












Preview text:
lOMoAR cPSD| 61256830
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------***-------
BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
ĐỀ TÀI: ĐỊA TÔ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA
VÀ LIÊN HỆ TỚI THỰC TIỄN VIỆT NAM
Họ và tên SV: Phan Thị Hồng Nhung
Lớp tín chỉ: LLTT1101(124)_27 Mã SV:11233130
GVHD: TS NGUYỄN VĂN HẬU
.................................................................................... HÀ NỘI, NĂM 2024 lOMoAR cPSD| 61256830 Mục Lục
Mở đầu ........................................................................................................................... 3
Nội dung......................................................................................................................... 5
1. Địa tô tư bản chủ nghĩa:......................................................................5
1.1. Khái niệm:.......................................................................................5
1.2. Bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa:..........................................6
1.2.1 Sự hình thành mối quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông
nghiệp:..................................................................................................6
1.2.2 Bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa:....................................6
1.3. Các hình thức của địa tô tư bản chủ nghĩa..................................7
2. Liên hệ thực tiễn Việt Nam:.................................................................10
2.1. Vận dụng trong luật đất đai..........................................................11
2.2. Vận dụng trong thuế đất nông nghiệp..........................................11
2.3. Vận dụng trong việc cho thuê đất.................................................12
3. Kết luận:................................................................................................12
TÀI LIỆU THAM KHẢO:......................................................................13 lOMoAR cPSD| 61256830 Lời mở đầu
“Những năm qua, việc quản lý và sử dụng ruộng đất ở nước ta bộc lộ nhiều điểm chưa hợp
lý. Vì vậy, gần đây rộ lên một luồng dư luận đòi hỏi phải chỉnh lý Luật Đất đai theo hướng
trao quyền sở hữu cho người sử dụng ruộng đất vô thời hạn. Một cựu cán bộ cao cấp nhiều
năm từng quản lý lĩnh vực nông nghiệp coi việc trao quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân
là “chính sách nhân văn nhất, cao quý nhất. Khi đó, việc mua bán đất đai công khai, người
tích tụ đất đai yên tâm bỏ tiền đầu tư sản xuất nông nghiệp hàng hóa”. Thậm chí, đây được
“coi như cuộc cách mạng đối với họ một lần nữa, phấn khởi lắm. Bởi đây là nút thắt cuối
cùng của quá trình đổi mới chính sách đất đai sau 60 năm. Đến lúc này coi như chính sách
đất đai nông nghiệp đã hoàn thiện.
Có thể thấy đất đai là là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Vẫn đề
về đất đai nhận được rất nhiều chú ý, đánh giá từ dư luận. Có nhiều ý kiến trái chiều, có
nhiều những quan điểm sai lệch, tranh cãi nổ ra mãi chưa dứt. Chính giá trị sử dụng to lớn,
lâu dài và không thể thay thế được của đất đai đã kéo theo những vấn đề ấy gây tranh cãi,
bất công trong xã hội: quyền sở hữu đất đai, giá cả ruộng đất và các mối lợi thu được từ
việc sở hữu đó nổi cộm là địa tô, đặc biệt đối với ngành sản xuất nông nghiệp gắn chặt với
đất. Giá trị thặng dư được biểu hiện bởi một khía cạnh là địa tô đã xuất hiện cùng với chế
độ tư hữu về ruộng đất. Đây là hình thức chủ yếu bóc lột người dân lao động làm thuê trong
lĩnh vực nông nghiệp “Trong chủ nghĩa tư bản, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa xuất hiện
tuy muộn hơn trong công nghiệp và thương nghiệp nhưng thực tế cho thấy nó đã không
ngừng phát triển và ngày càng thống lĩnh, chiếm vị trí quan trọng trong lĩnh vực nông
nghiệp". Người thực sự canh tác ruộng đất là công nhân làm thuê, nhà tư bản thuê đất của
địa chủ đề kinh doanh, coi nông nghiệp như một lĩnh vực đầu tư kinh doanh. Nhà tư bản
cùng phải trả một khoản tiền cho chủ sở hữu để được sử dụng đất. lOMoAR cPSD| 61256830
Nếu trực tiếp tranh luận về từng điểm cụ thể thì sẽ rất khó phân biệt đúng, sai và sẽ tốn
nhiều thời gian mà không đi tới nhận thức chính xác về vấn đề đất đai và địa tô, như V.I.
