Tiểu luận- Triết học phật giáo ảnh hưởng tới tư tưởng con người Việt Nam| Đại học Nội Vụ Hà Nội

Phật giáo là một tôn giáo lớn của thế giới, đồng thời là một học thuyết triết họcsâu sắc. Tất cả các giá trị văn hóa Phật giáo được kết tinh, thể hiện rõ nét trong nộidung giáo lý nhà Phật ở các cấp độ nhận thức, tâm lý và tư tưởng. Trong quá trình tồntại và phát triển của Phật giáo đã không ngừng thể hiện vai trò giáo dục, định hướngcác giá trị đạo đức.Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem.

lOMoARcPSD| 36844358
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập và rèn luyện tại đại học Nội Vụ Hà Nội tôi đã hoàn
thành bài tiểu luận của mình. Bằng tất cả lòng biết ơn, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc
đến:
Ban giám hiệu trường Đại Học Nội Vụ Nội đã hỗ trợ, tạo điều kiện giúp đỡ,
động viên cho tôi môi trường học tập tưởng để chúng tôi thấy mình cần học tập, nghiên
cứu nghiêm túc để cống hiến.
Các bạn cùng khoá đã hỗ trợ và góp ý, giúp đỡ, khích lệ giúp chúng tôi có thêm
động lực để hoàn thành bài tiểu luận.
Và đặc biệt tôi không thể nào quên được sự quan tâm chân thành và tận tụy của
T.S Phạm Thị Thương đã động viên khích lệ tôi rất nhiều vào những khi phải “vắt” tinh
thần ra trí tuệ, những lúc ngửa mặt lên trời cho nước mắt chảy vào trong để vượt qua
khó khăn.
Xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất của tôi.
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các dữ liệu kết
quả nghiên cứu trong tiểu luận trung thực chưa được công bố trong bất cứ công
trình nào khác.
Tác giả
Trần Đình Nhân
lOMoARcPSD| 36844358
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................
1. Lý do chọn đề tài.........................................................................................
2. Lịch sử nghiên cứu......................................................................................3.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..............................................................
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...............................................................
5. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................
6. Giả thuyết nghiên cứu..................................................................................
7. Đóng góp của đề tài......................................................................................
8.Cấu trúc của đề tài.........................................................................................
CHƯƠNG 1: Sự ra đời và tương tưởng triết học cơ bản của Phật giáo..........
1.Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của Phật giáo............................
2.Nội dung tư tưởng triết học Phật giáo.........................................................
2.1 Thế giới quan Phật giáo.................................................................
2.2 Nhận thức luận Phật giáo..............................................................
2.3 Nhân sinh quan Phật giáo.............................................................
CHƯƠNG 2: Ảnh hưởng của Phật giáo đến tư tưởng của người Việt........
1.Sơ lược sự hình thành và phát triển của Phật giáo Việt Nam.................
2.Một số đặc điểm của Phật giáo Việt Nam...............................................
2.1 Tính tổng hợp............................................................................
lOMoARcPSD| 36844358
2.2 Tính hài hòa âm dương............................................................
2.3 Tính linh hoạt..........................................................................
3.Những ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống văn hóa tư tưởng của người Việt.
3.1 Những ảnh hưởng tích cực.....................................................
3.2 Những ảnh hưởng tiêu cực....................................................
LỜI KẾT LUẬN.......................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................
lOMoARcPSD| 36844358
MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài
Phật giáo là một tôn giáo lớn của thế giới, đồng thời là một học thuyết triết học
sâu sắc. Tất cả các giá trị văn hóa Phật giáo được kết tinh, thể hiện rõ nét trong nội
dung giáo lý nhà Phật ở các cấp độ nhận thức, tâm lý và tư tưởng. Trong quá trình tồn
tại và phát triển của Phật giáo đã không ngừng thể hiện vai trò giáo dục, định hướng
các giá trị đạo đức.
Như chúng ta đã biết, khi giáo lý từ bi, bác ái, giải thoát khổ đau của đạo Phật
du nhập vào Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã nồng nhiệt đón nhận một cách chân
thành, coi đó là lẽ sống của dân tộc, phù hợp với lối sống tình cảm, tinh thần, đạo đức,
nếp nghĩ và hành vi của người Việt Nam.
Chính vì lẽ đó, tôi quyết định chọn đề tài “Triết lý nhà Phật ảnh hưởng đến tư
tưởng con người Việt Nam” để viết tiểu luận Triết học. Bài viết có giá trị như một tài
liệu bổ sung vào kho tàng tri thức Phật giáo nói chung và phân tích ảnh hưởng của nó
đối với tư tưởng người Việt nói riêng.
2.Lịch sử nghiên cứu
Phật giáo là một trường phái tôn giáo - triết học tiêu biểu của tư tưởng Ấn Độ cổ
đại có ảnh hưởng rộng rãi và lâu dài trên thế giới. Hệ thống giáo lý đồ sộ và được đông
đảo Phật tử phân bổ rộng khắp. Cùng với tiến trình lịch sử, Phật giáo đã có những đóng
góp đáng kể vào nền văn hóa và tư tưởng của nhân loại. Vì vậy, Phật giáo và vai trò
của nó trong đời sống xã hội nói chung từ lâu đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà
khoa học không chỉ ở phương Đông mà cả phương Tây. Và nhiều luận văn, công trình
nghiên cứu dần ra đời. Để dễ dàng tiếp cận vấn đề này, chúng tôi sẽ chia nó thành hai
tiểu mục: ''nghiên cứu nước ngoài'' và ''nghiên cứu trong nước''..
lOMoARcPSD| 36844358
2.1. Những nghiên cứu về phật giáo ở nước ngoài
A. Anhxtanh, nhà toán học vĩ đại của nhân loại, khi nghiên cứu về Phật giáo,
ông đã nói: “Tôn giáo của tương lai sẽ là tôn giáo toàn cầu, vượt trên mọi thần thánh,
giáo điều và bí học. Tôn giáo đó phải bao hàm cả hai mặt tự nhiên và siêu nhiên, dựa
trên một ý thức đạo đức, xuất phát từ kinh nghiệm tổng thể của mọi lĩnh vực. Phật giáo
sẽ đáp ứng những điều kiện đó.” Đồng thời, ông cũng có lần khẳng định: “Nếu có tôn
giáo nào đáp ứng được nhu cầu của khoa học hiện đại, thì đó là Phật giáo,…”
Betrand Russell, một nhà triết học và toán học nổi tiếng toàn cầu, đã viết trong
cuốn Lịch sử triết học phương Tây: ''... Đạo Phật là sự kết hợp giữa các triết lý suy tư
và triết học. Khoa học. Phật giáo chủ trương phương pháp Khoa học và đi theo nó đến
ng đích có thể gọi là duy lý. Phật giáo tiếp tục vượt ra khỏi Khoa học nơi Khoa học
không thể tiến xa hơn vì Khoa học bị giới hạn bởi các công cụ Vật lý.”
Tiến sĩ Graham Howe, nhà phân tâm học nổi tiếng người Anh khi nghiên cứu về
Phật giáo đã nói như sau: ''Đọc một chút về Phật giáo chúng ta cũng có thể nhận thấy
rằng, từ 2500 năm trước, Phật giáo đã biết nhiều hơn về những vấn đề tâm lý mới mà
chúng ta thường biết. Họ đã nghiên cứu những vấn đề này trong một thời gian dài và
cũng đã tìm ra cách giải quyết chúng. Ngày nay chúng ta chỉ đang khám phá lại trí tuệ
cổ xưa của phương Đông.”
Theo Francis Story trong cuốn ‘’Phật giáo, Một tôn giáo thế giới cho rằng ‘’Lý
thuyết của Phật pháp vẫn đứng vững ngày nay không bị ảnh hưởng bởi tiến trình của
thời gian và sự tăng trưởng kiến thức, vẫn giữ nguyên như lúc ban đầu bầy tỏ. Dù cho
kiến thức khoa học tăng tiến đến thế nào trên chân trời trí óc của con người, trong
phạm vi Giáo pháp (Dhamma) cũng vẫn có chỗ để thừa nhận và đồng hóa các khám
phá xa hơn nữa. Về phương diện thu hút của lý thuyết nầy không dựa vào các khái
niệm giới hạn của các tư tưởng sơ khai, về phương diện khả năng cũng không bị lệ
thuộc vào những phủ định của tư tưởng’’.
lOMoARcPSD| 36844358
Ở phương Đông, Phật giáo cũng thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà
khoa học. J. Nerhu trong tác phẩm “Khám phá Ấn Độ” đã chỉ ra những giá trị nhân
đạo, báu vật nhân văn trong Phật giáo. những giá trị mà Phật giáo đã đóng góp cho
nhân dân Ấn Độ.
Ở Trung Quốc, ngay từ cuối triều đại nhà Thanh, việc nghiên cứu Phật giáo đã
rất phổ biến trong giới trí thức Trung Quốc. Các nhà nghiên cứu như Đàm Tử Đồng,
Lương Khải Siêu, Chương Thái Niệm đã sử dụng học thuyết Phật giáo như một vũ khí
tư tưởng để chống lại các luồng tư tưởng sùng bái phương Tây. Chẳng hạn, Đàm Tử
Đồng trong cuốn ‘’Bàn về lòng từ bi’ cho rằng lòng từ bi của con người là nguồn gốc
của vũ trụ. Ông đã dùng tư tưởng Thiền tông như một trong những nguồn chứng minh
cho luận điểm trên. Theo ông, những tư tưởng từ bi, bình đẳng và vô ngã của Phật giáo
cũng là nguồn giác ngộ và khích lệ cho giới trí thức Trung Quốc đương thời.
Từ những hướng nghiên cứu đó cho thấy Phật giáo là một tôn giáo của tương lai
của khoa học và rất nhiều bí ẩn còn chưa được giải đáp hết vì mỗi hướng nghiên cứu
lại tập chung vào một phương diện và loại bỏ các phương diện khác.
