EBOOKBKMT.COM
BẢN THỂ LUẬN TRONG TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................
NỘI DUNG.............................................................................................................
CHƯƠNG I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI NHỮNG ĐẶC ĐIỂM.....................
CỦA TRIẾT HỌC HY LẠP C ĐẠI................................................................
1.1. Điều kiện kinh tế - hội, văn hóa............................................................
1.2. Đặc điểm triết học Hy Lạp cổ đại..............................................................
CHƯƠNG II. NỘI DUNG BẢN THỂ LUẬN TRONG TRIẾT HỌC HY
LẠP CỔ ĐẠI..........................................................................................................
2.1. Trường phái Milet và phương án nhất nguyên” trong chủ nghĩa duy
vật Hy Lạp c đại...............................................................................................
2.2. Trường phái, hay liên minh Pythagore ………………………………
2.3. Từ bản thể luận đến vấn đề bản tính của thế giới. Phép biện chứng
như một trong những đặc trưng của Triết học Hy Lạp cổ đại......................
2.4 .Bản thể luận từ cách nhìn mới...................................................................
KẾT LUẬN............................................................................................................
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................
EBOOKBKMT.COM
MỞ ĐẦU
.
Vào khoảng cuối thế kỷ thứ VII đầu thế kỷ thứ VI TCN, các thị quốc
bước vào thời kỳ phát triển khá thịnh vượng. Sự phân công lao động lần thứ hai
(tách nghề thủ công ra khỏi nghề nông) xuất hiện đồng tiền kim khí đã tạo
nên những khởi sắc trong các lĩnh vực đời sống hội, đặc biệt sự hình thành
các nhóm người sống bằng lao động trí óc, biết tích hợp những tinh hoa văn hoá,
khoa học vào trong những cách ngôn, những tản văn giá trị nhận thức cao.
“Bảy nhà thông thái” được lịch sử biết đến như những người mở đường
cho một nền triết học thực sự. Trong số họ nổi bật Talet, người Aristote gọi
nhà triết học đầu tiên của Hy Lạp c đại. Với Talet triết học đã ra đời, thay thế
thần thoại và tôn giáo nguyên thuỷ, đồng thời thâu tóm các tri thức khoa học vào
trong một hệ thống mang tính khái quát cao. Triết học ra đời như sự giải quyết
mâu thuẫn giữa bức tranh thần thoại về thế giới, được xây dựng trên ởng
tượng, với nhận thức và duy mới, như sự phổ biến duy từ diện hẹp ra diện
rộng, từ tản mạn đến hệ thống. Quá trình hình thành, phát triển sự suy vong
của chế độ chiếm hữu nô lệ Hy Lạp đã được phản ánh sinh động trong các
sáng tác văn chương, nghệ thuật, triết học. Sự phân kỳ triết học Hy Lạp cách
căn cứ trên sự phát triển nội tại của triết học, hoặc căn cứ trên những thời kỳ lịch
sử, gắn với sự tồn vong của hội chiếm hữu lệ; mỗi cách đều sở hợp
nhất định.
thể nói, Triết học Hy Lạp cổ đại giai đoạn khởi đầu của Triết học
nhân loại tiền đề cho toàn bộ hệ thống triết học phương Tây sau này. Do
vậy, việc nghiên cứu đề tài nhằm tìm hiểu kho tàng lịch sử Triết học, kế thừa
phát huy những giá trị tốt đẹp của Triết học Hy Lạp cổ đại.
Bản thể luận một trong những nội dung bản của triết học luôn được
các nhà triết học đề cập đến bất luận theo quan điểm, trường phái nào. Những
quan niệm về bản thể luận thể rất khác nhau, nhưng tựu chung lại theo cách
này hay cách khác, trình đ lý luận hay chỉ những quan niệm rời rạc thì đều
EBOOKBKMT.COM
nhằm tới việc giải cho sự tồn tại hiện thực trên lát cắt cội nguồn, khởi nguyên
của nó.
Trong khuôn khổ tiểu luận này, tác giả sẽ làm nội hàm của khái niệm
“bản thể luận” dùng cách tiếp cận bản thể luận để nhìn nhận về Triết học Hy
Lạp cổ đại. Đây một trong những cách tiếp cận nh gợi mở cao, cho phép
nhìn nhận tiến trình phát triển của lịch sử triết học từ một góc độ khác cách
tiếp cận hữu dụng trong việc nghiên cứu lịch sử triết học.
EBOOKBKMT.COM
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA TRIẾT
HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1.1. Điều kiện kinh tế - hội, văn a
Hy Lạp cổ đại khác với Hy Lạo ngày nay về địa lý, bao gồm một vùng
đất đai rộng lớn: miền Nam bán đảo Bancăng thuộc Châu Âu, nhiều hoàn đảo
biển Êgiê và ven biển của bán đảo Tiểu Á. Điều kiện địa như vậy thuận lợi
cho người Hy LẠp cổ phát triển rất sớm về kinh tế - hội.
Triết học Hy Lạp hình thành vào khoảng thế kỷ thứ VI trước công nguyên
trên sở kinh tế quyền sở hữu của chủ đối với liệu sản xuất người
lệ. hội sự phân chia giai cấp, sự phân công lao động t óc lao
động chân tay. Điều này dẫn đến sự hình thành một bộ phận các tri thức triết học
khoa học, phá vỡ ý thức thần thoại tôn giáo nguyên thủy. Mặt khác, chính
lối duy có hai bản, lớp lang được thể hiện trong thần thoại Hy Lạo một
trong những yếu tố quan trọng cho việc hình thành triết học tại nơi đây.
Những nhu cầu thực tiễn của nền sản xuất thủ công nghiệp, nông nghiệp,
thương nghiệp, hàng hải đã quyết định sự hình thành phát triển những t thức
về khoa học, thiên văn toán học, k tượng, vật lý. Do thời kỳ này khoa học
chưa phân ngành cho nên các tri thức khoa học trên được trình bày trong các hệ
thống triết học. Điều đó làm cho triết học Hy Lạp cổ đại gắn liền với thực tiễn
khoa học.
1.2. Đặc điểm triết học Hy Lạp cổ đại
Ngay từ khi ra đời triết học Hy Lạp cổ đại ngay t khi ra đời đã thế giới
quan, ý thức hệ của giai cấp thống trị trong hội giai cấp chủ nô.
Triết học Hy Lạp cổ đại hòa quyện với khoa học, nhiều nhà triết học đồng
thời các nhà khoa học, bởi khi đó khoa học chưa phân ngành; các khái quát
triết học thường tập trung hướng về các vấn đề tự nhiên. Chính vậy, sau này
quan niệm cho rằng, triết học “khoa học của mọi khoa học”.
Triết học Hy Lạp cổ đại ngay từ khi ra đời đề cập tới rất nhiều vấn đề
khác nhau về thế giới quan của Hy Lạp cổ đại những trước tập trung vào các
EBOOKBKMT.COM
vấn đề: tồn tại gì” nguồn gốc của thế giới gì?... những vấn đề đó luôn
được giải quyết theo hai quan điểm hoặc duy tâm hoặc duy vật. Triết học
Hy Lạp cổ đại ngay từ khi ra đời cũng như q trình phát triển của chứa
đựng mầm móng rất nhiều thế giới quan sau này, còn mang tính trực quan,
mộc mạc, chất phát.
Ngay từ khi ra đời, triết học Hy Lạp cổ đại đã đề cập nhiều tới vấn đề
con người. Con người theo họ sản phẩm cao quý của tạo hóa, khả năng
chinh phục tự nhiên đ phục vụ cho mình; đã tưởng biện chứng đỉnh
cao là tưởng của Hê-ra-clit đây là một thành tựu quan trọng của triết học
Hy Lạp cổ đại.
II. NỘI DUNG BẢN THỂ LUẬN TRONG TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
Triết học Hy Lạp ngay t khi mới ra đời đã quan tâm đến những vấn đề
bản thể luận về thế giới. Câu hỏi “thế giới bắt đầu từ đâu quay về đâu?” trở
thành điểm xuất phát cho các cuộc tranh luận, nhưng ngay hướng đến thần
linh như trước đây đã nỗ lực truy tìm “nguyên nhân cuối cùng”, bản nguyên của
vạn vật ngay trong long vạn vật. Bản nguyên không chỉ đơn giản một thứ vật
chất như cách hiểu của vật học hay hóa học hiện đại, một cái đó làm
sở cho sự xuất hiện giới tự nhiên sự sống. Một khuynh hướng nghiên cứu
mới, nghiêm túc đã mở ra dung trí xét đoán mọi thứ. Khuynh hướng ấy xuất
phát từ xứ Ionie, nơi khai sinh ra nhiu trường phái triết học tiêu biểu của Hy Lạp cổ
đại.
2.1. Trường phái Milet và phương án “nhất nguyên” trong chủ nghĩa
duy vật Hy Lạp cổ đại.
Các nhà triết học Milet những n nhất nguyên, h xem một hành
chất nào đó bản nguyên của thế giới, cái vừa mang tính vật thể, vừa mang tính
trí tuệ, vừa thể hiện sức mạnh huyền bí, siêu phàm.
Người sáng lập trường phái Milet n toán học, nhà thiên văn, n triết
học đầu tiên của Hy Lạp c đại Tales (khoảng 624 547 TCN). Ông lẽ đại
biểu đầu tiên của thuyết địa tâm, lấy trái đất làm hệ quy chiếu để xắp sếp trật
EBOOKBKMT.COM
tự Đại Thiên cầu thành ba dòng ch biệt; các tinh tú, cách Mặt trăng, Mặt
trời, Mặt trời kích thước lớn hơn hai mươi lần so với Mặt trăng thực hiện
những chu k hành động quanh các hành tinh bất động hết 365 ngày. Những giả
thuyết của ông về thủy triều thuyết phân hạ chỉ tỏ ra ngây thơ xét từ quan điểm
hiện đại song đối với người xưa một sự ngạc nhiên thú vị.
Tales thuộc về thế hệ các nhà triết học đầu tiên xem xét khởi nguyên sự
vật dạng hành chất, theo ông mọi cái đang tồn tại đều xuất phát từ một chất ẩm
ướt ban đầu nước. Tất c ch biến thái của nước. Theo Aristote, Tales đến
với tưởng này lẽ do ông thấy mọi đồ ăn đều dạng ẩm. Nhiệt, cái nhờ
đó các sinh thể mới tồn tại, cũng xuất hiện từ vật chất ẩm. Cái từ đó một
cái khác xuất hiện khởi nguyên của tất cả. Cây cối không có nước thì úa tàn,
con người không nước t chết, mặt trời các sao cần sự bốc hơi nước
làm thức ăn. Nước khởi nguyên của sự ẩm, còn sự ẩm thì hiện diện tất cả
các mầm sống. Do đó, nước bao trùm tất cả, chở che cho tất cả, đảm bảo sự sinh
thành, biến hóa, làm cho muôn vật phì nhiêu. Nước bản chất đơn giản của sự
vật, đồng thời cội nguồn của sự sống.
Chính những quan sát trực tiếp sự xét đoán bằng trí đã đưa Tales đến
những nhận định tính khái quát cao về nước. Tính khái quát thể hiện chỗ,
một là, lần đầu tiên nước được hiểu như cái tuyệt đối, cái phổ biến đơn giản, tức
được nâng lên thành một khái niệm, hai là, Tales chú trọng đến khởi nguyên vật
chất, chứ không phải khởi nguyên tinh thần. thể liên tưởng nước của Tales
với Hỗn mang của Hésiode, nhưng Tales nước trước hết sức mạnh vật lý.
