Tiểu luận triết học - Triết học Mác-Lênin | Đại học Công nghiệp Thực phẩm Thành phố HCM

Tiểu luận triết học - Triết học Mác-Lênin | Đại học Công nghiệp Thực phẩm Thành phố HCM được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Nội dung
2.2.2 Quan điểm của triết học Mác-Lênin về mối quan hệ con
người và tự nhiên
Con người là một thực thể tự nhiên - xã hội
Con người, trong quan niệm của triết học Mác một thực thể tự
nhiên tồn tại trong mối liên hệ tác động qua lại khăng khít với các
vật thể tự nhiên khác. Con người tồn tại một sinh vật sống, với
những đặc tính vốn của loài, các hoạt động nhằm phục vụ nhu
cầu sống của mình trong quá trình đó, con người cũng chịu tác
động của môi trường xung quanh (bao gồm môi trường tự nhiên
môi trường giữa con người với con người). C.Mác viết: “Con người là
thực thể nhục thể, những lực lượng tự nhiên, sinh động, hiện thực,
cảm tính, đối tượng hóa, điều đó nghĩa con người những đối
tượng hiện thực, cảm tính làm đối tượng của bản chất của mình, của
biểu đời sống của mình, hoặc con người chỉ thể biểu hiện đời sống
của mình dựa trên những đối tượng hiện thực, cảm tính. tính chất
đối tượng, tự nhiên, cảm tính, điều đó cũng tức đối tượng tự
nhiên, cảm giác ở bên ngoài mình hoặc bản thân mình là đối tượng, tự
nhiên, cảm giác đối với một thực thể thứ ba nào đó”.
Hơn thế nữa, khi xem xét mối quan hệ giữa con người và tự nhiên,
Mác luôn đặt con người trong mối quan hệ với tự nhiên thông qua lao
động, sản xuất. Bởi, con người được sinh ra từ tự nhiên, thông qua
quá trình tiến hóa từ vượn thành người, cho nên, con người cũng
chính là một bộ phận của tự nhiên. Nhưng, con người không chỉ dừng
lại thực thể tự nhiên, điểm khác biệt khiến con người vượt xa
các loài động vật khác chỗ, bộ não của con người hoạt động ý
thức, khiến con người trở thành một thực thể mang tính người riêng
biệt. C.Mác nhấn mạnh: “Con người không phải chỉ thực thể tự
nhiên, thực thể tự nhiên có tính chất người, tức thực thể tồn
tại cho bản thân mình do đó là thực thể loài. phải biểu hiện
tự khẳng định như thực thể loài tồn tại của cũng như trong tri
thức của nó”.
Chính trong hoạt động lao động, sản xuất, con người đã biểu hiện
tính đặc thù của mình, đó tác động tác động vào tự nhiên một cách
ý thức, biến tự nhiên tồn tại khách quan chuyển hóa vào lao động
của con người. C.Mác cho rằng, “đối với con người thì ruộng đất tồn
tại chỉ nhờ lao động, canh tác. Do đó, bản chất khách quan của của
cải đã chuyển vào lao động”. Cho nên, thể nói, lịch sử nhân loại
cũng bắt đầu chính từ hoạt động sản xuất vật chất của con người.
Nhưng, sự khác nhau căn bản giữa con người con vật chỗ,
con vật thích nghi với tự nhiên, với các điều kiện tồn tại của nó, còn
con người biết cải tạo tự nhiên cho phù hợp với mục đích họ đặt
ra. chính lao động ý thức giúp con người tạo ra được sự khác
biệt đó. Các ông cho rằng: “Con người càng cách xa con vật, hiểu
theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình
làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu; ảnh hưởng của
những hậu quả không dự kiến trước, của những lực lượng không kiểm
soát được, đối với lịch sử đó, lại càng ít đi bấy nhiêu thì kết quả lịch
sử lại càng phù hợp một cách chính xác hơn bấy nhiêu với mục đích
đã xác định trước”.
Trong mối quan hệ hội giữa người với người, chính hai mặt tự
nhiên và hội cùng tồn tại làm nên điểm khác biệt của con người so
với các loài động vật khác. Hai mặt đó không tồn tại riêng biệt, tách
rời nhau, chúng thống nhất với nhau. Con người nếu tách ra khỏi
tự nhiên, hay xã hội thì đều không thể tồn tại đúng là con người được.
Ngay đến bản chất tự nhiên của con người cũng chỉ thể bộc lộ ra
khi họ sống trong một môi trường hội, thực hiện các hoạt động
giao tiếp hội. Điều này được nhà triết học Mác khẳng định: “Bản
chất con người tự nhiên chỉ tồn tại đối với con người xã hội; chỉ
trong hội, tự nhiên đối với con người mới một cái khâu liên hệ
con người với con người, mới tồn tại của con người đối với người
khác tồn tại của người khác đối với người đó mới nhân tố sinh
hoạt của hiện thực con người; chỉ trong hội, tự nhiên mới biểu
hiện ra sở của tồn tại tính chất người của bản thân con
người”. Như vậy, ngay cả mặt tự nhiên của con người cũng tồn tại
trong hội được thể hiện ngay trong chính hoạt động hội của
con người.
Tác động qua lại giữa con người và tự nhiên
Con người xuất hiện là sự trải qua quá trình tiến hóa lâu dài. Trong
quá trình đó, lao động xuất hiện để phục vụ con người từ những nhu
cầu đầu tiên, đơn giản về vật chất cho đến các nhu cầu về tinh thần, xã
hội khác. Như vậy, chính thông qua lao động bản năng của con
người đã được cải tạo dần, cùng với đó, ý thức cũng ngày càng hoàn
thiện hơn.