2.2. Những nghiên cứu ở trong nước
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu Phật giáo và vai trò của Phật giáo trong đời sống
xã hội và tinh thần Việt Nam đã được tiến hành liên tục trong suốt lịch sử dân tộc, k
cả thời kỳ Phật giáo suy tàn (từ thế kỷ XV đến thế kỷ XV). thế kỷ XIX)
Đặc biệt, từ những năm cuối thế kỷ XX trở lại đây, đã có nhiều công trình khoa
học nghiên cứu về Phật giáo, về vai trò của Phật giáo trong đời sống xã hội và tinh
thần của người dân Việt Nam.
Trần Văn Giàu với hàng loạt tác phẩm như: ''Những giá trị tinh thần truyền
thống của dân tộc Việt Nam'', ''Đạo đức Phật giáo trong thời đại'' và ''Sự phát triển của
tư tưởng Việt Nam''. Từ giữa thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám”, đề cập đến
lOMoARcPSD| 36844358
những giá trị đạo đức Phật giáo và những đóng góp của Phật giáo trong lịch sử tư
tưởng Việt Nam.
Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP.HCM với “Phật giáo nhập thế và phát triển”
đã tập hợp các bài viết của các nhà khoa học, trí thức Phật giáo về vai trò của Phật giáo
trong các lĩnh vực. Các lĩnh vực của đời sống hội Việt Nam hiện nay như: Phật giáo
trong thời kỳ hội nhập phát triển, Phật giáo với chính trị - hội, Phật giáo với sự
phát triển bền vững của đất nước, Phật giáo với xã hội nhân dân. Phật giáo với sự nghiệp
độc lập, Phật giáo với vấn nạn giao thông, Phật giáo với đời sống tâm linh, Phật giáo với
xây dựng nền kinh tế nhân văn, Phật giáo với hoạt động nhân đạo...
Nhìn chung, Phật giáo vai trò của trong đời sống hội thu hút nhiều nhà
khoa học nghiên cứu với nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, đề tài chưa đi sâu nghiên
cứu trong đời sống tinh thần của người Việt Nam. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa các kết quả
nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước, đề tài tập trung vào triết lý của đạo Phật đối
với con người Việt Nam. Nam đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu những tư tưởng của Phật giáo
nói chung và ảnh hưởng đối với người Việt Nam nói riêng.
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.Mục đích nghiên cứu
Đề tài đi sâu phân tích ảnh hưởng của triết học Phật giáo đối với đời sống xã hội
của người Việt nói chung và đời sống tinh thần nói riêng. Từ một số kết quả nghiên cứu
thể làm tăng thêm hiểu biết về các giá trị tinh thần, ởng của người Việt đối với
Phật giáo.
3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát về Phật giáo, những nội dung cơ bản trong giáo lý, giáo luật
của Phật giáo và quá trình Phật giáo du nhập vào Việt Nam.
lOMoARcPSD| 36844358
- Phân tích những ảnh hưởng to lớn của giá trị tư tưởng triết học Phật giáo
đối với tư tưởng của con người Việt Nam trong xã hội hiện đại.
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là triết học Phật giáo, ảnh hưởng của Phật giáo
đến tư tưởng con người Việt Nam.
4.2.Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là những tư tưởng cơ bản của triết học Phật giáo
và ảnh hưởng của nó đến tư tưởng của người Việt Nam.
5.Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử,
logic phân tích và tổng hợp gắn với lí luận thực tiễn.
6.Giả thuyết nghiên cứu
Trong suốt chiều dài lịch sử Phật giáo đã tồn tại lâu đời và phát triển mạnh mẽ
Việt Nam. một trong những hệ tưởng điển hình trong nền văn hóa dân tộc Việt
Nam, tinh thần Phật giáo in đậm, tạo nên một sắc thái riêng trong tất cả các lĩnh vực đời
sống, văn a, nghệ thuật, ứng xử, giao tiếp,...Lịch sử đã chứng minh, Phật giáo Việt
Nam luôn đồng hành cùng dân tộc, góp phần vào chân hưng đất nước, an sinh, đấu tranh
hòa bình thịnh vượng. Từ việc tìm hiểu phân tích ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời
sống tinh thần của người dân. Từ đó đxuất phương ớng giải pháp nhằm phát huy
mặt tích cực hạn chế mặt tiêu cực “Triết học Phật giáo ảnh hưởng tới ởng con
người Việt Nam’’. 7.Đóng góp của đề tài
7.1.Đóng góp về lí luận
lOMoARcPSD| 36844358
Hệ thống hóa cơ sở lý luận về Triết học Phật giáo
7.2.Đóng góp về thực tiễn
Đề tài góp phần đưa ra những quan điểm mới về triết học Phật giáo và ảnh
hưởng của nó đến tư tưởng con người Việt Nam.
8.Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị , tài liệu tham khảo, nội dung bài tiểu
luận gồm 2 chương:
Chương 1: Sự ra đời và tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo
Chương 2: Ảnh hưởng của Phật giáo đến tư tưởng của người Việt
CHƯƠNG 1: SỰ RA ĐỜI VÀ TƯ TƯỞNG CƠ BẢN
CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển Phật giáo
Phật giáo được đặt theo tên của người sáng lập Đức Phật. Đức Phật là một hoàng
tử tên Siddhartha, con trai của vua Trịnh Sản miền bắc Ấn Độ (nay Nepal).
tuổi 29, ngài nhận ra rằng những tiện nghi vật chất sự an toàn trên thế giới không
đảm bảo hạnh phúc; Vì vậy, ngài đã đi m hiểu giáo lý, tôn giáo và triết học đương thời,
để tìm ra chìa khóa của hạnh phúc. Sau sáu năm nghiên cứu và thiền định, Ngài đã tìm
ra con đường "Trung đạo" giác ngộ. Sau khi giác ngộ, ông nh phần còn lại của
cuộc đời trần thế để thuyết giảng các nguyên tắc của Phật giáo - được gọi Pháp, hay
Chân lý - cho đến khi ông qua đời ở tuổi 80.
Và sự phát triển của đạo Phật có thể chia làm bốn giai đoạn:
1. Giữa thế kỷ thứ 6 đến giữa thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên: Thời kỳ ban
đầu,được truyền bá bởi Đức Phật và các đệ tử của Ngài.
lOMoARcPSD| 36844358
2. Từ thế kỷ IV TCN: Bắt đầu phân hóa nhiều trường thông qua tụ hội
pháp.
3. Từ thế kỷ I: Đại thừa xuất hiện với hai bộ phái quan trọng là trường
pháiTrung Đạo và trường phái Duy Tâm.
4. Từ thế kỷ thứ VII: xuất hiện Phật giáo Mật tông (Phật giáo Tây Tạng,
kimcương thừa).
Sau thế kỷ XIII, Phật giáo bị coi là tuyệt chủng ở Ấn Độ, nơi ra đời của Đạo
Phật.
Từ thế kthứ III, Phật giáo được truyền sang các quốc gia khác ngoài n Độ
và mang nặng bản sắc của các quốc gia đó. Ngày nay, Tiểu thừa với quan điểm của Phật
giáo Nguyên thủy được truyền bá rộng rãi ở Tích Lan (Tích Lan), Thái Lan, Miến Điện
(Myanma), Campuchia. Đại thừa được truyền Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc
Việt Nam. Giáo Kim cương thừa - cũng được phân loại Đại thừa -phát triển mạnh
Tây Tạng, Mông Cổ.
2.Nội dung tư tưởng triết học Phật giáo
Tư tưởng triết học Phật giáo chủ yếu nói về thế giới quan và nhân sinh quan.
2.1.Thế giới quan Phật giáo
Thế giới quan Phật giáo chịu ảnh hưởng của hai luận điểm, thể hiện qua 4 luận
thuyết bản: thuyết thường, thuyết ngã, thuyết nhân quả, thuyết nhân duyên
khởi.
2.1.1.Thuyết vô thường
thường không thường còn, chuyển biến thay đổi. Luật thường chi
phối trụ, vạn vật, thân và tâm ta. Sự vật luôn luôn biến đổi không có gì là thường trụ,
bất biến. Với ngũ quan thô thiển của ta, ta lầm tưởng sự vật yên tĩnh,là bất động
lOMoARcPSD| 36844358
nhưng thật ra là nó luôn luôn ở thể động, nó chuyển biến không ngừng.Sự chuyển biến
ấy diễn ra dưới hai hình thức:
a) Một là Sátna (Kshana) thường: là sự chuyển biến rất nhanh, trong một
thờigian hết sức ngắn, ngắn hơn cả một nháy mắt, một hơi thở, một niệm, một sự chuyển
biến vừa khởi lên đã chấm dứt.
b) Hai là Nhất kỳ vô thường: là sự chuyển biến trong từng giai đoạn. Sự
thường thứ nhất trạng thái chuyển biến nhanh chóng, liên tiếp, ngắn ngủi, thường
ta không nhận ra mà kết quả là gây ra sự vô thường thứ hai. Nhất kỳ vô thường là trạng
thái chuyển biến rõ rệt, kết thúc một trạng thái cũ, chuyển sang một trạng thái mới. Vạn
vật trong vũ trụ đều tuân theo luật: Thành-Trụ-Hoại-Không.
Vạn vật được cấu thành, trụ một thời gian, sau đó chuyển đến diệt, thành,
hoại,không. Các sinh vật đều tuân theo luật: Sinh, trụ, di, diệt.
Không những thân ta chuyển biến không ngừng mà tâm ta cũng không ngừng
chuyển biến. Như dòng nước thác, như bọt bể, trong Satna này, trong tâm ta nổi lên
một ý niệm thiện, chỉ trong Satna sau, trong tâm ta đã có thể khơi lên một ý niệm ác.