Lê-nin đã từng chỉ dẫn: “Người nào bắt tay vào những vấn đề riêng trước khi giải quyết
các vấn đề chung, thì kẻ đó, trên mỗi bước đi, sẽ không sao tránh khỏi “vấp phải” những
vấn đề chung đó một cách không tự giác. Mà mù quáng vấp phải những vấn đề đó trong
từng trường hợp riêng, thì có nghĩa là đưa chính sách của mình đến chỗ có những sự dao
động tồi tệ nhất và mất hãn tính nguyên tắc" Lí luận về địa tô của Các Mác không chỉ vạch
ra bản chất của quan hệ sản xuất từ bản chủ nghĩa trong nông nghiệp mà còn là cơ sở khoa
học đê nhà nước xã hội chủ nghĩa xây dựng luật đất đai và các chính sách giá cả cho nông
sản, thuê nông nghiệp và các ngành khác liên quan đến đất đai, làm cho việc sử dụng đất có hiệu quả hơn.
Có thể thấy, đất đai và địa tô là một trong những nội dung quan trọng dự án phát triển kinh
tế, không riêng gì kinh tế nông nghiệp. Nhận thấy tầm quan trọng của việc nghiên cứu
những luận điểm khoa học về địa tô, bài tiểu luận này đi vào nội dung: “Lý luận về địa tô
của Các Mác và liên hệ thực tiễn ở Việt Nam”. lOMoAR cPSD| 61256830
1.Địa tô tư bản chủ nghĩa 1.1.Khái niệm
[Khi bàn về các vấn đề xoay quanh quyền sở hữu ruộng đất, C.Mác nêu ra những giả định
và nhấn mạnh rằng : “Vấn đề đặt ra là phải giải thích rõ cái giá trị kinh tế của độc quyền
ấy, nghĩa là sử dụng cái độc quyền ấy trên cơ sở sản xuất tư bản chủ nghĩa. Quyền lực về
mặt pháp lý của những người đó cho phép họ được sử dụng và lạm dụng”, “Việc sử dụng
quyền lực đã hoàn toàn phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế độc lập với ý chí của họ".
Bên cạnh đó C.Mác cũng chỉ ra nguồn cội của quyền sở hữu ruộng đất có là do đâu ::
“Cũng như mỗi người sở hữu hàng hóa đều có thể sử dụng hàng hóa của họ; và cải quan
niệm ấy – cái quan niệm pháp lý về quyền tự do tư hữu ruộng đất – trong thẻ giới cổ đại
chỉ xuất hiện vào thời kỳ tan rã của trật tự xã hội hữu cơ, và trong thế giới cận đại, chỉ xuất
hiện cùng với sự phát triển của nên sản xuất tư bản chủ nghĩa. Ở Châu Á, quan niệm pháp
lý ấy chỉ do người châu Âu du nhập vào một số nơi nào đó thôi". So với các lĩnh vực khác
như là lĩnh vực công nghiệp và thương nghiệp, chúng ta có thê thấy được quan hệ sản xuất
tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp xuất hiện muộn hơn và được hình thành theo hai con
đường điển hình như là : Chuyển dần nền nông nghiệp phong kiên sang kinh doanh theo
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa; theo đó chính phủ xã xóa bỏ chế độ canh tác ruộng
đất theo kiểu phong kiến và phát triển chủ nghĩa tư bản trong nông nghiệp. Trong giai cấp
tư bản chủ nghĩa, quan hệ đất đai gắn liền với quan hệ giai cấp trong xã hội. Trong nền
nông nghiệp hàng hóa đã bị phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chỉ phối phải nói tới
ba tầng lớp : Tư bản kinh doanh nông nghiệp; địa chủ sở hữu ruộng đất và công nhân nông
nghiệp làm thuê. Qua đó chúng ta cũng nghiên cứu toàn bộ quan hệ đất đai trong nền sản
xuất nông nghiệp hàng hóa đang vận động liên tục không ngừng nghỉ. “Vấn đề ở đây là
