Tiểu luận về con người - Triết học Mác - leenin | Trường đại học Điện Lực

Tiểu luận về con người - Triết học Mác - leenin | Trường đại học Điện Lực được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

ĐỀ 14. Lý luận về con người và vấn đề đào tạo nguồn nhân lực trong quá
trình CNH, HĐH ở nước ta hiện nay
A. MỞ ĐẦU (Lý do chọn đề tài)
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận
1. Khái niệm chung về con người
2. Bản chất con người
3. Ý nghĩa lịch sử khi nghiên cứu bản chất con người
II. Vận dụng vào đào tạo nguồn nhân lực trong sự nghiệp đổi mới ở nước
ta hiện nay
1. Thực trạng nguồn nhân lực nước ta thời kỳ đổi mới
a, Kết quả đạt được
b, Tồn tại, hạn chế
2. Một số giải pháp nhằm đào tạo chất lượng nguồn nhân lực nước ta trong
thời gian tới
3. Sinh viên Việt Nam trước những cơ hội, thách thức mới.
III. KẾT LUẬN
C. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
MỞ ĐẦU
(Lí do chọn đề tài)
Vấn đề con người luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học từ cổ đại
đến hiện đại. Từ khi Triết học Mác-Lênin ra đời đã giải quyết những nội dung
liên quan đến con người. Khẳng định con người có vị trí và vai trò rất quan
trọng đối với thế giới, và trong thực tế hiện nay thì con người là một lực
lượng chủ đạo trong nền sản xuất xã hội. Trong công cuộc đổi mới xã hội chỉ
có con người-yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất của xã hội, là
nhân tố chính, là nguồn lực mang tính quyết định sự thành công hay thất bại.
Đảng ta đã khẳng định, tư tưởng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng
với Chủ nghĩa Mác-Lê nin mãi mãi là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nan cho
hành động của Đảng. Vì vậy, thấm nhuồn tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lê nin về
con người, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã khẳng định: “Con người là trung tâm của chiến
lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền
con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước
và quyền làm chủ của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã
hội, gia đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng
dân cư trong việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước,
có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khoẻ, lao động giỏi;
sống có văn hoá, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính”
Để đóng góp và ủng hộ đường lối của Đảng trong công cuộc xây dựng, bảo
vệ và phát triển đất nước, em xin chọn đề tài “ luận về con người và vấn
đề đào tạo nguồn nhân lực trong quá trình CNH, HĐH nước ta hiện
nay” làm đề tài nghiên cứu của mình
Hoàn thành tiểu luận này em hi vọng có thể góp một phần nhỏ bé của mình
trong việc làm rõ lòng tin của mọi người vào công cuộc công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nước ta hiện nay, và đưa ra một số giải pháp về nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực Việt Nam đáp ứng được nhu cầu hội nhập kinh tế quốc
tế hiện nay, và thực hiện mục tiêu của Đảng phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng công nghiệp hóa-hiện đại hóa
2
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận
1. Khái niệm chung về con người
Trong xã hôi không một ai nhầm lẫn con người với loài động vật, song
không phải vì thế mà câu hỏi“con người là gì” bị trở thành đơn giản, vì câu
hỏi chỉ là chân thực khi con người có khả năng tách ra khỏi bản thân mình để
nhận thức mình với tư cách là hệ thống trong quá trình vận động, sinh thành.
Từ thời cổ đại đến nay vấn đề con người luôn giữ một vị trí quan trọng trong
các học thuyết triết học. Các nhà triết học đưa ra rất nhiều các quan điểm
khác nhau về con người nhưng nhìn chung các quan điểm triết học nói trên
đều xem xét con người một cách trừu tượng ,do đó đã đi đến những cách lý
giải cực đoan phiến diện.
Chủ nghĩa Mác đã kế thừa và khắc phục những mặt hạn chế và đồng thời
phát triển những quan niệm hạn chế về con người đã có trong các học thuyết
trước đây để đi đến những quan niệm về con người hiện thực, con người hoạt
động thực tiễn cải tạo tự nhiên và xã hội. Với tư cách là con người hiện thực,
con người vừa là sản phẩm của tự nmhiên và xã hội, đồng thời vừa là chủ thể
cải tạo tự nhiên và xã hội. Hay nói cách khác chủ nghĩa Mác xem xét con
người như một thực thể sinh học- xã họi.
2. Bản chất con người
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học.
Với triết học Mác – Lênin, lần đầu tiên vấn đề con người được giải quyết một
cách đúng đắn trên quan điểm biên chứng duy vật. Theo C.Mác, con người là
một sinh vật có tính xã hội ở trình độ cao nhất của giới tự nhiên và lịch sử xã
hội, là chủ thể của lịch sử, sáng tạo nên tất cả thành tựu của văn minh và văn
hóa.
- Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội
Con người vừa là một thực thể tự nhiên, là sản phẩm của tự nhiên, nhưng
là sản phẩm cao nhất của tự nhiên. Vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của tự
nhiên.
3
Là một thực thể tự nhiên, con người cũng có như động vật khác như nhu
cầu về sinh lí và cũng có các hoạt động bản năng: đói phải ăn, khát phải
uống… Như vậy, con người là một sinh vật có đầy đủ bản tính sinh vật.
Mặt tự nhiên và măt xã hội thống nhất trong con người. Mặt tự nhiên là
“nền” cho con người, mặt xã hội nâng mặt tự nhiên của con người lên trên
động vật. Con người khác động vật ở chỗ có tư duy và hoạt động có mục
đích. Theo Mác mặt xã hội của con người có điểm nổi bật hơn hẳn và phân
biệt với động vật là con người có hoạt động lao động sản xuất vật chất. Quá
trình lao động sản xuất con người sản xuất ra của cải vật chất phục vụ cho
cuộc sống của mình. Lao động là yếu tố hình thành bản chất xã hội và nhân
cách ở con người.