Các hình thái hội theo thời gian cũng chuyển biến: hội công nguyên
thủy → Xã hội chiếm hữu nô lệ → Xã hội phong kiến → Xã hội tư bản → Xã hội Xã
Hội Chủ Nghĩa. Đó là quy luật xã hội và cũng phù hợp với thuyết vô thường của Đạo
Phật.
Trong thế gian có những người không biết lý vô thường của Phật, có những
nhận thức sai lầm về sự vật là thường còn, là không thay đổi, không chuyển biến.
nhận thức thân ta là thường còn nên nảy ra ảo giác muốn kéo dài sự sống để hưởng thụ,
để thỏa mãn mọi dục vọng. Khi luật vô thường tác động đến bản thân thì sinh ra phiền
não đau khổ.
lOMoARcPSD| 36844358
Thuyết thường một trong những thuyết bản trong giáo Phật, s
của lý luận cho phương thức sống, cho triết lý sống của những con người tu dưỡng theo
giáo lý Phật.
2.1.2.Thuyết vô ngã
Từ thuyết vô thường, Phật nói sang vô ngã. Vô ngã là không có cái ta. Thực ra
làm gì cũng có cái ta trường tồn, vĩnh cữu vì cái ta nó biến đổi không ngừng, biến
chuyển từng phút, từng giờ, từng Satna.
Một câu hỏi được đặt ra là cái ta ở giây phút nào là cái ta chân thực, cái ta bất
biến? Cái ta mà Phật nói trong thuyết vô ngã gồm có hai phần: Cái ta sinh lý tức thân
và cái ta tâm lý tức tâm.
Theo kinh Trung Quốc Ahàm, cái ta sinh lý chỉ là kết hợp của bốn yếu tố của
bốn đại là: địa, thủy, hỏa, phong. Những thứ đó không phải là ta, ta không phải là
những thứ đó, những thứ đó không thuộc về ta.
Cái tôi tâm lý bao gồm: tưởng, tưởng, hành, thức. Bốn bình này và ấm
sắc che lấp trí tuệ, khiến chúng ta không thấy được chân ngã, Phật tánh, bản thể.
đôi chân bị ngã của chúng tôi. Sự thật bao gồm nhận thức, cảm xúc, suy nghĩ, là
sự phối hợp của bảy căn: hỷ, nộ, ái, ố, ái, ố, dục.
Thuyết vô ngã khiến người ta không còn tin có linh hồn trường tồn, tồn tại đời
này qua đời khác, đời này qua đời khác. Đức tin có linh hồn dẫn đường hiến tế linh hồn
là một hành động mê tín dị đoan.
Đối với những người bị áp bức bóc lột, mê tín dị đoan có một cái tôi vĩnh cửu
đến những suy nghĩ tiêu cực, chán đời phó mặc cho số phận, mong làm lại cuộc đời
trong kiếp sau. Quan niệm có linh hồn bất tử, bản thể bất diệt là nguồn gốc của sự sinh
lOMoARcPSD| 36844358
thành những tình cảm, những suy nghĩ ích kỷ và những ham muốn vô bờ bến của
những người dựa vào quyền lực bất chính để tư lợi, tức là cho bản thân mà họ cho là
thường còn, bất biến.
Dựa trên hai thuyết vô thường và vô ngã, Đức Phật đã xây dựng cho các đệ tử
một lối sống, triết lý sống lấy lòng vị tha làm lý tưởng sống cao đẹp cuộc sống của
chính mình, hay nói cách khác là cuộc sống của một người cho mọi người, mọi người
cho một người.
2.1.3.Thuyết lý nhân duyên sinh
Với lý nhân duyên sinh Phật muốn nói tới một định lý. Theo định lý ấy sự vật
vạn vật phát triển trên thế gian đều do các nhân duyên hội họp mà thành, sự vật, vạn
pháp sẽ kiến diệt khi nhân duyên tan rã.
Nhân là năng lực phát sinh, duyên là lực hỗ trợ cho nhân phát sinh. Như cây lúa
thì hạt lúa là nhân, nước, ánh sáng mặt trời, công cày bừa gieo trồng là duyên. Nhân
duyên đó hội họp sinh ra cây lúa. Tất cả mọi hiện tượng đều nương nhau mà hành
động. Nói nương nhau có nghĩa là sự vật tác động, kết hợp, chi phối, ảnh hưởng lẫn
nhau mà thành. Đó là nhân duyên.
Tất cả các pháp đều sinh, diệt và tồn tại trong sự liên hệ mật thiết với
nhau,không một pháp nào có thể tồn tại độc lập tuyệt đối.
Người thế gian không tu dưỡng tưởng lầm sự vật, vạn pháp là thực có, là vĩnh
viễn nên bám giữ vào các pháp vào sự vật (sinh mệnh, danh vọng, tiền tài...). Nhưng
thực ra các pháp là vô thường, là chuyển biến và khi tan rã thì người thế gian thương
tiếc, đau khổ.
Lý nhân duyên cho chúng ta thấy sự vật hình thành là do nhân duyên hòa hợp,
sự vật là hư giả, là giả hợp không có tính tồn tại. Như vậy con người làm chủ đời mình,
làm chủ vận mệnh của mình.
lOMoARcPSD| 36844358
Cuộc sống của con người có tươi đẹp hạnh phúc hay phiền não đau khổ là đều
do nhân duyên mà con người tạo ra. Với nhận thức như vậy, con người tìm được một
phương thức sống, một cách sống cho ra sống, sống vì hạnh phúc của mọi người, sống
an lạc, tự tại, giải thoát.
2.1.4.Thuyết nhân duyên quả báo hay thuyết nhân quả
Thuyết nhân duyên quả báo hay thuyết nhân quả là một trong những thuyết cơ
bản của giáo lý Phật. Sự vật sinh ra là có nhân, nguyên nhân. Cái nguyên nhân một
mình cũng không tạo ra được sự vật mà phải có đủ duyên thì mới tạo ra quả được.
Người ta nói rằng: Trồng đậu được đậu
Trồng dưa được dưa.
Nhưng Phật nhấn mạnh: Quả có thể khác nhân sinh ra nó. Quả có thể hơn nhân
nếu gặp đủ duyên tốt, trái lại có thể kém nhân nếu gặp duyên xấu. Nhân gặp đủ duyên
thì sẽ biến thành quả, quả sinh ra nếu hội đủ duyên lại có thể biến thành nhân rồi để
sinh ra quả khác.
Sự vật là một chuỗi nhân quả, là một tràng nhân quả nối tiếp nhau, ảnh hưởng
lẫn nhau không bao giờ đứt quãng, không bao giờ ngừng.
Trong nhân lại có mầm mống của quả sau này nhưng quả không nhất định phải
đúng như nhân vì duyên có thể mang lại sự biến đổi cho quả – Đó là thuyết “Bất định
pháp” trong luật nhân quả.
Sự vật là bất định, người tu hành căn cứ vào thuyết này mà tu dưỡng và tiến tới
trên con đường giải thoát về nhân. Suy rộng ra theo giáo lý Phật thì mỗi ý nghĩ của tâm
ta, mỗi hành động của thân ta, mỗi lời nói của chúng ta cũng là những hạt nhân của
chúng ta gieo hàng ngày. Những hạt nhân khi gặp đủ duyên sẽ nảy nở thành quả.
lOMoARcPSD| 36844358
Theo danh từ Phật học, những hạt nhân này gọi là nghiệp. Gieo nhân tức là gây
nghiệp. Kết quả đền đáp những hành động nói trên Phật gọi là nghiệp báo. Người nào
gieo nhân, người ấy hái quả, không một hành động nào, thiện hay ác, dù nhỏ đến đâu,
dù ta khôn khéo bưng bít, giấu giếm đến mức nào cũng không thể thoát khỏi cán cân
nhân quả. Người học Phật, tu Phật chân chính thấm nhuần thuyết nhân quả phải là
người có đạo lý, không thể nào khác được.
Với những luận thuyết cơ bản như trên đã hình thành nên thế giới quan Phật
giáo. Phật quan niệm các hiện tượng trong vũ trụ luôn luôn biến chuyển không ngừng
theo quy luật nhân duyên. Một hiện tượng phát sinh không phải là do một nhân mà do
nhiều nhân và duyên. Nhân không phải tự mà có mà do nhiều nhân duyên đã có từ
trước. Như vậy một hiện tượng có liên quan đến tất cả các hiện tượng trong vũ trụ.
Tóm lại thế giới quan Phật giáo là thế giới quan nhân duyên. Tất cả sự vật có
danh có tướng, có thể nhận thức được, ý niệm được. Cảm giác được hay dùng ngôn
ngữ luận bàn, được đều được Phật gọi là pháp. Các pháp đều thuộc một giới gọi là
Pháp giới. Bản tính của pháp giới là các pháp duyên khởi ra nhau. Tính ấy là tính của
pháp giới nên gọi là pháp giới tính. Do pháp giới tính là bản tính của các pháp nên gọi
là chân, vì vậy pháp giới tính còn gọi là chân như tính.
Giác ngộ được chân như tính thì gọi là tự giác, nhưng thế thì chưa nhận thức
đầy đủ, sâu sắc về pháp giới tính vì vậy các nhà tu hành giác ngộ được bản lai tự tính
còn phải vận dụng pháp giới tính vào nhiều trường hợp khác để thấy được cái dựng to
lớn của pháp giới tính.
2.2.Nhận thức luận Phật giáo
2.2.1.Bản chất, đối tượng của nhận thức luận
Bản chất của nhận thức luận Phật giáo là quá trình khai sáng trí tuệ. Còn đối
tượng của nhận thức luận là vạn vật, là mọi hiện tượng, là cả vũ trụ.
lOMoARcPSD| 36844358
Vạn vật là vô thủy vô chung, không có sự vật đầu tiên và không có sự vật cuối cùng.