phải nghiên cứu các quan hệ sản xuất và quan hệ trao đổi nhất định do việc đầu tư tư bản
vào nông nghiệp đè ra” (C.Mác). Vậy cho nên vấn đề chính của chúng ta là nghiên cứu về
địa tô chênh lệch, nhất là địa tô chênh lệch II, là địa tô mà mọi địa chủ thu về trên những
mảnh ruộng được thâm canh. lOMoAR cPSD| 61256830
1.2.Bản chất địa tô tư bản chủ nghĩa
1.2.1 Sự hình thành mối quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp:
Trong chủ nghĩa tư bản, nông nghiệp trở thành một lĩnh vực đầu tư và được đầu tư kinh
doanh được hình thành theo hai hình thức:
+ Cải cách dần dần kinh tế địa chủ, phong kiến sang kinh doanh theo tư bản chủ nghĩa.
+ Thông qua cách mạng tư sản, xóa bỏ nền kinh tế địa chủ phong kiến, phát triển nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Trong chủ nghĩa tư bản, người thực sự canh tác ruộng đất không phải là chủ tư bản mà là
những người lao động làm thuê. Nhà tư bản thuêđất của địa chủ để kinh doanh, coi nông
nghiệp là một lĩnh vực đầu tư kinh doanh. Số tiền mà nhà tư bản trả cho người sở hữu
ruộng đất theo hợp đồng để được sử dụng đất trong một thời gian nhất định là địa tô tư
bảnchủ nghĩa. Từ đó có thể thấy rằng địa tô tư bản chủ nghĩa thể hiện mối quan hệ giữa 3
giai cấp: người công nhân là người trực tiếp lao động, nhà tư bản chủ nghĩa và địa chủ sở hữu ruộng đất.
Cũng như các nhà tư bản kinh doanh trên các lĩnh vực khác, nhà tư bản kinh doanh nông
nghiệp cũng thu được lợi nhuận bình quân. Tuy nhiên, điểm khác biệt của nhà tư bản kinh
doanh trên lĩnh vực nông nghiệp chính là phải trả tiền thuê đất cho địa chủ sở hữu ruộng đất.
Để trả được phần tiền thuê đất, ngoài lợi nhuận bình quân thu được như các lĩnh vực khác,
nhà tư bản kinh doanh về lĩnh vực nông nghiệp cònthu thêm được một phần giá trị thặng
dư dôi ra hay còn gọi là lợi nhuận siêu ngạch. Phần lợi nhuận này được chuyển hóa thành
địa tô để nộp cho địa chủ.
1.2.2. Bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa
Địa tô tư bản chủ nghĩa phản ánh mối quan hệ bóc lột giữa giai cấp địa chủ, nhà tư bản
kinh doanh về lĩnh vực nông nghiệp đối với người công nhân lao động. Trên thực tế, có thể lOMoAR cPSD| 61256830
xem địa tô là một bộ phận của lợi nhuận siêu ngạch nằm ngoài lợi nhuận bình quân. Nếu
không có địa tô thì địa chủ sẽ không cho nhà tư bản thuê đất cũng như sử dụng đất bởi địa
tô dựa trên cơ sở là quyền sở hữu đất. Về phía nhà tư bản kinh doanh khi tham gia vào hoạt
động sản xuất kinh doanh thì sẽ nhắm đến lợi nhuận nên nếu không có lợi nhuận siêu ngạch
thì nhà tư bản buộc phải lấy tiền từ lợi nhuận bình quân để nộp từ đó sẽ không chạm được
đến mức lợi nhuận mà nhà tư bản mong muốn cũng như nên phải có phần lợi nhuận siêu
ngạch để chuyển hóa thành địa tô nộp cho địa chủ. Tuy nhiên, nguồn lợi nhuận siêu ngạch
đó thu được nhờ vào giá trị thặng dư của những công nhân lao động tạo ra, nhà tư bản kinh
doanh nông nghiệp chính là người trực tiếp “bóc lột” giai cấp công nhân.