Triết học Mác đã nghiên cứu bản chất của con người trong chính
hoạt động hội của họ. Từ đó, các ông chỉ ra rằng, con vật tự đồng
nhất một cách trực tiếp với hoạt động sinh sống của nó, không
phân biệt với hoạt động sinh sống của nó; còn con người biết biến
bản thân hoạt động sinh sống của mình thành thành đối tượng của ý
thức của mình. Con người tồn tại hiện thực với phương thức hoạt
động đặc thù, đó hoạt động lao động, sản xuất. Nhờ sự chuyển giao
giữa các thế hệ như vậy, con người đã hình thành nên những mối
liên hệ “lịch sử loài người”. Như C.Mác phân tích: “xã hội… sản
phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người” “lịch sử của
xã hội con người luôn chỉ lịch sử cho sự phát triển của nhân của
những con người”.
Con người “tổng hòa các quan hệ hội”, nhưng con người
không phải là một hệ thống khép kín, mà con người có vai trò tích cực
trong tiến trình lịch sử với cách chủ thể sáng tạo. Chính thông
qua quá trình thực hiện vai trò sáng tạo của mình, bản chất của con
người được thể hiện ra thường xuyên sự vận động, phát triển
cùng sự vận động, phát triển của xã hội. C.Mác nhấn mạnh: “tính chất
xã hội là cái vốn có của toàn bộ sự vận động; bản thân xã hội sản xuất
ra con người với tính cách con người như thế nào thì cũng sản
xuất ra hội như thế. Hoạt động sự hưởng dụng những thành quả
của hoạt động, xét theo nội dung của cũng như xét theo phương
diện tồn tại, đều mang tính chất hội; hoạt động hội hưởng
dụng xã hội”.
Thông qua quá trình con người tác động vào tự nhiên, tự nhiên sẽ
tác động trở lại con người. Đó không phải sự tác động một chiều,
mà là sự tác động qua lại. Con người lao động tạo ra của cải nuôi sống
bản thân mình hội. Sản xuất vật chất đặc trưng chỉ con
người, góp phần thúc đẩy trình độ phát triển hội. C.Mác khẳng
định rằng, không ai khác chính con người làm nên lịch sử của mình.
Do vậy, “lịch sử hội của con người luôn chỉ lịch sử của sự phát
triển nhân của những con người”. Thông qua quá trình hoạt động
thực tiễn, con người tác động vào tự nhiên, xã hội và để lại những dấu
ấn của bản thân mình vào giới tự nhiên cũng như đối với hội
con người từng bước phát triển bản thân mình mỗi ngày. Do vậy, tự
nhiên ban đầu tưởng như chỉ là cái tồn tại bên ngoài con người, là môi
trường cho con người sống hoạt động, sau đó đã trở thành kết quả
trong hoạt động mang tính lịch sử của con người. Nhờ sự tương tác
qua lại giữa con người tự nhiên, con người đã được những
thứ cần thiết phục vụ nhu cầu của mình, không chỉ về nhu cầu vật
chất, mà cả nhu cầu tinh thần.
3.1.5 Hiện trạng ô nhiễm tiếng ồn
Ô nhiễm tiếng ồn (Tiếng Anh là: Noise pollution hoặc noise
disturbance) là tiếng ồn trong môi trường vượt qua một ngưỡng cụ
thể, gây ra sự khó chịu cho người hoặc động vật. Nhiều quốc gia,
nguồn gây ô nhiễm âm thanh chủ yếu từ tiếng ồn bên ngoài như giao
thông, vận tải, xe cơ giới, xe lửa và máy bay.
Nguyên nhân gây ra ô nhiễm tiếng ồn
Quy hoạch đô thị kém có thể tạo ra ô nhiễm tiếng ồn, vì cùng với
các tòa nhà công nghiệp và khu dân cư có thể dẫn đến ô nhiễm tiếng
ồn trong khu dân cư. Nguồn gốc ô nhiễm tiếng ồn đô thị xuất phát từ
thời Rome xa xưa.
Tiếng ồn ngoài trời có thể được tạo ra bởi hiệu suất của máy móc,
xây dựng công trình hoặc từ những buổi diễn âm nhạc, đặc biệt là ở
những nơi làm việc nhất định.
Chung quy lại gồm có ba nguyên nhân chính dẫn đến ô nhiễm
tiếng ồn đó là: hoạt động công nghiệp – Dịch vụ; Hoạt động giao
thông và Hoạt động sinh hoạt của con người.
Phân loại cấp độ ô nhiễm tiếng ồn
Âm thanh được đo bằng decibel (dB). Lên khoảng 76 dB bắt đầu
có ngưỡng âm thanh khó chịu. Ngưỡng nghe bên trong giới hạn chịu
đựng của con người là khoảng 110 dB. Tiếng ồn phát ra từ đường cao
tốc vào giờ cao điểm và khoảng cách 15m là từ 76 dB.
Một chiếc xe chạy trên đường phố với tốc độ 105km/h, âm thanh
cách đó 8m là ở mức 77 dB.
Một chiếc xe tải chạy bằng diesel bao gồm tốc độ 65 km/h. Âm
thanh thu được cách 15m là 88 dB.
Máy bay cao hơn 300m so với mặt đất phát ra âm thanh 88 dB.
Động cơ máy cắt cỏ tạo ra một tiếng ồn 96 dB.
Máy bay chiến đấu 737 hoặc DC-9 ở độ cao 1.853m hạ cánh với
âm thanh 97 dB.
Tiếng ồn từ màn trình diễn nhạc rock trong khoảng từ 108 đến 114
dB.
Thực trạng ô nhiễm tiếng ồn ở nước ta
Ở Việt Nam, dựa trên các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia về tiếng ồn,
đối với các khu vực cụ thể (khu vực từ hàng rào của trung tâm chăm
sóc sức khỏe, thư viện, nhà trẻ, trường học, nhà thờ, đền thờ, chùa
chiền và khu vực có các quy tắc cụ thể khác), âm thanh được cho
phép từ 6 đến 21h là 55dB, từ 21h đến 6h sáng khác là 45dB.