Mọi vật đều liên quan mật thiết đến nhau. Toàn thể dù lớn đến đâu nếu không có quan
hệ với hạt bụi thì cũng không thành lập được. Để diễn đạt ý trên, một thiền sư đã dùng
hai câu thơ:
Càn khôn tận thị mao đầu thượng
Nhật nguyệt bao hàm giới trí trung.
Có nghĩa là:
Trời đất rút lại đầu lông nhỏ xíu
Nhật nguyệt nằm trong hạt cải mòng.
Như vậy đạo Phật không phân biệt vật chất và tinh thần vì đó chỉ là hai trạng
thái của tâm, của năng lượng khi ở thể tiềm tàng.
Sau khi đã tìm hiểu về sự vật, hiện tượng chúng ta sẽ tìm hiểu cái tâm trong đạo
Phật để thấy được quan niệm của đạo Phật về tâm và vật.
Thông thường người ta cho rằng đạo Phật là duy tâm vì trong kinh Phật có câu
“Nhất thiết duy tâm tạo”. Nhưng chữ “duy tâm” ở đây không phải là duy tâm trong
triết học Tây phương nên ta không thể nhận định như trên. Chữ tâm trong đạo Phật có
nghĩa là một năng lượng, nó làm bản thể cho tất cả mọi hiện tượng tâm lý, cho mọi
hiện hành. Bản thể là cái chất, là cội gốc của vạn vật. Khi ta phân tích, chia chẻ một vật
đến một phần tử nhỏ nhất, đến phần cuối cùng thì phần tử ấy là bản thể mà ở đây cũng
có vật có chất nên đâu đâu cũng thấy có bản thể, vì vậy tâm cũng lại là to lớn vô biên.
Những tình cảm, ý thức phát sinh phải nương vào hiện tượng sinh lý, vật lý. Nói
nương nhau để phát sinh chứ không phải các hiện tượng sinh lý, vật lý sinh ra các hiện
tượng tâm lý.
lOMoARcPSD| 36844358
Hiểu như vậy thì thấy rõ không phải tâm sinh vật hay vật sinh tâm. Những hiện
tượng sinh lý vật lý và những hiện tượng tâm lý ấy chỉ tương sinh tương thành.
2.2.2.Quy trình, con đường và phương pháp nhận thức
Sự nhận thức phát triển theo hai con đường tư trào là hướng nội và hướng ngoại.
Phật giáo thường quan tâm đến tư trào hướng nội tức là mỗi người tự chiêm nghiệm
suy nghĩ của bản thân. Có hai phương pháp để nhận thức là :
Tiệm ngộ: là sự giác ngộ, nhận thức một các dần dần, có tính chất
“trí hữu sư”.
Đốn ngộ: là sự giác ngộ bộc phát, bùng nổ có tính chất là “trí vô sư”.
Để đạt được sự nhận thức đó thì có nhiều phương pháp song hai phương pháp
sau: Tam học và Tam huệ là chủ yếu.
Tam học là giới, định, tuệ.
− Giới: gồm có những phương tiện để thay đổi lối suy nghĩ, lối sinh hoạt
hàng ngày của con người sống theo đạo, thích hợp với đạo là luôn hướng về thiện.
− Định: là đình chỉ mọi tư tưởng xấu, ý nghĩ xấu và còn là tập trung tư tưởng
suy nghĩ để làm mọi việc yên lành.
− Tuệ: là trí tụê sáng suốt, đã thấu được lý vô thường, vô ngã, do đó chỉ nghĩ
đến làm việc thiện, mưu lợi cho chúng sinh.
Tam huệ là văn, tu, tư.
− Văn: là nghe pháp Phật, hiểu rõ ý nghĩa, quan niệm được bản tính thanh tịnh,
sáng suốt của mình, do đó mà có một lòng tin vững chắc nơi Phật pháp.
lOMoARcPSD| 36844358
− Tư: là suy nghĩ về các pháp Phật đã nghe được, học được đi đến giác ngộ bản
lai tư tính của mình.
− Tu: là nương theo trí tuệ, bắt đầu trực nhận được bản tính chân như, mà tụ tập
gột rửa những thói quen mà lầm từ nhiều kiếp để lại đi đến nhập với một pháp
giới tính.
Các phương pháp trên đã phá tan các kiến chấp sai lầm chấp ngã, chấp pháp để
đi đến trung đạo và nhận rõ trung đạo là chẳng có, chẳng không. Với nhận thức như
thế, người tu hành sẽ được sống trong sự giải thoát, sinh tử luân hồi sẽ không còn nữa.
2.3.Nhân sinh quan Phật giáo
Từ một vũ trụ quan căn cứ trên những thuyết nhân duyên sinh, thuyết sự vật
duyên khởi,... chúng ta sẽ tìm hiểu về những quan niệm của đạo Phật về vấn đề nhân
sinh quan. Ở đây chúng ta sẽ lần lượt trả lời các câu hỏi:
Có phải cuộc sống chỉ toàn là đau khổ? Và vấn đề giải thoát trong đạo
Phật là gì?
Con người là gì? Từ đâu mà sinh ra? Chết rồi đi đâu? Vị trí của con
người trong đạo Phật.
Quan niệm của Phật về các vấn đề: bình đẳng, tự do, dân chủ...
Tớc khi trả lời các câu hỏi trên chúng ta sẽ tìm hiểu và phân tích Tứ diệu đế vì
đây là giáo lý kinh điển của Phật giáo bao quát toàn bộ các vấn đề trên.
2.3.1.Tứ diệu đế
Tứ diệu đế còn gọi là tứ chân đế hay tứ thánh đế, là bài thuyết pháp đầu tiên
của Phật sau khi thành đạo tại vườn Lộc Uyển cho năm từ khưu trước kia đi theo
lOMoARcPSD| 36844358
Phật. Tứ đế là đạo lý căn bản của Thanh n Thừa, đồng thời cũng là cơ sở của các
thuyết khác trong giáo lý Phật. Tứ đế gồm có: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế.
a) Khổ đế
Trong tứ diệu đế, Phật đưa ra đầu tiên vấn đề khổ, rồi giảng cho ta thấy vì sao
mà khổ, phương pháp diệt khổ và con đường đi đến diệt khổ.
Nói như thế có người hiểu lầm cho rằng đạo Phật chủ trương cuộc đời chỉ toàn
là khổ, và đạo Phật là đạo yếm thế. Thực ra, đạo Phật nhìn cuộc đời một cách khách
quan, không ru người ta vào một giấc mơ Niết Bàn hay cực lạc và cũng không làm cho
người ta sợ hãi, chán nản bởi những đau khổ trong cuộc sống. Phật chỉ cho chúng ta
nhận thức sự vật, cuộc đời theo chân tướng của nó và chỉ dẫn cho chúng ta đi đến giải
thoát.
Danh từ Dukkha của tiếng Xantít ta thường dịch là khổ là chưa thật hết nghĩa
nên mới dẫn đến những hiểu lầm trên.
Trong phép tướng duy thức có nói đến ba loại thụ: khổ thụ, lạc thụ, xả thụ. Như
vậy không phải chỉ có khổ thụ mà còn có lạc thụ. Đối với cảnh nghịch sinh ra khổ thụ
nhưng đối với cảnh thuận thì sinh ra lạc thú. Các cảnh có thể làm cho người ta vui hoặc
khổ hoặc không vui, không khổ. Đạo phật không phủ nhận những cảm giác vui (lạc
thú) của cuộc đời mà còn phân tích ra nhiều hình thức vui. Nhưng những cái vui ấy,
cũng như những cái khổ ấy đều bao gồm trong danh từ Dukkha, vì những cái vui, cũng
như những cái khổ ấy đều là vô thường hư giả.
Dù người tu hành chứng được những trạng thái thiền định cao siêu thì những lạc
thú siêu thoát ấy vẫn là Dukkha vì những người tu hành ấy chưa thoát khỏi tam giới vô
thường, hư giả.
Khổ thụ và lạc thụ đều là Dukkha cả, do đó chúng ta phải diệt là diệt cái
Dukkha ấy chứ không phải là tránh khổ, tìm vui như thế gian thường hiểu, thường lầm.
lOMoARcPSD| 36844358
b) Tập đế
Nếu chúng ta muốn tự mình thoát khỏi khổ đau, trước hết chúng ta phải tìm ra
nguyên nhân, đó là Tập đế. Những nguyên nhân đó không phải tìm đâu xa mà ở ngay
trong mỗi chúng ta. Nguyên nhân thì có nhiều nhưng có thể tóm lại như sau:
1. Tham: là tham lam.
2. Sân: là giận dữ.
3. Si: là si mê, mờ ám.
4. Mạn: là tự nâng cao mình lên, hạ người khác xuống.
5. Nghi: là nghi ngờ, không có lòng tin.
6. Thân kiến: tưởng thân thể là thực có là trường tồn.
7. Biên kiến: sự hiểu biết một mặt như chấp đoạn, chấp thưởng.
8. Tà kiến: sự hiểu biết không đúng, là chấp theo lối tà, không chân
chính,trái với sự thật, trái với quy luật nhân quả.
9. Kiến thử: chấp nhặt hiểu biết sai trái của riêng mình là đúng.
10. Giới cấm thủ: tu hành không chính đạo.
Ba nguyên nhân chính (tham, sân, si) Phật còn gọi là tam độc, là nguồn gốc của
mọi sự khổ.