Tóm lại, con người là một chỉnh thể thống nhất giữa mặt tự nhiên và mặt
xã hội. Hai mặt này vừa đối lập nhau, vừa quy định ràng buộc và làm tiền đ
cho nhau, trong đó mặt tự nhiên quyết định sự tồn tại của con người, còn mặt
xã hội quyết định bản chất con người.
- Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội
Bản chất con người được quy định bởi tất cả các mối quan hệ xã hội, tức là
bị quy định giữa mối quan hệ giữa người với người.
Bản chất con người phải đặt tổng quan hệ cộng đồng với cá nhân. Con
người hòa nhập vào cộng đồng củng cố thêm sự phong phú và thể hiện bản
sắc cá nhân.
Bản chất con người vừa mang tính lịch sử, vừa mang tính thời đại. Luận đề
khẳng định bản chất con người của Mác không phủ nhận mặt tự nhiên của
con người mà muốn nhấn mạnh sự khác biệt của con người và loài vật.
- Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con
người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của
giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ
thể của lịch sử - xã hội.
Với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào
tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động, phát triển
của lịch sử xã hội.
4
Trong quá trình cải biến giới tự nhiên, con người cũng làm nên lịch sử của
chính mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo
ra lịch sử của chính bản thân con người. Bản chất của con người không phải
là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại
của con người.
3. Ý nghĩa lịch sử khi nghiên cứu bản chất con người
Giải thích một cách khoa học các vấn đề của con người từ cả hai phương
diện tự nhiên và xã hội, trong đó phương diện xã hội có vai trò quyết định tới
bản chất của con người.
Động lực cơ bản của sự tiến bộ và sự phát triển của xã hội chính là năng
lực sáng tạo lịch sử của con người, vì con người chính là phát huy nguồn
động lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của xã hội.
Sự nghiệp giải phóng con người, nhằm phát huy khả năng sáng tạo lịch sử
của nó phải là hướng vào sự nghiệp giải phóng những quan hệ kinh tế – xã
hội.
Phương pháp luận trong triết học Mác – Lênin giữ vai trò định hướng cho
con người trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Đồng thời phát triển thế
giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng trong lịch sử.
II. Vận dụng vào đào tạo nguồn nhân lực trong sự nghiệp đổi mới ở nước
ta hiện nay
1. Thực trạng nguồn nhân lực nước ta thời kỳ đổi mới
a, Kết quả đạt được
- Số lượng nguồn nhân lực
So với các nước trong khu vực và thế giới, Việt Nam có lực lượng lao động
dồi dào. Năm 2021 tổng dân số nước ta là 98,51 triệu người, là quốc gia đông
dân xếp thứ 2 khu vực Đông Nam Á.
Trong số này, 50,5 triệu người đang ở độ tuổi lao động, chiếm tới 67,7%
dân số. Tỷ trọng dân số tham gia lực lượng lao động ở nhóm tuổi từ 25-29 là
cao nhất.
Sự gia tăng về dân số của Việt Nam kéo theo số lượng nguồn nhân lực có
sự tăng trưởng mạnh. Điều này cho thấy, lực lượng lao động Việt Nam luôn
5
trong tình trạng có thể đáp ứng được nhu cầu cung cấp lực lao động cho
doanh nghiệp trong và ngoài nước.
- Chất lượng nguồn nhất lực
Mặc dù số lượng đông nhưng chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam đang ở
mức thấp trong bậc thang quốc tế, không đủ lao động có chuyên môn, tay
nghề cao. Số lượng lao động có chuyên môn chỉ là 24,1% triệu lao động, số
liệu năm 2021.
Lao động đã qua đào tạo và có chứng chỉ, bằng ở các trình độ từ sơ cấp
nghề, trung cấp, cao đẳng đến đại học và sau đại học chiếm 20,92%. Trong
10 năm vừa qua, tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng đáng kể nhưng vẫn có tới
75,9% người lao động chưa được đào tạo về chuyên môn.
- Đặc trưng vùng địa lý
Lao động đã qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ ở khu vực thành thị cao
hơn khu vực nông thôn 2,5 lần. Tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo có
bằng cao nhất ở khu vực Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ, thấp nhất
là ở Đồng bằng sông Cửu Long.
- Năng suất lao động
Theo số liệu từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 2019, năng suất lao động Việt
Nam chỉ bằng 7,6% năng suất của Singapore, 19,5% của Malaysia, 37,9%
với Thái Lan, 45,6% của Indonesia, 56,9% của Philippines và 68,9% so với
Brunei. So với Myanmar năng suất lao động Việt Nam chỉ bằng 90% và bằng
88,7% của Lào. Tính trong khu vực Đông Nam Á, năng suất lao động của
nước ta chỉ cao hơn Campuchia.
b, Tồn tại, hạn chế
Bên cạnh thực trạng và một số kết quả đạt được, nguồn nhân lực Việt Nam
hiện nay còn bộc lộ nhiều hạn chế khi chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ,
đòi hỏi của thị trường lao động thời kỳ hội nhập. Cụ thể:
- Sự thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao
Mặc dù sự gia tăng về dân số kéo theo số lượng nguồn nhân lực trong độ
tuổi lao động tăng trưởng mạnh. Thế nhưng con số đạt chất lượng cao, sẵn
sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng của các doanh nghiệp lớn vẫn còn hạn chế.
6
Một trong những nguyên nhân xuất phát từ công tác giáo dục đào tạo chưa
thực sự phù hợp. Lao động trong nước vẫn chủ yếu là lao động phổ thông.
Hoạt động vẫn chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp và phi nông nghiệp, cơ
cấu nhân lực lao động cũng còn nhiều bất cập.
- Nạn “chảy máu chất xám”
Chảy máu chất là sự di chuyển của nguồn nhân lực có kiến thức và kỹ
thuật từ một nước qua những nước khác. Đây chính là thất thoát nguồn nhân
lực, lao động giỏi trong nước ra nước ngoài làm việc.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng “chảy máu chất xám” tại
Việt Nam, đó là chế độ lương thưởng, môi trường làm việc chưa thực sự thỏa
đáng. Bên cạnh đó, vấn đề sử dụng lao động, bố trí việc làm cho đội ngũ lao
động có trình độ chuyên môn cao chưa hợp lý. Họ chưa được tạo mọi điều
kiện, cơ hội để phát triển và thăng tiến trong nghề nghiệp.