Đối với các khu vực thông thường (tòa nhà chung cư, nhà trong hẻm,
khu nghỉ dưỡng, nhà nghỉ, văn phòng hành chính…), từ 6:00 đến
21:00 là 70dB, từ 21:00 đến 6:00 sáng là 55dB. Tuy nhiên, trong thực
tế, chúng ta phải sống với âm thanh vượt quá mức cho phép một cách
thường xuyên.
PGS. Tiến sĩ Nguyễn Đình Tuấn, nguyên Hiệu trưởng Trường Cao
đẳng TN & MT Hồ Chí Minh tuyên bố rằng 1 trong 3 nguồn tiếng ồn
ở đô thị là công nghiệp, giao thông, xây dựng – dịch vụ, ô nhiễm tiếng
ồn giao thông là nặng nhất. Tiến hành đo mức độ ô nhiễm tiếng ồn
mới thấy trên một số con đường tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vượt
quá mức cho phép nhiều lần.
Bạn sẽ tìm thấy khá nhiều nơi có mức độ ô nhiễm tiếng ồn cao
trong TP. Hồ Chí Minh, như các ngã tư ở vòng xuyến Hàng Xanh,
Đinh Tiên Hoàng – Điện Biên Phủ, ngã sáu Gò Vấp, ngã tư An
Sương, ngã tư Huỳnh Tấn Phát – Nguyễn Văn Linh và các trục đường
chính trong vài giờ cao điểm. Ngay cả khi đêm muộn, nói cách khác,
từ 11:00 đến 6:00 sáng, mức âm thanh đo được vẫn nằm không nằm
trong giới hạn cho phép.
Trước đây, tại TP.HCM đã có đường dây nóng về quản lý tiếng ồn
đô thị nhưng ở Hà Nội chưa có cách thức nào để người dân lên tiếng
khi tiếng ồn bủa vây họ ở mọi ngóc ngách, bất cứ thời gian nào trong
ngày. Ô nhiễm tiếng ồn được xếp vào dạng ô nhiễm nguy hại thứ hại,
chỉ sau ô nhiễm không khí. Vì vậy, những quy định nghiêm khắc là
cần thiết để đảm bảo môi trường sống an toàn cho người dân đô thị.
Trở lại Hà Nội, kết quả nghiên cứu và phân tích của Viện Sức
khỏe nghề nghiệp và Môi trường tại 12 đường phố và ngã tư chính tại
Hà Nội cho thấy âm thanh ban ngày trung bình là 77,8 ~ 78,1 dBA.,
vượt quá tiêu chuẩn cho phép từ 7.8 đến 8.1 dBA. Âm thanh tương
đương trong đêm là 65,3 – 75,7 dBA, vượt qua tiêu chuẩn trong số
10-20 dBA.
Máy bay cũng là một nguồn gây ô nhiễm không thể bỏ qua. Lúc
máy bay cất cánh hoặc hạ cánh là lúc mà các hộ dân sống gần sân bay
phải chịu một tần số âm thanh rất lớn.
Hiện nay, số lượng phương tiện tham gia giao thông đang ngày
càng tăng với mức độ chóng mặt, mật độ xe lưu thông trên đường phố
ngày càng lớn, gây nên ô nhiễm về tiếng ồn do tiếng của động
cơ, tiếng còi cũng như tiếng phanh xe.
Ở Việt Nam, hình thức phương tiện tham gia giao thông đều rất khó
kiểm soát cùng với lượng phương tiện kém chất lượng lưu thông trên
đường phố khá nhiều đã tạo nên sự ô nhiễm về tiếng ồn đáng kể.
Tác hại của ô nhiễm tiếng ồn
Mức tiếng ồn cao có thể thúc đẩy các bệnh tim mạch ở người như
bệnh động mạch vành. Ở một số động vật, tiếng ồn quá mức có thể
làm tăng xác suất tử vong bằng cách thay đổi động vật ăn thịt, cản trở
việc phát hiện ra con mồi, các vấn đề sinh sản và có thể dẫn đến mất
thính giác vĩnh viễn.
Theo phó giáo sư Đoàn Ngọc Hải, ô nhiễm tiếng ồn là nguyên
nhân quan trọng nhất dẫn đến hậu quả sức khỏe sau này. Tiếng ồn ảnh
hưởng đến các cá nhân trong ba khía cạnh: Che mất âm thanh cần
nghe khiến cho phản xạ tự nhiện giảm sút; Gây rối loạn hệ thần kinh
và thính giác, gián tiếp gây ra bệnh tim mạch; tiếp xúc lâu dài với ô
nhiễm tiếng ồn cao góp phần gây ra chứng mất trí nhớ và điếc không
hồi phục.
Đối với trẻ em, ô nhiễm tiếng ồn làm trẻ mất tập trung, ảnh hưởng
đến hiệu quả của việc học từ ngữ ngay trong những năm đầu đời.
Mỗi tác động này góp phần ảnh hưởng tới biểu hiện xấu về tinh thần,
thể xác, hành vi, ảnh hưởng đến hiệu quả lao động, đặc biệt là đối với
người dân thành thị.
Tiếng ồn được xem là một kiểu Ô nhiễm. Vấn nạn này làm cho
không gian sống trở nên ngột ngạt, khó chịu, mất đi sự trong lành
đáng có. Con người và sinh vật cần được sống trong một hệ sinh thái
an toàn và thoải mái để được đảm bảo có được sự phát triển tốt nhất.
Ô nhiễm tiếng ồn sẽ làm biến đổi tiêu cực tâm lý con người và các
mối quan hệ xã hội.
Biện pháp giảm ô nhiễm tiếng ồn
Ô nhiễm tiếng ồn ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe mỗi người dân.