Tập đế là một chân lý thể hiện tính biểu chứng sâu sắc trong mối quan hệ nhân
quả và đã tìm tới các nguyên nhân rất đa dạng, phong phú. Các nguyên nhân ấy quan
hệ với nhau, cái nào cũng có thể làm nhân làm duyên cho cái khác, như làn sóng trên
mặt biển, lớp trước là lớp nhân là duyên cho lớp sau và cứ thế tiếp diễn.Nhưng cái hạn
chế của tập đế là chưa đề cập đến nguyên nhân từ xã hội. Đặc biệt là chưa nhắc tới
| 1/34

Preview text:

lOMoAR cPSD| 36844358 LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập và rèn luyện tại đại học Nội Vụ Hà Nội tôi đã hoàn
thành bài tiểu luận của mình. Bằng tất cả lòng biết ơn, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến:
Ban giám hiệu trường Đại Học Nội Vụ Hà Nội đã hỗ trợ, tạo điều kiện giúp đỡ,
động viên cho tôi môi trường học tập lý tưởng để chúng tôi thấy mình cần học tập, nghiên
cứu nghiêm túc để cống hiến.
Các bạn cùng khoá đã hỗ trợ và góp ý, giúp đỡ, khích lệ giúp chúng tôi có thêm
động lực để hoàn thành bài tiểu luận.
Và đặc biệt tôi không thể nào quên được sự quan tâm chân thành và tận tụy của
T.S Phạm Thị Thương đã động viên khích lệ tôi rất nhiều vào những khi phải “vắt” tinh
thần ra trí tuệ, những lúc ngửa mặt lên trời cho nước mắt chảy vào trong để vượt qua khó khăn.
Xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất của tôi. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các dữ liệu và kết
quả nghiên cứu trong tiểu luận là trung thực và chưa được công bố trong bất cứ công trình nào khác. Tác giả Trần Đình Nhân lOMoAR cPSD| 36844358 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................. 1.
Lý do chọn đề tài......................................................................................... 2.
Lịch sử nghiên cứu......................................................................................3.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..............................................................
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...............................................................
5. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................
6. Giả thuyết nghiên cứu..................................................................................
7. Đóng góp của đề tài......................................................................................
8.Cấu trúc của đề tài.........................................................................................
CHƯƠNG 1: Sự ra đời và tương tưởng triết học cơ bản của Phật giáo..........
1.Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của Phật giáo............................
2.Nội dung tư tưởng triết học Phật giáo.........................................................
2.1 Thế giới quan Phật giáo.................................................................
2.2 Nhận thức luận Phật giáo..............................................................
2.3 Nhân sinh quan Phật giáo.............................................................
CHƯƠNG 2: Ảnh hưởng của Phật giáo đến tư tưởng của người Việt........
1.Sơ lược sự hình thành và phát triển của Phật giáo Việt Nam.................
2.Một số đặc điểm của Phật giáo Việt Nam...............................................
2.1 Tính tổng hợp............................................................................ lOMoAR cPSD| 36844358
2.2 Tính hài hòa âm dương............................................................
2.3 Tính linh hoạt..........................................................................
3.Những ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống văn hóa tư tưởng của người Việt.
3.1 Những ảnh hưởng tích cực.....................................................
3.2 Những ảnh hưởng tiêu cực....................................................
LỜI KẾT LUẬN.......................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ lOMoAR cPSD| 36844358
MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài
Phật giáo là một tôn giáo lớn của thế giới, đồng thời là một học thuyết triết học
sâu sắc. Tất cả các giá trị văn hóa Phật giáo được kết tinh, thể hiện rõ nét trong nội
dung giáo lý nhà Phật ở các cấp độ nhận thức, tâm lý và tư tưởng. Trong quá trình tồn
tại và phát triển của Phật giáo đã không ngừng thể hiện vai trò giáo dục, định hướng
các giá trị đạo đức.
Như chúng ta đã biết, khi giáo lý từ bi, bác ái, giải thoát khổ đau của đạo Phật
du nhập vào Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã nồng nhiệt đón nhận một cách chân
thành, coi đó là lẽ sống của dân tộc, phù hợp với lối sống tình cảm, tinh thần, đạo đức,
nếp nghĩ và hành vi của người Việt Nam.
Chính vì lẽ đó, tôi quyết định chọn đề tài “Triết lý nhà Phật ảnh hưởng đến tư
tưởng con người Việt Nam” để viết tiểu luận Triết học. Bài viết có giá trị như một tài
liệu bổ sung vào kho tàng tri thức Phật giáo nói chung và phân tích ảnh hưởng của nó
đối với tư tưởng người Việt nói riêng.
2.Lịch sử nghiên cứu
Phật giáo là một trường phái tôn giáo - triết học tiêu biểu của tư tưởng Ấn Độ cổ
đại có ảnh hưởng rộng rãi và lâu dài trên thế giới. Hệ thống giáo lý đồ sộ và được đông
đảo Phật tử phân bổ rộng khắp. Cùng với tiến trình lịch sử, Phật giáo đã có những đóng
góp đáng kể vào nền văn hóa và tư tưởng của nhân loại. Vì vậy, Phật giáo và vai trò
của nó trong đời sống xã hội nói chung từ lâu đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà
khoa học không chỉ ở phương Đông mà cả phương Tây. Và nhiều luận văn, công trình
nghiên cứu dần ra đời. Để dễ dàng tiếp cận vấn đề này, chúng tôi sẽ chia nó thành hai
tiểu mục: ' nghiên cứu nước ngoài' và ''nghiên cứu trong nước' .. lOMoAR cPSD| 36844358
2.1. Những nghiên cứu về phật giáo ở nước ngoài
A. Anhxtanh, nhà toán học vĩ đại của nhân loại, khi nghiên cứu về Phật giáo,
ông đã nói: “Tôn giáo của tương lai sẽ là tôn giáo toàn cầu, vượt trên mọi thần thánh,
giáo điều và bí học. Tôn giáo đó phải bao hàm cả hai mặt tự nhiên và siêu nhiên, dựa
trên một ý thức đạo đức, xuất phát từ kinh nghiệm tổng thể của mọi lĩnh vực. Phật giáo
sẽ đáp ứng những điều kiện đó.” Đồng thời, ông cũng có lần khẳng định: “Nếu có tôn
giáo nào đáp ứng được nhu cầu của khoa học hiện đại, thì đó là Phật giáo,…”
Betrand Russell, một nhà triết học và toán học nổi tiếng toàn cầu, đã viết trong
cuốn Lịch sử triết học phương Tây: ' ... Đạo Phật là sự kết hợp giữa các triết lý suy tư
và triết học. Khoa học. Phật giáo chủ trương phương pháp Khoa học và đi theo nó đến
cùng đích có thể gọi là duy lý. Phật giáo tiếp tục vượt ra khỏi Khoa học nơi Khoa học
không thể tiến xa hơn vì Khoa học bị giới hạn bởi các công cụ Vật lý.”
Tiến sĩ Graham Howe, nhà phân tâm học nổi tiếng người Anh khi nghiên cứu về
Phật giáo đã nói như sau: ''Đọc một chút về Phật giáo chúng ta cũng có thể nhận thấy
rằng, từ 2500 năm trước, Phật giáo đã biết nhiều hơn về những vấn đề tâm lý mới mà
chúng ta thường biết. Họ đã nghiên cứu những vấn đề này trong một thời gian dài và
cũng đã tìm ra cách giải quyết chúng. Ngày nay chúng ta chỉ đang khám phá lại trí tuệ
cổ xưa của phương Đông.”
Theo Francis Story trong cuốn ‘’Phật giáo, Một tôn giáo thế giới cho rằng ‘’Lý
thuyết của Phật pháp vẫn đứng vững ngày nay không bị ảnh hưởng bởi tiến trình của
thời gian và sự tăng trưởng kiến thức, vẫn giữ nguyên như lúc ban đầu bầy tỏ. Dù cho
kiến thức khoa học tăng tiến đến thế nào trên chân trời trí óc của con người, trong
phạm vi Giáo pháp (Dhamma) cũng vẫn có chỗ để thừa nhận và đồng hóa các khám
phá xa hơn nữa. Về phương diện thu hút của lý thuyết nầy không dựa vào các khái
niệm giới hạn của các tư tưởng sơ khai, về phương diện khả năng cũng không bị lệ
thuộc vào những phủ định của tư tưởng’’. lOMoAR cPSD| 36844358
Ở phương Đông, Phật giáo cũng thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà
khoa học. J. Nerhu trong tác phẩm “Khám phá Ấn Độ” đã chỉ ra những giá trị nhân
đạo, báu vật nhân văn trong Phật giáo. những giá trị mà Phật giáo đã đóng góp cho nhân dân Ấn Độ.
Ở Trung Quốc, ngay từ cuối triều đại nhà Thanh, việc nghiên cứu Phật giáo đã
rất phổ biến trong giới trí thức Trung Quốc. Các nhà nghiên cứu như Đàm Tử Đồng,
Lương Khải Siêu, Chương Thái Niệm đã sử dụng học thuyết Phật giáo như một vũ khí
tư tưởng để chống lại các luồng tư tưởng sùng bái phương Tây. Chẳng hạn, Đàm Tử
Đồng trong cuốn ‘’Bàn về lòng từ bi’’ cho rằng lòng từ bi của con người là nguồn gốc
của vũ trụ. Ông đã dùng tư tưởng Thiền tông như một trong những nguồn chứng minh
cho luận điểm trên. Theo ông, những tư tưởng từ bi, bình đẳng và vô ngã của Phật giáo
cũng là nguồn giác ngộ và khích lệ cho giới trí thức Trung Quốc đương thời.
Từ những hướng nghiên cứu đó cho thấy Phật giáo là một tôn giáo của tương lai
của khoa học và rất nhiều bí ẩn còn chưa được giải đáp hết vì mỗi hướng nghiên cứu
lại tập chung vào một phương diện và loại bỏ các phương diện khác.