1.3.Các hình thức của địa tô tư bản chủ nghĩa
Gồm 2 hình thức: Địa tô chênh lệch và địa tô tuyệt đối
1.3.1.Địa tô chênh lệch
Trong ngành nông nghiệp cũng như công nghiệp đã xảy ra lợi nhuận siêu ngạch. Nêu như
trong công nghiệp lợi nhuận siêu ngạch chỉ là hiện tượng tạm thời đối với các nhà tư bản
cá biệt nào đó có được do điều kiện sản xuất tốt hơn điều kiện sản xuất trung bình của xã
hội thì trái lại trong nông nghiệp nó luôn tồn tại tương đôi dài và ôn định . - Trong sản xuất
nông nghiệp ruộng đất là tư liệu sản xuất cơ bản,nó có đặc điềm là có diện tích giới hạn, vị
trí cố định và tốt xấu khác nhau mà điều kiện đại bộ phận là xấu. Người ta không thể tạo
thêm được ruộng đất tốt có điều kiện canh tác thuận lợi. Trong khi đó hầu hết ruộng đất đã
bị độc quyền kinh doanh . Do đó những người kinh doanh trên ruộng đất tốt, có điều kiện
sản xuất thuận lợi sẽ sử dụng được sức tự nhiên một cách độc quyền nên luôn thu được lợi
nhuận siêu ngạch ổn định lâu dài.
- Khác với trong lĩnh vực công nghiệp trong nông nghiệp giá cả sản xuất chung của nông
phẩm do điều kiện sản xuất xấu quyết định . Bởi vì, chỉ có canh tác trên ruộng đất tốt và
trung bình thì sẽ không đủ nông phẩm cho nhu cầu xã hội. Do đó giá cả sản xuất chung
phải đảm bảo cho tư bản đầu tư trên ruộng xấu cũng thu được lợi nhuận bình quân. Do đó
không chỉ cả các nhà tư bản kinh doanh trên ruộng đất tốt, xấu cũng thu được lợi nhuận lOMoAR cPSD| 61256830
bình quân mà tất cả các nhà tư bản kinh doanh đêu thu được lợi nhuận siêu ngạch tương
đối ổn định và lâu dài .Nó là kết quả của việc sử dụng sức tự nhiên đã bị độc chiếm sẽ
thuộc về sở hữu ruộng đất dưới hình thức địa tô chênh lệch.
Như vậy địa tô chênh lệch là phần lợi nhuận siêu ngạch thu được trên những ruộng
đất có điều kiện canh tác tốt. Nó là số chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung của nông
phẩm được quyết định bởi điều kiện sản xuất trên ruộng đất xấu nhất giá cả sản xuất
cá biệt của nông phâm trên ruộng đất trung bình và tôt.
Nguồn gốc của địa tô chênh lệch và địa tô nói chung là do lao động của công nhân nông
nghiệp tạo ra. Từ những sự phân tích trên, chúng ta viết ra những điều nhận xét về địa tô
chênh lệch, vì nó số chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung và giá cả sản xuất cá biệt của
nông phẩm Địa tô chênh lệch gắn liền với độc quyền kinh doanh TBCN về ruộng đất. Nói
cách khác nó sinh ra là do có sự độc quyền kinh doanh ruông đất theo lối TBCN .Không
có sự độc quyền về sức tự nhiên thì không có bất cứ lợi nhuận siêu ngạch Địa tô chênh vì
thế không tham gia tham gia hình thành giá trị nông phẩm. Điều kiện tự nhiên thuận lợi
không phải là nguồn gốc của lợi nhuận siêu ngạch mà chỉ là điều kiện cơ sở tự nhiên nên
nó có thể đặc biệt nâng cao năng suất lao động lên.