Trong thời gian tới, nếu các doanh nghiệp và nhà nước không có giải pháp
“giữ chân nhân tài”, xu hướng chảy máu chất xám sẽ tiếp tục gia tăng. Và tất
nhiên, hiện tượng này sẽ ảnh hưởng nặng nề đến sự phát triển của nền kinh tế
chủ đạo.
2. Một số giải pháp nhằm đào tạo chất lượng nguồn nhân lực nước ta trong
thời gian tới
Muốn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, Chính phủ cũng như các cơ
quan liên quan cần đưa ra những chính sách, biện pháp kết hợp hiệu quả giữa
đào tạo và sử dụng lao động trong chiến lược phát triển kinh tế của đất nước.
Từ đó, nguồn nhân lực chất lượng cao gia tăng, phục vụ yêu cầu phát triển
kinh tế. Cụ thể như sau:
- Nhận thức đúng đắn về nền kinh tế đất nước
Việc nhận thức đúng về nền tình hình phát triển kinh tế của xã hội hiện nay
sẽ giúp cho quá trình xây dựng các chiến lược phát triển nguồn nhân lực, đáp
ứng nhu cầu cấp thiết. Trong đó, nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao
cần tương xứng với tiềm năng phát triển, mang lại sức hút đầu tư lớn vào Việt
Nam.
7
Không thể thiếu nâng cao và hiểu rõ được vai trò phát triển nguồn nhân lực
cao trong phát triển kinh tế bền vững. Nguồn nhân lực chất lượng cao đã,
đang và sẽ được đánh thức; khơi dậy tiềm năng, thế mạnh bị ngủ quên hoặc
chưa sử dụng đúng lúc, đúng nơi một cách hiệu quả và hợp lý nhất.
- Chiến lược phát triển nguồn nhân lực
Nhà nước cần đưa ra chiến lược nguồn nhân lực gắn liền với chiến lược
phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xác định rõ
ràng việc xây dựng nguồn nhân lực là trách nhiệm của những nhà hoạch định.
Cùng với đó tổ chức, thực hiện chính sách là trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị.
- Xây dựng chương trình đào tạo nghề, ngoại ngữ
Các cơ quan liên quan của Chính Phủ cần đưa ra những biện pháp giải
quyết các vấn đề mang tính cấp bách, lâu dài của nguồn nhân lực. Trong đó
những vấn đề khai thác, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực tạo nên chuyển
biến mạnh mẽ trong công tác khai thác và đào tạo.
Lao động Việt dù chưa qua trường lớp đào tạo nhưng vẫn là những người
có kinh nghiệm, kỹ năng làm việc, tạo ra năng suất lao động. Vấn đề chỉ là họ
chưa được chuẩn hóa ở các ngành nghề và còn thiếu công cụ đánh giá, ghi
nhận trình độ của họ.
Ở một số nước phát triển, việc chuẩn hóa bằng những bộ tiêu chuẩn kỹ
năng nghề hoặc chuẩn năng lực quốc gia giúp doanh nghiệp tự đào tạo hay
người lao động tự học tập, rèn luyện theo tiêu chuẩn đó, thực hiện ghi nhận
trình độ cũng như năng lực chuyên môn theo khung trình độ kỹ năng nghề
của quốc gia.
- Hỗ trợ chi phí học nghề cho người lao động
Hỗ trợ chi phí học nghề cho người lao động có nguyện vọng làm việc ở
nước ngoài được xem là vấn đề đáng quan tâm. Các nghề có tiềm năng lớn
hiện nay, bao gồm xây dựng, điều dưỡng viên, nhân viên phục vụ khách sạn,
nhà hàng. Nếu người lao động đạt trình độ tay nghề theo quy định sẽ được
đối tác nước ngoài tiếp nhận.
Mục tiêu là khuyến khích người lao động học nghề trước khi sang nước
ngoài làm việc, tăng tỷ lệ người lao động ở nước ngoài, tăng khả năng cạnh
8
tranh và từng bước xây dựng thương hiệu nguồn nhân lực Việt Nam trên thị
trường quốc tế. Từ đó có những tổng kết, phân tích, rút kinh nghiệm và mở
rộng mô hình.
- Xây dựng kế hoạch cụ thể
Nhà nước cần đưa ra kế hoạch tạo nguồn nhân lực từ tất cả các đội ngũ
như: nông dân, công nhân hay trí thức. Có kế hoạch khai thác, đào tạo và bồi
dưỡng, .sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực
- Nâng cao trình độ học vấn
Đây cũng là vấn đề quan trọng, nhìn trung trình độ học vấn bình quân cả
nước mới ở lớp 6. Tỷ lệ biết chữ chỉ đạt khoảng 93%. Do đó cần đưa ra
những giải pháp nâng cao trình độ học vấn về mặt bằng của cả nước, thực
hiện cả xã hội học tập, làm việc.
- Học tập kinh nghiệm, bí quyết từ các quốc gia trên thế giới
Việc quan sát, học tập kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực trên thế giới
giúp cho Việt Nam có thêm kinh nghiệm để phát triển nguồn nhân lực trong
nước. Hiện Việt Nam chưa thực sự có công cụ đánh giá năng lực nhân viên
một cách phù hợp và chính xác.
Chính vì vậy, sự chuẩn hóa các bộ tiêu chuẩn về kỹ năng, chuyên môn,
trình độ là điều cần thiết. Điều này tạo thành bộ khung năng lực cho từng
ngành nghề, đánh giá năng lực của nhân sự một cách chính xác và hiệu quả
hơn.