2.2. Những nghiên cứu ở trong nước
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu Phật giáo và vai trò của Phật giáo trong đời sống
xã hội và tinh thần Việt Nam đã được tiến hành liên tục trong suốt lịch sử dân tộc, kể
cả thời kỳ Phật giáo suy tàn (từ thế kỷ XV đến thế kỷ XV). thế kỷ XIX)
Đặc biệt, từ những năm cuối thế kỷ XX trở lại đây, đã có nhiều công trình khoa
học nghiên cứu về Phật giáo, về vai trò của Phật giáo trong đời sống xã hội và tinh
thần của người dân Việt Nam.
Trần Văn Giàu với hàng loạt tác phẩm như: ' Những giá trị tinh thần truyền
thống của dân tộc Việt Nam'', ''Đạo đức Phật giáo trong thời đại' và ''Sự phát triển của
tư tưởng Việt Nam' . Từ giữa thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám”, đề cập đến lOMoAR cPSD| 36844358
những giá trị đạo đức Phật giáo và những đóng góp của Phật giáo trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.
Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP.HCM với “Phật giáo nhập thế và phát triển”
đã tập hợp các bài viết của các nhà khoa học, trí thức Phật giáo về vai trò của Phật giáo
trong các lĩnh vực. Các lĩnh vực của đời sống xã hội Việt Nam hiện nay như: Phật giáo
trong thời kỳ hội nhập và phát triển, Phật giáo với chính trị - xã hội, Phật giáo với sự
phát triển bền vững của đất nước, Phật giáo với xã hội nhân dân. Phật giáo với sự nghiệp
độc lập, Phật giáo với vấn nạn giao thông, Phật giáo với đời sống tâm linh, Phật giáo với
xây dựng nền kinh tế nhân văn, Phật giáo với hoạt động nhân đạo...
Nhìn chung, Phật giáo và vai trò của nó trong đời sống xã hội thu hút nhiều nhà
khoa học nghiên cứu với nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, đề tài chưa đi sâu nghiên
cứu trong đời sống tinh thần của người Việt Nam. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa các kết quả
nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước, đề tài tập trung vào triết lý của đạo Phật đối
với con người Việt Nam. Nam đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu những tư tưởng của Phật giáo
nói chung và ảnh hưởng đối với người Việt Nam nói riêng.
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.Mục đích nghiên cứu
Đề tài đi sâu phân tích ảnh hưởng của triết học Phật giáo đối với đời sống xã hội
của người Việt nói chung và đời sống tinh thần nói riêng. Từ một số kết quả nghiên cứu
có thể làm tăng thêm hiểu biết về các giá trị tinh thần, tư tưởng của người Việt đối với Phật giáo.
3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu -
Khái quát về Phật giáo, những nội dung cơ bản trong giáo lý, giáo luật
của Phật giáo và quá trình Phật giáo du nhập vào Việt Nam. lOMoAR cPSD| 36844358 -
Phân tích những ảnh hưởng to lớn của giá trị tư tưởng triết học Phật giáo
đối với tư tưởng của con người Việt Nam trong xã hội hiện đại.
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là triết học Phật giáo, ảnh hưởng của Phật giáo
đến tư tưởng con người Việt Nam.
4.2.Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là những tư tưởng cơ bản của triết học Phật giáo
và ảnh hưởng của nó đến tư tưởng của người Việt Nam.
5.Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử,
logic phân tích và tổng hợp gắn với lí luận thực tiễn.
6.Giả thuyết nghiên cứu
Trong suốt chiều dài lịch sử Phật giáo đã tồn tại lâu đời và phát triển mạnh mẽ ở
Việt Nam. Là một trong những hệ tư tưởng điển hình trong nền văn hóa dân tộc Việt
Nam, tinh thần Phật giáo in đậm, tạo nên một sắc thái riêng trong tất cả các lĩnh vực đời
sống, văn hóa, nghệ thuật, ứng xử, giao tiếp,...Lịch sử đã chứng minh, Phật giáo Việt
Nam luôn đồng hành cùng dân tộc, góp phần vào chân hưng đất nước, an sinh, đấu tranh
vì hòa bình thịnh vượng. Từ việc tìm hiểu phân tích ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời
sống tinh thần của người dân. Từ đó đề xuất phương hướng giải pháp nhằm phát huy
mặt tích cực hạn chế mặt tiêu cực mà “Triết học Phật giáo ảnh hưởng tới tư tưởng con
người Việt Nam’’. 7.Đóng góp của đề tài
7.1.Đóng góp về lí luận lOMoAR cPSD| 36844358
Hệ thống hóa cơ sở lý luận về Triết học Phật giáo
7.2.Đóng góp về thực tiễn
Đề tài góp phần đưa ra những quan điểm mới về triết học Phật giáo và ảnh
hưởng của nó đến tư tưởng con người Việt Nam.
8.Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị , tài liệu tham khảo, nội dung bài tiểu luận gồm 2 chương:
Chương 1: Sự ra đời và tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo
Chương 2: Ảnh hưởng của Phật giáo đến tư tưởng của người Việt
CHƯƠNG 1: SỰ RA ĐỜI VÀ TƯ TƯỞNG CƠ BẢN
CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển Phật giáo
Phật giáo được đặt theo tên của người sáng lập Đức Phật. Đức Phật là một hoàng
tử tên là Siddhartha, con trai của vua Trịnh Sản ở miền bắc Ấn Độ (nay là Nepal). Ở
tuổi 29, ngài nhận ra rằng những tiện nghi vật chất và sự an toàn trên thế giới không
đảm bảo hạnh phúc; Vì vậy, ngài đã đi tìm hiểu giáo lý, tôn giáo và triết học đương thời,
để tìm ra chìa khóa của hạnh phúc. Sau sáu năm nghiên cứu và thiền định, Ngài đã tìm
ra con đường "Trung đạo" và giác ngộ. Sau khi giác ngộ, ông dành phần còn lại của
cuộc đời trần thế để thuyết giảng các nguyên tắc của Phật giáo - được gọi là Pháp, hay
Chân lý - cho đến khi ông qua đời ở tuổi 80.
Và sự phát triển của đạo Phật có thể chia làm bốn giai đoạn: 1.
Giữa thế kỷ thứ 6 đến giữa thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên: Thời kỳ ban
đầu,được truyền bá bởi Đức Phật và các đệ tử của Ngài. lOMoAR cPSD| 36844358 2.
Từ thế kỷ IV TCN: Bắt đầu phân hóa nhiều trường thông qua tụ hội pháp. 3.
Từ thế kỷ I: Đại thừa xuất hiện với hai bộ phái quan trọng là trường
pháiTrung Đạo và trường phái Duy Tâm. 4.
Từ thế kỷ thứ VII: xuất hiện Phật giáo Mật tông (Phật giáo Tây Tạng, kimcương thừa).
Sau thế kỷ XIII, Phật giáo bị coi là tuyệt chủng ở Ấn Độ, nơi ra đời của Đạo Phật.
Từ thế kỷ thứ III, Phật giáo được truyền bá sang các quốc gia khác ngoài Ấn Độ
và mang nặng bản sắc của các quốc gia đó. Ngày nay, Tiểu thừa với quan điểm của Phật
giáo Nguyên thủy được truyền bá rộng rãi ở Tích Lan (Tích Lan), Thái Lan, Miến Điện
(Myanma), Campuchia. Đại thừa được truyền ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và
Việt Nam. Giáo lý Kim cương thừa - cũng được phân loại là Đại thừa -phát triển mạnh ở Tây Tạng, Mông Cổ.
2.Nội dung tư tưởng triết học Phật giáo
Tư tưởng triết học Phật giáo chủ yếu nói về thế giới quan và nhân sinh quan.
2.1.Thế giới quan Phật giáo
Thế giới quan Phật giáo chịu ảnh hưởng của hai luận điểm, thể hiện qua 4 luận
thuyết cơ bản: thuyết vô thường, thuyết vô ngã, thuyết nhân quả, thuyết nhân duyên khởi.
2.1.1.Thuyết vô thường
Vô thường là không thường còn, là chuyển biến thay đổi. Luật vô thường chi
phối vũ trụ, vạn vật, thân và tâm ta. Sự vật luôn luôn biến đổi không có gì là thường trụ,
bất biến. Với ngũ quan thô thiển của ta, ta lầm tưởng sự vật là yên tĩnh,là bất động lOMoAR cPSD| 36844358
nhưng thật ra là nó luôn luôn ở thể động, nó chuyển biến không ngừng.Sự chuyển biến
ấy diễn ra dưới hai hình thức: a)
Một là Sátna (Kshana) vô thường: là sự chuyển biến rất nhanh, trong một
thờigian hết sức ngắn, ngắn hơn cả một nháy mắt, một hơi thở, một niệm, một sự chuyển
biến vừa khởi lên đã chấm dứt. b)
Hai là Nhất kỳ vô thường: là sự chuyển biến trong từng giai đoạn. Sự vô
thường thứ nhất là trạng thái chuyển biến nhanh chóng, liên tiếp, ngắn ngủi, thường là
ta không nhận ra mà kết quả là gây ra sự vô thường thứ hai. Nhất kỳ vô thường là trạng
thái chuyển biến rõ rệt, kết thúc một trạng thái cũ, chuyển sang một trạng thái mới. Vạn
vật trong vũ trụ đều tuân theo luật: Thành-Trụ-Hoại-Không.
Vạn vật được cấu thành, trụ một thời gian, sau đó chuyển đến diệt, thành,
hoại,không. Các sinh vật đều tuân theo luật: Sinh, trụ, di, diệt.
Không những thân ta chuyển biến không ngừng mà tâm ta cũng không ngừng
chuyển biến. Như dòng nước thác, như bọt bể, trong Satna này, trong tâm ta nổi lên
một ý niệm thiện, chỉ trong Satna sau, trong tâm ta đã có thể khơi lên một ý niệm ác.