Địa tô chênh lệch cùng như toàn bộ giá trị thặng dư trong nông nghiệp không phải do ruộng
đất đẻ ra Ruộng đất tốt hay xấu chỉ là điều kiện tự giảm giá trị nông phẩm mà thôi. Mà chế
độ tư hữu ruộng đất cùng không phải nguyên nhân sinh ra lợi nhuận siêu ngạch mà là
nguyên nhân làm cho mọi lợi nhuận siêu ngạch chuyển hoá thành địa tô, tức là làm cho địa
chủ chiếm lợi nhuận siêu ngạch đó.
Do điều kiện sản xuất thuận lợi của ruộng đất có được Ngoài điều kiện tự nhiên còn có thể
do kết quả đầu tư thâm canh.
- Trên cơ sở đó mà ta phân biệt làm hai loại đia tô chênh lệch đó là địa tô chênh lệch I và địa tô chênh lệch II. lOMoAR cPSD| 61256830
Địa tô chênh lệch I là phần phần giá trị thặng dư ngoài lợi nhuận bình quân mà chủ đất thu
được gián tiếp, được hình thành trên ruộng đất màu mỡ và vị trí gần nơi tiêu thụ là sự chênh
lệch giữa giá cả sản xuất chung và giá cả sản xuất cá biệt hình thành.
Địa tô chênh lệch II là một phần giá trị thặng dư ngoài lợi nhuận bình quân gắn liền vớ hiệu
quả khác nhau của số tư bản đầu tư thêm trên cùng một diện tích ruộng đất tức gắn liền với
việc thâm canh trong nông nghiệp. Thâm canh ruộng đất là đầu tư thêm tư bản để tang
thêm một cách hợp lí TLSX và sức lao động vào một đơn vị diện tích để cải tạo đất đai
nâng cao chất lượng canh tác nhằm tăng năng suất cây trồng và chất lượng sản phẩm
1.3.2 Địa tô tuyệt đối
Dưới CNTB không phải chỉ các nhà tư bản kinh doanh trên ruộng đất thuận lợi mới phải
nộp tô mà kinh doanh trên ruộng đất xấu cũng phải nộp tô cho địa chủ. Đó là thực tế C.Mac
gọi loại địa tô mà các nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp tuyệt đối phải nộp cho địa chủ
dù ruộng đất đó là tốt hay xấu là địa tô tuyệt đối vậy thì tư bản kinh doanh trên ruộng đất
xấu lấy gì để nộp tô? Hiển nhiên không thể lấy trong số lợi nhuận bình quân,mà phải là số
lợi nhuận ngoài lợi nhuận bình quân là lợi nhuận siêu ngạch. Vấn đề đặt ra là làm sao kinh
doanh trên ruộng đất xâucũng có được lợi nhuận siêu ngạch ?
Dưới chủ nghĩa tư bản lĩnh vực nông nghiệp lạc hậu hơn so với lĩnh vực công nghiệp về
kinh tế và kĩ thuật nên cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp thấp hơn trong công
nghiền. Vì vây nếu tỷ suất giá trị thặng dư bằng nhau thù tư bản bằng nhau đầu tư trong
nông nghiệp sẽ thu được nhều giá trị thặng dư hơn trong công nghiệp.
Vậy địa tô tuyệt đối cũng là phần lợi nhuận ngoài lợi nhuận bình quân hình thành do cấu
tạo hữu cơ của tư bản trong công nghiệp thấp hơn trong công nghiệp, mà bất cứ nhà tư bản
thuê lại ruông đất nào cũng đều phải nộp cho địa chủ nó là số chêng lệch giữa giá trị của
nông phẩm với giá cả sản xuất chung của nông phẩm. Chúng ta cần thiết phải phân biệt,
địa tô chênh lệch và địa tô tuyệt đôi chúng giống nhau ở chỗ : cả hai đều là lợi nhuận siêu lOMoAR cPSD| 61256830
ngạch, đều có chung nguôn gốc và bản chất là một bộ phận giá trị thặng dư do lao động
không công của công nhân công nghiệp tạo ra. Do đó chúng đều phản ánh quan hệ bóc lột
tư bản chủ nghĩa . Nhưng chúng khác ở chỗ, nếu như nguyên nhân sinh ra địa tô chêng lệch
là độc quyền kinh doanh ruộng đất thì đối với địa tô tuyệt đối lại là độc quyền sở hữu ruộng
đất. Nếu như điều kiện hình thành địa tô chênh lệch là điều kiện thuận lợi của đất đai thì
đối với địa tô tuyệt đối lại là câu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp thấp hơn trong
công nghiệp Địa tô chênh lệch không tham gia hình thành giá nông phẩm.