Do đó, cần phải có những biện pháp thiết thực để giảm tiếng ồn. Hơn
nữa, ý thức của mỗi người cần phải được nâng cao hơn nữa, tránh tạo
ra tiếng ồn không cần thiết, ảnh hưởng đến bản thân và những người
xung quanh.
Ở Việt Nam, theo các chuyên gia về môi trường và sức khỏe, điều
quan trọng là phải phân biệt rõ ràng các loại nguồn tiếng ồn để lập kế
hoạch và loại trừ các nguồn âm thanh không phù hợp, cụ thể là loại
phù hợp không vượt quá mức độ quy định; Loại vượt quá mức quy
định nhưng có thể xử lý trong việc khắc phục; Loại vượt quá quy định
và không thể khắc phục; loại không được phép phát ra ở các địa điểm
đô thị. Nên sử dụng các vật liệu cách âm, xây dựng tường cách âm và
các biện pháp cần thiết trong quá trình xây dựng nhà cửa, nhà máy.
Hạn chế ở lâu trong trong môi trường có độ ồn quá cao vượt ngưỡng
an toàn. Trong quá trình làm việc cần có những biện pháp bảo hộ
nhằm tránh sự tiếp xúc trực tiếp giữa tai và độ ồn xung quanh. Sử
dụng các thiết bị bảo hộ cá nhân và có chế độ lao động và nghỉ ngơi
hợp lý.
3.4.2 Giải pháp khắc phục ô nhiễm môi trường
Trước những thực trạng ô nhiễm môi trường nêu trên, người dân
nâng cao ý thức về bảo vệ môi trường, vứt rác đúng nơi quy định,
không xả rác bừa bãi. Giáo dục, nâng cao nhận thức cho các bé về bảo
vệ môi trường. Ngoài ra, nên hạn chế sử dụng các hóa chất tẩy rửa khi
xử lý nghẹt cống thoát nước, vì như thế sẽ vô tình đưa vào môi trường
một chất thải nguy hại mới, đồng thời cũng làm nguồn nước bị nhiễm
độc. Thay vào đó, hãy áp dụng cách xử lý ống thoát nước bị tắc bằng
các chế phẩm sinh học như men vi sinh thân thiện với môi trường.
Song song, Nhà nước tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo
vệ môi trường, trong đó có những chế tài xử phạt phải thực sự mạnh
để đủ sức răn đe các đối tượng vi phạm. Cần xây dựng đồng bộ hệ
thống quản lý môi trường trong các nhà máy, các khu công nghiệp
theo các tiêu chuẩn quốc tế. Tổ chức giám sát chặc chẽ nhằm hướng
tới một môi trường tốt đẹp hơn.
Tại các khu du lịch, khu đông dân cư, tuyến đường lớn,... nên bổ
sung thêm nhiều thùng rác và các nhà vệ sinh công cộng, tránh tình
trạng người dân phóng uế mất vệ sinh hoặc vứt rác ra đường gây
nghẹt cống thoát nước.
Sử dụng nguồn năng lượng sạch: Nguồn năng lượng sạch có thể là
gió, ánh nắng mặt trời...Đây là những nguồn năng lượng có thể tái tạo
và sử dụng bất cứ lúc nào. Những năng lượng sạch này khi sử dụng sẽ
không phát sinh khí thải gây các hiện tượng như hiệu ứng nhà kính, ô
nhiễm môi trường sống. Bên cạch việc sử dụng nguồn năng lượng mặt
trời sẽ tiết kiệm nguồn điện. Hiện nay có đến 90% người dân Việt khi
sử dụng các đồ dùng điện thì đều có thói quen để quên phích cắm
trong ổ điện. Hành động này vô tình gây lãng phí một lượng điện
năng tương đối lớn. Vì trong đế độ chờ các thiết bị cũng tiêu hao một
lượng điện năng để duy trì hoạt động của thiết bị. Do đó tốt hơn hết
bạn nên rút phích cắm ra khỏi ổ hoặc tắt nguồn tất cả các thiết bị điện
khi không sử dụng.
Cây xanh là nguồn cung cấp khí oxy cho bầu không khí, con
người. Nó còn hấp thụ khí cacbon, giảm xói mòn, sạt lở đất chống bão
lũ hiệu quả. Vì vậy nên trồng nhiều cây xanh xung quanh nơi bạn sinh
sống để được tận hưởng những bầu không khí trong lành, tốt nhất. Và
nên giữ gìn không nên chặt phá, khai thác một cách bừa bãi. Bên cạnh
đó chúng ta cần chung tay giảm sử dụng túi nylon và tăng cường tái
chế các sản phẩm qua sử dụng.
Tăng cường công tác nắm tình hình, thanh tra, giám sát về môi
trường. Nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ
phụ trách công tác môi trường và trang bị các phương tiện kỹ thuật
hiện đại để phục vụ có hiệu quả cho các lực lượng này.
Cuối cùng, phải đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục
về môi trường trong toàn xã hội tạo ra sự chuyển biến và nâng cao
nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật bảo vệ môi trường. Tình trạng
ô nhiễm môi trường ở Việt Nam tuy nghiêm trọng nhưng vẫn còn có
thể cứu vãn nếu mỗi người dân biết góp sức của mình, chung tay bảo
vệ môi trường. Hãy hô vang khẩu hiệu "Vì môi trường xanh - sạch -
đẹp" và cũng là vì cuộc sống của chính chúng ta cũng như các thế hệ
sau.
Tác giả: Nguyễn Thị Hảo. Nguồn: Tạp chí VHNT số 443, tháng 11-
2020(http://vanhoanghethuat.vn/moi-quan-he-giua-con-nguoi-tu-
nhien-va-van-de-phat-trien-ben-vung-nhin-tu-quan-diem-cua-triet-
hoc-mac.htm).