Các hình thái xã hội theo thời gian cũng chuyển biến: Xã hội công xã nguyên
thủy → Xã hội chiếm hữu nô lệ → Xã hội phong kiến → Xã hội tư bản → Xã hội Xã
Hội Chủ Nghĩa. Đó là quy luật xã hội và cũng phù hợp với thuyết vô thường của Đạo Phật.
Trong thế gian có những người không biết lý vô thường của Phật, có những
nhận thức sai lầm về sự vật là thường còn, là không thay đổi, không chuyển biến. Vì
nhận thức thân ta là thường còn nên nảy ra ảo giác muốn kéo dài sự sống để hưởng thụ,
để thỏa mãn mọi dục vọng. Khi luật vô thường tác động đến bản thân thì sinh ra phiền não đau khổ. lOMoAR cPSD| 36844358
Thuyết vô thường là một trong những thuyết cơ bản trong giáo lý Phật, là cơ sở
của lý luận cho phương thức sống, cho triết lý sống của những con người tu dưỡng theo giáo lý Phật.
2.1.2.Thuyết vô ngã
Từ thuyết vô thường, Phật nói sang vô ngã. Vô ngã là không có cái ta. Thực ra
làm gì cũng có cái ta trường tồn, vĩnh cữu vì cái ta nó biến đổi không ngừng, biến
chuyển từng phút, từng giờ, từng Satna.
Một câu hỏi được đặt ra là cái ta ở giây phút nào là cái ta chân thực, cái ta bất
biến? Cái ta mà Phật nói trong thuyết vô ngã gồm có hai phần: Cái ta sinh lý tức thân
và cái ta tâm lý tức tâm.
Theo kinh Trung Quốc Ahàm, cái ta sinh lý chỉ là kết hợp của bốn yếu tố của
bốn đại là: địa, thủy, hỏa, phong. Những thứ đó không phải là ta, ta không phải là
những thứ đó, những thứ đó không thuộc về ta.
Cái tôi tâm lý bao gồm: tưởng, tưởng, hành, thức. Bốn bình này và ấm
sắc che lấp trí tuệ, khiến chúng ta không thấy được chân ngã, Phật tánh, bản thể.
đôi chân bị ngã của chúng tôi. Sự thật bao gồm nhận thức, cảm xúc, suy nghĩ, là
sự phối hợp của bảy căn: hỷ, nộ, ái, ố, ái, ố, dục.
Thuyết vô ngã khiến người ta không còn tin có linh hồn trường tồn, tồn tại đời
này qua đời khác, đời này qua đời khác. Đức tin có linh hồn dẫn đường hiến tế linh hồn
là một hành động mê tín dị đoan.
Đối với những người bị áp bức bóc lột, mê tín dị đoan có một cái tôi vĩnh cửu
đến những suy nghĩ tiêu cực, chán đời phó mặc cho số phận, mong làm lại cuộc đời
trong kiếp sau. Quan niệm có linh hồn bất tử, bản thể bất diệt là nguồn gốc của sự sinh lOMoAR cPSD| 36844358
thành những tình cảm, những suy nghĩ ích kỷ và những ham muốn vô bờ bến của
những người dựa vào quyền lực bất chính để tư lợi, tức là cho bản thân mà họ cho là thường còn, bất biến.
Dựa trên hai thuyết vô thường và vô ngã, Đức Phật đã xây dựng cho các đệ tử
một lối sống, triết lý sống lấy lòng vị tha làm lý tưởng sống cao đẹp cuộc sống của
chính mình, hay nói cách khác là cuộc sống của một người cho mọi người, mọi người cho một người.
2.1.3.Thuyết lý nhân duyên sinh
Với lý nhân duyên sinh Phật muốn nói tới một định lý. Theo định lý ấy sự vật
vạn vật phát triển trên thế gian đều do các nhân duyên hội họp mà thành, sự vật, vạn
pháp sẽ kiến diệt khi nhân duyên tan rã.
Nhân là năng lực phát sinh, duyên là lực hỗ trợ cho nhân phát sinh. Như cây lúa
thì hạt lúa là nhân, nước, ánh sáng mặt trời, công cày bừa gieo trồng là duyên. Nhân
duyên đó hội họp sinh ra cây lúa. Tất cả mọi hiện tượng đều nương nhau mà hành
động. Nói nương nhau có nghĩa là sự vật tác động, kết hợp, chi phối, ảnh hưởng lẫn
nhau mà thành. Đó là nhân duyên.
Tất cả các pháp đều sinh, diệt và tồn tại trong sự liên hệ mật thiết với
nhau,không một pháp nào có thể tồn tại độc lập tuyệt đối.
Người thế gian không tu dưỡng tưởng lầm sự vật, vạn pháp là thực có, là vĩnh
viễn nên bám giữ vào các pháp vào sự vật (sinh mệnh, danh vọng, tiền tài...). Nhưng
thực ra các pháp là vô thường, là chuyển biến và khi tan rã thì người thế gian thương tiếc, đau khổ.
Lý nhân duyên cho chúng ta thấy sự vật hình thành là do nhân duyên hòa hợp,
sự vật là hư giả, là giả hợp không có tính tồn tại. Như vậy con người làm chủ đời mình,
làm chủ vận mệnh của mình. lOMoAR cPSD| 36844358
Cuộc sống của con người có tươi đẹp hạnh phúc hay phiền não đau khổ là đều
do nhân duyên mà con người tạo ra. Với nhận thức như vậy, con người tìm được một
phương thức sống, một cách sống cho ra sống, sống vì hạnh phúc của mọi người, sống
an lạc, tự tại, giải thoát.
2.1.4.Thuyết nhân duyên quả báo hay thuyết nhân quả
Thuyết nhân duyên quả báo hay thuyết nhân quả là một trong những thuyết cơ
bản của giáo lý Phật. Sự vật sinh ra là có nhân, nguyên nhân. Cái nguyên nhân một
mình cũng không tạo ra được sự vật mà phải có đủ duyên thì mới tạo ra quả được.
Người ta nói rằng: Trồng đậu được đậu Trồng dưa được dưa.
Nhưng Phật nhấn mạnh: Quả có thể khác nhân sinh ra nó. Quả có thể hơn nhân
nếu gặp đủ duyên tốt, trái lại có thể kém nhân nếu gặp duyên xấu. Nhân gặp đủ duyên
thì sẽ biến thành quả, quả sinh ra nếu hội đủ duyên lại có thể biến thành nhân rồi để sinh ra quả khác.
Sự vật là một chuỗi nhân quả, là một tràng nhân quả nối tiếp nhau, ảnh hưởng
lẫn nhau không bao giờ đứt quãng, không bao giờ ngừng.
Trong nhân lại có mầm mống của quả sau này nhưng quả không nhất định phải
đúng như nhân vì duyên có thể mang lại sự biến đổi cho quả – Đó là thuyết “Bất định
pháp” trong luật nhân quả.
Sự vật là bất định, người tu hành căn cứ vào thuyết này mà tu dưỡng và tiến tới
trên con đường giải thoát về nhân. Suy rộng ra theo giáo lý Phật thì mỗi ý nghĩ của tâm
ta, mỗi hành động của thân ta, mỗi lời nói của chúng ta cũng là những hạt nhân của
chúng ta gieo hàng ngày. Những hạt nhân khi gặp đủ duyên sẽ nảy nở thành quả. lOMoAR cPSD| 36844358
Theo danh từ Phật học, những hạt nhân này gọi là nghiệp. Gieo nhân tức là gây
nghiệp. Kết quả đền đáp những hành động nói trên Phật gọi là nghiệp báo. Người nào
gieo nhân, người ấy hái quả, không một hành động nào, thiện hay ác, dù nhỏ đến đâu,
dù ta khôn khéo bưng bít, giấu giếm đến mức nào cũng không thể thoát khỏi cán cân
nhân quả. Người học Phật, tu Phật chân chính thấm nhuần thuyết nhân quả phải là
người có đạo lý, không thể nào khác được.
Với những luận thuyết cơ bản như trên đã hình thành nên thế giới quan Phật
giáo. Phật quan niệm các hiện tượng trong vũ trụ luôn luôn biến chuyển không ngừng
theo quy luật nhân duyên. Một hiện tượng phát sinh không phải là do một nhân mà do
nhiều nhân và duyên. Nhân không phải tự mà có mà do nhiều nhân duyên đã có từ
trước. Như vậy một hiện tượng có liên quan đến tất cả các hiện tượng trong vũ trụ.
Tóm lại thế giới quan Phật giáo là thế giới quan nhân duyên. Tất cả sự vật có
danh có tướng, có thể nhận thức được, ý niệm được. Cảm giác được hay dùng ngôn
ngữ luận bàn, được đều được Phật gọi là pháp. Các pháp đều thuộc một giới gọi là
Pháp giới. Bản tính của pháp giới là các pháp duyên khởi ra nhau. Tính ấy là tính của
pháp giới nên gọi là pháp giới tính. Do pháp giới tính là bản tính của các pháp nên gọi
là chân, vì vậy pháp giới tính còn gọi là chân như tính.
Giác ngộ được chân như tính thì gọi là tự giác, nhưng thế thì chưa nhận thức
đầy đủ, sâu sắc về pháp giới tính vì vậy các nhà tu hành giác ngộ được bản lai tự tính
còn phải vận dụng pháp giới tính vào nhiều trường hợp khác để thấy được cái dựng to
lớn của pháp giới tính.
2.2.Nhận thức luận Phật giáo
2.2.1.Bản chất, đối tượng của nhận thức luận
Bản chất của nhận thức luận Phật giáo là quá trình khai sáng trí tuệ. Còn đối
tượng của nhận thức luận là vạn vật, là mọi hiện tượng, là cả vũ trụ. lOMoAR cPSD| 36844358
Vạn vật là vô thủy vô chung, không có sự vật đầu tiên và không có sự vật cuối cùng.