1.3.3. Địa tô độc quyền
Ngoài hai loại địa tô nói trên C.Mac còn đề cập đến địa tô độc quyền .Nó là loại địa tô thu
được trên loại ruộng đất có đIều kiện đặc biệt có khả năng sản xuất những sản phẩm quí
hiếm do đó có thể độc quyền định giá để thu lợi nhuận độc quyền cao .Người tiêu dùng các
đặc sản trên phảI trà địa tô này và nó thuộc về chủ nông . Thực ra địa tô độc quyền là một
dạng của địa tô chênh lệch I thu được trên loại ruộng đặc biệt mà thôi.
2. Liên hệ thực tiễn Việt Nam:
Những lí luận về địa tô đó vẫn đang được Đảng và Nhà nước áp dụng một cách sáng tạo
trong thực tiễn đời sống để xây dựng, phát triển một đất nước Việt Nam giàu mạnh. Địa tô
là cơ sở để tính toán giá cả ruộng đất khi thực hiện bán quyền sử dụng đất cho người khác.
Giá cả ruộng đất được tính trên cơ sở so sánh với tỷ lệ lãi suất ngân hàng theo công thức:
Ngoài ra, lí luận này cũng trở thành cơ sở khoa học để hình thành các chính sách về thuế
đối với ngành nông nghiệp và các ngành liên quankhác nhằm kích thích phát triển nông
nghiệp và các ngành trong nền kinhtế. Nghiên cứu về các hình thức địa tô của C.Mác, nhất
là địa tô chênh lệch là cơ sở lý luận để Đảng, Nhà nước ban hành chính sách giá đất đối
với kinh doanh, dịch vụ; với xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, quốc phòng và an ninh. lOMoAR cPSD| 61256830
2.1. Vận dụng trong luật đất đai
Nghiên cứu lý luận địa tô tư bản chủ nghĩa của C.Mác cung cấp cơ sở khoa học để nhận
thức chế độ sở hữu toàn dân về đất đai là sự thống nhất và là sự tách rời tương đối quyền
sở hữu và quyền sử dụng đất đai thể hiện ở các điều 1, điều 4, điều 5,… Luật đất đai 2013.
Ngoài ra, trong pháp luật về đất đai của nhà nước ta hiện nay cũng ban hành những quy
định để người dân phải trả tiền thuê đất (một hình thức của địa tô) khi sử dụng đất một cách
tự nguyện. Hiện nay, đất được cấp cho dân, dân có quyền sử dụng đất vào mục đích của
mình. Nếu đối với đất ở thì người dân chỉ phải nộp một khoản tiền thuê đất rất nhỏ so với
thu nhập của họ. Còn đối với đất để làm nông nghiệp thì người dân phải nộp thuế nhưng
họ có thể tự do kinh doanh trên đất của mình sao cho thu được lợi nhuận cao nhất.