Tales đã tiến gần đến khái niệm bản nguyên, cố gắng trình bày dưới hình
thức ấu t tính thực thể của nước (nước lưu chảy mọi vật, còn mọi vật
lưu chảy). Nhưng công lao to lớn trong việc giải thích toàn bộ thực tại từ khái
niệm “bản nguyên” (archè), thực thể, sở tồn tại của sự vật, thuộc về
Anaximandre (khoảng 610 đến 546 TCN), học t người kế tục Tales. Bản
nguyên bấy giờ không còn nước, cái ý nghĩa phổ quát hơn. Nếu các
hành chất (đất, nước, lửa, khí) chuyển hoá vào nhau, thì điều này nghĩa
EBOOKBKMT.COM
chúng một cái đó chung làm nền. i chung này không thể những hành
chất, cái hạn, cùng, bất định, bất tử, cái nhờ đó mọi vật sinh ra
thực thể apeiron.
Không chấp nhận lối suy nghĩ phần trừu tượng, lạ lùng của
Anaximandre,  (588 - 525 TCN) quay trở về với phương án Thalès,
nghĩa đồng nhất bản nguyên với những hành chất cụ thể. Nhưng nước không
phải bản nguyên thế giới, chỉ điều kiện sống của vạn vật. Thalès đã
nhầm lẫn điều kiện bản chất, còn Anaximandre thì không chỉ ra tính quy định
apeiron.
Cả Tales, Anaximandre Anaximène đều là những nhà khoa học, đúng
hơn, những nhà vật lý, họ trú trọng tìm hiểu những vấn đề của trụ, giới tự
nhiên (physis theo từ nguyên Hy Lạp tự nhiên). Bên cạnh đó, họ còn đưa triết
học của mình những yếu tố của huyền học (occultisme).
2.2. Trường phái, hay liên minh Pythagore
Sau hai thế kỷ tồn tại phát triển khá hưng thịnh, xứ Ionie bị rơi vào tay
xâm lược Ba Tư. Năm 496 TCN nỗ lực cuối cùng của người Ionie khôi phục lại
quyền tự chủ bị đàn áp đẫm máu. Milet chìm trong hoang tàn đổ nát. Thực ra
ngay từ thời di thực vào cuối thế kỷ thứ VI TCN trung tâm triết học đã
chuyển dần từ Ionie sang phía tây, sang Đại Hy Lạp, bao gồm những vùng
người Hy Lạp chiếm Đại Trung Hải biển Đen. Tại đây các trường phái triết
học thay nhau ra đời, trong đó nổi lên trường phái  với chiều dài lịch
sử khá đầy đặn, từ thế k thứ VI TCN đến tận ngày chấm dứt triết học cổ đại.
 (570 496 TCN) đưa ra nhiều định giá trị. trong triết học,
Pythagore nhà duy tâm tôn giáo, xây dựng những tưởng huyền về ý
nghĩa cuộc sống bản nguyên trụ, mang đậm dấu ấn huyền học phương
Đông. Bản tính con người, theo ông, tính chất nhị nguyên thể xác khả tử,
linh hồn bất tử. Ý nghĩa cao cả của cuộc đời xuất hồn, thanh tẩy những cái
nhơ bẩn, những điều ác trong lòng, hòa mình vào linh hồn trụ, tránh kiếp luân
hồi. Triết lý, vậy, hành trình của sự giải thoát. Trong tưởng Pythagore
EBOOKBKMT.COM
những con số đóng vai trò chủ đạo.       ,     
 , thế chính những con số định hình nên thế giới, diễn đạt sự vật, thậm
chí bản chất chuẩn mực của chúng. Triết nhận thức quy luật vận động
của trụ thông qua những con số.
Nếu Pythagore người tiên phong của thuyết địa tâm, thì Philolais theo
hướng ngược lại, song chưa phải người tiên phong của thuyết nhật tâm,
Mặt trời đối với ông chỉ khối tinh thể lạnh, phản chiếu ánh sáng từ nơi khác,
từ Vòm lửa thiêng liêng.
Philolais đã biến sự thanh tẩy tính nghi lễ của phái Orpée thành sự sung
bái trí. Hơn nữa sự phân tích thế giới bao quanh ta không như hỗn nguyên,
như Kosmos, như trụ, đã giúp ông “thế tục hóa” luật Hòa điệu linh thiêng
của trường phái Pythagore.
 thuộc nhóm “bác học” nhóm cấp tiến của trường phái
Pythagore. Archyte tinh thần khoa học chẳng những vượt qua tôn giáo,
còn chiếm ưu thế trước triết học. Triết học Archyte nghiêng về xu hướng duy
hóa nhận thức, trong trụ luận vắng dần hình ảnh các vị thần, thay bằng những
xét đoán kết hợp trực quan khả năng trí tuệ. Archyte hỏi: “Đằng sau những
tinh ta nhìn thấy cái gì?”, rồi tự trả lời: “là cái chưa nhìn thấy”. trụ
hạn, cũng tựa như s vô hạn của đường chân trời. Theo nghĩa đó Archyte
người đã viết lên những trang mới cho trường phái Pythagore Trung kỳ.
2.3. T bản th luận đến vấn đề bản tính của thế giới. Phép biện
chứng như một trong những đặc trưng của Triết học Hy Lạp cổ đại.
          
Héraclite sinh ra tại thành phố Ephèse một trung tâm triết học lớn sau
Milet. Ông được coi nhà triết học yếm thế, đơn, n tưởng huyền bí,
những quan điểm khác lạ, thậm chí lập dị so với thời đại, nhưng đời sau nhắc
đến ông như nhà duy vật chất phác n biện chứng. n duy vật, ông xem
lửa bản nguyên thế giới; là nhà biện chứng, ông chủ trương “mọi s vật đều
biến đổi”.
EBOOKBKMT.COM
Các nhà triết học thời khai truy tìm bản nguyên trụ qua những hành
chất, hoặc c gắng vượt lên chúng để đến gần với khái niệm thực thể, xác định
một chu trình tính chất   muôn vật, muôn loài. Truyền thống đó tiếp
tục được Héraclite phát triển. Đối với Héraclite thời gian chín sinh thành, biến
hoá, nảy nở diệt vong. Thời gian cũng yếu tố thúc đẩy con người suy nghĩ
về sự hợp nhất tồn tại vô.
Lửa, theo Héraclite, sở của thực tại, cái từ đó, mọi thứ sinh ra
trở về. Mọi thứ, k cả linh hồn, đều biến thái của lửa.
chỉ “cái khác” của tồn tại, tính chủ quan “cái khác” của tính
khách quan, mọi thứ đều hợp nhất, mọi hợp nhất đều phân đôi, tồn tại
chỉ một. trụ vừa thống nhất, vừa đa dạng, trong đó sự tác động qua lại
chuyển hóa của các mặt đối lập làm nên bản chất của sinh thành phát triển.
Đấu tranh tính quy luật bản của tự nhiên hội loài người, “cha của
tất cả”, “ông hoàng của tất cả”. Trong đấu tranh cái mới xuất hiện, tạo nên sự
thống nhất mới, q trình cao chuyển hóa không bao giờ ngừng. “Những cái bất
tử chết, những cái đã chết hóa thành bất tử, cuộc sống của những cái này
sự chết của những cái khác, sự chết của những cái này cuộc sống của
những cái khác…lửa sống bằng cái chết của đất, k sống bằng cái chết của lửa,
nước sống bằng cái chết của khí, đất (bằng cái chết) của nước”. Quy luật thứ
ba, xuất phát từ quy luật thứ nhất và quy luật thứ hai, th gọi quy luật
tương quan khác nhau “biểu lộ” ra một cách khác nhau trước chủ thể. Héraclite
đưa ra hàng loạt dẫn chứng để làm sáng tỏ luận điểm này, chẳng hạn mật ngọt
đối với người bình thường, nhưng đắng đối với người bệnh; nước biển đối với
một số sinh thể môi trường sống, nhưng đối với một số khác lại tỏ ra độc hại;
vàng của quý đối với người, nhưng giá đối với loài vật; con khỉ đẹp nhất
trong loài khỉ cũng không thể so sánh với con người; những người toàn năng
nhất cũng không thể so sánh với các vị thần. Héraclite đưa ra ý tưởng này nhằm
nhấn mạnh sự    , hoặc tính tương đối của thực thể, điều này
thật “táo bạo” khác thường”. Cách nhìn khác thường về vũ trụ theo tinh thần
EBOOKBKMT.COM
“mọi thứ đều chảy” “tất c không có” là sự thách đố đối với ý thức
thống trị đương thời. Nietzsche đánh giá phép biện chứng của Héraclite “ý
tưởng tuyệt vời, xuất phát t tận suối nguồn thanh khiết nhất của chủ nghĩa Hy
Lạp”.
         
Trường phái Elée ( lấy tên một đô thị ven biển miền nam nước Ý nơi sinh
ra trường phái) về căn bản đối lập với Héraclite trong cách giải thích thế giới
chủ trương vạn vật bất biến không sinh thành không diệt vong. Đại biểu đầu tiên
của trường phái Elée  ( khoảng 570-478 TCN), người phác thảo
những đường nét ban của nguyên đồng nhất ( vạn vật đồng nhất thể) nhưng
 ( 540 470 TCN ) mới đem đến cho trường phái diện mão ràng
thật sự.
Vấn đề lớn trong triết học Parménide quan hệ giữa tồn tại vô, tồn
tại duy, vận động đứng im. tưởng triết học chủ yếu của Parménide
gồm ba luận điểm :
a) Thế giới không khác nào một quả cầu vật chất đóng chặt, nén đầy ,
không còn chỗ trống. Không thể vận động, bởi lẽ không gian đã được phân
định, mỗi sự vật chiếm một vị trí tương ứng. Cách hiểu như vậy nhằm vào hai
mục tiêu: xem vận động, biến đổi dòng ảo cùng, đồng thời bác bỏ khái
niệm không gian rỗng thuần tuý.
b) Cái ta duy được, diễn đạt được bằng ngôn ngữ, thì mới tồn tại.
Theo nghĩa đó tồn tại duy đồng nhất với nhau, vừa như quá trình, vừa như
kết quả. duy duy chỉ khi nào tính vật thể, vật thể vật thể hiện
hữu chỉ khi nào ta duy được với tính n một hiện thể đặc trưng.
Như vậy vần xác định: tồn tại là tư duy một, mọi ý tưởng luôn luôn ý tưởng
về cái-đang-tồn-tại; tồn tại suy nhất, toàn vẹn; không lớn hơn, không
hơn; cái-không-tồn-tại không thể được duy như cái-đang-tồn-tại (không tồn
tại cái không tồn tại); cái-không-tồn-tại không thể nhận biết , không thể diễn đạt,
EBOOKBKMT.COM
nói cách khác, cái không thì danh, vô định, nghĩa.     
 .
c) Không vận động không chuyển h nghĩa không sự sinh
thành, xuất hiện diệt vong, bởi lẽ chúng giả định khả năng của cái không tồn
tại (từ không đến có, từ đến tồn tại).
Parménide đã nêu ra ba đặc tính của tồn tại: tồn tại, thống nhất, đầy đủ;
không sinh không diệt; bất biến bất phân.
Phần tiếp theo của triết học Parménide được trình bày n nhị nguyên
luận cuả con đường chân con đường thường kiến. hai thứ triết học
một thứ hướng đến chân lý, một thứ căn cứ trên thường kiến. Con đường chân
dựa vào trí để khám p tồn tại vĩnh cửu bất biến, còn con đường thường kiến
xuất phát từ cảm giác để nắm bắt thế giới luôn biến đổi, nhất thời, ảo. Hai
con đường ấy dẫn dắt con người đi tới nhận thức hai thế giới khác nhau: thế giới
bt biến, lý tưởng của tồn tại đích thực và thế gii hữu tình, kh biến ca cảm quan.
