng của Phật giáo được biểu hiện trên các vấn đề cơ bản sau.
2.2.1. Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo trong quan hệ ứng xử, giao tiếp
Đạo đức Phật giáo hòa nhập với các giá trị đạo đức của dân tộc trở thành
phương tiện diễn đạt quan niệm đạo đức truyền thống của người Việt Nam. Các
thuật ngữ như “từ bi, hỷ xả”, “vô ngã, vị tha”, “cứu nhân độ thế”, “tu nhân tích
đức”, “sống nhân từ để phúc cho đời sau”… đã không còn nguyên nghĩa của
riêng Phật giáo, mà trở thành một phần trong lẽ sống của người Việt, trở thành
ngôn ngữ của đời sống thường ngày. Cách thức giao tiếp, ứng xử của người Việt
Nam cũng chịu ảnh hưởng rất lớn bởi các quan niệm Phật giáo. Nét phổ biến
trong quan hệ ứng xử và giao tiếp của Phật giáo là cái thật, cái thiện ở cả thân,
khẩu, ý. Trong bát chính đạo của Phật giáo, có chính ngữ (giữ cho lời nói được
đúng mực), đó chính là một trong các điều kiện để mỗi con người có những ứng
xử phù hợp với mọi người trong xã hội. Về ứng xử, giao tiếp trong gia đình, Phật 18
giáo đề cao sự hòa thuận và trách nhiệm của các bậc cha mẹ, anh em, vợ chồng…
đề cao sự hiếu thuận thông qua thực hiện Tứ ân. Điều này được thể hiện rất nhiều
trong ca dao, tục ngữ Việt Nam: “Công cha như núi Thái Sơn/Nghĩa mẹ như nước
trong nguồn chảy ra/Một lòng thờ mẹ, kính cha/Cho tròn chữ hiếu mới là đạo
con”, hay như: “Đi khắp thế gian, không ai tốt bằng mẹ/Gánh nặng cuộc đời,
không ai khổ bằng cha” đã trở thành đạo lý, lẽ sống của người Việt.
2.2.2. Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo trong sự công bằng, bình đẳng
Tư tưởng bình đẳng, công bằng của Phật giáo khi du nhập và phát triển ở
Việt Nam đã hòa nhập với tư tưởng, công bằng, bình đẳng của người Việt
Nam. Cơ sở của sự ảnh hưởng hòa nhập này dường như bắt nguồn từ tư tưởng
bình quân nguyên thủy của nền văn minh làng xã. Phật giáo chủ trương thiết
lập quan hệ công bằng, bình đẳng giữa mọi người và cho rằng mọi người đều
bình đẳng như nhau, trong mỗi người đều có phật tính; trong quan hệ với
người khác, mỗi cá nhân không được cầu lợi cho mình… có ảnh hưởng rất
lớn đối với quan niệm sống của người Việt, điển hình như: “Một người vì mọi
người, mọi người vì một người”.
2.2.3. Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo về tính trung thực
Trong giáo lý của nhà Phật, tính trung thực thuộc vào giới “không nói dối”
của ngũ giới. Thập thiện bao gồm: thực ở cả “thân, khẩu, ý” Trung . thực ở ý là
trung tâm điều chỉnh hành vi theo luật nhân quả, nhân nào quả ấy. Theo đó, sự
dối trá sẽ bị nghiệp báo. Thuyết nhân quả, nghiệp báo của Phật giáo gặp gỡ với
tín ngưỡng của người Việt Nam đã lan tỏa thành nếp sống, nếp nghĩ “ở hiền gặp
lành”, “ác giả ác báo”… trong nhân dân.
2.2.4. Ảnh hưởng trong tính thiện, tình nghĩa và tình thương
Tính thiện, tình nghĩa và tình thương mang bản sắc Việt Nam được con
người Việt Nam hun đúc trong quá trình dựng nước và giữ nước. Cái thiện của
con người Việt Nam mang tinh thần bình đẳng, vị tha, tôn trọng, yêu thương con
người. Phật giáo đã hòa đồng với tư tưởng truyền thống Việt Nam để xây dựng
tính thiện, tình nghĩa và tình thương. Đó là, tình “thương người như thể thương
thân”, “lá lành đùm lá rách”… Tình thương, tình nghĩa, tính thiện không chỉ thể
hiện trong quan hệ với hiện tại mà còn được thể hiện trong quan hệ với quá khứ
như: uống nước nhớ nguồn hoặc ăn quả nhớ kẻ trồng cây…
2.2.5. Ảnh hưởng trong tấm lòng bao dung rộng lớn
Phật giáo đã góp phần cùng với dân tộc Việt Nam trong việc xây dựng
tấm lòng bao dung rộng lớn, vô ngã, vị tha. Tinh thần bao dung rộng lớn được
thể hiện trước lỗi lầm của con người. Trong cách ứng xử của người Việt thể 19
hiện rất rõ như: “biển cả mênh mông, quay đầu là bờ”, “đánh kẻ chạy đi
không ai đánh người chạy lại”… Tinh thần bao dung còn được thể hiện trong
cách ứng xử với kẻ thù khi chúng bại trận, trong chính sách nhân đạo đối với tù binh, hàng binh...