2.2. Vận dụng trong thuế đất nông nghiệp
Thuế nông nghiệp ở đây không phải thể hiện sự bóc lột đối với nôngdân mà đó là quyền
và nghĩa vụ của mỗi người. Trên thực tế, thuế nông nghiệp ngày nay gần như không còn
được dùng ở Việt Nam mà số tiền người nông dân đem nộp sau mỗi vụ mùa được gọi là
phí nhằm để chi trả cho một số dịch vụ mà Nhà Nước cung cấp như phí thủy lợi,… Để
khuyến khích sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả; thực hiện công bằng, hợp lý sự đóng
góp của tổ chức, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp vào ngân sách Nhà nước.Sự khác biệt
lớn nhất của việc quản lý đất đai và thu thuế bây giờ so với giai đoạn tư bản chủ nghĩa là
đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Nhà nước trực tiếp quản lý và điều hành, nhà nước giao đất
cho dân làm nông nghiệp, thu thuế nhưng tạo mọi điều kiện cho người dân sản xuất. Mặt
khác, nhà nước còn đưa ra một số quy định cho thấy thuế trong nông nghiệp bây giờ giảm
đi rất nhiều mà chủ yếu là tăng thuế trong việc thuê đất để hoạt độn phi nông nghiệp.
2.3. Vận dụng trong việc cho thuê đất
Hiện nay, một số các nhà kinh doanh có vốn muốn lập ra một công ty thì họ phải thuê đất
của nhà nước, họ phải trả cho nhà nước số tiền tương đương với diện tích cũng như vị trí
của nơi được thuê. Nhà nước đã quy định rất rõ việc thuê đất để kinh doanh, trên cơ sở ấy,
ta thấy rõ được sự khác biệt và sự vận dụng lý luận địa tô của Mác trong thời đại ngày nay. lOMoAR cPSD| 61256830
Đó chính là việc nhà nước sử dụng những văn bản pháp lý quy định quyền vầ nghĩa vụ
của người thuê đất để người dân khi nộp tiền thuê đất đều tự nguyện đóng góp. Trong việc
thuê đất để kinh doanh thì người đã thuê đất của nhà nước sẽ phát triển kinh doanh trên
mảnh đất đó rồi lấy lợi nhuận mà mình làm ra để trả cho nhà nước và số tiền đó sẽ vào
ngân sách nhà nước. Hiện nay không chỉ có việc thuê đất trong nông nghiệp trong việc
kinh doanh mà nhà nước còn cho nước ngoài thuê đất để thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ
nước ngoài ở Việt Nam và tăng nguồn thu cho ngân sách. 3. Kết luận:
Qua việc nghiên cứu tìm hiểu về luật đất đai, thuế nông nghiệp cũngnhư trong một số lĩnh
vực kinh doanh, ta có thể khẳng định hiện nay địa tôvẫn còn tồn tại nhưng về bản chất thì
hoàn toàn khác so với địa tô phongkiến và địa tô tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong việc
sử dụng lý luận địatô của C.Mác trong việc quản lý đất đai vẫn còn tồn tại một số hạn
chế.Chẳng hạn như nhà nước thu đất của nông dân với giá rất rẻ sau đó quyhoạch xây dựng
nhà ở và cho thuê với giá rất cao. Đây là vấn đề cần đượckiến nghị lên cấp có thẩm quyền
nhằm có sự đền bù thoả đáng cho dân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1.
Dung, T. s. (2023, 5 17). Luật Dương gia. Được truy lục từ Vận dụng lý luận địa tô
củaC.Mác trong việc quản lý đất đai ở Việt Nam hiện nay:
https://luatduonggia.vn/van-dung-ly-luan-dia-to-cua-c-mac-trong-viec-quan-ly-dat-dai-
oviet-nam-hien-nay/#12_Cac_hinh_thuc_dia_to_tu_ban2 lOMoAR cPSD| 61256830 2.
tỉnh, V. T.-T. (2023, 5 5). Ban chấp hành bộ tỉnh Bến Tre. Được truy lục từ Tìm hiểu
lý luận địa tô của C.Mác và sự vận dụng của Đảng ta:
https://bentre.dcs.vn/tin-tuc/Tim-hieu-ly-luan-dia-to-cua-C-Mac-va-su-van-dung- cuaDang-ta-31980.html3 3.
trị, K. L. (2022). Tài liệu hướng dẫn ôn tập môn Kinh tế chính trị Mác-Lênin. Thành
phố Hồ Chí Minh: Trường Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh.