Tiểu luận tư tưởng HCM về độc lập dân tộc - Tư tưởng Hồ Chí Minh | Trường Đại Học Duy Tân
Độc lập dân tộc không chỉ là khát vọng của Việt Nam mà còn là ước mơ chung của toàn nhân loại. Hồ Chí Minh đã học hỏi và vận dụng bài học từ Cách mạng tháng Mười Nga để thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc tại Việt Nam. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (POS 361)
Trường: Đại học Duy Tân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Đại Học Duy Tân
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI:TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ
VẬN DỤNG TRONG XÂY DỰNG, BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM HIỆN NAY
Nhóm sinh viên thực hiện : -Nguyễn Đức Anh-27211248273 -Bùi Văn Bình-27211240478
-Huỳnh Khánh Dương-27211201612
- Phan Phùng Tấn Khải-28215000718
-Nguyễn Hoàng Nhật Minh-28215236338
-Doãn Thiên Nhân-27211201936 -Phan Văn Tấn-28215002024 Lớp : POS 361 SO
Giáo viên hướng dẫn : Hoàng Thị Kim Oanh
Đà Nẵng, ngày 20 tháng 7 năm 2023 MỤC LỤC I.MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của để tài
2.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1 Mục đích 2.2 Nhiệm vụ 1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5. Ý nghĩa lý luận và thựcc tiễn của đề tài
II.NỘI DUNGError: Reference source not found
I. Phần lý luậnError: Reference source not found
1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
1.1. Thực tiễn Việt Nam cuối thế kỷ XIX ầu thế kỷ XXError: Reference source not found
1.2. Thực tiễn thế giới cuối thế kỷ XIX ầu thế kỷ XX
1.3. Chủ nghĩa Mác-Lenin về quyền tự quyết của các dân tộc
2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về ộc lập dân tộc
2.1. Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của các dân tộc
2.2. Độc lập dân tộc phải gắn với tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân
2.3. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để. Độc lập dân tộc
phải Error: Reference source not foundgắn liền với thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
2.4. Độc lập cho dân tộc mình, đồng thời độc lập cho tất cả dân tộc khác
3.Truyền thống tốt đẹp của dân tộc đi đôi với đó là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
3.1. Tư tưởng và văn hóa truyền thống Việt Nam
3.2. Tinh hoa của văn hóa nhân loại
3.3. Chủ nghĩa Mác-Lênin và hệ tư tưởng mới
II. Phần liên hệ thực tiễn
1. Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc 1.1. Giá trị lý luận 1.2. Giá trị thực tiễn
2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốcError: Reference source not found Việt Nam hiện nay
3. Liên hệ với bản thân sinh viên III.KẾT LUẬN IV.TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Độc lập dân tộc không chỉ là khát vọng của Việt Nam mà còn là ước mơ chung của toàn
nhân loại. Hồ Chí Minh đã học hỏi và vận dụng bài học từ Cách mạng tháng Mười Nga để
thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc tại Việt Nam. Những giá trị trong tư tưởng Hồ Chí 2
Minh về độc lập dân tộc chứa đựng những giá trị cốt lõi về xây dựng và bảo vệ quốc gia. Việc
áp dụng những nguyên tắc, phương pháp từ tư tưởng của Người giúp định hướng phát triển
bền vững, tự chủ và vững mạnh cho Việt Nam trong bối cảnh thế giới biến đổi không ngừng.
Bởi vậy, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc để vận dụng trong xây dựng,
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay là vô cùng quan trọng.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1 Mục đích
Nghiên cứu đề tài làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc đồng thời tìm hiểu, phân
tích và đề xuất những giải pháp thực tiễn về tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc trong
việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam ở hiện tại, từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển
vững mạnh của đất nước và thực hiện lý tưởng của Người về một Việt Nam độc lập, tự do và hạnh phúc. 2.2. Nhiệm vụ
Một là, chỉ ra và phân tích cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc.
Hai là, phân tích những nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc.
Ba là, làm rõ những giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc.
Phạm vi nghiên cứu: Việt Nam trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về độc lập dân tộc
Phương pháp nghiên cứu: Ngoài việc sử dụng phương pháp logic, phương pháp lịch sử và sự
kết hợp của hai phương pháp này, đề tài cũng sử dụng phương pháp phân tích văn bản kết hợp
với nghiên cứu hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa lý luận: Đề tài làm rõ những nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc cũng
như những giá trị quý báu vận dụng vào thực tiễn.
Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài khẳng ịnh giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng, bảo vệ
Tổ quốc và vận dụng vào thực tế Việt Nam hiện nay. Nội dung Phần lý luận
1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
1.1 Thực tiễn Việt Nam cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX:
Từ năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Triều đình nhà Nguyễn kí 4 bản
hiệp ước, trong đó có 2 bản hiệp ước cuối cùng: hiệp ước Héc-măng năm 1883 Việt Nam trở 3
thành “thuộc địa và bảo hộ” của Pháp và hiệp ước Pa-tơ-nốt năm 1884, Nhà Nguyễn trở thành
tay sai của thực dân Pháp, Việt Nam chính thức mất độc lập tự do, thay vào đó là chế độ nửa
thuộc địa nửa phong kiến kéo dài đến Cách Mạng tháng Tám năm 1945.
Năm 1925: bản án chế độ thực dân Pháp, Hồ Chí Minh chỉ ra 3 điều nổi bật:Thuế khóa
phong kiến, địa tô; Việc đầu độc người bản xứ bằng thuốc phiện, rượu, thuốc lá…chính sách
giáo dục; Việt Nam là kho nhân công lớn. Tồn tại song song 2 thể chế chính trị:
Nhà nước: duy trì phong kiến (chuyên chế): về kinh tế, duy trì nền kinh tế nông nghiệp lạc
hậu với khoảng 95% dân số là nông dân với mục đích kìm hãm sự phát triển kinh tế của nước
ta; về chính trị, dùng người Việt trị người Việt; về văn hóa xã hội, người dân đối với nhà nước
phong kiến từ xưa đến nay đều có tính thần phục, bị trị cao.
Pháp: chiếm nước ta, tăng cường thêm các điền chủ người Pháp và người nước ngoài.
Thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa Việt Nam một cách mạnh mẽ: về tài nguyên
thiên nhiên, sức lao động…3 mâu thuẫn: mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản; mâu thuẫn giữa
phong kiến và nông dân; mâu thuẫn giữa thực dân Pháp và toàn thể nhân dân Việt Nam
Trước những mâu thuẫn trên cùng với sự ảnh hưởng của các cuộc cải cải cách, của cách
mạng dân chủ tư sản ở Trung Quốc, Nhật Bản, ở Việt Nam xuất hiện các phong trào yêu nước
theo khuynh hướng dân chủ tư sản nhưng nhìn chung đều thất bại. Nguyên nhân sâu xa là giai
cấp tư sản Việt Nam còn non yếu. Nguyên nhân trực tiếp là các tổ chức và người lãnh đạo của
các phong trào chưa có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn.
Cuối thế kỷ XIX, ở Việt Nam đã có công nhân nhưng lực lượng ít ỏi. Đầu thế kỷ XX, công
nhân phát triển mạnh và trở thành một giai cấp ngay trước Chiến tranh thế giới thứ nhất
(1914-1918). Công nhân chịu 3 tầng áp bức bóc lột: thực dân, tư bản, phong kiến nên họ sớm
vùng dậy đấu tranh: từ hình thức thô sơ như đốt lán trại, bỏ trốn tập thể, họ đã nhanh chóng
tiến tới đình công, bãi công.
Phong trào công nhân và các phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX tạo điều kiện
thuận lợi để chủ nghĩa Mác - Lênin xâm nhập, truyền bá vào đất nước ta. Hồ Chí Minh là một
người đã dày công truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào
yêu nước Việt Nam, chuẩn bị về lý luận chính trị, tư tưởng và tổ chức, sáng lập Đảng Cộng
sản Việt Nam, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cách mạng Việt Nam đánh dấu bước
hình thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam.
1.2. Thực tiễn thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản trên thế giới đã phát triển thành Đế
quốc chủ nghĩa. Một số nước Đế quốc chi phối toàn bộ tình hình thế giớivà biến phần lớn các
nước châu Á, châu Phi, khu vực Mỹ Latinh đã trở thành thuộc địa. Tình hình đó đã làm sâu
sắc thêm mâu thuẫn vốn có trong lòng chủ nghĩa tư bản là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với
giai cấp vô sản. Những mâu thuẫn này ngày càng trở nên gay gắt vào đầu thế kỷ XX. Giành
độc lập cho các dân tộc thuộc địa không chỉ là đòi hỏi của riêng họ mà còn là mong muốn
chung của giai cấp vô sản quốc tế, điều đó đã thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc trên thế
giới phát triển. Khi sang phương Tây, Người quan tâm tìm hiểu khẩu hiệu Tự do - Bình đẳng -
Bác ái trong các cuộc cách mạng tư sản. Người đã kế thừa, phát triển những quan điểm nhân
quyền, dân quyền trong bản “Tuyên ngôn Độc lập” năm 1776 của Mỹ, bản “Tuyên ngôn 4
Nhân quyền và Dân quyền” năm 1791 của Pháp và đề xuất quan điểm về quyền mưu cầu độc
lập, tự do, hạnh phúc của các dân tộc trong thời đại ngày nay. Và chính điều này đã góp phần
hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc.
1.3. Chủ nghĩa Mác-Lenin về quyền tự quyết của các dân tộc
Lenin ủng hộ việc tách ra thành lập một quốc gia riêng biệt khi dân tộc đó bị áp bức, bóc
lột bằng các biện pháp bạo lực. Bối cảnh mà Lenin đưa ra vấn đề quyền dân tộc tự quyết là sự
áp bức dân tộc đang tràn lan, phổ biến ở cả nước Nga và trên thế giới . Bối cảnh khi Lenin
đưa ra quyền dân tộc tự quyết hoàn toàn phù hợp với thực tiễn Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX. Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lenin về quyền dân tộc tự quyết
mà tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc đã được hình thành. Nhờ đó, Hồ Chí Minh đã
giải quyết được cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước và người lãnh đạo cách mạng ở Việt Nam lúc bấy giờ.
2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
2.1. Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của các dân tộc
Bề dày lịch sử dân tộc Việt Nam gắn liền với truyền thống yêu nước, đấu tranh chống giặc
ngoại xâm. Điều đó cho thấy khát khao to lớn về một nền độc lập dân tộc, tự do cho nhân dân
của dân tộc ta. Đó cũng là một giá trị tinh thần thiêng liêng, bất hủ của dân tộc mà Hồ Chí
Minh là hiện thân cho tinh thần ấy.
Tại Hội nghị Vecxay (Pháp) năm 1919, Người đã gửi tới bản “Yêu sách của nhân dân An
Nam” với hai nội dung chính là đòi quyền bình đẳng về mặt pháp lý và đòi các quyền tự do,
dân chủ. Mặc dù không được chấp nhận nhưng qua sự kiện trên, lần đầu tiên tư tưởng Hồ Chí
Minh về quyền của các dân tộc thuộc địa mà trước hết là quyền bình đẳng tự do đã được hình thành.
Trong “Chánh cương vắn tắt của Đảng” năm 1930, Hồ Chí Minh cũng đã xác định mục
tiêu chính trị của Đảng là: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước
Nam được hoàn toàn độc lập.
Trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, Người tuyên bố trước đồng bào và thế giới rằng:
“Nước Việt nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc
lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để
giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
Trong thư gửi Liên hợp quốc năm 1946, một lần nữa Bác khẳng định: “Nhân dân chúng tôi
thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến
cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho
đất nước”. Khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược lần thứ hai, trong “Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến”, Người ra lời hiệu triệu, thể hiện quyết tâm sắt đá, bảo vệ bằng được nền độc lập
dân tộc “Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ”.
Năm 1965, đế quốc Mỹ tăng cường mở rộng chiến tranh ở Việt Nam. Trong hoàn cảnh khó
khăn, chiến tranh ác liệt, Hồ Chí Minh đã nêu lên một chân lý thời đại, một tuyên ngôn bất hủ
của các dân tộc khao khát nền độc lập, tự do trên thế giới “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. 5
2.2. Độc lập dân tộc phải gắn với tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn với tự do của nhân dân. Người viện dẫn bản
“Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” của Cách mạng Pháp (1791) “Người ta sinh ra tự do
và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” và khẳng định
dân tộc Việt Nam đương nhiên cũng phải được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Tổng khởi
nghĩa tháng Tám năm 1945 thành công, nước nhà được độc lập một lần nữa Bác khẳng định
độc lập phải gắn với tự do “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập
cũng chẳng có ý nghĩa gì”.
Bên cạnh đó, Người luôn coi, độc lập cũng phải gắn với cơm no, áo ấm và hạnh phúc của
nhân dân, như Người từng bộc bạch đầy tâm huyết: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn
tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào
ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
2.3. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để. Độc lập dân tộc
phải gắn liền với thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: độc lập mà người dân không có quyền tự quyết về ngoại giao,
không có quân đội riêng, không có nền tài chính riêng… thì độc lập đó chẳng có ý nghĩa gì.
Trên tinh thần đó và trong hoàn cảnh nước ta còn nhiều khó khăn sau Cách mạng tháng Tám,
Người đã thay mặt Chính phủ ký với đại diện Chính phủ Pháp “Hiệp định Sơ bộ” (6-3-1946),
theo đó: “Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do
có Chính phủ của mình, Nghị viện của mình, quân đội của mình, tài chính của mình”.
Sau Cách mạng tháng Tám, lợi dụng tình hình đất nước ta còn đang rối ren, thực dân Pháp
lại bày ra cái gọi là “Nam Kỳ tự trị” hòng chia cắt nước ta lần nữa. Trong hoàn cảnh đó, Bác
đã khẳng định trong “Thư gửi đồng bào Nam Bộ” (1946): “Đồng bào Nam Bộ là dân nước
Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”. Mặc dù
sau Hiệp định Gionevo (1954), nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền, Người vẫn tiếp tục
kiên trì đấu tranh thống nhất đất nước. Tháng 2-1958, Người khẳng định: “Nước Việt Nam là
một, dân tộc Việt Nam là một”. Trong “Di chúc”, Người đã thể hiện niềm tin tuyệt đối và
thắng lợi của cách mạng: “Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định
sẽ sum họp một nhà”. Có thể thấy rằng, tư tưởng trên là tư tưởng xuyên suốt trong cuộc đời
hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.
2.4. Độc lập cho dân tộc mình, đồng thời độc lập cho tất cả dân tộc khác.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 không chỉ có ý nghĩa lịch sử đối với dân
tộc Việt Nam mà còn có ý nghĩa đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Đó là sự
cổ vũ cho các quốc gia bị mất độc lập ở châu Á, châu Phi, khu vực Mỹ Latinh đấu tranh. Hồ
Chí Minh viết: “Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã làm cho chúng ta trở nên một bộ phận
trong đại gia đình dân chủ thế giới. Cách mạng Tháng Tám có ảnh hưởng trực tiếp và rất to
đến hai dân tộc bạn là Miên và Lào. Cách mạng Tháng Tám thành công, nhân dân hai nước
Miên, Lào cùng nổi lên chống đế quốc và đòi độc lập”. Điều này đã chứng minh một chân lý
của thời đại: các dân tộc bị áp bức, bị xâm lược nếu có ý chí kiên cường và đường lối đúng
đắn, sáng tạo, biết đoàn kết đấu tranh vì độc lập, tự do; đứng vững trên lập trường của giai cấp
công nhân và biết tranh thủ sức mạnh của thời đại thì dân tộc đó nhất định thắng lợi. 6
3.Truyền thống tốt đẹp của dân tộc đi đôi với đó là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
3.1. Tư tưởng và văn hóa truyền thống Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống cần cù lao động, anh dũng chiến đấu
trong dựng nước và giữ nước, truyền thống đoàn kết, sống có tình, có nghĩa, nhân ái Việt
Nam. Trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam thì chủ nghĩa yêu nước là dòng
chảy xuyên suốt lịch sử dân tộc.
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc có truyền thống lạc quan, yêu đời. Tinh thầ lạc quan đó
có cơ sở từ niềm tin vào sức mạnh của bản thân mình, tin vào sự tất thắng của chân lý, chính
nghĩa. Hồ Chí Minh là hiện thân của truyền thống lạc quan đó.là tinh thần nhân nghĩa, truyền
thống đoàn kết, tương thân, tương ái. Truyền thống này cũng hình thành cùng với sự hình
thành dân tộc, từ hoàn cảnh và nhu cầu đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên và với giặc ngoại
xâm. Bước sang thế kỷ XX, mặc dù xã hội Việt Nam đã có sự biến đổi sâu sắc về cơ cấu giai
cấp – xã hội, nhưng truyền thống này vẫn bền vững. Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát huy sức
mạnh của truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết, tương thân tương ái thể hiện tập trung trong bốn
chữ “đồng” (đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh). là tinh thần nhân nghĩa, truyền
thống đoàn kết, tương thân, tương ái. Truyền thống này cũng hình thành cùng với sự hình
thành dân tộc, từ hoàn cảnh và nhu cầu đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên và với giặc ngoại
xâm. Bước sang thế kỷ XX, mặc dù xã hội Việt Nam đã có sự biến đổi sâu sắc về cơ cấu giai
cấp – xã hội, nhưng truyền thống này vẫn bền vững. Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát huy sức
mạnh của truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết, tương thân tương ái thể hiện tập trung trong bốn
chữ “đồng” (đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh).
3.2. Tinh hoa của văn hóa nhân loại
Sự kết hợp của văn hóa phương Tây và văn hóa Phương Đông cùng với chủ nghĩa yêu
nước, Hồ Chí Minh còn chịu ảnh hưởng của văn hoá phương Đông. Người cũng đã tiếp thu và
kế thừa có phê phán tư tưởng dân chủ, nhân văn của văn hoá Phục hưng, thế kỷ Ánh sáng, của
cách mạng tư sản phương Tây và cách mạng Trung Quốc.
Trước khi đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu
tư tưởng dân chủ tư sản Pháp, Mỹ, đặc biệt là tư tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái, chủ nghĩa
Tam dân của Tôn Trung Sơn (Trung Quốc)… Người đã vận dụng và phát triển các trào lưu tư
tưởng học thuyết ấy lên một trình độ mới phù hợp với dân tộc và thời đại mới.
Như vậy, trong quá trình hình thành phát triển tư tưởng của mình, Hồ Chí Minh đã kế thừa
có chọn lọc tinh hoa văn hoá phương Đông phương Tây, nâng lên một trình độ mới trên cơ sở
phương pháp luận Mácxít – lêninnít.
3.3. Chủ nghĩa Mác-Lênin và hệ tư tưởng mới
Tác động của mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân với dân tộc và thời đại đã đưa Hồ Chí
Minh đến với Chủ nghĩa Mác – Lênin, từ người yêu tước trở thành người cộng sản. Nhờ có
thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin Hồ Chí Minh đã hấp thụ và
chuyển hóa được những nhân tố tích cực và tiến bộ của truyền thống dân tộc cũng như của tư
tưởng – văn hóa nhân loại để tạo nên hệ thống tư tưởng của mình. Vì vậy, tư tưởng Hồ Chí
Minh thuộc hệ tư tưởng Mác – Lênin, những phạm trù cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh nằm
trong những phạm trù cơ bản của lý luận mác 7
Hồ Chí Minh đã tiếp thu lý luận Mác – Lênin theo phương pháp nhận thức mácxít, cốt nắm
lấy cái tinh thần, cái bản chất chứ không tự trói buộc trong cái vỏ ngôn từ. Người vận dụng
lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác – Lênin để tự tìm ra những chủ
trương, giải pháp, đối sách phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, từng thời kỳ cụ thể của cách
mạng Việt Nam chứ không đi tìm những kết luận có sẵn trong sách vở kinh điển.Khi đi tìm
đường cứu nước, ở tuổi 20,Hồ Chí Minh đã đến nhiều nước thuộc địa và nhiều nước tư bản đế
quốc. Trong khoảng thời gian đó, Hồ Chí Minh được bổ sung thêm những nhận thức mới về
những gì ẩn dấu đằng sau các từ Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Khoảng cuối năm 1917, khi trở lại
Pari, Hồ Chí Minh đã làm quen với nhiều nhà hoạt động chính trị, xã hội của nước Pháp và
nhiều nước trên thế giới. Năm 1919, Hồ Chí Minh tham gia Đảng Xã hội Pháp (SFIO), một
đảng tiến bộ lúc bấy giờ thuộc Quốc tế II. Hồ Chí Minh đã có một vốn học vấn chắc chắn,
một năng lực trí tuệ sắc sảo. Nhờ vậy Người quan sát, phân tích, tổng kết một cách độc lập tự
chủ và sáng tạo; không rơi vào sao chép, giáo điều, rập khuôn; tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa
Mác – Lênin một cách sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của Việt Nam.
II. Phần liên hệ thực tiễn
1.Giá trị của tư tưởng HCM về độc lập dân tộc 1.1. Giá trị lí luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một hệ thống
quan điểm toàn diện và sâu sắc, phản ánh yêu cầu khách quan của lịch sử, đáp ứng nguyện
vọng độc lập, tự do của quần chúng nhân dân, phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của thời
đại. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn với tự do, dân chủ, ấm no
hạnh phúc của nhân dân lao động.Hồ Chí Minh khẳng định: “độc lập, tự do là quyền thiêng
liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới và là khát vọng lớn nhất
của dân tộc Việt Nam”. Đó là một tư tưởng hết sức đúng đắn, không chỉ với đương thời mà
còn có giá trị lý luận và thực tiễn cho các thế hệ sau này. Tư tưởng này đã trở thành nguồn
cảm hứng cho cuộc đấu tranh giành độc lập cho Việt Nam và các nước thuộc địa khác trên thế giới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc đã bổ sung và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lenin phù hợp với thực tế Việt Nam. “Học chủ nghĩa Mác-Lênin không phải nhắc
như con vẹt “Vô sản thế giới liên hiệp lại” mà phải thống nhất chủ nghĩa Mác-Lênin với thực
tiễn cách mạng Việt Nam. Nói đến chủ nghĩa Mác-Lênin ở Việt Nam là nói đến chủ trương
chính sách của Đảng... Chủ nghĩa Mác-Lênin không phải ở đâu người ta cũng làm cộng sản,
cũng làm Xô-viết”. Nếu thấy người ta làm thế nào mình cũng bắt chước một mực làm theo thế
ấy, thì đó vừa là lý luận suông, vô ích, vừa chưa biết khéo lợi dụng kinh nghiệm: “Nghe người
ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà không xét hoàn cảnh
nước mình như thế nào để làm cho đúng”[3]. Điều này đã khẳng định rõ lí do vì sao dân tộc
Việt Nam trước hết phải giành được độc lập dân tộc chứ không phải giai cấp cách mạng như
Cách mạng tháng Mười Nga (1917) hay Cách mạng Pháp (1789).
1.2.Giá trị thực tiễn 8
Hồ Chí Minh đã đặt giá trị thực tiễn của tư tưởng về độc lập dân tộc trong bối cảnh lịch sử
Việt Nam. Với ông, độc lập dân tộc bao hàm trong đó cả nội dung dân tộc và dân chủ. Đó là
nền độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn, chứ không phải là thứ độc lập giả hiệu, độc lập nửa
vời, độc lập hình thức. Tư tưởng này đã trở thành một trong những giá trị cốt lõi của cách
mạng Việt Nam và được thể hiện rõ trong các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc đã được vận dụng trong thực tiễn cách
mạng Việt Nam thành công. Các cuộc đấu tranh từ khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược
nước ta đến trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đều thất bại. Nhưng kể từ khi Đảng ra
đời và lãnh đạo, cách mạng dù khó khăn nhưng cuối cùng vẫn đi đến thắng lợi. Và thắng lợi
của chín năm kháng chiến chống Pháp, 30 năm kháng chiến chống Mỹ là minh chứng hùng
hồn cho tính đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc. Chính vì vậy, tư tưởng
Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc là giá trị lịch sử trường tồn của dân tộc ta, là tài sản quý báu
trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc và cả thời bình trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới đã để lại
nhiều tư tưởng có giá trị to lớn đến ngày nay, trong đó có tư tưởng về đô †c lâ †p dân tô †c. Độc lập
dân tộc một giá trị thiêng liêng, được bảo vệ và giữ gìn bởi máu xương, sức lực của rất nhiều
thế hệ người Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng của sự
nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là nguồn động viên
đối với các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đô †c lâ †p dân tô †c
gồm mô †t số nô †i dung sau: Người nói
rằng: Cái mà tôi cần nhất trên đời là đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập. Năm
1919, nhân dịp các nước đồng minh thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất họp Hội
Nghị ở Vécxây (Pháp), thay mặt những người Việt Nam yêu nước, Hồ Chí Minh đã gửi tới Hội nghị bản
, bao gồm 8 điểm với hai nội dung chính là đòi
quyền bình đẳng về mặt pháp lý và đòi các quyền tự do, dân chủ của người dân Đông Dương. Trong
năm 1945, thay mặt Chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh trịnh trọng
tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do
và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem
tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Ý
chí và quyết tâm trên còn được thể hiện trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ
giành được thắng lợi, đất nước được hòa bình, thống nhất. rong
suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh, Người luôn coi gắn liền với tự
do, cơm no, áo ấm cho Nhân dân, như Người từng bộc bạch đầy tâm huyết: “Tôi chỉ có một 9
sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn
toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. heo Hồ Chí Minh, độc
lập dân tộc phải là độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để trên tất cả các lĩnh vực. Người nhấn
mạnh: Độc lập mà người dân không có quyền tự quyết về ngoại giao, không có quân đội
riêng, không có nền tài chính riêng…, thì độc lập đó chẳng có ý nghĩa gì. Trên tinh thần đó và
trong hoàn cảnh đất nước ta sau Cách mạng Tháng Tám còn gặp nhiều khó khăn, nhất là nạn
thù trong giặc ngoài bao vây tứ phía, để bảo vệ nền độc lập mới giành được, Người đã thay
mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sử dụng nhiều biện pháp, trong đó có biện pháp
ngoại giao, để đảm bảo nền độc lập thực sự của đất nước.
trong lịch sử đấu tranh giành
độc lập dân tộc, dân tộc ta luôn đứng trước âm mưu chia cắt đất nước của kẻ thù. Tháng
02/1958, Người khẳng định: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”. Trong
, Người cũng đã thể hiện niềm tin tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng, sự thống
nhất nước nhà: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, Nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng
lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng
bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”. Có thể khẳng định rằng: Tư tưởng độc lập dân
tộc gắn với thống nhất Tổ quốc, toàn vẹn lãnh thổ là tư tưởng xuyên suốt trong cuộc đời hoạt
động cách mạng của Hồ Chí Minh.
Bảo vệ Tổ quốc không phải chỉ khi chiến tranh xảy ra mà cần phải chuẩn bị nghiêm túc
trong thời bình, sẵn sàng giành thế chủ động bởi nguy cơ xung đột vũ trang vẫn chưa bị loại
trừ một cách triệt để, các cuộc nội chiến, tranh chấp lãnh thổ vẫn diễn ra ở nhiều khu vực (nội
chiến Syria, nội chiến Lybia). Lợi dụng ưu thế về kinh tế và kỹ thuật, nhân danh chống khủng
bố, chủ nghĩa đế quốc đã và đang thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình” can thiệp vào
công việc nội bộ các nước buộc phải đi theo trật tự mà chúng lập ra.
Bên cạnh sự xâm lược về quân sự thì một khía cạnh nữa cũng đáng lưu ý đó là văn hóa.
Thời đại công nghệ thông tin đã mở ra cơ hội giao lưu văn hóa vô cùng lớn. Nhờ có mạng
internet mà văn hóa, lịch sử nước ta được quảng bá nhiều hơn tới bạn bè quốc tế. Chúng ta tự
hào khi văn hóa Việt Nam được mang tới Triển lãm Thế giới EXPO 2020 tại Dubai, UAE với
chủ đề “Dòng chảy bất tận” và các sự kiện liên quan diễn ra vào Ngày Quốc gia Việt Nam
trong khuôn khổ chương trình. Tuy nhiên sự bùng nổ công nghệ thông tin cũng là lỗ hổng để
những kẻ phản động truyền bá nhân quyền của các nước tư bản hòng mị dân, lấy cớ nhân
quyền để kích động người dân gây mất đoàn kết dân tộc. Một số trang tin tức, báo mạng vẫn
ngang nhiên hoạt động trái phép, truyền bá những tư tưởng sai lệch về độc lập dân tộc, về xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc nhằm thu hút những người dân thiếu hiểu biết, đặc biệt là những
người dân vùng sâu vùng xa, ít được tiếp xúc với tin tức thời sự nghe theo chúng.
Để tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
hiện nay, trước hết phải phát huy năng lực và phẩm chất của mỗi người, tôn vinh những giá trị
văn hóa lịch sử và tập trung phát triển nền kinh tế đất nước, cụ thể như sau:
Một là, phát triển toàn diện con người đáp ứng yêu cầu cẩu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc trong thời kỳ hội nhập quốc tế, đó là xây dựng hệ giá trị chuẩn mực của con người 10
Việt Nam theo Nghị quyết Đại hội XII của Đảng: “... nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực
sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật”
đồng thời tạo môi trường, điều kiện để mỗi người tự rèn luyện, phấn đấu, trưởng thành. Bên
cạnh đó cũng cần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo để bồi dưỡng tri thức và dân trí cho
nhân dân nhằm đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế. Ngoài ra, gắn phát triển văn hóa với
hoàn thiện con người cũng vô cùng quan trọng, và cũng cần phải đấu tranh phê phán, đẩy lùi
cái xấu, chống các quan điểm và hành vi sai trái, tiêu cực, ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền
văn hóa và con người Việt Nam.
Hai là, tập trung giáo dục lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, truyền thống đấu
tranh kiên cường bất khuất của nhân dân ta, tuyên truyền sâu rộng về những anh hùng liệt sĩ,
những tấm gương yêu nước tiêu biểu… làm cho mỗi người tự hào về lịch sử dân tộc. Điều
này cần diễn ra hàng ngày trong gia đình, nhà trường và xã hội. Xây dựng những chuẩn mực
đạo đức và rèn luyện thông qua hoạt động thực tiễn để mỗi người có khả năng tích cực đấu
tranh với âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Ba là, cần đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống về mọi mặt cho nhân
dân, củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc bởi không thể có độc lập tự do về
chính trị nếu bị lệ thuộc về kinh tế. Vì thế, cần phát triển kinh tế trên cơ sở khai thác hợp lý
các nguồn lực sẵn có và tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi để gia tăng thêm các nguồn
lực phát triển kinh tế. Huy động mọi nguồn lực xóa đói, giảm nghèo và phát triển kinh tế ở các vùng sâu, vùng xa.
Hiê †n nay, nước ta đang sống trong thời kỳ hòa bình nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh về đô †c
lâ †p dân tô †c vẫn giữ nguyên giá trị to lớn. Trong thời kỳ công nghiê †p hóa, hiê †n đại hóa, phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hô †i chủ nghĩa thì nô †i dung của đô †c lâ †p dân tô †c
được thể hiê †n là xây dựng được nền kinh tế đô †c lâ †p, tự chủ, không phụ thuô †c vào quốc gia
khác; đảm bảo được cuô †c sống ấm no, hạnh phúc cho Nhân dân; giữ vững được lãnh thổ và
chủ quyền biển đảo của quốc gia; chống lại các thế lực thù địch, phá tan các âm mưu chia rẽ
của chúng… Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, Nhân dân Việt Nam thu được nhiều thành
tựu vĩ đại trong cách mạng dân tộc dân chủ Nhân dân, trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ
quốc và trong sự nghiệp đổi mới.
Như vâ †y, tư tưởng Hồ Chí Minh về đô †c lâ †p dân tô †c vẫn giữ nguyên giá trị đến ngày nay và
cả mai sau. Mỗi cấp, ngành và địa phương, mọi lực lượng và Nhân dân cả nước nói chung cần
tin tưởng tuyệt đối vào mục tiêu đô †c lâ †p dân tô †c, nêu cao tinh thần cảnh giác, chủ động ứng
phó có hiệu quả với mọi tình huống, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hô †i chủ nghĩa.
3. Liên hệ với sinh viên
Theo tôi nghĩ tư tưởng của Hồ Chí Minh về độc lập xã hội liên quan đến chủ nghĩa xã hội
là ý kiến đúng đắn và nó nằm trên con đường cách mạng của cả nước Việt Nam.
Thành công hai cuộc kháng chiến bảo vệ quyền trí tuệ và quyền bình đẳng dân tộc. Kết quả
là chúng ta đã giành được độc lập dân tộc.
Hiện nay có một số cá nhân, tổ chức do nhận thức sai lệch về độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội đã luôn mặc nhiên chống phá Nhà nước ta. 11
Bản thân tôi luôn phải học tập và rèn luyện thật tốt để trở thành một công dân tốt sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc.
Xã hội gắn liền với những quan niệm đúng đắn về độc lập dân tộc: Độc lập dân tộc là mục
tiêu trực tiếp, đặc biệt là bước đệm để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa trong công cuộc đổi mới. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thực hiện được
nếu đảng và nhân dân giải quyết thành công một số vấn đề trên mọi lĩnh vực: kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội, trong và ngoài nước, luôn trung thành với con đường Hồ Chí Minh đã
vạch ra. Đảng ta nêu rõ, trong mọi tình huống phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa,
ngăn chặn và kiên quyết chống nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhận thức sai lầm về Độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội: Chủ nghĩa xã hội trên thế giới
đã có những dấu hiệu phát triển tích cực kể từ sau khủng hoảng và sụp đổ, nhiều nước
Mỹ – Latinh đã tuyên bố xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thế kỷ 21 là lý do của sự đổi mới
chủ nghĩa xã hội. Đất nước ta đã đạt được những thắng lợi, thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử … Nhưng các thế lực thù địch vẫn luôn thể hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” dẫn đến tình
trạng bất ổn dưới chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” làm lũng đoạn nền
hành chính chính trị của đất nước.
Trước những diễn biến trên, ý đồ đen tối nhằm lật đổ tư tưởng Hồ Chí Minh về toàn bộ di
sản của cách mạng nước ta và lật đổ chính quyền của nước ta. Vì vậy, điều cần thiết là chúng
ta phải vững tin vào con đường của Bác Hồ, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội trong giai đoạn cách mạng hiện nay, tiếp tục công cuộc đổi mới và công nghiệp hóa.
Bản thân tôi là một học sinh luôn tích cực học tập và rèn luyện để trở thành một công dân
tương lai luôn là người có tư tưởng chính trị vững vàng theo đường lối độc lập xã hội chủ
nghĩa của Đảng và Bác Hồ.
Luôn nỗ lực học tập, ứng dụng thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại, nâng cao năng lực để nỗ lực xây dựng đất nước. Ngoài ra,
chúng ta cần phản ứng nhanh với biển bão của thời cuộc, một năm mà chúng ta đang nắm bắt
thời cơ khi đất nước chúng ta ngày càng hội nhập, nâng cao thương hiệu quốc gia hơn.
Không ngừng phát huy phẩm chất đạo đức cách mạng, bản lĩnh chính trị vững vàng để
tránh âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch. Thực hiện tốt nhiệm vụ trở thành một con
người “vừa hồng, vừa chuyên”, nỗ lực đưa đất nước tiến lên, sánh vai cùng năm châu như Bác Hồ hằng mong muốn. KẾT LUẬN
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và vận dụng trong xây dựng, bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam hiện nay giúp làm rõ các cơ sở hình thành và nội dung cốt lõi của tư tưởng
Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc. Nó cũng đã làm nổi bật những giá trị của tư tưởng Hồ Chí
Minh mang lại trong cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc và trong quá trình xây dựng, bảo
vệ Tổ quốc hiện nay.Từ tiểu luận này, sinh viên có thể nhận thức rõ hơn về sự quan trọng và
tầm quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc đối với quốc gia. Sinh viên được 12
tập trung vào ý thức và trách nhiệm của bản thân trong việc gìn giữ và phát huy các giá trị lịch
sử. Đồng thời, tiểu luận cũng giúp sinh viên học tập và làm theo tấm gương đạo đức cao quý của Hồ Chí Minh. TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt 1.
Tài liệu học tập môn Tư tưởng Hồ Chí Minh - Học viện Ngân hàng, Khoa Lý luận chính trị 2.
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (dành cho bậc ại học không chuyên ngành Lý luận
chính trị) - Bộ Giáo dục và Đào tạo
Tài liệu trực tuyến
[1] Theo www.lyluanchinhtri.vn
Tư tưởng của VILênin về quyền dân tộc tự quyết và ý nghĩa ối với Việt Nam hiện nay
[2] Theo Đảng bộ Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh - Đảng bộ Trường ại học Kinh tế - Luật
Ý nghĩa thắng lợi lịch sử của Cách mạng tháng Tám năm 1945
[3] PGS.TS Bùi Đình Phong, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Theo Liên hiệp các
tổ chức hữu nghị Việt Nam
Hồ Chí Minh vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam
[4] Theo Trung tâm y tế thị xã Quảng Yên
Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh là không thể phủ nhận!
[5] Ban Phong trào và Tuyên giáo (sưu tầm) - Theo Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Bắc Kạn
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nhân tố con người trong xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay 13