 ( khoảng 490- 430 TCN) học trò của Parménide, cụ thể hoá phát
triển nguyên lý vận động đồng nhất thể” nguyên vạn vật bất biến” bằng
phương pháp trưng dẫn chứng (epicherema) nghịch (aporia). Tất cả
khoảng hơn 40 nghịch lý, nhưng hiện nay chỉ còn lại một số, được phân ra thành
hai nhóm- nhóm thứ nhất đề cập đến tính duy nhất của tồn tại; nhóm thứ hai
tính bất biến của tồn tại. Để làm sáng tỏ điều này cần xem xét sự vật trong quan
hệ không gian trong “vật học” Aristote lưu ý đến bốn aporia của Zénon “sự
phân đôi” (dichotomia “Achille con rùa”, Mũi tên bay” , “Sân vận động”).
Quay lưng lại hoàn toàn với Héraclite, Zénon muốn bảo vệ cái đơn nhất
chống lại cái đa tạp, tồn tại chống vô, bất biến chống khả biên, liên tục chống
gián đoạn. Aristote cho rằng Zénon đã góp phần y dựng phép biện chứng,
nhưng theo Hegel, đó phép biện chứng theo nghĩa cũ- nghệ thuật tranh luận,
phản bác đối thủ, dồn đối thủ vào tình thế khó khăn, lúng túng, nghệ thuật trao
chuốt ngôn từ, đánh bóng những khái niệm. Zénon chưa có cái nhìn biện chứng
theo nghĩa hiện đại về quan hệ giữa vận động đứng im, giữa liên tục gián
EBOOKBKMT.COM
đoạn, giữa hữu hạn hạn, nhưng sao ông cũng đặt ra; nói cách khác,
các aporia thực sự kích thích duy, khuyến khích tinh thần hoài nghi, tranh
luận, đi tới chân lý,
2.4 .Bản thể luận t cách nhìn mới.
         
Các nhà duy vật sơ khai giải thích bản nguyên thế giới căn cứ trên những
hành chất hay yếu t vật chất nào đó (đất, nước, lửa, khí, apeiron). Đó phương
án nhất nguyên của chủ nghĩa duy vật Hy Lạp cổ đại. Vào thời kỳ nền dân chủ
Athènes thêm một phương án nữa phương án đa nguyên, giải thích bản nguyên
thế giới căn cứ trên nhiều hành chất, hay nhiều yếu tố vật chất, gắn với tên tuổi
của Empé docle, Anaxagore, Leucippe Desmocrite.
 (490 430 TCN) sống vào thời k diễn ra những chuyển biến
to lớn trong hội cổ đại, đáng chú ý nhất cuộc khởi nghĩa chống quân xâm
lược Ba tại Milet, chiến tranh Hy Lạp Ba Tư, cuối cùng sự ra đời của
nền dân chủ A thé nes với thiên tài chấp chính Péricles.
Triết học của Empédocle sự phát triển quan điểm triết học duy vật về
bản nguyên thế giới của trường phái Milet, học thuyết về tồn tại duy nhất
thống nhất của trường phái Elée, phương pháp giải thích thế giới của Héraclite.
các nhà duy vật thuộc trường phái Milet Héraclite, bản nguyên thế
giới một trong những hành chất; giữa chúng không sự chuyển hóa vào
nhau. Điều này, theo Empédocle, sự thiếu thuyết phục hai lẽ: thứ nhất, sự
phô bày sinh động toàn bộ các sự vật, các yếu tố cho thấy các hành chất (nước,
lửa, khí, đất) những tồn tại đồng cấp; thứ hai: nếu xem một trong những hành
chất bản nguyên thì việc giải thích các chu kỳ trong trụ sẽ bế tắc. Để khắc
phục những nan giải ấy Empédocle đưa ra cùng lúc bốn hành chất đất, nước, khí
, lửa như bốn cội nguồn của vạn vật, bốn bản nguyên thế giới, sau đó chỉ ra
những chu biến hóa của chúng. Ông trình bày bốn hành chất bằng những hình
ảnh đầy chất thơ : nước “đại dương của cuộc sống” và “chất ẩm tối lạnh”, đất
“cội nguồn thầm kín cội nguồn bền vững của thế giới”, lửa “vầng mặt trời
EBOOKBKMT.COM
rực nóng chói lọi”, khí “khoảng cao bất diệt, tràn ngập hào quang. Bốn
hành chất cn tương xứng với bốn vị thần: thần Zeus, thần Héra, thần Aidès, thần
Nestis. Những v thần kế tiếp đều xuất phát từ cội nguồn ấy. Sự kết hợp giữa các
hành chất với những liều lượng khác nhau tạo nên sự vật khác nhau. Chẳng hạn,
xương gồm hai phần nước, hai phần đất, bốn phần đất, bốn phần lửa; thần kinh
hai phần nước, một phần đất, một phần lửa; máu pha đều các hành chất.
Empédocle cho rằng ông đã giải tỏa sự bế tắc trên con đường tìm kiếm bản
nguyên tự nhiên. Phương án “đa nguyên” cho phép giải thích sự tồn tại đa dạng
trong nh thống nhất của thế giới.
         giữa các sự vật được Empé docle
diễn đạt bằng khái niệm Tình yêu Hận thù, động lực của sự hợp nhất tách
biệt. Philia Tình yêu (Hòa hợp, Niềm vui) sự hợp nhất, hay hòa lẫn những
yếu tố khác nhau vào trong một, bản nguyên của Thiện. Neikos Hận thù,
tách biệt i hợp nhất thành những yếu tố, cắt lời chúng, sở của sự đa tạp
cái Ác.
Như vậy, trong cách giải thích nguồn gốc s sống, khác với Anaximandre,
Empédocle đi theo trình tự từng bộ phận đến toàn thể, từ thấp đến cao, từ đơn
giản đến phức tạp. Quan điểm ấy cũng được vận dụng vào nhận thức luận.
Đối tượng cao nhất của nhận thức cái toàn vẹn, cái mắt không nhìn
thấy, tai nghe không thấy, lý trí không bao quát hết. Nhận thức quá trình
thống nhất cảm tính tính. tính sâu sắc hơn nhưng cảm tính hiện thực
hơn. nguồn gốc nhận thức cái toàn vẹn. Khác với Parménide coi thường cảm
giác, Empédocle cho rằng tư duy cảm giác nương tựa, bổ sung nhau, thậm chí
trong nhiều trường hợp chúng một. Con người xét đoán sự vật trong tính nội
tại của nó. Chúng ta nhận ra đất bằng đất, nhận ra nước bằng nước, nhận ra
aither bằng aither, nhận ra hận thù bằng hận thù, tóm lại chúng ta tri giác hành
chất bằng chính hành chất ta đang có.
Triết học của Empédocle là s pha trộn chủ nghĩa duy vật tự phát
thuyết nhân hình nguyên thủy, gán những đặc tính của đời sống con người cho
EBOOKBKMT.COM
các quá trình của trụ (tình yêu hận thù). Chịu ảnh hưởng của thuyết luân
hồi thanh tẩy của giáo phái Orphée.
Trở lại vấn đề bản nguyên trụ, tưởng Em pesdocle tỏ ra thiếu nhất
quán ngay t đầu. Trước hết, nếu ông không đồng ý phương án nhất nguyên”
của mình, ông chỉ liệt bốn hành chất ? Bốn hành chất ấy cũng chính bốn
yếu tố đại diện, tượng trưng, bốn cái phổ biến, nếu xem xét chúng từ góc độ
các yếu tố của thế giới cảm tính, thì ta buộc phải thừa nhận rằng chúng vẫn chưa
phải những yếu tố duy nhất đang hiện hữu. Empédocle cũng mâu thuẫn với
chính mình trong luận điểm hợp nhất tách biệt.
        
Vấn đề trung tâm triết học của Anaxagore, được trình bày trong “V tự
nhiên” tác phẩm duy nhất còn lưu lại, vấn đề sự chuyển hóa về chất của sự
vật. Bằng cách nào một chất chuyển thành chất khác, từ không phải tóc xuất
hiện tóc từ không phải thịt xuất hiện thịt ? Trong khi thừa nhận tưởng nền
tảng của trường phái Elée về tồn tại (“không xuất hiện từ vô”),
Anaxagore phản bác cái gọi tồn tại duy nhất, bất biến do Parménide nêu ra.
Không cái xuất hiện rùi b diệt, mỗi sự vật đều được tạo ra từ sự kết
hợp hoặc ch ra. Quan niệm về bản nguyên, do đó, cũng cần phải thay đổi. Cái
trước không phải những hành chất hay những cái bất định nghĩa (ám chỉ
apeiron của Anaximandre), tất cả các trạng thái vật chất. Đất với vàng,
nước với máu, lửa với khí, chẳng cái nào trước cái nào. Bản nguyên hạn
về số lượng, tràn ngập khắp nơi, thâm nhập vào mọi thứ, t mọi thứ ch
ra. Bản nguyên phần nhất, siêu cảm giác, không nhìn thấy của lửa, nước,
vàng, máu, những th Anaxagore gọi những hạt giống của muôn vật,
những mầm sống, hay những chất đồng nhất (homoiomeria). Những hạt giống
của máu chứa đựng tất cả những chất của máu, những hạt chất của sắt những
chất của sắt. Hạt giống vĩnh cữu, bất biến, nhưng các sự vật liên kết với nhau,
chuyển hóa vào nhau bằng con đường kết hợp phân tích: “Mọi thứ trong tất
cả, tất cả một phần của tất cả”. Suy rộng ra, trong bất kỳ v trí, trạng thái
EBOOKBKMT.COM
nào của trụ cũng đều chứa đựng những homoiomeria của tất cả các sự vật.
“Người ta không thể dùng rìu cắt rời nóng khỏi lạnh, lạnh khỏi nóng”, càng
không thể dùng sức mạnh phá vỡ toàn thể trụ như một khối thống nhất bao
gồm số các sự vật, hiện tượng liên kết với nhau, hút nhau hoặc đẩy nhau, đan
xen nhau.
Tuy nhiên cần lưu ý rằng, tuy mỗi sự vật hàm chứa trong mình những hạt
giống của tất cả c sự vật, nhưng các tố chất của được quy định bởi các tố
chất của những homoiomeria chiếm ưu thế. Do đó, sự biến đổi về chất của sự
vật thể hiện s thay thế phần lớn hạt giống (chất) của nó chứa đựng tại đó.
Chẳng hạn khi tuyết tan thành nước, nước chỉ hơi đục, bởi trước đó thể rắn
(tuyết) tính chất lạnh trắng chiếm ưu thế so với tính chất đục nóng.
Tồn tại thống nhất, nhưng không thống nhất không thống nhất tuyệt đối
theo cách giải của Parménide. Sự vật đồng nhất hiểu như cái toàn vẹn, nhưng
những yếu tố cấu thành hết sức đa tạp. Nguyên vạn vạt đồng nhất của trường
phái Elée được Anaxagore mở rộng thêm: sự vật vừa cùng lớn, vừa cùng
bé, “không cái nhất, chỉ cái hơn hơn nữa”. Thoạt nhìn quan
niệm đó tính biện chứng, nhưng đó phép biện chứng nửa vời. Bản nguyên,
theo Anaxagore, không tính chuyển hóa, “cái đồng nhất xuất phát từ cái đồng
nhất, không thể sự chuyển hóa vào mặt đối lập, càng không thể sự chuyển
hóa vào mặt đối lập”. Mọi s thay đổi đối với ông chỉ sự kết hợp tách rời
những cái đồng nhất, còn sự thay đổi đích thực bị coi như sự phủ định chính
mình. Ông chỉ biết rằng “thịt chuyển thành thịt, vàng chuyển thành vàng, còn
mọi sự kết hợp khác chỉ một conglomelatus, s kết hợp khiên cưỡng, trật
tự, chứ không phải phép cấu thành sống động”. Tính chất thiếu nhất quán của
triết học Anaxagore càng thể hiện trong khái niệm “NOUS”.