Theo website thông tin tổng hợp: cusc.edu.vn(https://cusc.edu.vn/o-
nhiem-tieng-on-o-viet-nam/)10/10/2021.
| 1/9

Preview text:

Nội dung
2.2.2 Quan điểm của triết học Mác-Lênin về mối quan hệ con người và tự nhiên
Con người là một thực thể tự nhiên - xã hội
Con người, trong quan niệm của triết học Mác là một thực thể tự
nhiên tồn tại trong mối liên hệ và tác động qua lại khăng khít với các
vật thể tự nhiên khác. Con người tồn tại là một sinh vật sống, với
những đặc tính vốn có của loài, có các hoạt động nhằm phục vụ nhu
cầu sống của mình và trong quá trình đó, con người cũng chịu tác
động của môi trường xung quanh (bao gồm môi trường tự nhiên và
môi trường giữa con người với con người). C.Mác viết: “Con người là
thực thể nhục thể, có những lực lượng tự nhiên, sinh động, hiện thực,
cảm tính, đối tượng hóa, điều đó có nghĩa là con người có những đối
tượng hiện thực, cảm tính làm đối tượng của bản chất của mình, của
biểu đời sống của mình, hoặc con người chỉ có thể biểu hiện đời sống
của mình dựa trên những đối tượng hiện thực, cảm tính. Có tính chất
đối tượng, tự nhiên, cảm tính, điều đó cũng tức là có đối tượng tự
nhiên, cảm giác ở bên ngoài mình hoặc bản thân mình là đối tượng, tự
nhiên, cảm giác đối với một thực thể thứ ba nào đó”.
Hơn thế nữa, khi xem xét mối quan hệ giữa con người và tự nhiên,
Mác luôn đặt con người trong mối quan hệ với tự nhiên thông qua lao
động, sản xuất. Bởi, con người được sinh ra từ tự nhiên, thông qua
quá trình tiến hóa từ vượn thành người, cho nên, con người cũng
chính là một bộ phận của tự nhiên. Nhưng, con người không chỉ dừng
lại là thực thể tự nhiên, mà điểm khác biệt khiến con người vượt xa
các loài động vật khác ở chỗ, bộ não của con người hoạt động có ý
thức, khiến con người trở thành một thực thể mang tính người riêng
biệt. C.Mác nhấn mạnh: “Con người không phải chỉ là thực thể tự
nhiên, nó là thực thể tự nhiên có tính chất người, tức là thực thể tồn
tại cho bản thân mình và do đó là thực thể loài. Nó phải biểu hiện và
tự khẳng định như là thực thể loài tồn tại của nó cũng như trong tri thức của nó”.
Chính trong hoạt động lao động, sản xuất, con người đã biểu hiện
tính đặc thù của mình, đó là tác động tác động vào tự nhiên một cách
có ý thức, biến tự nhiên tồn tại khách quan chuyển hóa vào lao động
của con người. C.Mác cho rằng, “đối với con người thì ruộng đất tồn
tại chỉ nhờ có lao động, canh tác. Do đó, bản chất khách quan của của
cải đã chuyển vào lao động”. Cho nên, có thể nói, lịch sử nhân loại
cũng bắt đầu chính từ hoạt động sản xuất vật chất của con người.
Nhưng, sự khác nhau căn bản giữa con người và con vật là ở chỗ,
con vật thích nghi với tự nhiên, với các điều kiện tồn tại của nó, còn
con người biết cải tạo tự nhiên cho phù hợp với mục đích mà họ đặt
ra. Và chính lao động có ý thức giúp con người tạo ra được sự khác
biệt đó. Các ông cho rằng: “Con người càng cách xa con vật, hiểu
theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình
làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu; ảnh hưởng của
những hậu quả không dự kiến trước, của những lực lượng không kiểm
soát được, đối với lịch sử đó, lại càng ít đi bấy nhiêu thì kết quả lịch
sử lại càng phù hợp một cách chính xác hơn bấy nhiêu với mục đích đã xác định trước”.
Trong mối quan hệ xã hội giữa người với người, chính hai mặt tự
nhiên và xã hội cùng tồn tại làm nên điểm khác biệt của con người so
với các loài động vật khác. Hai mặt đó không tồn tại riêng biệt, tách
rời nhau, mà chúng thống nhất với nhau. Con người nếu tách ra khỏi
tự nhiên, hay xã hội thì đều không thể tồn tại đúng là con người được.
Ngay đến bản chất tự nhiên của con người cũng chỉ có thể bộc lộ ra
khi họ sống trong một môi trường xã hội, thực hiện các hoạt động
giao tiếp xã hội. Điều này được nhà triết học Mác khẳng định: “Bản
chất con người tự nhiên chỉ tồn tại đối với con người xã hội; vì chỉ có
trong xã hội, tự nhiên đối với con người mới là một cái khâu liên hệ
con người với con người, mới là tồn tại của con người đối với người
khác và tồn tại của người khác đối với người đó mới là nhân tố sinh
hoạt của hiện thực con người; chỉ có trong xã hội, tự nhiên mới biểu
hiện ra là cơ sở của tồn tại có tính chất người của bản thân con
người”. Như vậy, ngay cả mặt tự nhiên của con người cũng tồn tại
trong xã hội và được thể hiện ngay trong chính hoạt động xã hội của con người.
Tác động qua lại giữa con người và tự nhiên
Con người xuất hiện là sự trải qua quá trình tiến hóa lâu dài. Trong
quá trình đó, lao động xuất hiện để phục vụ con người từ những nhu
cầu đầu tiên, đơn giản về vật chất cho đến các nhu cầu về tinh thần, xã
hội khác. Như vậy, chính thông qua lao động mà bản năng của con
người đã được cải tạo dần, cùng với đó, ý thức cũng ngày càng hoàn thiện hơn.