- Đưa ra chính sách về nguồn nhân lực
Nhà nước cần tổng kết cả về lý luận, thực tiễn nguồn nhân lực Việt Nam.
Qua đó đánh giá, rút kinh nghiệm, xây dựng chính sách mới và điều chỉnh
những chính sách sẵn có về nguồn nhân lực Việt Nam. Cụ thể đó là:
Chính sách hướng nghiệp, dạy nghề, học nghề
Dự báo nhu cầu lao động đồng thời cân đối lao động theo
trình độ, ngành nghề
Chính sách cụ thể với những lao động làm việc ở nước
ngoài
Chính sách đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp
của người lao động
9
3. Sinh viên Việt Nam trước những cơ hội, thách thức mới.
Việt nam đang đứng trước những thách thức lớn, văn minh trí tuệ phát triển
từng giây , từng phút , nếu không nhanh chóng đi tới sẽ kéo nhau cùng tụt
hậu , dũng cảm thông minh mấy cũng sẽ thất bại.
Vận mệnh , tiền đồ của đất nước phụ thuộc một phần quan trọng vào thế h
trẻ, thanh niên và sinh viên phải vươn lên cùng với cha anh làm chủ đất nước
ngay từ bây giờ .
Để đóng góp cho sự phát triển của đất nước và tương lai của dân tộc, thanh
niên và sinh viên phải có hoài bão và lí tưởng , có tri thức và kĩ năng, phải “
học, học nữa, học mãi” . Sinh viên cần phát huy truyền thống văn hiến của
dân tộc , xây dựng xã hội Việt nam thành một “ x ”, thành một ã hội học tập
”, đưa dân tộc ta trở thành một “ ”, chiếmxã hội sáng tạo dân tộc thông thái
lĩnh những đỉnh cao trí tuệ của nhân loại trong thế kỉ 21 và thiên kỉ thứ 3.
Nước ta bước vào công nghiệp hóa, hiện đại hoá với điểm xuất phát rất thấp
trong khi các nước tiên tiến đã bước vào nền kinh tế tri thức, nền văn minh trí
tuệ . Trong kỉ nguyên của nền văn minh trí tuệ, sự phát triển tri thức của nhân
loại sẽ tăng lên theo hàm mũ . Bởi vậy , thế hệ trẻ, đặc biệt là sinh viên phải
xây dựng cho mình bản lĩnh độc lập tự chủ, nghị lực sáng tạo và tinh thần đổi
mới , tiếp thu và làm chủ những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến,
những tri thức quản lí và kinh doanh hiện đại của nhân loại, trong khi đẩy
nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá , sớm đưa nước ta tiếp cận với
nền kinh tế tri thức và xã hội thông tin.
Trước dòng thác lũ ào ạt của thời đại thông tin, vẫn còn tình trạng’ chìm
trong thông tin nhưng có thể đói về kiến thức”, nhiều sinh viên, học sinh vẫn
chưa nhận thấy tầm quan trọng của việc học, họ xem học tập là nghĩa vụ chứ
chưa thấy đó là quyền lợi của mỗi người. Vì vậy , phải giáo dục cho sinh viên
, học sinh nhận thức đúng bản chất vấn đề, Đặc biệt phải nâng cao chất lượng
giáo dục , mở rộng nhiều hình thức giáo dục. Hiện nay, chúng ta đã có nhiều
hình thức giáo dục đáng khích lệ và thu nhiều kết quả tốt. Ví dụ: hình thức
đào tạo từ xa có thể cung cấp kiến thức cho những người không có điều kiện
học tập trung hoặc những người vừa học vừa làm. Hình thức giáo dục này
10
không chỉ góp phần nâng cao trình độ người dân mà còn giảm được một chi
phí đáng kể cho nhà nước và nhân dân.
11
III. KẾT LUẬN
Chủ nghĩa xã hội do con người, vì con người. Do vậy hình thành mối
quan hệ đúng đắn về con người về vai trò của con người trong sự phát triển
xã hội nói chung trong xã hội, xã hội chủ nghĩa nói riêng là một vấn đề không
thể thiếu được của thế giới quan Mác – Lênin.
Con người là khái niệm chỉ những có thể người như một chỉnh thể, trong
sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội của nó. Nếu chỉ dừng lại ở một
số trước tỉnh sinh học của con người thì không thể giải thích được bản chất
của con người, con người là một thực thế đặc biệt hoạt động có ý thức, có khả
năng sáng tạo cho minh. Tử tự nhiên và chính trong quá trình hoạt động đó
những quan hệ xã hội được hình thành có tác động mạnh mẽ tới sự hình
thành nhân cách, bản chất con người Mác viết Con người là tổng hoà của
những quan hệ xã hội Con người là chủ thể lịch sử, sáng tạo và lịch sử. Trong
CMXHCN con người là yếu tố quyết định vừa là điểm xuất phát vừa là mục
đích của một chỉnh sách kinh tế - xã hội xây dựng xã hội chủ nghĩa là xây
dựng xã hội chủ nghĩa là xây dựng một xã hội mà ở đó có đủ những điều kiện
vật chất và tinh thần.
Việt Nam đã làm được điều đó hay chưa cho tới nay tuy chúng ta đã đạt
được những thành tựu đáng kể nhưng đời sống vật chất tinh thần của đại đa
số, người dân còn thiếu. Do vậy lý luận chủ nghĩa Mác Lênin nói chung và
quan điểm chủ nghĩa Mác Lênin về con người là kim chỉ nam để hưởng đất
nước ta cần pahi đi đâu, làm gì và làm như thế nào, để thực hiện thành công
công cuộc công nghiệp hoa hiện đại hóa đất nước, có như vậy chúng ta mới
vượt qua được cải ngưỡng của nghèo nàn và lạc hậu...
12
C. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giao tỉnh triết học Mặc Lên của NXB chính trị quốc gia (tập I, tập II),
2. Tài liệu học tập lý luận chính trị phổ thông (NXB chính trị quốc gia (lập
1).