        
Người sáng lập ra nguyên tử luận (Atomisme) Leucippe (500 440
TCN). Ông đã xây dựng quan điểm bản theo đó tất cả sự vật được hình
thành từ những phần t nhất, đơn giản, không phân chia, gọi Atomos
EBOOKBKMT.COM
(những nguyên tử), Kènon (khoảng không). Sau đó Démocrite (446 370
TCN), người Abdère, thuộc s Tharace, phát triển học thuyết ấy, trở thành đỉnh
cao của chủa nghĩa duy vật Hy Lạp c đại.
Nguyên tử khoảng không đối lập nhau: khoảng không thiếu một kết
cấu bền vững, tồn tại tính chất bền vững; khoảng không thống nhất, đâu đâu
cũng vậy, tồn tại đa dạng, mỗi nơi một vẻ; khoảng không định, tồn tại xác
định; khoảng không bất động, tồn tại vận động. Tính đa dạng của các nguyên tử
sự giải đầy đủ xác đáng nhất tính đa dạng của thế gới vật chất. Các nhà
nghiên cứu lịch s triết học không so sánh nguyên tử luận của Démocrite với
quan điểm v hành chất của Thalès (nước), Anaximène (khí), Héraclite (lửa),
sự khác nhau giữa họ quá ràng. Thời khai Anaximandre người nêu ra
quan điểm độc đáo nhất về bản nguyên (Apeiron). Apeiron thể hiện sự chuyển
hóa không ngừng của trụ, nhưng hãy còn rất hồ. Ngược lại, nguyên t
của Démocrite một yếu tố vật chất tính quy định và tính tích cực nội tại.
“Trong nguyên tử luận, chúng ta tìm thấy ngay quan niệm về tồn tại tự của
giới tự nhiên”.
Démocrite xem vận động thuộc tính của các nguyên tử, chúng vận động
không đâu khác ngoài không gian, chúng “bay lượn như những hạt bụi li ti
ta thường nhìn thấy dưới nắng sớm”, “chúng va chạm nhau, đẩy nhau, rồi lại
xoắn vào nhau, tan hợp hợp tan theo những trình tự nhất định, tạo ra những
hướng vận động khác nhau”. Vận động riêng l vận động tính ngẫu nhiên,
nhưng vận động của tập hợp số các nguyên tử trong không gian đại tuân
theo tính tất yếu khách quan, định hình nên một trụ sinh động, biến hóa. Vận
động tính chất vĩnh cửu, đó vận động của các nguyên tử, không do ai
sinh ra, không cần đến một s tiền định nào.
Bản thể luận của Démocrite một khía cạnh nào đó còn sự dung hòa
giữa Héraclite Parménide: thế giới các sự vật luôn tuôn chảy, nhưng đồng
thời thế giới của các nguyên tử cấu thành sự vật, một thế giới vững bền, hoàn
thiện. Cách diễn đạt như vậy chưa hẳn chính xác, bởi lẽ trên thực tế các sự vật
EBOOKBKMT.COM
biến đổi tuyệt đối, còn các yếu tố cấu thành sự vật thì bền vững tương đối. Các
“nguyên tử” tạo nên sự vật bền vững trường tồn, nhưng bản thân sự vật
biến đổi tự tại. Démocrite chưa đạt tới cách nhìn biện chứng về quan hệ giữa vận
động đứng im, liên tục gián đoạn. Ông chỉ mới chạm phớt qua nó, đóng
vai trò người hòa giải giữa Héraclite trường phái Elée, nhưng không biết kết
hợp chọn lọc những g trị biện chứng của cả hai, khai thác tiếp những
vùng đất mới của nhận thức thế giới.
Học thuyết Démocrite tạo ra bước phát triển mới trong triết học Hy Lạp
cổ đại, đặc biệt trong chủ nghĩa duy vật. Giá trị lịch sử của chủ nghĩa duy vật
nguyên tử cổ đại tính chất triệt để của nó, chỗ chẵng những lần đầu tiên
dám thách thức mục đích luận tôn giáo, vốn ngự trị dai dẳng trong ý thức của
con người, còn kích thích sự phát triển của duy khoa học, nhất khoa học
tự nhiên lý thuyết. Những đột phá quan trọng của nguyên tử luận duy vật ngày
ng làm sang tỏ kh ng y dựng liên minh giữa triết học khoc hoc t nhiên.
     
Trong triết học Hy Lạp trước Socrate thế giới quan duy vật nói chung
chiếm ưu thế (trường phái Milet, Héraclite, Anaxagore, Empédocle…) nhưng
bắt đầu từ Socrate trở đi cùng với những biến đổi đầy bi kịch của hội, ch
nghĩa duy tâm mở rộng dần ảnh hưởng của mình, phát triển thành hệ thống
Platon. Triết học Platon thể hiện giai đoạn phát triển cực thịnh của triết học Hy
Lạp, khai phá nhiều lĩnh vực nghiên cứu mới, những lĩnh vực trước đây,
trong thời k “triết học tự nhiên” còn thống trị, chưa được phân tích sâu sắc.
Platon, Aristote được nhân loại biết đến không chỉ như những triết ra, còn
những nhà văn hóa lớn của thế giới cổ đại. Nhưng cuộc tranh luận giữa chủ
nghĩa duy vật (“đường lối Démocrite”) chủ nghĩa duy tâm (“đường lối
Platon”) về bản chất ý nghĩa của tồn tại cũng trở nên quyết liệt, chi phối con
đường vận động của triết học phương tây suốt bao nhiêu thế kỷ qua.
Học thuyết về ý niệm nền tảng thế giới quan của Platon
EBOOKBKMT.COM
Platon không những nâng tưởng duy tâm lên thành hệ thống, n
khẳng định tính tất yếu của sự đối đầu duy vật duy tâm trong triết học. Vấn đề
tồn tại (bản thể) chiếm vị trí đặc biệt trong triết học Platon. Tồn tại đích thực
phải tồn tại như thế nào? Đâu tồn tại khác, hay cái bóng của tồn tại”? i
sở, nền tảng của mọi tồn tại ? Theo tôi, - Platon viết, - trước tiên cần
phân biệt cái luôn luôn tồn tại không bao giờ sinh thành cái gì luôn luôn
sinh thành nhưng không bao giờ tồn tại”.
Tóm lại, theo Platon, ý niệm đóng vai trò vừa khuôn mẫu của các sự
vật, vừa đích các thực thể của thế giới khả giác hướng đến, lại về khái
niệm về s chung của sự vật thuộc từng chủng loại.
Thế nào vật chất? Thuật ngữ material (vật chất) bằng tiếng Lating ta
thường dùng ngày nay một chừng mực nào đó thể liên tưởng đến chora của
Platon bằng tiếng Hy Lạp. Vật chất chora là một khoảng không gian giả định,
“một s tiểu loại, không nhận thấy, không hình hài, không tìm được”. Theo
cách ấy vật chất chẳng khác nào cái không tồn tại, hay không là cả,
nhưng theo Platon,  , cũng vai trò hết sức to lớn đối với thế giới
các sự vật; nó tồn tại
   
Aristote đưccoi là nhà bách khoavĩ đi nht ca c đi HyLp,là ôngt của
chínhtr hc.Là hc trò củaPlatonnhưng có nhiềuđim bấtđồngvớitriết học ca
Platon,dođóôngđãtựpháttriểntriết học của mình.
Ôngphê phán ýnim ca Platin,chorng,vi mi sinhvt Platon đã to ra mt ý
nim cho nó, nghĩa là Platonđã nhân đôi đối ngnhậnthc ch khôngphi s nhn
thc củachính đi ng. Ôngchorng, bn cht sự vậtkhôngth bên ngoài s vật,
tách rời sựvật nằm ngang trong chínhsự vật.
Cácnhàtriết hc HyLp c đi đu có nhngquan điểmriêngv vn đbnth
luận nhưng vẫnn những hạn chế nhất định.
EBOOKBKMT.COM
KẾT LUẬN
Triết học Hy Lạp với hơn 1000 năm tồn tại với những nội dung phong
phú, đa dạng, bao trùm mọi lĩnh vực tri thức của con người, đã để lại những dấu
ấn đậm nét trên con đường phát triển của triết học phương Tây, tạo nên những
giá trị tinh thần to lớn, làm phong p thêm kho báu tưởng nhân loại.
Các hệ thống triết học Hy Lạp cổ đại nói chung đều xu hướng đi sâu
vào giải quyết các vấn đề của bản thể luận của triết học, bên cạnh đó những
tưởng biện chứng với cách những tưởng triết học về sự phát triển điển
hình những tưởng của Hêraclit đã trở thành nét khác biệt giữa triết học Hy
Lạp với nền triết học phương Đông cổ đại.
Một trong những đặc trưng quan trọng nhất của triết học Hy Lạp cổ đại
những mối liên hệ của với thần thoại các hình thức sinh hoạt tôn giáo
nguyên thủy. Sự ra đời của triết học không ý nghĩa kỷ nguyên thần thoại đã
EBOOKBKMT.COM
hoàn toàn kết thúc. Triết học Hy Lạp những bước đi chập chững ban đầu, một
mặt khát vọng dùng trí của   để giải thích những vấn đề liên quan
đến cuộc sống con người, mặt khác một nỗ lực "tái thiết lại thần thoại bằng
phương tiện của trí"
K.Marx viết: “… Mọi triết học chân chính đều là tinh hoa v mặt tinh
thần của thời đại mình”, và “triết học hiện đại chỉ tiếp tục cái công việc do
Héraclite Aristote mở đầu thôi”. Các nhà triết học Hy Lạp, những người
mở đường cho truyền thống triết học phương Tây, cả triết học nhân loại nữa,
xứng đáng được xem n những n triết học chân chính” theo đúng nghĩa cuả
từ đó, bởi l tưởng của họ kiết tinh, là tinh hoa của văn hóa Hy Lạp. Tìm
hiểu triết học Hy Lạp trước hết làm sống lại những tên tuổi những tư tưởng
đã góp phần tạo nên dáng vẻ bề thế của một nền văn hóa ánh hào quang còn
tỏa sáng đến nay./.

Preview text:

EBOOKBKMT.COM
BẢN THỂ LUẬN TRONG TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI MỤC LỤC
MỞ ĐẦU. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
NỘI DUNG. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
CHƯƠNG I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ NHỮNG ĐẶC ĐIỂM. . . . . . . . . . .
CỦA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
1.2. Đặc điểm triết học Hy Lạp cổ đại. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
CHƯƠNG II. NỘI DUNG BẢN THỂ LUẬN TRONG TRIẾT HỌC HY
LẠP CỔ ĐẠI
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
2.1. Trường phái Milet và phương án “nhất nguyên” trong chủ nghĩa duy
vật Hy Lạp cổ đại.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
2.2. Trường phái, hay liên minh Pythagore ………………………………
2.3. Từ bản thể luận đến vấn đề bản tính của thế giới. Phép biện chứng
như một trong những đặc trưng của Triết học Hy Lạp cổ đại.
. . . . . . . . . .
2.4 .Bản thể luận từ cách nhìn mới. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
KẾT LUẬN. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . EBOOKBKMT.COM MỞ ĐẦU .
Vào khoảng cuối thế kỷ thứ VII – đầu thế kỷ thứ VI TCN, các thị quốc
bước vào thời kỳ phát triển khá thịnh vượng. Sự phân công lao động lần thứ hai
(tách nghề thủ công ra khỏi nghề nông) và xuất hiện đồng tiền kim khí đã tạo
nên những khởi sắc trong các lĩnh vực đời sống xã hội, đặc biệt là sự hình thành
các nhóm người sống bằng lao động trí óc, biết tích hợp những tinh hoa văn hoá,
khoa học vào trong những cách ngôn, những tản văn có giá trị nhận thức cao.