Mọi vật đều liên quan mật thiết đến nhau. Toàn thể dù lớn đến đâu nếu không có quan
hệ với hạt bụi thì cũng không thành lập được. Để diễn đạt ý trên, một thiền sư đã dùng hai câu thơ:
Càn khôn tận thị mao đầu thượng
Nhật nguyệt bao hàm giới trí trung. Có nghĩa là:
Trời đất rút lại đầu lông nhỏ xíu
Nhật nguyệt nằm trong hạt cải mòng.
Như vậy đạo Phật không phân biệt vật chất và tinh thần vì đó chỉ là hai trạng
thái của tâm, của năng lượng khi ở thể tiềm tàng.
Sau khi đã tìm hiểu về sự vật, hiện tượng chúng ta sẽ tìm hiểu cái tâm trong đạo
Phật để thấy được quan niệm của đạo Phật về tâm và vật.
Thông thường người ta cho rằng đạo Phật là duy tâm vì trong kinh Phật có câu
“Nhất thiết duy tâm tạo”. Nhưng chữ “duy tâm” ở đây không phải là duy tâm trong
triết học Tây phương nên ta không thể nhận định như trên. Chữ tâm trong đạo Phật có
nghĩa là một năng lượng, nó làm bản thể cho tất cả mọi hiện tượng tâm lý, cho mọi
hiện hành. Bản thể là cái chất, là cội gốc của vạn vật. Khi ta phân tích, chia chẻ một vật
đến một phần tử nhỏ nhất, đến phần cuối cùng thì phần tử ấy là bản thể mà ở đây cũng
có vật có chất nên đâu đâu cũng thấy có bản thể, vì vậy tâm cũng lại là to lớn vô biên.
Những tình cảm, ý thức phát sinh phải nương vào hiện tượng sinh lý, vật lý. Nói
nương nhau để phát sinh chứ không phải các hiện tượng sinh lý, vật lý sinh ra các hiện tượng tâm lý. lOMoAR cPSD| 36844358
Hiểu như vậy thì thấy rõ không phải tâm sinh vật hay vật sinh tâm. Những hiện
tượng sinh lý vật lý và những hiện tượng tâm lý ấy chỉ tương sinh tương thành.
2.2.2.Quy trình, con đường và phương pháp nhận thức
Sự nhận thức phát triển theo hai con đường tư trào là hướng nội và hướng ngoại.
Phật giáo thường quan tâm đến tư trào hướng nội tức là mỗi người tự chiêm nghiệm
suy nghĩ của bản thân. Có hai phương pháp để nhận thức là :
Tiệm ngộ: là sự giác ngộ, nhận thức một các dần dần, có tính chất là “trí hữu sư”.
Đốn ngộ: là sự giác ngộ bộc phát, bùng nổ có tính chất là “trí vô sư”.
Để đạt được sự nhận thức đó thì có nhiều phương pháp song hai phương pháp
sau: Tam học và Tam huệ là chủ yếu.
Tam học là giới, định, tuệ.
− Giới: gồm có những phương tiện để thay đổi lối suy nghĩ, lối sinh hoạt
hàng ngày của con người sống theo đạo, thích hợp với đạo là luôn hướng về thiện.
− Định: là đình chỉ mọi tư tưởng xấu, ý nghĩ xấu và còn là tập trung tư tưởng
suy nghĩ để làm mọi việc yên lành.
− Tuệ: là trí tụê sáng suốt, đã thấu được lý vô thường, vô ngã, do đó chỉ nghĩ
đến làm việc thiện, mưu lợi cho chúng sinh. Tam huệ là văn, tu, tư.
− Văn: là nghe pháp Phật, hiểu rõ ý nghĩa, quan niệm được bản tính thanh tịnh,
sáng suốt của mình, do đó mà có một lòng tin vững chắc nơi Phật pháp. lOMoAR cPSD| 36844358
− Tư: là suy nghĩ về các pháp Phật đã nghe được, học được đi đến giác ngộ bản lai tư tính của mình.
− Tu: là nương theo trí tuệ, bắt đầu trực nhận được bản tính chân như, mà tụ tập
gột rửa những thói quen mà lầm từ nhiều kiếp để lại đi đến nhập với một pháp giới tính.
Các phương pháp trên đã phá tan các kiến chấp sai lầm chấp ngã, chấp pháp để
đi đến trung đạo và nhận rõ trung đạo là chẳng có, chẳng không. Với nhận thức như
thế, người tu hành sẽ được sống trong sự giải thoát, sinh tử luân hồi sẽ không còn nữa.
2.3.Nhân sinh quan Phật giáo
Từ một vũ trụ quan căn cứ trên những thuyết nhân duyên sinh, thuyết sự vật
duyên khởi,... chúng ta sẽ tìm hiểu về những quan niệm của đạo Phật về vấn đề nhân
sinh quan. Ở đây chúng ta sẽ lần lượt trả lời các câu hỏi:
Có phải cuộc sống chỉ toàn là đau khổ? Và vấn đề giải thoát trong đạo Phật là gì?
Con người là gì? Từ đâu mà sinh ra? Chết rồi đi đâu? Vị trí của con người trong đạo Phật.
Quan niệm của Phật về các vấn đề: bình đẳng, tự do, dân chủ...
Trước khi trả lời các câu hỏi trên chúng ta sẽ tìm hiểu và phân tích Tứ diệu đế vì
đây là giáo lý kinh điển của Phật giáo bao quát toàn bộ các vấn đề trên.
2.3.1.Tứ diệu đế
Tứ diệu đế còn gọi là tứ chân đế hay tứ thánh đế, là bài thuyết pháp đầu tiên
của Phật sau khi thành đạo tại vườn Lộc Uyển cho năm từ khưu trước kia đi theo lOMoAR cPSD| 36844358
Phật. Tứ đế là đạo lý căn bản của Thanh Văn Thừa, đồng thời cũng là cơ sở của các
thuyết khác trong giáo lý Phật. Tứ đế gồm có: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế. a) Khổ đế
Trong tứ diệu đế, Phật đưa ra đầu tiên vấn đề khổ, rồi giảng cho ta thấy vì sao
mà khổ, phương pháp diệt khổ và con đường đi đến diệt khổ.
Nói như thế có người hiểu lầm cho rằng đạo Phật chủ trương cuộc đời chỉ toàn
là khổ, và đạo Phật là đạo yếm thế. Thực ra, đạo Phật nhìn cuộc đời một cách khách
quan, không ru người ta vào một giấc mơ Niết Bàn hay cực lạc và cũng không làm cho
người ta sợ hãi, chán nản bởi những đau khổ trong cuộc sống. Phật chỉ cho chúng ta
nhận thức sự vật, cuộc đời theo chân tướng của nó và chỉ dẫn cho chúng ta đi đến giải thoát.
Danh từ Dukkha của tiếng Xantít ta thường dịch là khổ là chưa thật hết nghĩa
nên mới dẫn đến những hiểu lầm trên.
Trong phép tướng duy thức có nói đến ba loại thụ: khổ thụ, lạc thụ, xả thụ. Như
vậy không phải chỉ có khổ thụ mà còn có lạc thụ. Đối với cảnh nghịch sinh ra khổ thụ
nhưng đối với cảnh thuận thì sinh ra lạc thú. Các cảnh có thể làm cho người ta vui hoặc
khổ hoặc không vui, không khổ. Đạo phật không phủ nhận những cảm giác vui (lạc
thú) của cuộc đời mà còn phân tích ra nhiều hình thức vui. Nhưng những cái vui ấy,
cũng như những cái khổ ấy đều bao gồm trong danh từ Dukkha, vì những cái vui, cũng
như những cái khổ ấy đều là vô thường hư giả.
Dù người tu hành chứng được những trạng thái thiền định cao siêu thì những lạc
thú siêu thoát ấy vẫn là Dukkha vì những người tu hành ấy chưa thoát khỏi tam giới vô thường, hư giả.
Khổ thụ và lạc thụ đều là Dukkha cả, do đó chúng ta phải diệt là diệt cái
Dukkha ấy chứ không phải là tránh khổ, tìm vui như thế gian thường hiểu, thường lầm. lOMoAR cPSD| 36844358 b) Tập đế
Nếu chúng ta muốn tự mình thoát khỏi khổ đau, trước hết chúng ta phải tìm ra
nguyên nhân, đó là Tập đế. Những nguyên nhân đó không phải tìm đâu xa mà ở ngay
trong mỗi chúng ta. Nguyên nhân thì có nhiều nhưng có thể tóm lại như sau: 1. Tham: là tham lam. 2. Sân: là giận dữ. 3. Si: là si mê, mờ ám. 4.
Mạn: là tự nâng cao mình lên, hạ người khác xuống. 5.
Nghi: là nghi ngờ, không có lòng tin. 6.
Thân kiến: tưởng thân thể là thực có là trường tồn. 7.
Biên kiến: sự hiểu biết một mặt như chấp đoạn, chấp thưởng. 8.
Tà kiến: sự hiểu biết không đúng, là chấp theo lối tà, không chân
chính,trái với sự thật, trái với quy luật nhân quả. 9.
Kiến thử: chấp nhặt hiểu biết sai trái của riêng mình là đúng. 10.
Giới cấm thủ: tu hành không chính đạo.
Ba nguyên nhân chính (tham, sân, si) Phật còn gọi là tam độc, là nguồn gốc của mọi sự khổ.
Tập đế là một chân lý thể hiện tính biểu chứng sâu sắc trong mối quan hệ nhân
quả và đã tìm tới các nguyên nhân rất đa dạng, phong phú. Các nguyên nhân ấy quan
hệ với nhau, cái nào cũng có thể làm nhân làm duyên cho cái khác, như làn sóng trên
mặt biển, lớp trước là lớp nhân là duyên cho lớp sau và cứ thế tiếp diễn.Nhưng cái hạn
chế của tập đế là chưa đề cập đến nguyên nhân từ xã hội. Đặc biệt là chưa nhắc tới