3. Tạp chí cộng sản.
4. Chiến lược huy động vốn và nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước. Trần Kiên
5. Định hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong quá trình CNH,
HDH. Phạm Tất Dong.
13
| 1/13

Preview text:

ĐỀ 14. Lý luận về con người và vấn đề đào tạo nguồn nhân lực trong quá
trình CNH, HĐH ở nước ta hiện nay
A. MỞ ĐẦU (Lý do chọn đề tài) B. NỘI DUNG I. Cơ sở lý luận
1. Khái niệm chung về con người 2. Bản chất con người
3. Ý nghĩa lịch sử khi nghiên cứu bản chất con người
II. Vận dụng vào đào tạo nguồn nhân lực trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay
1. Thực trạng nguồn nhân lực nước ta thời kỳ đổi mới
a, Kết quả đạt được b, Tồn tại, hạn chế
2. Một số giải pháp nhằm đào tạo chất lượng nguồn nhân lực nước ta trong thời gian tới
3. Sinh viên Việt Nam trước những cơ hội, thách thức mới. III. KẾT LUẬN
C. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 MỞ ĐẦU (Lí do chọn đề tài)
Vấn đề con người luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học từ cổ đại
đến hiện đại. Từ khi Triết học Mác-Lênin ra đời đã giải quyết những nội dung
liên quan đến con người. Khẳng định con người có vị trí và vai trò rất quan
trọng đối với thế giới, và trong thực tế hiện nay thì con người là một lực
lượng chủ đạo trong nền sản xuất xã hội. Trong công cuộc đổi mới xã hội chỉ
có con người-yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất của xã hội, là
nhân tố chính, là nguồn lực mang tính quyết định sự thành công hay thất bại.
Đảng ta đã khẳng định, tư tưởng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng
với Chủ nghĩa Mác-Lê nin mãi mãi là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nan cho
hành động của Đảng. Vì vậy, thấm nhuồn tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lê nin về
con người, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã khẳng định: “Con người là trung tâm của chiến
lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền
con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước
và quyền làm chủ của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã
hội, gia đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng
dân cư trong việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước,
có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khoẻ, lao động giỏi;
sống có văn hoá, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính”
Để đóng góp và ủng hộ đường lối của Đảng trong công cuộc xây dựng, bảo
vệ và phát triển đất nước, em xin chọn đề tài “Lý luận về con người và vấn
đề đào tạo nguồn nhân lực trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta hiện
nay
” làm đề tài nghiên cứu của mình
Hoàn thành tiểu luận này em hi vọng có thể góp một phần nhỏ bé của mình
trong việc làm rõ lòng tin của mọi người vào công cuộc công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nước ta hiện nay, và đưa ra một số giải pháp về nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực Việt Nam đáp ứng được nhu cầu hội nhập kinh tế quốc
tế hiện nay, và thực hiện mục tiêu của Đảng phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng công nghiệp hóa-hiện đại hóa 2 B. NỘI DUNG I. Cơ sở lý luận
1. Khái niệm chung về con người
Trong xã hôi không một ai nhầm lẫn con người với loài động vật, song
không phải vì thế mà câu hỏi“con người là gì” bị trở thành đơn giản, vì câu
hỏi chỉ là chân thực khi con người có khả năng tách ra khỏi bản thân mình để
nhận thức mình với tư cách là hệ thống trong quá trình vận động, sinh thành.
Từ thời cổ đại đến nay vấn đề con người luôn giữ một vị trí quan trọng trong
các học thuyết triết học. Các nhà triết học đưa ra rất nhiều các quan điểm
khác nhau về con người nhưng nhìn chung các quan điểm triết học nói trên
đều xem xét con người một cách trừu tượng ,do đó đã đi đến những cách lý
giải cực đoan phiến diện.
Chủ nghĩa Mác đã kế thừa và khắc phục những mặt hạn chế và đồng thời
phát triển những quan niệm hạn chế về con người đã có trong các học thuyết
trước đây để đi đến những quan niệm về con người hiện thực, con người hoạt
động thực tiễn cải tạo tự nhiên và xã hội. Với tư cách là con người hiện thực,
con người vừa là sản phẩm của tự nmhiên và xã hội, đồng thời vừa là chủ thể
cải tạo tự nhiên và xã hội. Hay nói cách khác chủ nghĩa Mác xem xét con
người như một thực thể sinh học- xã họi. 2. Bản chất con người
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học.
Với triết học Mác – Lênin, lần đầu tiên vấn đề con người được giải quyết một
cách đúng đắn trên quan điểm biên chứng duy vật. Theo C.Mác, con người là
một sinh vật có tính xã hội ở trình độ cao nhất của giới tự nhiên và lịch sử xã
hội, là chủ thể của lịch sử, sáng tạo nên tất cả thành tựu của văn minh và văn hóa.
- Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội
Con người vừa là một thực thể tự nhiên, là sản phẩm của tự nhiên, nhưng
là sản phẩm cao nhất của tự nhiên. Vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của tự nhiên. 3
Là một thực thể tự nhiên, con người cũng có như động vật khác như nhu
cầu về sinh lí và cũng có các hoạt động bản năng: đói phải ăn, khát phải
uống… Như vậy, con người là một sinh vật có đầy đủ bản tính sinh vật.
Mặt tự nhiên và măt xã hội thống nhất trong con người. Mặt tự nhiên là
“nền” cho con người, mặt xã hội nâng mặt tự nhiên của con người lên trên
động vật. Con người khác động vật ở chỗ có tư duy và hoạt động có mục
đích. Theo Mác mặt xã hội của con người có điểm nổi bật hơn hẳn và phân
biệt với động vật là con người có hoạt động lao động sản xuất vật chất. Quá
trình lao động sản xuất con người sản xuất ra của cải vật chất phục vụ cho
cuộc sống của mình. Lao động là yếu tố hình thành bản chất xã hội và nhân cách ở con người.