“Bảy nhà thông thái” được lịch sử biết đến như những người mở đường
cho một nền triết học thực sự. Trong số họ nổi bật Talet, người mà Aristote gọi
là nhà triết học đầu tiên của Hy Lạp cổ đại. Với Talet triết học đã ra đời, thay thế
thần thoại và tôn giáo nguyên thuỷ, đồng thời thâu tóm các tri thức khoa học vào
trong một hệ thống mang tính khái quát cao. Triết học ra đời như sự giải quyết
mâu thuẫn giữa bức tranh thần thoại về thế giới, được xây dựng trên tưởng
tượng, với nhận thức và tư duy mới, như sự phổ biến tư duy từ diện hẹp ra diện
rộng, từ tản mạn đến hệ thống. Quá trình hình thành, phát triển và sự suy vong
của chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp đã được phản ánh sinh động trong các
sáng tác văn chương, nghệ thuật, triết học. Sự phân kỳ triết học Hy Lạp có cách
căn cứ trên sự phát triển nội tại của triết học, hoặc căn cứ trên những thời kỳ lịch
sử, gắn với sự tồn vong của xã hội chiếm hữu nô lệ; mỗi cách đều có cơ sở hợp lý nhất định.
Có thể nói, Triết học Hy Lạp cổ đại là giai đoạn khởi đầu của Triết học
nhân loại và là tiền đề cho toàn bộ hệ thống triết học phương Tây sau này. Do
vậy, việc nghiên cứu đề tài nhằm tìm hiểu kho tàng lịch sử Triết học, kế thừa và
phát huy những giá trị tốt đẹp của Triết học Hy Lạp cổ đại.
Bản thể luận là một trong những nội dung cơ bản của triết học luôn được
các nhà triết học đề cập đến bất luận theo quan điểm, trường phái nào. Những
quan niệm về bản thể luận có thể rất khác nhau, nhưng tựu chung lại theo cách
này hay cách khác, ở trình độ lý luận hay chỉ là những quan niệm rời rạc thì đều EBOOKBKMT.COM
nhằm tới việc lý giải cho sự tồn tại hiện thực trên lát cắt cội nguồn, khởi nguyên của nó.
Trong khuôn khổ tiểu luận này, tác giả sẽ làm rõ nội hàm của khái niệm
“bản thể luận” và dùng cách tiếp cận bản thể luận để nhìn nhận về Triết học Hy
Lạp cổ đại. Đây một trong những cách tiếp cận có tính gợi mở cao, cho phép
nhìn nhận tiến trình phát triển của lịch sử triết học từ một góc độ khác và là cách
tiếp cận hữu dụng trong việc nghiên cứu lịch sử triết học. EBOOKBKMT.COM
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA TRIẾT
HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa
Hy Lạp cổ đại khác với Hy Lạo ngày nay về địa lý, nó bao gồm một vùng
đất đai rộng lớn: miền Nam bán đảo Bancăng thuộc Châu Âu, nhiều hoàn đảo ở
biển Êgiê và ven biển của bán đảo Tiểu Á. Điều kiện địa lý như vậy thuận lợi
cho người Hy LẠp cổ phát triển rất sớm về kinh tế - xã hội.
Triết học Hy Lạp hình thành vào khoảng thế kỷ thứ VI trước công nguyên
trên cơ sở kinh tế là quyền sở hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất và người
nô lệ. Xã hội có sự phân chia giai cấp, có sự phân công lao động trí óc và lao
động chân tay. Điều này dẫn đến sự hình thành một bộ phận các tri thức triết học
và khoa học, phá vỡ ý thức thần thoại và tôn giáo nguyên thủy. Mặt khác, chính
lối tư duy có hai bản, lớp lang được thể hiện trong thần thoại Hy Lạo là một
trong những yếu tố quan trọng cho việc hình thành triết học tại nơi đây.
Những nhu cầu thực tiễn của nền sản xuất thủ công nghiệp, nông nghiệp,
thương nghiệp, hàng hải đã quyết định sự hình thành và phát triển những trí thức
về khoa học, thiên văn và toán học, khí tượng, vật lý. Do thời kỳ này khoa học
chưa phân ngành cho nên các tri thức khoa học trên được trình bày trong các hệ
thống triết học. Điều đó làm cho triết học Hy Lạp cổ đại gắn liền với thực tiễn và khoa học.
1.2. Đặc điểm triết học Hy Lạp cổ đại
Ngay từ khi ra đời triết học Hy Lạp cổ đại ngay từ khi ra đời đã là thế giới
quan, ý thức hệ của giai cấp thống trị trong xã hội là giai cấp chủ nô.
Triết học Hy Lạp cổ đại hòa quyện với khoa học, nhiều nhà triết học đồng
thời là các nhà khoa học, bởi khi đó khoa học chưa phân ngành; các khái quát
triết học thường tập trung hướng về các vấn đề tự nhiên. Chính vì vậy, sau này
có quan niệm cho rằng, triết học là “khoa học của mọi khoa học”.
Triết học Hy Lạp cổ đại ngay từ khi ra đời đề cập tới rất nhiều vấn đề
khác nhau về thế giới quan của Hy Lạp cổ đại những trước tập trung vào các EBOOKBKMT.COM
vấn đề: tồn tại là gì” nguồn gốc của thế giới là gì?. . và những vấn đề đó luôn
được giải quyết theo hai quan điểm hoặc là duy tâm hoặc là duy vật. Triết học
Hy Lạp cổ đại ngay từ khi ra đời cũng như quá trình phát triển của nó chứa
đựng mầm móng rất nhiều thế giới quan sau này, còn mang tính trực quan, mộc mạc, chất phát.
Ngay từ khi ra đời, triết học Hy Lạp cổ đại đã đề cập nhiều tới vấn đề
con người. Con người theo họ là sản phẩm cao quý của tạo hóa, có khả năng
chinh phục tự nhiên để phục vụ cho mình; đã có tư tưởng biện chứng mà đỉnh
cao là tư tưởng của Hê-ra-clit đây là một thành tựu quan trọng của triết học Hy Lạp cổ đại.
II. NỘI DUNG BẢN THỂ LUẬN TRONG TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
Triết học Hy Lạp ngay từ khi mới ra đời đã quan tâm đến những vấn đề
bản thể luận về thế giới. Câu hỏi “thế giới bắt đầu từ đâu và quay về đâu?” trở
thành điểm xuất phát cho các cuộc tranh luận, nhưng ngay vì hướng đến thần
linh như trước đây đã nỗ lực truy tìm “nguyên nhân cuối cùng”, bản nguyên của
vạn vật ngay trong long vạn vật. Bản nguyên không chỉ đơn giản là một thứ vật
chất như cách hiểu của vật lý học hay hóa học hiện đại, mà là một cái gì đó làm
cơ sở cho sự xuất hiện giới tự nhiên và sự sống. Một khuynh hướng nghiên cứu
mới, nghiêm túc đã mở ra – dung lý trí xét đoán mọi thứ. Khuynh hướng ấy xuất
phát từ xứ Ionie, nơi khai sinh ra nhiều trường phái triết học tiêu biểu của Hy Lạp cổ đại.
2.1. Trường phái Milet và phương án “nhất nguyên” trong chủ nghĩa
duy vật Hy Lạp cổ đại.
Các nhà triết học Milet là những nhà nhất nguyên, vì họ xem một hành
chất nào đó là bản nguyên của thế giới, cái vừa mang tính vật thể, vừa mang tính
trí tuệ, vừa thể hiện sức mạnh huyền bí, siêu phàm.
Người sáng lập trường phái Milet là nhà toán học, nhà thiên văn, nhà triết
học đầu tiên của Hy Lạp cổ đại Tales (khoảng 624 – 547 TCN). Ông có lẽ là đại
biểu đầu tiên của thuyết địa tâm, vì lấy trái đất làm hệ quy chiếu để xắp sếp trật EBOOKBKMT.COM
tự Đại Thiên cầu thành ba dòng cách biệt; các vì tinh tú, cách Mặt trăng, Mặt
trời, Mặt trời có kích thước lớn hơn hai mươi lần so với Mặt trăng và thực hiện
những chu kỳ hành động quanh các hành tinh bất động hết 365 ngày. Những giả
thuyết của ông về thủy triều thuyết phân hạ chỉ tỏ ra ngây thơ xét từ quan điểm
hiện đại song đối với người xưa là một sự ngạc nhiên thú vị.
Tales thuộc về thế hệ các nhà triết học đầu tiên xem xét khởi nguyên sự
vật ở dạng hành chất, theo ông mọi cái đang tồn tại đều xuất phát từ một chất ẩm
ướt ban đầu – nước. Tất cả chỉ là biến thái của nước. Theo Aristote, Tales đến
với lý tưởng này có lẽ do ông thấy mọi đồ ăn đều ở dạng ẩm. Nhiệt, cái mà nhờ
đó các sinh thể mới tồn tại, cũng xuất hiện từ vật chất ẩm. Cái gì mà từ đó một
cái gì khác xuất hiện là khởi nguyên của tất cả. Cây cối không có nước thì úa tàn,
con người không có nước thì chết, mặt trời và các vì sao cần sự bốc hơi nước
làm thức ăn. Nước là khởi nguyên của sự ẩm, còn sự ẩm thì hiện diện ở tất cả
các mầm sống. Do đó, nước bao trùm tất cả, chở che cho tất cả, đảm bảo sự sinh
thành, biến hóa, làm cho muôn vật phì nhiêu. Nước – bản chất đơn giản của sự
vật, đồng thời là cội nguồn của sự sống.
Chính những quan sát trực tiếp và sự xét đoán bằng lý trí đã đưa Tales đến
những nhận định có tính khái quát cao về nước. Tính khái quát thể hiện ở chỗ,
một là, lần đầu tiên nước được hiểu như cái tuyệt đối, cái phổ biến đơn giản, tức
được nâng lên thành một khái niệm, hai là, Tales chú trọng đến khởi nguyên vật
chất, chứ không phải khởi nguyên tinh thần. Có thể liên tưởng nước của Tales
với Hỗn mang của Hésiode, nhưng ở Tales nước trước hết là sức mạnh vật lý.
Tales đã tiến gần đến khái niệm bản nguyên, cố gắng trình bày dưới hình
thức ấu trĩ tính thực thể của nước (nước lưu chảy ở mọi vật, còn ở nó mọi vật
lưu chảy). Nhưng công lao to lớn trong việc giải thích toàn bộ thực tại từ khái
niệm “bản nguyên” (archè), thực thể, cơ sở tồn tại của sự vật, thuộc về
Anaximandre (khoảng 610 đến 546 TCN), học trò và người kế tục Tales. Bản
nguyên bấy giờ không còn là nước, mà là cái có ý nghĩa phổ quát hơn. Nếu các
hành chất (đất, nước, lửa, khí) chuyển hoá vào nhau, thì điều này có nghĩa ở EBOOKBKMT.COM
chúng có một cái gì đó chung làm nền. Cái chung này không thể là những hành
chất, mà là cái vô hạn, vô cùng, bất định, bất tử, cái mà nhờ đó mọi vật sinh ra – thực thể apeiron.
Không chấp nhận lối suy nghĩ có phần trừu tượng, lạ lùng của
Anaximandre, Anaximènne (588 - 525 TCN) quay trở về với phương án Thalès,
nghĩa là đồng nhất bản nguyên với những hành chất cụ thể. Nhưng nước không
phải là bản nguyên thế giới, mà chỉ là điều kiện sống của vạn vật. Thalès đã
nhầm lẫn điều kiện và bản chất, còn Anaximandre thì không chỉ ra tính quy định apeiron.
Cả Tales, Anaximandre và Anaximène đều là những nhà khoa học, đúng
hơn, những nhà vật lý, vì họ trú trọng tìm hiểu những vấn đề của vũ trụ, giới tự
nhiên (physis theo từ nguyên Hy Lạp là tự nhiên). Bên cạnh đó, họ còn đưa triết
học của mình những yếu tố của huyền học (occultisme).
2.2. Trường phái, hay liên minh Pythagore
Sau hai thế kỷ tồn tại và phát triển khá hưng thịnh, xứ Ionie bị rơi vào tay
xâm lược Ba Tư. Năm 496 TCN nỗ lực cuối cùng của người Ionie khôi phục lại
quyền tự chủ bị đàn áp đẫm máu. Milet chìm trong hoang tàn và đổ nát. Thực ra
ngay từ thời kì di thực vào cuối thế kỷ thứ VI TCN trung tâm triết học đã
chuyển dần từ Ionie sang phía tây, sang Đại Hy Lạp, bao gồm những vùng mà
người Hy Lạp chiếm ở Đại Trung Hải và biển Đen. Tại đây các trường phái triết
học thay nhau ra đời, trong đó nổi lên trường phái Pythagore với chiều dài lịch
sử khá đầy đặn, từ thế kỷ thứ VI TCN đến tận ngày chấm dứt triết học cổ đại.
Pythagore (570 – 496 TCN) đưa ra nhiều định lý có giá trị. trong triết học,
Pythagore là nhà duy tâm tôn giáo, xây dựng những tư tưởng huyền bí về ý
nghĩa cuộc sống và bản nguyên vũ trụ, mang đậm dấu ấn huyền học phương
Đông. Bản tính con người, theo ông, có tính chất nhị nguyên – thể xác khả tử,
linh hồn bất tử. Ý nghĩa cao cả của cuộc đời là xuất hồn, thanh tẩy những cái
nhơ bẩn, những điều ác trong lòng, hòa mình vào linh hồn vũ trụ, tránh kiếp luân
hồi. Triết lý, vì vậy, là hành trình của sự giải thoát. Trong tư tưởng ở Pythagore EBOOKBKMT.COM
những con số đóng vai trò chủ đạo. Cái gì đo được thì tồn tại, cái gì tồn tại thì
đo được
, vì thế chính những con số định hình nên thế giới, diễn đạt sự vật, thậm
chí là bản chất và chuẩn mực của chúng. Triết lý là nhận thức quy luật vận động
của vũ trụ thông qua những con số.
Nếu Pythagore là người tiên phong của thuyết địa tâm, thì Philolais theo
hướng ngược lại, song chưa phải là người tiên phong của thuyết nhật tâm, vì
Mặt trời đối với ông chỉ là khối tinh thể lạnh, phản chiếu ánh sáng từ nơi khác,
từ Vòm lửa thiêng liêng.
Philolais đã biến sự thanh tẩy có tính nghi lễ của phái Orpée thành sự sung
bái lý trí. Hơn nữa sự phân tích thế giới bao quanh ta không như hỗn nguyên, mà
như Kosmos, như Vũ trụ, đã giúp ông “thế tục hóa” luật Hòa điệu linh thiêng
của trường phái Pythagore.
Archyte thuộc nhóm “bác học” – nhóm cấp tiến của trường phái
Pythagore. Ở Archyte tinh thần khoa học chẳng những vượt qua tôn giáo, mà
còn chiếm ưu thế trước triết học. Triết học Archyte nghiêng về xu hướng duy lý
hóa nhận thức, trong vũ trụ luận vắng dần hình ảnh các vị thần, thay bằng những
xét đoán kết hợp trực quan và khả năng trí tuệ. Archyte hỏi: “Đằng sau những
tinh tú mà ta nhìn thấy là cái gì?”, rồi tự trả lời: “là cái chưa nhìn thấy”. Vũ trụ
vô hạn, cũng tựa như sự vô hạn của đường chân trời. Theo nghĩa đó Archyte là
người đã viết lên những trang mới cho trường phái Pythagore Trung kỳ.
2.3. Từ bản thể luận đến vấn đề bản tính của thế giới. Phép biện
chứng như một trong những đặc trưng của Triết học Hy Lạp cổ đại.
2.3.1. Héraclite (544 – 438 TCN) – “ông tổ” của phép biện chứng
Héraclite sinh ra tại thành phố Ephèse – một trung tâm triết học lớn sau
Milet. Ông được coi là nhà triết học yếm thế, cô đơn, nhà tư tưởng huyền bí, có
những quan điểm khác lạ, thậm chí lập dị so với thời đại, nhưng đời sau nhắc
đến ông như nhà duy vật chất phác và nhà biện chứng. Là nhà duy vật, ông xem
lửa là bản nguyên thế giới; là nhà biện chứng, ông chủ trương “mọi sự vật đều biến đổi”. EBOOKBKMT.COM
Các nhà triết học thời sơ khai truy tìm bản nguyên vũ trụ qua những hành
chất, hoặc cố gắng vượt lên chúng để đến gần với khái niệm thực thể, xác định
một chu trình có tính chất lặp lại ở muôn vật, muôn loài. Truyền thống đó tiếp
tục được Héraclite phát triển. Đối với Héraclite thời gian chín là sinh thành, biến
hoá, nảy nở và diệt vong. Thời gian cũng là yếu tố thúc đẩy con người suy nghĩ
về sự hợp nhất tồn tại và hư vô.
Lửa, theo Héraclite, là cơ sở của thực tại, là cái mà từ đó, mọi thứ sinh ra
và trở về. Mọi thứ, kể cả linh hồn, đều là biến thái của lửa.
Hư vô chỉ là “cái khác” của tồn tại, tính chủ quan là “cái khác” của tính
khách quan, mọi thứ đều hợp nhất, và mọi hợp nhất đều phân đôi, tồn tại và hư
vô chỉ là một. Vũ trụ vừa thống nhất, vừa đa dạng, trong đó sự tác động qua lại
và chuyển hóa của các mặt đối lập làm nên bản chất của sinh thành và phát triển.
Đấu tranh là tính quy luật cơ bản của tự nhiên và xã hội loài người, là “cha của
tất cả”, “ông hoàng của tất cả”. Trong đấu tranh cái mới xuất hiện, tạo nên sự
thống nhất mới, quá trình cao chuyển hóa không bao giờ ngừng. “Những cái bất
tử mà chết, những cái đã chết hóa thành bất tử, cuộc sống của những cái này là
sự chết của những cái khác, và sự chết của những cái này là cuộc sống của
những cái khác…lửa sống bằng cái chết của đất, khí sống bằng cái chết của lửa,
nước sống bằng cái chết của khí, đất – (bằng cái chết) của nước”. Quy luật thứ
ba, xuất phát từ quy luật thứ nhất và quy luật thứ hai, có thể gọi là quy luật
tương quan khác nhau “biểu lộ” ra một cách khác nhau trước chủ thể. Héraclite
đưa ra hàng loạt dẫn chứng để làm sáng tỏ luận điểm này, chẳng hạn mật ngọt
đối với người bình thường, nhưng đắng đối với người bệnh; nước biển đối với
một số sinh thể là môi trường sống, nhưng đối với một số khác lại tỏ ra độc hại;
vàng là của quý đối với người, nhưng vô giá đối với loài vật; con khỉ đẹp nhất
trong loài khỉ cũng không thể so sánh với con người; những người toàn năng
nhất cũng không thể so sánh với các vị thần. Héraclite đưa ra ý tưởng này nhằm
nhấn mạnh sự đồng nhất cụ thể, hoặc tính tương đối của thực thể, và điều này
thật “táo bạo” khác thường”. Cách nhìn khác thường về vũ trụ theo tinh thần EBOOKBKMT.COM
“mọi thứ đều chảy” và “tất cả có và không có” là sự thách đố đối với ý thức
thống trị đương thời. Nietzsche đánh giá phép biện chứng của Héraclite là “ý
tưởng tuyệt vời, xuất phát từ tận suối nguồn thanh khiết nhất của chủ nghĩa Hy Lạp”.
2.3.2. Phép “biện chứng phủ đinh” của trương phai Elée
Trường phái Elée ( lấy tên một đô thị ven biển miền nam nước Ý nơi sinh
ra trường phái) về căn bản đối lập với Héraclite trong cách giải thích thế giới vì
chủ trương vạn vật bất biến không sinh thành không diệt vong. Đại biểu đầu tiên
của trường phái Elée là Xenophane ( khoảng 570-478 TCN), người phác thảo
những đường nét ban sơ của nguyên lý đồng nhất ( vạn vật đồng nhất thể) nhưng
Parmenide ( 540 – 470 TCN ) mới đem đến cho trường phái diện mão rõ ràng thật sự.
Vấn đề lớn trong triết học Parménide là quan hệ giữa tồn tại và hư vô, tồn
tại và tư duy, vận động và đứng im. Tư tưởng triết học chủ yếu của Parménide gồm ba luận điểm : a)
Thế giới không khác nào một quả cầu vật chất đóng chặt, nén đầy ,
không còn chỗ trống. Không thể có vận động, bởi lẽ không gian đã được phân
định, mỗi sự vật chiếm một vị trí tương ứng. Cách hiểu như vậy nhằm vào hai
mục tiêu: xem vận động, biến đổi là dòng hư ảo vô cùng, đồng thời bác bỏ khái
niệm không gian rỗng thuần tuý. b)
Cái gì ta tư duy được, diễn đạt được bằng ngôn ngữ, thì mới tồn tại.
Theo nghĩa đó tồn tại là tư duy đồng nhất với nhau, vừa như quá trình, vừa như
kết quả. Tư duy là tư duy chỉ khi nào có tính vật thể, và vật thể là vật thể hiện
hữu chỉ khi nào ta tư duy được với tính là nó có như một hiện thể đặc trưng.
Như vậy vần xác định: tồn tại là tư duy là một, mọi ý tưởng luôn luôn là ý tưởng
về cái-đang-tồn-tại; tồn tại là suy nhất, toàn vẹn; nó không lớn hơn, không bé
hơn; cái-không-tồn-tại không thể được tư duy như cái-đang-tồn-tại (không tồn
tại cái không tồn tại); cái-không-tồn-tại không thể nhận biết , không thể diễn đạt, EBOOKBKMT.COM
nói cách khác, cái gì không có thì vô danh, vô định, vô nghĩa. Tồn tại co, hư vô không . c)
Không có vận động không có chuyển hoá nghĩa là không có sự sinh
thành, xuất hiện và diệt vong, bởi lẽ chúng giả định khả năng của cái không tồn
tại (từ không đến có, từ hư vô đến tồn tại).
Parménide đã nêu ra ba đặc tính của tồn tại: tồn tại, thống nhất, đầy đủ;
không sinh không diệt; bất biến bất phân.
Phần tiếp theo của triết học Parménide được trình bày như nhị nguyên
luận cuả con đường chân lý và con đường thường kiến. Có hai thứ triết học –
một thứ hướng đến chân lý, một thứ căn cứ trên thường kiến. Con đường chân lý
dựa vào lý trí để khám phá tồn tại vĩnh cửu bất biến, còn con đường thường kiến
xuất phát từ cảm giác để nắm bắt thế giới luôn biến đổi, nhất thời, hư ảo. Hai
con đường ấy dẫn dắt con người đi tới nhận thức hai thế giới khác nhau: thế giới
bất biến, lý tưởng của tồn tại đích thực và thế giới hữu tình, khả biến của cảm quan.
Zenon ( khoảng 490- 430 TCN) học trò của Parménide, cụ thể hoá và phát
triển nguyên lý “ vận động đồng nhất thể” và nguyên lý “vạn vật bất biến” bằng
phương pháp trưng dẫn chứng lý (epicherema) và nghịch lý (aporia). Tất cả có
khoảng hơn 40 nghịch lý, nhưng hiện nay chỉ còn lại một số, được phân ra thành
hai nhóm- nhóm thứ nhất đề cập đến tính duy nhất của tồn tại; nhóm thứ hai –
tính bất biến của tồn tại. Để làm sáng tỏ điều này cần xem xét sự vật trong quan
hệ không gian trong “vật lý học” Aristote lưu ý đến bốn aporia của Zénon “sự
phân đôi” (dichotomia “Achille và con rùa”, “Mũi tên bay” , “Sân vận động”).
Quay lưng lại hoàn toàn với Héraclite, Zénon muốn bảo vệ cái đơn nhất
chống lại cái đa tạp, tồn tại chống hư vô, bất biến chống khả biên, liên tục chống
gián đoạn. Aristote cho rằng Zénon đã góp phần xây dựng phép biện chứng,
nhưng theo Hegel, đó là phép biện chứng theo nghĩa cũ- nghệ thuật tranh luận,
phản bác đối thủ, dồn đối thủ vào tình thế khó khăn, lúng túng, nghệ thuật trao
chuốt ngôn từ, đánh bóng những khái niệm. Zénon chưa có cái nhìn biện chứng
theo nghĩa hiện đại về quan hệ giữa vận động và đứng im, giữa liên tục và gián EBOOKBKMT.COM
đoạn, giữa hữu hạn và vô hạn, nhưng dù sao ông cũng đặt nó ra; nói cách khác,
các aporia thực sự kích thích tư duy, khuyến khích tinh thần hoài nghi, tranh luận, đi tới chân lý,
2.4 .Bản thể luận từ cách nhìn mới.
2.4.1. Bản thể luận và chủ nghĩa duy vật Empédocle
Các nhà duy vật sơ khai giải thích bản nguyên thế giới căn cứ trên những
hành chất hay yếu tố vật chất nào đó (đất, nước, lửa, khí, apeiron). Đó là phương
án nhất nguyên của chủ nghĩa duy vật Hy Lạp cổ đại. Vào thời kỳ nền dân chủ
Athènes thêm một phương án nữa – phương án đa nguyên, giải thích bản nguyên
thế giới căn cứ trên nhiều hành chất, hay nhiều yếu tố vật chất, gắn với tên tuổi
của Empé docle, Anaxagore, Leucippe và Desmocrite.
Empedocle (490 – 430 TCN) sống vào thời kỳ diễn ra những chuyển biến
to lớn trong xã hội cổ đại, đáng chú ý nhất là cuộc khởi nghĩa chống quân xâm
lược Ba Tư tại Milet, chiến tranh Hy Lạp – Ba Tư, và cuối cùng là sự ra đời của
nền dân chủ A thé nes với thiên tài chấp chính Péricles.
Triết học của Empédocle là sự phát triển quan điểm triết học duy vật về
bản nguyên thế giới của trường phái Milet, học thuyết về tồn tại duy nhất –
thống nhất của trường phái Elée, phương pháp giải thích thế giới của Héraclite.
Ở các nhà duy vật thuộc trường phái Milet và Héraclite, bản nguyên thế
giới là một trong những hành chất; giữa chúng không có sự chuyển hóa vào
nhau. Điều này, theo Empédocle, là sự thiếu thuyết phục vì hai lẽ: thứ nhất, sự
phô bày sinh động toàn bộ các sự vật, các yếu tố cho thấy các hành chất (nước,
lửa, khí, đất) là những tồn tại đồng cấp; thứ hai: nếu xem một trong những hành
chất là bản nguyên thì việc giải thích các chu kỳ trong vũ trụ sẽ bế tắc. Để khắc
phục những nan giải ấy Empédocle đưa ra cùng lúc bốn hành chất đất, nước, khí
, lửa như bốn cội nguồn của vạn vật, bốn bản nguyên thế giới, sau đó chỉ ra
những chu kì biến hóa của chúng. Ông trình bày bốn hành chất bằng những hình
ảnh đầy chất thơ : nước – “đại dương của cuộc sống” và “chất ẩm tối lạnh”, đất
– “cội nguồn thầm kín và cội nguồn bền vững của thế giới”, lửa – “vầng mặt trời EBOOKBKMT.COM
rực nóng và chói lọi”, khí – “khoảng cao bất diệt, tràn ngập hào quang. Bốn
hành chất c̣n tương xứng với bốn vị thần: thần Zeus, thần Héra, thần Aidès, thần
Nestis. Những vị thần kế tiếp đều xuất phát từ cội nguồn ấy. Sự kết hợp giữa các
hành chất với những liều lượng khác nhau tạo nên sự vật khác nhau. Chẳng hạn,
xương gồm hai phần nước, hai phần đất, bốn phần đất, bốn phần lửa; thần kinh –
hai phần nước, một phần đất, một phần lửa; máu – pha đều các hành chất.
Empédocle cho rằng ông đã giải tỏa sự bế tắc trên con đường tìm kiếm bản
nguyên tự nhiên. Phương án “đa nguyên” cho phép giải thích sự tồn tại đa dạng
trong tính thống nhất của thế giới.
Tồn tại xet như quá trình, như quan hệ giữa các sự vật được Empé docle
diễn đạt bằng khái niệm Tình yêu – Hận thù, động lực của sự hợp nhất và tách
biệt. Philia – Tình yêu (Hòa hợp, Niềm vui) là sự hợp nhất, hay hòa lẫn những
yếu tố khác nhau vào trong một, là bản nguyên của Thiện. Neikos – Hận thù, là
tách biệt cái hợp nhất thành những yếu tố, cắt lời chúng, là cơ sở của sự đa tạp và cái Ác.
Như vậy, trong cách giải thích nguồn gốc sự sống, khác với Anaximandre,
Empédocle đi theo trình tự từng bộ phận đến toàn thể, từ thấp đến cao, từ đơn
giản đến phức tạp. Quan điểm ấy cũng được vận dụng vào nhận thức luận.
Đối tượng cao nhất của nhận thức là cái toàn vẹn, cái mà mắt không nhìn
thấy, tai nghe không thấy, lý trí không bao quát hết. Nhận thức là quá trình
thống nhất cảm tính và lý tính. Lý tính sâu sắc hơn nhưng cảm tính hiện thực
hơn. Là nguồn gốc nhận thức cái toàn vẹn. Khác với Parménide coi thường cảm
giác, Empédocle cho rằng tư duy và cảm giác nương tựa, bổ sung nhau, thậm chí
trong nhiều trường hợp chúng là một. Con người xét đoán sự vật trong tính nội
tại của nó. Chúng ta nhận ra đất bằng đất, nhận ra nước bằng nước, nhận ra
aither bằng aither, nhận ra hận thù bằng hận thù, tóm lại chúng ta tri giác hành
chất bằng chính hành chất mà ta đang có.
Triết học của Empédocle là sự pha trộn chủ nghĩa duy vật tự phát và
thuyết nhân hình nguyên thủy, gán những đặc tính của đời sống con người cho EBOOKBKMT.COM
các quá trình của vũ trụ (tình yêu và hận thù). Chịu ảnh hưởng của thuyết luân
hồi và thanh tẩy của giáo phái Orphée.
Trở lại vấn đề bản nguyên vũ trụ, tư tưởng Em pesdocle tỏ ra thiếu nhất
quán ngay từ đầu. Trước hết, nếu ông không đồng ý phương án “nhất nguyên”
của mình, ông chỉ liệt kê bốn hành chất ? Bốn hành chất ấy cũng chính là bốn
yếu tố đại diện, tượng trưng, bốn cái phổ biến, vì nếu xem xét chúng từ góc độ
các yếu tố của thế giới cảm tính, thì ta buộc phải thừa nhận rằng chúng vẫn chưa
phải là những yếu tố duy nhất đang hiện hữu. Empédocle cũng mâu thuẫn với
chính mình trong luận điểm hợp nhất và tách biệt.
2.4.2. Anaxagore – quan niệm về những mầm mống và Nous
Vấn đề trung tâm triết học của Anaxagore, được trình bày trong “Về tự
nhiên” – tác phẩm duy nhất còn lưu lại, là vấn đề sự chuyển hóa về chất của sự
vật. Bằng cách nào mà một chất chuyển thành chất khác, từ không phải tóc xuất
hiện tóc và từ không phải thịt xuất hiện thịt ? Trong khi thừa nhận tư tưởng nền
tảng của trường phái Elée về tồn tại (“không có gì xuất hiện từ hư vô”),
Anaxagore phản bác cái gọi là tồn tại duy nhất, bất biến do Parménide nêu ra.
Không có cái gì xuất hiện rùi bị diệt, mà mỗi sự vật đều được tạo ra từ sự kết
hợp hoặc tách ra. Quan niệm về bản nguyên, do đó, cũng cần phải thay đổi. Cái
có trước không phải là những hành chất hay những cái bất định vô nghĩa (ám chỉ
apeiron của Anaximandre), mà là tất cả các trạng thái vật chất. Đất với vàng,
nước với máu, lửa với khí, chẳng cái nào có trước cái nào. Bản nguyên vô hạn
về số lượng, tràn ngập khắp nơi, thâm nhập vào mọi thứ, và từ mọi thứ mà tách
ra. Bản nguyên là phần bé nhất, siêu cảm giác, không nhìn thấy của lửa, nước,
vàng, máu, những thứ mà Anaxagore gọi là những hạt giống của muôn vật,
những mầm sống, hay những chất đồng nhất (homoiomeria). Những hạt giống
của máu chứa đựng tất cả những chất của máu, những hạt chất của sắt – những
chất của sắt. Hạt giống vĩnh cữu, bất biến, nhưng các sự vật liên kết với nhau,
chuyển hóa vào nhau bằng con đường kết hợp và phân tích: “Mọi thứ trong tất
cả, và ở tất cả có một phần của tất cả”. Suy rộng ra, trong bất kỳ vị trí, trạng thái EBOOKBKMT.COM
nào của vũ trụ cũng đều chứa đựng những homoiomeria của tất cả các sự vật.
“Người ta không thể dùng rìu mà cắt rời nóng khỏi lạnh, lạnh khỏi nóng”, càng
không thể dùng sức mạnh phá vỡ toàn thể vũ trụ như một khối thống nhất bao
gồm vô số các sự vật, hiện tượng liên kết với nhau, hút nhau hoặc đẩy nhau, đan xen nhau.
Tuy nhiên cần lưu ý rằng, tuy mỗi sự vật hàm chứa trong mình những hạt
giống của tất cả các sự vật, nhưng các tố chất của nó được quy định bởi các tố
chất của những homoiomeria chiếm ưu thế. Do đó, sự biến đổi về chất của sự
vật thể hiện sự thay thế phần lớn hạt giống (chất) của nó chứa đựng tại đó.
Chẳng hạn khi tuyết tan thành nước, nước chỉ hơi đục, bởi vì trước đó ở thể rắn
(tuyết) tính chất lạnh và trắng chiếm ưu thế so với tính chất đục và nóng.
Tồn tại thống nhất, nhưng không thống nhất không thống nhất tuyệt đối
theo cách lý giải của Parménide. Sự vật đồng nhất hiểu như cái toàn vẹn, nhưng
những yếu tố cấu thành hết sức đa tạp. Nguyên lý vạn vạt đồng nhất của trường
phái Elée được Anaxagore mở rộng thêm: sự vật vừa vô cùng lớn, vừa vô cùng
bé, vì “không có cái bé nhất, chỉ có cái bé hơn và bé hơn nữa”. Thoạt nhìn quan
niệm đó có tính biện chứng, nhưng đó là phép biện chứng nửa vời. Bản nguyên,
theo Anaxagore, không có tính chuyển hóa, “cái đồng nhất xuất phát từ cái đồng
nhất, không thể có sự chuyển hóa vào mặt đối lập, càng không thể có sự chuyển
hóa vào mặt đối lập”. Mọi sự thay đổi đối với ông chỉ là sự kết hợp và tách rời
những cái đồng nhất, còn sự thay đổi đích thực bị coi như là sự phủ định chính
mình. Ông chỉ biết rằng “thịt chuyển thành thịt, vàng chuyển thành vàng, còn
mọi sự kết hợp khác chỉ là một conglomelatus, sự kết hợp khiên cưỡng, vô trật
tự, chứ không phải là phép cấu thành sống động”. Tính chất thiếu nhất quán của
triết học Anaxagore càng thể hiện rõ trong khái niệm “NOUS”.
2.4.3. Nguyên tử luận duy vật Leucippe và Démocrite
Người sáng lập ra nguyên tử luận (Atomisme) là Leucippe (500 – 440
TCN). Ông đã xây dựng quan điểm cơ bản mà theo đó tất cả sự vật được hình
thành từ những phần tử bé nhất, đơn giản, không phân chia, gọi là Atomos EBOOKBKMT.COM
(những nguyên tử), và Kènon (khoảng không). Sau đó Démocrite (446 – 370
TCN), người Abdère, thuộc sứ Tharace, phát triển học thuyết ấy, trở thành đỉnh
cao của chủa nghĩa duy vật Hy Lạp cổ đại.
Nguyên tử và khoảng không đối lập nhau: khoảng không thiếu một kết
cấu bền vững, tồn tại có tính chất bền vững; khoảng không thống nhất, đâu đâu
cũng vậy, tồn tại đa dạng, mỗi nơi một vẻ; khoảng không vô định, tồn tại xác
định; khoảng không bất động, tồn tại vận động. Tính đa dạng của các nguyên tử
là sự lý giải đầy đủ và xác đáng nhất tính đa dạng của thế gới vật chất. Các nhà
nghiên cứu lịch sử triết học không so sánh nguyên tử luận của Démocrite với
quan điểm về hành chất của Thalès (nước), Anaximène (khí), Héraclite (lửa), vì
sự khác nhau giữa họ quá rõ ràng. Thời sơ khai Anaximandre là người nêu ra
quan điểm độc đáo nhất về bản nguyên (Apeiron). Apeiron thể hiện sự chuyển
hóa không ngừng của vũ trụ, nhưng hãy còn rất mơ hồ. Ngược lại, nguyên tử
của Démocrite là một yếu tố vật chất có tính quy định và tính tích cực nội tại.
“Trong nguyên tử luận, chúng ta tìm thấy ngay quan niệm về tồn tại tự nó của giới tự nhiên”.
Démocrite xem vận động là thuộc tính của các nguyên tử, chúng vận động
không ở đâu khác ngoài không gian, chúng “bay lượn như những hạt bụi li ti mà
ta thường nhìn thấy dưới nắng sớm”, “chúng va chạm nhau, đẩy nhau, rồi lại
xoắn vào nhau, tan hợp hợp tan theo những trình tự nhất định, tạo ra những
hướng vận động khác nhau”. Vận động riêng lẻ là vận động có tính ngẫu nhiên,
nhưng vận động của tập hợp vô số các nguyên tử trong không gian vĩ đại tuân
theo tính tất yếu khách quan, định hình nên một vũ trụ sinh động, biến hóa. Vận
động có tính chất vĩnh cửu, vì đó là vận động của các nguyên tử, không do ai
sinh ra, không cần đến một sự tiền định nào.
Bản thể luận của Démocrite ở một khía cạnh nào đó còn là sự dung hòa
giữa Héraclite và Parménide: thế giới các sự vật luôn tuôn chảy, nhưng đồng
thời là thế giới của các nguyên tử cấu thành sự vật, một thế giới vững bền, hoàn
thiện. Cách diễn đạt như vậy chưa hẳn chính xác, bởi lẽ trên thực tế các sự vật EBOOKBKMT.COM
biến đổi tuyệt đối, còn các yếu tố cấu thành sự vật thì bền vững tương đối. Các
“nguyên tử” tạo nên sự vật là bền vững và trường tồn, nhưng bản thân sự vật
biến đổi tự tại. Démocrite chưa đạt tới cách nhìn biện chứng về quan hệ giữa vận
động và đứng im, liên tục và gián đoạn. Ông chỉ mới chạm phớt qua nó, đóng
vai trò người hòa giải giữa Héraclite và trường phái Elée, nhưng không biết kết
hợp có chọn lọc những giá trị biện chứng của cả hai, và khai thác tiếp những
vùng đất mới của nhận thức thế giới.
Học thuyết Démocrite tạo ra bước phát triển mới trong triết học Hy Lạp
cổ đại, đặc biệt trong chủ nghĩa duy vật. Giá trị lịch sử của chủ nghĩa duy vật
nguyên tử cổ đại là ở tính chất triệt để của nó, ở chỗ chẵng những lần đầu tiên
nó dám thách thức mục đích luận tôn giáo, vốn ngự trị dai dẳng trong ý thức của
con người, mà còn kích thích sự phát triển của tư duy khoa học, nhất là khoa học
tự nhiên lý thuyết. Những đột phá quan trọng của nguyên tử luận duy vật ngày
càng làm sang tỏ khả năng xây dựng liên minh giữa triết học và khoc hoc tự nhiên.
2.4.4. Bản thể luận của Platon
Trong triết học Hy Lạp trước Socrate thế giới quan duy vật nói chung
chiếm ưu thế (trường phái Milet, Héraclite, Anaxagore, Empédocle…) nhưng
bắt đầu từ Socrate trở đi cùng với những biến đổi đầy bi kịch của xã hội, chủ
nghĩa duy tâm mở rộng dần ảnh hưởng của mình, và phát triển thành hệ thống
Platon. Triết học Platon thể hiện giai đoạn phát triển cực thịnh của triết học Hy
Lạp, khai phá nhiều lĩnh vực nghiên cứu mới, những lĩnh vực mà trước đây,
trong thời kỳ “triết học tự nhiên” còn thống trị, chưa được phân tích sâu sắc.
Platon, Aristote được nhân loại biết đến không chỉ như những triết ra, mà còn là
những nhà văn hóa lớn của thế giới cổ đại. Nhưng cuộc tranh luận giữa chủ
nghĩa duy vật (“đường lối Démocrite”) và chủ nghĩa duy tâm (“đường lối
Platon”) về bản chất và ý nghĩa của tồn tại cũng trở nên quyết liệt, chi phối con
đường vận động của triết học phương tây suốt bao nhiêu thế kỷ qua.
Học thuyết về ý niệm – nền tảng thế giới quan của Platon EBOOKBKMT.COM
Platon không những nâng tư tưởng duy tâm lên thành hệ thống, mà còn
khẳng định tính tất yếu của sự đối đầu duy vật – duy tâm trong triết học. Vấn đề
tồn tại (bản thể) chiếm vị trí đặc biệt trong triết học Platon. Tồn tại đích thực
phải là tồn tại như thế nào? Đâu là tồn tại khác, hay “cái bóng của tồn tại”? cái
gì là cơ sở, nền tảng của mọi tồn tại ? “Theo tôi, - Platon viết, - trước tiên cần
phân biệt cái gì luôn luôn tồn tại và không bao giờ sinh thành và cái gì luôn luôn
sinh thành nhưng không bao giờ tồn tại”.
Tóm lại, theo Platon, ý niệm đóng vai trò vừa là khuôn mẫu của các sự
vật, vừa là đích mà các thực thể của thế giới khả giác hướng đến, lại về khái
niệm về cơ sở chung của sự vật thuộc từng chủng loại.
Thế nào là vật chất? Thuật ngữ material (vật chất) bằng tiếng Lating mà ta
thường dùng ngày nay ở một chừng mực nào đó có thể liên tưởng đến chora của
Platon bằng tiếng Hy Lạp. Vật chất – chora là một khoảng không gian giả định,
“một số tiểu loại, không nhận thấy, không có hình hài, không tìm được”. Theo
cách ấy vật chất chẳng khác nào cái không tồn tại, hay không – là – gì – cả,
nhưng theo Platon, nó co thực, và cũng có vai trò hết sức to lớn đối với thế giới
các sự vật; nó là tồn – tại –
2.4.6.Bản thể luận Aristote
Aristote được coilà nhà bách khoavĩ đại nhất của cổđại HyLạp,là ôngtổ của
chính trị học.Là học trò của Platonnhưng có nhiều điểm bất đồngvới triết học của
Platon,dođó ông đãtự phát triển triết học của mình.
Ôngphê pháný niệm của Platin,chorằng,với mỗi sinhvật Platonđãtạo ramột ý
niệm cho nó, nghĩa là Platonđã nhân đôi đối tượngnhận thức chứ không phải sự nhận
thức của chính đối tượng.Ông chorằng, bản chất sự vật khôngthể ở bên ngoài sự vật,
tách rời sự vật mà nằm ngang trong chính sự vật.
Các nhà triết học HyLạp cổ đại đều có nhữngquanđiểm riêngvề vấn đềbảnthể
luận nhưng vẫn còn những hạn chế nhất định. EBOOKBKMT.COM KẾT LUẬN
Triết học Hy Lạp với hơn 1000 năm tồn tại với những nội dung phong
phú, đa dạng, bao trùm mọi lĩnh vực tri thức của con người, đã để lại những dấu
ấn đậm nét trên con đường phát triển của triết học phương Tây, tạo nên những
giá trị tinh thần to lớn, làm phong phú thêm kho báu tư tưởng nhân loại.
Các hệ thống triết học Hy Lạp cổ đại nói chung đều có xu hướng đi sâu
vào giải quyết các vấn đề của bản thể luận của triết học, bên cạnh đó những tư
tưởng biện chứng với tư cách những tư tưởng triết học về sự phát triển mà điển
hình là những tư tưởng của Hêraclit đã trở thành nét khác biệt giữa triết học Hy
Lạp với nền triết học phương Đông cổ đại.
Một trong những đặc trưng quan trọng nhất của triết học Hy Lạp cổ đại là
những mối liên hệ của nó với thần thoại và các hình thức sinh hoạt tôn giáo
nguyên thủy. Sự ra đời của triết học không có ý nghĩa kỷ nguyên thần thoại đã EBOOKBKMT.COM
hoàn toàn kết thúc. Triết học Hy Lạp ở những bước đi chập chững ban đầu, một
mặt là khát vọng dùng lý trí của con người để giải thích những vấn đề liên quan
đến cuộc sống con người, mặt khác là một nỗ lực "tái thiết lại thần thoại bằng
phương tiện của lý trí"
K.Marx viết: “… Mọi triết học chân chính đều là tinh hoa về mặt tinh
thần của thời đại mình”, và “triết học hiện đại chỉ tiếp tục cái công việc do
Héraclite và Aristote mở đầu mà thôi”. Các nhà triết học Hy Lạp, những người
mở đường cho truyền thống triết học phương Tây, và cả triết học nhân loại nữa,
xứng đáng được xem như những nhà triết học “chân chính” theo đúng nghĩa cuả
từ đó, bởi lẽ tư tưởng của họ là kiết tinh, là tinh hoa của văn hóa Hy Lạp. Tìm
hiểu triết học Hy Lạp trước hết là làm sống lại những tên tuổi và những tư tưởng
đã góp phần tạo nên dáng vẻ bề thế của một nền văn hóa mà ánh hào quang còn tỏa sáng đến nay./.