Triết học Mác đã nghiên cứu bản chất của con người trong chính
hoạt động xã hội của họ. Từ đó, các ông chỉ ra rằng, con vật tự đồng
nhất nó một cách trực tiếp với hoạt động sinh sống của nó, không
phân biệt nó với hoạt động sinh sống của nó; còn con người biết biến
bản thân hoạt động sinh sống của mình thành thành đối tượng của ý
thức của mình. Con người tồn tại hiện thực với phương thức hoạt
động đặc thù, đó là hoạt động lao động, sản xuất. Nhờ sự chuyển giao
giữa các thế hệ như vậy, mà con người đã hình thành nên những mối
liên hệ “lịch sử loài người”. Như C.Mác phân tích: “xã hội… là sản
phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người” và “lịch sử của
xã hội con người luôn chỉ là lịch sử cho sự phát triển của cá nhân của những con người”.
Con người là “tổng hòa các quan hệ xã hội”, nhưng con người
không phải là một hệ thống khép kín, mà con người có vai trò tích cực
trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Chính thông
qua quá trình thực hiện vai trò sáng tạo của mình, bản chất của con
người được thể hiện ra và thường xuyên có sự vận động, phát triển
cùng sự vận động, phát triển của xã hội. C.Mác nhấn mạnh: “tính chất
xã hội là cái vốn có của toàn bộ sự vận động; bản thân xã hội sản xuất
ra con người với tính cách là con người như thế nào thì nó cũng sản
xuất ra xã hội như thế. Hoạt động và sự hưởng dụng những thành quả
của hoạt động, xét theo nội dung của nó cũng như xét theo phương
diện tồn tại, đều mang tính chất xã hội; hoạt động xã hội và hưởng dụng xã hội”.
Thông qua quá trình con người tác động vào tự nhiên, tự nhiên sẽ
tác động trở lại con người. Đó không phải là sự tác động một chiều,
mà là sự tác động qua lại. Con người lao động tạo ra của cải nuôi sống
bản thân mình và xã hội. Sản xuất vật chất là đặc trưng chỉ có ở con
người, góp phần thúc đẩy trình độ phát triển xã hội. C.Mác khẳng
định rằng, không ai khác chính con người làm nên lịch sử của mình.
Do vậy, “lịch sử xã hội của con người luôn chỉ là lịch sử của sự phát
triển cá nhân của những con người”. Thông qua quá trình hoạt động
thực tiễn, con người tác động vào tự nhiên, xã hội và để lại những dấu
ấn của bản thân mình vào giới tự nhiên cũng như đối với xã hội và
con người từng bước phát triển bản thân mình mỗi ngày. Do vậy, tự
nhiên ban đầu tưởng như chỉ là cái tồn tại bên ngoài con người, là môi
trường cho con người sống và hoạt động, sau đó đã trở thành kết quả
trong hoạt động mang tính lịch sử của con người. Nhờ sự tương tác
qua lại giữa con người và tự nhiên, mà con người đã có được những
thứ cần thiết phục vụ nhu cầu của mình, không chỉ về nhu cầu vật
chất, mà cả nhu cầu tinh thần.
3.1.5 Hiện trạng ô nhiễm tiếng ồn
Ô nhiễm tiếng ồn (Tiếng Anh là: Noise pollution hoặc noise
disturbance) là tiếng ồn trong môi trường vượt qua một ngưỡng cụ
thể, gây ra sự khó chịu cho người hoặc động vật. Nhiều quốc gia,
nguồn gây ô nhiễm âm thanh chủ yếu từ tiếng ồn bên ngoài như giao
thông, vận tải, xe cơ giới, xe lửa và máy bay.
Nguyên nhân gây ra ô nhiễm tiếng ồn
Quy hoạch đô thị kém có thể tạo ra ô nhiễm tiếng ồn, vì cùng với
các tòa nhà công nghiệp và khu dân cư có thể dẫn đến ô nhiễm tiếng
ồn trong khu dân cư. Nguồn gốc ô nhiễm tiếng ồn đô thị xuất phát từ thời Rome xa xưa.
Tiếng ồn ngoài trời có thể được tạo ra bởi hiệu suất của máy móc,
xây dựng công trình hoặc từ những buổi diễn âm nhạc, đặc biệt là ở
những nơi làm việc nhất định.
Chung quy lại gồm có ba nguyên nhân chính dẫn đến ô nhiễm
tiếng ồn đó là: hoạt động công nghiệp – Dịch vụ; Hoạt động giao
thông và Hoạt động sinh hoạt của con người.
Phân loại cấp độ ô nhiễm tiếng ồn
Âm thanh được đo bằng decibel (dB). Lên khoảng 76 dB bắt đầu
có ngưỡng âm thanh khó chịu. Ngưỡng nghe bên trong giới hạn chịu
đựng của con người là khoảng 110 dB. Tiếng ồn phát ra từ đường cao
tốc vào giờ cao điểm và khoảng cách 15m là từ 76 dB.
Một chiếc xe chạy trên đường phố với tốc độ 105km/h, âm thanh
cách đó 8m là ở mức 77 dB.
Một chiếc xe tải chạy bằng diesel bao gồm tốc độ 65 km/h. Âm
thanh thu được cách 15m là 88 dB.
Máy bay cao hơn 300m so với mặt đất phát ra âm thanh 88 dB.
Động cơ máy cắt cỏ tạo ra một tiếng ồn 96 dB.
Máy bay chiến đấu 737 hoặc DC-9 ở độ cao 1.853m hạ cánh với âm thanh 97 dB.
Tiếng ồn từ màn trình diễn nhạc rock trong khoảng từ 108 đến 114 dB.
Thực trạng ô nhiễm tiếng ồn ở nước ta
Ở Việt Nam, dựa trên các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia về tiếng ồn,
đối với các khu vực cụ thể (khu vực từ hàng rào của trung tâm chăm
sóc sức khỏe, thư viện, nhà trẻ, trường học, nhà thờ, đền thờ, chùa
chiền và khu vực có các quy tắc cụ thể khác), âm thanh được cho
phép từ 6 đến 21h là 55dB, từ 21h đến 6h sáng khác là 45dB.