Tóm lại, con người là một chỉnh thể thống nhất giữa mặt tự nhiên và mặt
xã hội. Hai mặt này vừa đối lập nhau, vừa quy định ràng buộc và làm tiền đề
cho nhau, trong đó mặt tự nhiên quyết định sự tồn tại của con người, còn mặt
xã hội quyết định bản chất con người.
- Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội
Bản chất con người được quy định bởi tất cả các mối quan hệ xã hội, tức là
bị quy định giữa mối quan hệ giữa người với người.
Bản chất con người phải đặt tổng quan hệ cộng đồng với cá nhân. Con
người hòa nhập vào cộng đồng củng cố thêm sự phong phú và thể hiện bản sắc cá nhân.
Bản chất con người vừa mang tính lịch sử, vừa mang tính thời đại. Luận đề
khẳng định bản chất con người của Mác không phủ nhận mặt tự nhiên của
con người mà muốn nhấn mạnh sự khác biệt của con người và loài vật.
- Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con
người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của
giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ
thể của lịch sử - xã hội.
Với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào
tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động, phát triển của lịch sử xã hội. 4
Trong quá trình cải biến giới tự nhiên, con người cũng làm nên lịch sử của
chính mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo
ra lịch sử của chính bản thân con người. Bản chất của con người không phải
là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người.
3. Ý nghĩa lịch sử khi nghiên cứu bản chất con người
Giải thích một cách khoa học các vấn đề của con người từ cả hai phương
diện tự nhiên và xã hội, trong đó phương diện xã hội có vai trò quyết định tới
bản chất của con người.
Động lực cơ bản của sự tiến bộ và sự phát triển của xã hội chính là năng
lực sáng tạo lịch sử của con người, vì con người chính là phát huy nguồn
động lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của xã hội.
Sự nghiệp giải phóng con người, nhằm phát huy khả năng sáng tạo lịch sử
của nó phải là hướng vào sự nghiệp giải phóng những quan hệ kinh tế – xã hội.
Phương pháp luận trong triết học Mác – Lênin giữ vai trò định hướng cho
con người trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Đồng thời phát triển thế
giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng trong lịch sử.
II. Vận dụng vào đào tạo nguồn nhân lực trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay
1. Thực trạng nguồn nhân lực nước ta thời kỳ đổi mới a, Kết quả đạt được
- Số lượng nguồn nhân lực
So với các nước trong khu vực và thế giới, Việt Nam có lực lượng lao động
dồi dào. Năm 2021 tổng dân số nước ta là 98,51 triệu người, là quốc gia đông
dân xếp thứ 2 khu vực Đông Nam Á.
Trong số này, 50,5 triệu người đang ở độ tuổi lao động, chiếm tới 67,7%
dân số. Tỷ trọng dân số tham gia lực lượng lao động ở nhóm tuổi từ 25-29 là cao nhất.
Sự gia tăng về dân số của Việt Nam kéo theo số lượng nguồn nhân lực có
sự tăng trưởng mạnh. Điều này cho thấy, lực lượng lao động Việt Nam luôn 5
trong tình trạng có thể đáp ứng được nhu cầu cung cấp lực lao động cho
doanh nghiệp trong và ngoài nước.
- Chất lượng nguồn nhất lực
Mặc dù số lượng đông nhưng chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam đang ở
mức thấp trong bậc thang quốc tế, không đủ lao động có chuyên môn, tay
nghề cao. Số lượng lao động có chuyên môn chỉ là 24,1% triệu lao động, số liệu năm 2021.
Lao động đã qua đào tạo và có chứng chỉ, bằng ở các trình độ từ sơ cấp
nghề, trung cấp, cao đẳng đến đại học và sau đại học chiếm 20,92%. Trong
10 năm vừa qua, tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng đáng kể nhưng vẫn có tới
75,9% người lao động chưa được đào tạo về chuyên môn.
- Đặc trưng vùng địa lý
Lao động đã qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ ở khu vực thành thị cao
hơn khu vực nông thôn 2,5 lần. Tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo có
bằng cao nhất ở khu vực Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ, thấp nhất
là ở Đồng bằng sông Cửu Long. - Năng suất lao động
Theo số liệu từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 2019, năng suất lao động Việt
Nam chỉ bằng 7,6% năng suất của Singapore, 19,5% của Malaysia, 37,9%
với Thái Lan, 45,6% của Indonesia, 56,9% của Philippines và 68,9% so với
Brunei. So với Myanmar năng suất lao động Việt Nam chỉ bằng 90% và bằng
88,7% của Lào. Tính trong khu vực Đông Nam Á, năng suất lao động của
nước ta chỉ cao hơn Campuchia. b, Tồn tại, hạn chế
Bên cạnh thực trạng và một số kết quả đạt được, nguồn nhân lực Việt Nam
hiện nay còn bộc lộ nhiều hạn chế khi chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ,
đòi hỏi của thị trường lao động thời kỳ hội nhập. Cụ thể:
- Sự thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao
Mặc dù sự gia tăng về dân số kéo theo số lượng nguồn nhân lực trong độ
tuổi lao động tăng trưởng mạnh. Thế nhưng con số đạt chất lượng cao, sẵn
sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng của các doanh nghiệp lớn vẫn còn hạn chế. 6
Một trong những nguyên nhân xuất phát từ công tác giáo dục đào tạo chưa
thực sự phù hợp. Lao động trong nước vẫn chủ yếu là lao động phổ thông.
Hoạt động vẫn chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp và phi nông nghiệp, cơ
cấu nhân lực lao động cũng còn nhiều bất cập.
- Nạn “chảy máu chất xám”
Chảy máu chất là sự di chuyển của nguồn nhân lực có kiến thức và kỹ
thuật từ một nước qua những nước khác. Đây chính là thất thoát nguồn nhân
lực, lao động giỏi trong nước ra nước ngoài làm việc.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng “chảy máu chất xám” tại
Việt Nam, đó là chế độ lương thưởng, môi trường làm việc chưa thực sự thỏa
đáng. Bên cạnh đó, vấn đề sử dụng lao động, bố trí việc làm cho đội ngũ lao
động có trình độ chuyên môn cao chưa hợp lý. Họ chưa được tạo mọi điều
kiện, cơ hội để phát triển và thăng tiến trong nghề nghiệp.
Trong thời gian tới, nếu các doanh nghiệp và nhà nước không có giải pháp
“giữ chân nhân tài”, xu hướng chảy máu chất xám sẽ tiếp tục gia tăng. Và tất
nhiên, hiện tượng này sẽ ảnh hưởng nặng nề đến sự phát triển của nền kinh tế chủ đạo.
2. Một số giải pháp nhằm đào tạo chất lượng nguồn nhân lực nước ta trong thời gian tới
Muốn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, Chính phủ cũng như các cơ
quan liên quan cần đưa ra những chính sách, biện pháp kết hợp hiệu quả giữa
đào tạo và sử dụng lao động trong chiến lược phát triển kinh tế của đất nước.
Từ đó, nguồn nhân lực chất lượng cao gia tăng, phục vụ yêu cầu phát triển
kinh tế. Cụ thể như sau:
- Nhận thức đúng đắn về nền kinh tế đất nước
Việc nhận thức đúng về nền tình hình phát triển kinh tế của xã hội hiện nay
sẽ giúp cho quá trình xây dựng các chiến lược phát triển nguồn nhân lực, đáp
ứng nhu cầu cấp thiết. Trong đó, nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao
cần tương xứng với tiềm năng phát triển, mang lại sức hút đầu tư lớn vào Việt Nam. 7
Không thể thiếu nâng cao và hiểu rõ được vai trò phát triển nguồn nhân lực
cao trong phát triển kinh tế bền vững. Nguồn nhân lực chất lượng cao đã,
đang và sẽ được đánh thức; khơi dậy tiềm năng, thế mạnh bị ngủ quên hoặc
chưa sử dụng đúng lúc, đúng nơi một cách hiệu quả và hợp lý nhất.
- Chiến lược phát triển nguồn nhân lực
Nhà nước cần đưa ra chiến lược nguồn nhân lực gắn liền với chiến lược
phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xác định rõ
ràng việc xây dựng nguồn nhân lực là trách nhiệm của những nhà hoạch định.
Cùng với đó tổ chức, thực hiện chính sách là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
- Xây dựng chương trình đào tạo nghề, ngoại ngữ
Các cơ quan liên quan của Chính Phủ cần đưa ra những biện pháp giải
quyết các vấn đề mang tính cấp bách, lâu dài của nguồn nhân lực. Trong đó
những vấn đề khai thác, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực tạo nên chuyển
biến mạnh mẽ trong công tác khai thác và đào tạo.
Lao động Việt dù chưa qua trường lớp đào tạo nhưng vẫn là những người
có kinh nghiệm, kỹ năng làm việc, tạo ra năng suất lao động. Vấn đề chỉ là họ
chưa được chuẩn hóa ở các ngành nghề và còn thiếu công cụ đánh giá, ghi
nhận trình độ của họ.
Ở một số nước phát triển, việc chuẩn hóa bằng những bộ tiêu chuẩn kỹ
năng nghề hoặc chuẩn năng lực quốc gia giúp doanh nghiệp tự đào tạo hay
người lao động tự học tập, rèn luyện theo tiêu chuẩn đó, thực hiện ghi nhận
trình độ cũng như năng lực chuyên môn theo khung trình độ kỹ năng nghề của quốc gia.
- Hỗ trợ chi phí học nghề cho người lao động
Hỗ trợ chi phí học nghề cho người lao động có nguyện vọng làm việc ở
nước ngoài được xem là vấn đề đáng quan tâm. Các nghề có tiềm năng lớn
hiện nay, bao gồm xây dựng, điều dưỡng viên, nhân viên phục vụ khách sạn,
nhà hàng. Nếu người lao động đạt trình độ tay nghề theo quy định sẽ được
đối tác nước ngoài tiếp nhận.
Mục tiêu là khuyến khích người lao động học nghề trước khi sang nước
ngoài làm việc, tăng tỷ lệ người lao động ở nước ngoài, tăng khả năng cạnh 8
tranh và từng bước xây dựng thương hiệu nguồn nhân lực Việt Nam trên thị
trường quốc tế. Từ đó có những tổng kết, phân tích, rút kinh nghiệm và mở rộng mô hình.
- Xây dựng kế hoạch cụ thể
Nhà nước cần đưa ra kế hoạch tạo nguồn nhân lực từ tất cả các đội ngũ
như: nông dân, công nhân hay trí thức. Có kế hoạch khai thác, đào tạo và bồi
dưỡng, sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực.
- Nâng cao trình độ học vấn
Đây cũng là vấn đề quan trọng, nhìn trung trình độ học vấn bình quân cả
nước mới ở lớp 6. Tỷ lệ biết chữ chỉ đạt khoảng 93%. Do đó cần đưa ra
những giải pháp nâng cao trình độ học vấn về mặt bằng của cả nước, thực
hiện cả xã hội học tập, làm việc.
- Học tập kinh nghiệm, bí quyết từ các quốc gia trên thế giới
Việc quan sát, học tập kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực trên thế giới
giúp cho Việt Nam có thêm kinh nghiệm để phát triển nguồn nhân lực trong
nước. Hiện Việt Nam chưa thực sự có công cụ đánh giá năng lực nhân viên
một cách phù hợp và chính xác.
Chính vì vậy, sự chuẩn hóa các bộ tiêu chuẩn về kỹ năng, chuyên môn,
trình độ là điều cần thiết. Điều này tạo thành bộ khung năng lực cho từng
ngành nghề, đánh giá năng lực của nhân sự một cách chính xác và hiệu quả hơn.
- Đưa ra chính sách về nguồn nhân lực
Nhà nước cần tổng kết cả về lý luận, thực tiễn nguồn nhân lực Việt Nam.
Qua đó đánh giá, rút kinh nghiệm, xây dựng chính sách mới và điều chỉnh
những chính sách sẵn có về nguồn nhân lực Việt Nam. Cụ thể đó là:
Chính sách hướng nghiệp, dạy nghề, học nghề
Dự báo nhu cầu lao động đồng thời cân đối lao động theo trình độ, ngành nghề
Chính sách cụ thể với những lao động làm việc ở nước ngoài
Chính sách đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của người lao động 9
3. Sinh viên Việt Nam trước những cơ hội, thách thức mới.
Việt nam đang đứng trước những thách thức lớn, văn minh trí tuệ phát triển
từng giây , từng phút , nếu không nhanh chóng đi tới sẽ kéo nhau cùng tụt
hậu , dũng cảm thông minh mấy cũng sẽ thất bại.
Vận mệnh , tiền đồ của đất nước phụ thuộc một phần quan trọng vào thế hệ
trẻ, thanh niên và sinh viên phải vươn lên cùng với cha anh làm chủ đất nước ngay từ bây giờ .
Để đóng góp cho sự phát triển của đất nước và tương lai của dân tộc, thanh
niên và sinh viên phải có hoài bão và lí tưởng , có tri thức và kĩ năng, phải “
học, học nữa, học mãi” . Sinh viên cần phát huy truyền thống văn hiến của
dân tộc , xây dựng xã hội Việt nam thành một “ xã hội học tập ”, thành một
xã hội sáng tạo”, đưa dân tộc ta trở thành một “dân tộc thông thái”, chiếm
lĩnh những đỉnh cao trí tuệ của nhân loại trong thế kỉ 21 và thiên kỉ thứ 3.
Nước ta bước vào công nghiệp hóa, hiện đại hoá với điểm xuất phát rất thấp
trong khi các nước tiên tiến đã bước vào nền kinh tế tri thức, nền văn minh trí
tuệ . Trong kỉ nguyên của nền văn minh trí tuệ, sự phát triển tri thức của nhân
loại sẽ tăng lên theo hàm mũ . Bởi vậy , thế hệ trẻ, đặc biệt là sinh viên phải
xây dựng cho mình bản lĩnh độc lập tự chủ, nghị lực sáng tạo và tinh thần đổi
mới , tiếp thu và làm chủ những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến,
những tri thức quản lí và kinh doanh hiện đại của nhân loại, trong khi đẩy
nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá , sớm đưa nước ta tiếp cận với
nền kinh tế tri thức và xã hội thông tin.
Trước dòng thác lũ ào ạt của thời đại thông tin, vẫn còn tình trạng’’ chìm
trong thông tin nhưng có thể đói về kiến thức”, nhiều sinh viên, học sinh vẫn
chưa nhận thấy tầm quan trọng của việc học, họ xem học tập là nghĩa vụ chứ
chưa thấy đó là quyền lợi của mỗi người. Vì vậy , phải giáo dục cho sinh viên
, học sinh nhận thức đúng bản chất vấn đề, Đặc biệt phải nâng cao chất lượng
giáo dục , mở rộng nhiều hình thức giáo dục. Hiện nay, chúng ta đã có nhiều
hình thức giáo dục đáng khích lệ và thu nhiều kết quả tốt. Ví dụ: hình thức
đào tạo từ xa có thể cung cấp kiến thức cho những người không có điều kiện
học tập trung hoặc những người vừa học vừa làm. Hình thức giáo dục này 10
không chỉ góp phần nâng cao trình độ người dân mà còn giảm được một chi
phí đáng kể cho nhà nước và nhân dân. 11 III. KẾT LUẬN
Chủ nghĩa xã hội do con người, vì con người. Do vậy hình thành mối
quan hệ đúng đắn về con người về vai trò của con người trong sự phát triển
xã hội nói chung trong xã hội, xã hội chủ nghĩa nói riêng là một vấn đề không
thể thiếu được của thế giới quan Mác – Lênin.
Con người là khái niệm chỉ những có thể người như một chỉnh thể, trong
sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội của nó. Nếu chỉ dừng lại ở một
số trước tỉnh sinh học của con người thì không thể giải thích được bản chất
của con người, con người là một thực thế đặc biệt hoạt động có ý thức, có khả
năng sáng tạo cho minh. Tử tự nhiên và chính trong quá trình hoạt động đó
những quan hệ xã hội được hình thành có tác động mạnh mẽ tới sự hình
thành nhân cách, bản chất con người Mác viết Con người là tổng hoà của
những quan hệ xã hội Con người là chủ thể lịch sử, sáng tạo và lịch sử. Trong
CMXHCN con người là yếu tố quyết định vừa là điểm xuất phát vừa là mục
đích của một chỉnh sách kinh tế - xã hội xây dựng xã hội chủ nghĩa là xây
dựng xã hội chủ nghĩa là xây dựng một xã hội mà ở đó có đủ những điều kiện vật chất và tinh thần.
Việt Nam đã làm được điều đó hay chưa cho tới nay tuy chúng ta đã đạt
được những thành tựu đáng kể nhưng đời sống vật chất tinh thần của đại đa
số, người dân còn thiếu. Do vậy lý luận chủ nghĩa Mác Lênin nói chung và
quan điểm chủ nghĩa Mác Lênin về con người là kim chỉ nam để hưởng đất
nước ta cần pahi đi đâu, làm gì và làm như thế nào, để thực hiện thành công
công cuộc công nghiệp hoa hiện đại hóa đất nước, có như vậy chúng ta mới
vượt qua được cải ngưỡng của nghèo nàn và lạc hậu... 12
C. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giao tỉnh triết học Mặc Lên của NXB chính trị quốc gia (tập I, tập II),
2. Tài liệu học tập lý luận chính trị phổ thông (NXB chính trị quốc gia (lập 1). 3. Tạp chí cộng sản.
4. Chiến lược huy động vốn và nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Trần Kiên
5. Định hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong quá trình CNH, HDH. Phạm Tất Dong. 13