2.2.6. Ảnh hưởng trong tinh thần tự lực, tự chủ của mỗi người
Phật giáo khẳng định mỗi cá nhân là chủ nhân của chính mình, không phải
làm nô lệ của người khác kể cả nô lệ cho đức Phật, hãy “tự đốt đuốc mà đi”. Tư
tưởng này của Phật giáo khiến con người được giải phóng khỏi sự trói buộc của
thần quyền, nhờ đó mà được tự do. Chính con người phải tự quyết định số phận
và tiền đồ của chính mình. Quan điểm tự lực, tự chủ của Phật giáo đã góp phần
xác định thêm cho tinh thần tự lực, tự chủ của mỗi người Việt Nam.
2.3. Phát huy tính hợp lý của Phật giáo trong xây dựng đời sống văn hóa hiện nay
Trong giai đoạn hiện nay, cần có sự đánh giá đầy đủ những giá trị và ảnh
hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với con người Việt Nam, từ đó kế thừa, phát
huy những giá trị của tư tưởng Phật giáo.
Tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng, ngoài mặt tiêu cực còn có
những “hạt nhân hợp lý” hiện vẫn còn phù hợp với xã hội. Đó là mặt văn hóa,
đạo đức và đáp ứng được yêu cầu đời sống tâm linh của con người. Đảng ta đã
khẳng định: “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo”.
Trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Phật giáo vẫn giữ khả năng tự biến
đổi và thích nghi theo xu hướng đi cùng với dân tộc, sống “tốt đời đẹp đạo”,
“đồng hành cùng dân tộc”, “Đạo pháp - dân tộc - xã hội chủ nghĩa”. Quan điểm
này của Đảng và Nhà nước ta cần phải được phát huy thành các định hướng cụ
thể trên tinh thần khai thác các yếu tố văn hóa, đạo đức, tinh thần tích cực của
Phật giáo. Trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế hiện nay, tư tưởng Phật giáo đang
góp phần cùng pháp luật chống lại những biểu hiện tiêu cực, phi nhân tính trong
sản xuất, kinh doanh, phai nhạt bản sắc dân tộc trong đời sống xã hội, góp phần
phát huy những nét đẹp trong quan hệ giữa con người với con người; xây dựng
và điều chỉnh nhân cách con người Việt Nam trong thời đại mới vừa hiện đại
vừa giàu bản sắc dân tộc.
Những điều kiện về kinh tế, xã hội, nhận thức, tâm lý là cơ sở cho Phật
giáo phát triển vẫn còn tồn tại trong xã hội hiện đại. Hơn nữa, bản thân Phật giáo
cũng không ngừng tự vận động biến đổi cho phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện
mới. Vì vậy, cần phải có quan điểm khoa học để nghiên cứu một cách toàn diện
những cơ duyên tồn tại và phát triển của Phật giáo. Đây cũng là cơ sở để tiếp tục 20
khái quát, tìm ra những ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo, từ đó có quan điểm,
biện pháp phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của tư tưởng Phật giáo
đến suy nghĩ, lối sống của người Việt Nam hiện nay. Chương III
VẬN DỤNG PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI XÂY DỰNG TƯ TƯỞNG ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Hiện nay, Phật giáo là tôn giáo có đông tín đồ nhất trong các tôn giáo ở
Việt Nam, ước lượng khoảng 15 triệu tín đồ, Số Tăng ni các cấp được ghi nhận
trong cả nước vào khoảng 30.000 người, trong đó có một phần ba là sư sãi Khơ-
me (trong đó phần đông là đi tu nghĩa vụ trong thời gian ngắn). Trong tổng số
12.000 chùa trong cả nước, có 440 chùa Khơ-me.
Phải nói rằng, Phật giáo đã ảnh hưởng đến mọi sinh hoạt của người Việt từ
triết lý, tư tưởng, đạo đức, văn học, nghệ thuật cho đến phong tục tập quán, nếp
sống, nếp nghĩ...Từ quan niệm nhân sinh quan, thế giới quan, đạo lý, thẩm mỹ
cho đến lời ăn tiếng nói của quảng đại quần chúng ít nhiều đều chịu ảnh hưởng
của triết lý và tư tưởng Phật giáo. Những ngày đại lễ Phật giáo, ngày rằm, mùng
một hay lễ tết dân tộc mọi người dân dù bận rộn đến mấy cũng vài lần trong đời
đến viếng cảnh chùa để chiêm bái chư Phật, chung vui lễ hội hoặc để gần gũi,
tìm hiểu những di tích lịch sử văn hóa của dân tộc, Chùa làng một thời đã đóng
vai trò trung tâm trong sinh hoạt văn hóa tinh thần cộng đồng làng xã của người
Việt. Tại sao Phật giáo đã để lại nhiều dấu ấn sâu đậm trong tâm hồn, tình cảm,
trong phong tục tập quán và cảnh quan của dân tộc Việt Nam như vậy?