Đối với các khu vực thông thường (tòa nhà chung cư, nhà trong hẻm,
khu nghỉ dưỡng, nhà nghỉ, văn phòng hành chính…), từ 6:00 đến
21:00 là 70dB, từ 21:00 đến 6:00 sáng là 55dB. Tuy nhiên, trong thực
tế, chúng ta phải sống với âm thanh vượt quá mức cho phép một cách thường xuyên.
PGS. Tiến sĩ Nguyễn Đình Tuấn, nguyên Hiệu trưởng Trường Cao
đẳng TN & MT Hồ Chí Minh tuyên bố rằng 1 trong 3 nguồn tiếng ồn
ở đô thị là công nghiệp, giao thông, xây dựng – dịch vụ, ô nhiễm tiếng
ồn giao thông là nặng nhất. Tiến hành đo mức độ ô nhiễm tiếng ồn
mới thấy trên một số con đường tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vượt
quá mức cho phép nhiều lần.
Bạn sẽ tìm thấy khá nhiều nơi có mức độ ô nhiễm tiếng ồn cao
trong TP. Hồ Chí Minh, như các ngã tư ở vòng xuyến Hàng Xanh,
Đinh Tiên Hoàng – Điện Biên Phủ, ngã sáu Gò Vấp, ngã tư An
Sương, ngã tư Huỳnh Tấn Phát – Nguyễn Văn Linh và các trục đường
chính trong vài giờ cao điểm. Ngay cả khi đêm muộn, nói cách khác,
từ 11:00 đến 6:00 sáng, mức âm thanh đo được vẫn nằm không nằm trong giới hạn cho phép.
Trước đây, tại TP.HCM đã có đường dây nóng về quản lý tiếng ồn
đô thị nhưng ở Hà Nội chưa có cách thức nào để người dân lên tiếng
khi tiếng ồn bủa vây họ ở mọi ngóc ngách, bất cứ thời gian nào trong
ngày. Ô nhiễm tiếng ồn được xếp vào dạng ô nhiễm nguy hại thứ hại,
chỉ sau ô nhiễm không khí. Vì vậy, những quy định nghiêm khắc là
cần thiết để đảm bảo môi trường sống an toàn cho người dân đô thị.
Trở lại Hà Nội, kết quả nghiên cứu và phân tích của Viện Sức
khỏe nghề nghiệp và Môi trường tại 12 đường phố và ngã tư chính tại
Hà Nội cho thấy âm thanh ban ngày trung bình là 77,8 ~ 78,1 dBA.,
vượt quá tiêu chuẩn cho phép từ 7.8 đến 8.1 dBA. Âm thanh tương
đương trong đêm là 65,3 – 75,7 dBA, vượt qua tiêu chuẩn trong số 10-20 dBA.
Máy bay cũng là một nguồn gây ô nhiễm không thể bỏ qua. Lúc
máy bay cất cánh hoặc hạ cánh là lúc mà các hộ dân sống gần sân bay
phải chịu một tần số âm thanh rất lớn.
Hiện nay, số lượng phương tiện tham gia giao thông đang ngày
càng tăng với mức độ chóng mặt, mật độ xe lưu thông trên đường phố
ngày càng lớn, gây nên ô nhiễm về tiếng ồn do tiếng của động
cơ, tiếng còi cũng như tiếng phanh xe.
Ở Việt Nam, hình thức phương tiện tham gia giao thông đều rất khó
kiểm soát cùng với lượng phương tiện kém chất lượng lưu thông trên
đường phố khá nhiều đã tạo nên sự ô nhiễm về tiếng ồn đáng kể.
Tác hại của ô nhiễm tiếng ồn
Mức tiếng ồn cao có thể thúc đẩy các bệnh tim mạch ở người như
bệnh động mạch vành. Ở một số động vật, tiếng ồn quá mức có thể
làm tăng xác suất tử vong bằng cách thay đổi động vật ăn thịt, cản trở
việc phát hiện ra con mồi, các vấn đề sinh sản và có thể dẫn đến mất thính giác vĩnh viễn.
Theo phó giáo sư Đoàn Ngọc Hải, ô nhiễm tiếng ồn là nguyên
nhân quan trọng nhất dẫn đến hậu quả sức khỏe sau này. Tiếng ồn ảnh
hưởng đến các cá nhân trong ba khía cạnh: Che mất âm thanh cần
nghe khiến cho phản xạ tự nhiện giảm sút; Gây rối loạn hệ thần kinh
và thính giác, gián tiếp gây ra bệnh tim mạch; tiếp xúc lâu dài với ô
nhiễm tiếng ồn cao góp phần gây ra chứng mất trí nhớ và điếc không hồi phục.
Đối với trẻ em, ô nhiễm tiếng ồn làm trẻ mất tập trung, ảnh hưởng
đến hiệu quả của việc học từ ngữ ngay trong những năm đầu đời.
Mỗi tác động này góp phần ảnh hưởng tới biểu hiện xấu về tinh thần,
thể xác, hành vi, ảnh hưởng đến hiệu quả lao động, đặc biệt là đối với người dân thành thị.
Tiếng ồn được xem là một kiểu Ô nhiễm. Vấn nạn này làm cho
không gian sống trở nên ngột ngạt, khó chịu, mất đi sự trong lành
đáng có. Con người và sinh vật cần được sống trong một hệ sinh thái
an toàn và thoải mái để được đảm bảo có được sự phát triển tốt nhất.
Ô nhiễm tiếng ồn sẽ làm biến đổi tiêu cực tâm lý con người và các mối quan hệ xã hội.
Biện pháp giảm ô nhiễm tiếng ồn
Ô nhiễm tiếng ồn ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe mỗi người dân.
Do đó, cần phải có những biện pháp thiết thực để giảm tiếng ồn. Hơn
nữa, ý thức của mỗi người cần phải được nâng cao hơn nữa, tránh tạo
ra tiếng ồn không cần thiết, ảnh hưởng đến bản thân và những người xung quanh.
Ở Việt Nam, theo các chuyên gia về môi trường và sức khỏe, điều
quan trọng là phải phân biệt rõ ràng các loại nguồn tiếng ồn để lập kế
hoạch và loại trừ các nguồn âm thanh không phù hợp, cụ thể là loại
phù hợp không vượt quá mức độ quy định; Loại vượt quá mức quy
định nhưng có thể xử lý trong việc khắc phục; Loại vượt quá quy định
và không thể khắc phục; loại không được phép phát ra ở các địa điểm
đô thị. Nên sử dụng các vật liệu cách âm, xây dựng tường cách âm và
các biện pháp cần thiết trong quá trình xây dựng nhà cửa, nhà máy.
Hạn chế ở lâu trong trong môi trường có độ ồn quá cao vượt ngưỡng
an toàn. Trong quá trình làm việc cần có những biện pháp bảo hộ
nhằm tránh sự tiếp xúc trực tiếp giữa tai và độ ồn xung quanh. Sử
dụng các thiết bị bảo hộ cá nhân và có chế độ lao động và nghỉ ngơi hợp lý.
3.4.2 Giải pháp khắc phục ô nhiễm môi trường
Trước những thực trạng ô nhiễm môi trường nêu trên, người dân
nâng cao ý thức về bảo vệ môi trường, vứt rác đúng nơi quy định,
không xả rác bừa bãi. Giáo dục, nâng cao nhận thức cho các bé về bảo
vệ môi trường. Ngoài ra, nên hạn chế sử dụng các hóa chất tẩy rửa khi
xử lý nghẹt cống thoát nước, vì như thế sẽ vô tình đưa vào môi trường
một chất thải nguy hại mới, đồng thời cũng làm nguồn nước bị nhiễm
độc. Thay vào đó, hãy áp dụng cách xử lý ống thoát nước bị tắc bằng
các chế phẩm sinh học như men vi sinh thân thiện với môi trường.
Song song, Nhà nước tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo
vệ môi trường, trong đó có những chế tài xử phạt phải thực sự mạnh
để đủ sức răn đe các đối tượng vi phạm. Cần xây dựng đồng bộ hệ
thống quản lý môi trường trong các nhà máy, các khu công nghiệp
theo các tiêu chuẩn quốc tế. Tổ chức giám sát chặc chẽ nhằm hướng
tới một môi trường tốt đẹp hơn.
Tại các khu du lịch, khu đông dân cư, tuyến đường lớn,... nên bổ
sung thêm nhiều thùng rác và các nhà vệ sinh công cộng, tránh tình
trạng người dân phóng uế mất vệ sinh hoặc vứt rác ra đường gây
nghẹt cống thoát nước.
Sử dụng nguồn năng lượng sạch: Nguồn năng lượng sạch có thể là
gió, ánh nắng mặt trời...Đây là những nguồn năng lượng có thể tái tạo
và sử dụng bất cứ lúc nào. Những năng lượng sạch này khi sử dụng sẽ
không phát sinh khí thải gây các hiện tượng như hiệu ứng nhà kính, ô
nhiễm môi trường sống. Bên cạch việc sử dụng nguồn năng lượng mặt
trời sẽ tiết kiệm nguồn điện. Hiện nay có đến 90% người dân Việt khi
sử dụng các đồ dùng điện thì đều có thói quen để quên phích cắm
trong ổ điện. Hành động này vô tình gây lãng phí một lượng điện
năng tương đối lớn. Vì trong đế độ chờ các thiết bị cũng tiêu hao một
lượng điện năng để duy trì hoạt động của thiết bị. Do đó tốt hơn hết
bạn nên rút phích cắm ra khỏi ổ hoặc tắt nguồn tất cả các thiết bị điện khi không sử dụng.
Cây xanh là nguồn cung cấp khí oxy cho bầu không khí, con
người. Nó còn hấp thụ khí cacbon, giảm xói mòn, sạt lở đất chống bão
lũ hiệu quả. Vì vậy nên trồng nhiều cây xanh xung quanh nơi bạn sinh
sống để được tận hưởng những bầu không khí trong lành, tốt nhất. Và
nên giữ gìn không nên chặt phá, khai thác một cách bừa bãi. Bên cạnh
đó chúng ta cần chung tay giảm sử dụng túi nylon và tăng cường tái
chế các sản phẩm qua sử dụng.
Tăng cường công tác nắm tình hình, thanh tra, giám sát về môi
trường. Nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ
phụ trách công tác môi trường và trang bị các phương tiện kỹ thuật
hiện đại để phục vụ có hiệu quả cho các lực lượng này.
Cuối cùng, phải đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục
về môi trường trong toàn xã hội tạo ra sự chuyển biến và nâng cao
nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật bảo vệ môi trường. Tình trạng
ô nhiễm môi trường ở Việt Nam tuy nghiêm trọng nhưng vẫn còn có
thể cứu vãn nếu mỗi người dân biết góp sức của mình, chung tay bảo
vệ môi trường. Hãy hô vang khẩu hiệu "Vì môi trường xanh - sạch -
đẹp" và cũng là vì cuộc sống của chính chúng ta cũng như các thế hệ sau.
Tác giả: Nguyễn Thị Hảo. Nguồn: Tạp chí VHNT số 443, tháng 11-
2020(http://vanhoanghethuat.vn/moi-quan-he-giua-con-nguoi-tu-
nhien-va-van-de-phat-trien-ben-vung-nhin-tu-quan-diem-cua-triet- hoc-mac.htm).
Theo website thông tin tổng hợp: cusc.edu.vn(https://cusc.edu.vn/o-
nhiem-tieng-on-o-viet-nam/)10/10/2021.