Người Việt vốn hiền lành, hiếu hòa, hiếu sinh, chân thật, yêu thương đồng
loại. Đạo Phật thì dạy con người biết ăn ở hiền lành, thấy rõ lẽ phải trái, bỏ ác
làm lành, cải tà quy chánh trau dồi đức hạnh và thăng hoa trí tuệ, cho nên được
quảng đại quần chúng chấp nhận. Qua quá trình lịch sử, trải qua bao cuộc biến
đổi thăng trầm của đất nước, Phật giáo đã khẳng định mình và có một chỗ đứng
vững chắc trong lòng của dân tộc, tồn tại và phát triển cùng với dân tộc
Hiện nay tư tưởng chính thống ở Việt Nam là chủ nghĩa Mác – Lê Nin và
tư tưởng Hồ Chí Minh. Những tư tưởng này không chỉ có ý nghĩa trong đời
sống chính trị - xã hội mà còn được vận dụng và mang lại nhiều hiệu quả tích
cực trong nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, cuộc sống luôn có những biến đổi và “con
người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội” cho nên việc giáo dục về đạo đức, lối
sống cho thế hệ trẻ là hết sức cần thiết.. Vận dụng tư tưởng đạo đức của Phật
giáo có thể mang lại những hiệu quả tích cực trước mắt và lâu dài cho việc giáo
dục đạo đức lối sống cho thế hệ trẻ ở Việt Nam trong thời đại hiện nay. Giáo 21
dục đạo đức Phật giáo là giáo hóa con người, giúp cho thế hệ trẻ vững bước
trước những cám dỗ của cuộc đời, khích lệ họ quan tâm đến số phận của cộng
đồng, sống lương thiện, coi trọng tính nhân bản, coi trọng thiên nhiên, bên cạnh
đó góp phần xây dựng lối sống có trách nhiệm với một ý thức không tham quyền
cố vị, không bám lấy lợi ích vật chất, sống thanh cao tự tạ.
Vấn đề ở đây là phải hướng đạo đức Phật giáo hướng đến các mục đích xa
hơn, rộng lớn hơn của xã hội - mục đích phát triển xã hội bền vững. Mặc dầu
trong sự nghiệp giáo dục con người, triết lý từ bi, vô vi xuất thế lấy bình yên làm
cứu cánh đã làm bớt đi tham vọng tiến thân, sống nhẫn nhịn, an phận thủ
thường… ít nhiều mang yếu tố tiêu cực, nhưng chúng ta phải phát huy yếu tố
tích cực của đạo đức Phật giáo trong việc giáo dục con người hướng thiện, góp
phần duy trì và phát huy những giá trị tốt đẹp và nếp sống đạo đức trong sáng
của dân tộc. Làm được điều đó, giáo dục đạo đức Phật giáo sẽ góp phần thúc
đẩy bền vững xã hội Việt Nam trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay.
Đến đây, chúng ta có thể kết luận rằng những tư tưởng và hình ảnh của
Phật giáo nói chung và đạo đức của phật giáo nói riêng đã để lại những dấu ấn
sâu đậm trong tư tưởng, đạo đức, phong tục tập quán, nếp sống, ý nghĩ … của
người Việt Nam trong lịch sử và nó sẽ tiếp tục tỏa sáng cái tinh hoa độc đáo của
mình cho dân tộc Việt nói riêng và cả nhân loại nói chung trong tương lai. KẾT LUẬN
Trong giai đoạn đất nước đang mở của để hòa nhập vào trào lưu phát triển
với thế giới, Việt Nam đã và đang giao lưu với bạn bè quốc tế tiếp thu và học
tập những tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại. Điều đó sẽ dẫn đến sự du nhập
nhiều luồng văn hóa ngoại lai. Trong đó có cái tốt, có cái xấu, làm sao chúng ta
có thể phân biệt và tiếp thu cái tốt và giải trừ cái xấu và nó đã trở thành một vấn
đề của quốc gia chứ không phải chỉ là chuyên cá nhân hay riêng tư nữa. Lời giải
đáp rõ ràng nhất là nếu chúng ta có một nền văn hóa lành mạnh; đậm đà bản sắc
dân tộc với những tư tưởng truyền thống tốt đẹp sẽ giúp chúng ta nhận định,
chắc lọc và cũng là liều thuốc tốt nhất giúp chúng ta chống lại những cặn bã văn
hóa ngoại nhập hoặc văn hóa mê tín phát sinh từ bản địa. Những yếu tố tích cực
của Phật giáo là một phần tư tưởng văn hóa Việt sẽ cùng với văn hóa dân tộc
Việt làm nhiệm vụ chọn lọc và phát triển văn hóa Phật giáo và văn hóa dân tộc
trong thời điểm hiện nay.