



Preview text:
TIỂU LUẬN VỀ MÔN LUẬT KINH TẾ 
Đề 1: Những luận điểm cơ bản của Học thuyết Mác Lenin về 
bản chất của nhà nước và Pháp luật 
Bản chất nhà nước ốc quyền lực nhà nước ốc là một trong những vấn đề 
trung tâm của các cuộc đấu tranh chính trị, tư tưởng Từ trước tới nay. 
Trong tác phẩm “bàn về nhà nước”Lênin đã nhấn mạnh ảnh bản thân vấn 
đề nhà nước là một trong những vấn đề phức tạp nhất, khó khăn nhất của 
mọi gọi cuộc tranh luận chính trị lại bị làm cho rắc rối thêm em bởi nhiều 
trường phải lý luận khác nhau của các nhà tư tưởng tư sản. Theo quan 
điểm triết học học bản chất của sự vật và hiện tượng đó là tất cả những 
mặt những khuynh hướng cơ bản quy định sự tồn tại phát triển của sự vật 
và hiện tượng. xác định bản chất nhà nước tức là xác định tất cả tả những 
phương diện cơ bản quyết định sự tồn tại, phát triển của nhà nước. xác 
định bản chất của nhà nước cũng là xác định, định lý giải nhà nước là 
phương thức tổ chức xã hội, là tổ chức quyền lực có trong tay công cụ 
pháp luật cùng bộ máy quản lý đặc thù để duy trì, bảo đảm sự tồn tại và 
phát triển của xã hội. như vậy, khi cần phải tiếp cận bản chất nhà nước 
từ quan điểm toàn diện bởi chính bản thân nhà nước là một tổ chức chính 
trị đặc biệt luôn tồn tại trong tổng thể các mối liên hệ phổ biến với các tổ 
chức, lực lượng, hiện tượng khác của xã hội. 
 Bản chất nhà nước là một thể thống nhất một bao gồm hai phương diện: 
giai cấp và xã hội. trước đây khi vào thời đại của mình, các nhà kinh điển 
của chủ nghĩa mác-lênin khi nhấn mạnh đến phương diện giai cấp của nhà 
nước cũng đã chỉ rõ võ phương diện xã hội của nhà nước, năng xã hội của 
nhà nước. Ăngghen đã khẳng định “ chức năng xã hội là cơ sở của sự 
thống trị chính trị chị và sự thống trị cũng chỉ kéo dài chừng nào mà nó 
còn thực hiện chức năng xã hội của nó” 
 Bản chất nhà nước Là một trong những phạm trù phức tạp nhất bật 
trong khoa học pháp lý, khoa học chính trị. Do vậy, việc nghiên cứu, nhận 
thức về bản chất của nhà nước luôn mang tính thời sự, có ý nghĩa to lớn 
về phương diện lý luận và thực tiễn. 
2 . Bản chât nhà nước 
 Bản chất Nhà nước là một thể thống nhất bao gồm hai phương diện giai 
cấp và xã hội. II cách thức và mức độ thể hiện, thực hiện phương diện giai     
cấp và xã hội không hoàn toàn giống nhau trong những thời kỳ phát triển 
của xã hội trên Bình Diện quốc gia và quốc tế. dưới đây là những vấn đề 
cơ bản về bản chất nhà nước: a, Tính giai cấp của nhà nước 
 Ngay từ khi ra đời, Nhà nước đã thể hiện là công cụ bảo vệ quyền lợi chủ 
yếu cho giai cấp thống trị xã hội. khi mặc dù sự xuất hiện của nhà nước 
còn là do nhu cầu thiết lập ổn định trật tự xã hội. Lênin đã viết” Nhà nước 
là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều 
hòa được. nhà nước xuất hiện ở đâu và khi nào mà những mâu thuẫn giai 
cấp xét một cách khách quan tên không thể điều hòa được”. Tính giai 
cấp Nhà nước được thể hiện nhà nước đó do giai cấp nào tổ chức thành, 
quyền lực nhà nước nằm trong tay giai cấp nào, bảo vệ lợi ích của giai cấp 
nào là chủ yếu. xét trên phương diện này Nhà nước trước hết là bộ máy 
cưỡng chế đặc biệt trong tay giai cấp vị thống trị xã hội, là công cụ sắc 
bén nhất để duy trì sự thống trị giai cấp và bảo vệ quyền lợi cho giai cấp 
cầm quyền, thiết lập một trật tự xã hội khi phục vụ cho lợi ích của giai cấp 
đó. Tính chất giai cấp của nhà nước quy định nội dung hoạt động của nhà 
nước. Tuy là đại biểu chính thức cho toàn xã hội song nhà nước trước hết 
phục vụ và bảo vệ quyền lợi cho giai cấp thống trị. 
Nhà nước là công cụ đặc biệt của quyền lực chính trị, thực hiện sự thống 
trị về kinh tế, thế về chính trị và về tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội. 
Sự thống trị của giai cấp được thể hiện trên ba mặt: thống trị về kinh tế, 
về về chính, tư tưởng. Quyền kinh tế tạo cho chủ sở hữu khả năng bắt 
người bị bóc lột phải lệ thuộc về kinh tế. Cần có một bộ máy nhà nước đủ 
sức củng cố quyền lực kinh tế và đủ áp lực đối với xã hội. Quyền lực chính 
trị, thông qua bộ máy nhà nước để đàn áp bắt phải phục tùng ý chí Nhà 
Nước, giai cấp thống trị. Nhờ có nhà nước, giai cấp thống trị về kinh tế 
trở thành thống trị về chính trị. Do nắm được quyền lực nhà nước, hệ tư 
tưởng của giai cấp thống trị trở thành hệ tư tưởng thống trị xã hội, bắt 
buộc xã hội phải lệ thuộc mình về tư tưởng. 
 Phụ thuốc vào những yếu tố khách quan và chủ quan, mức độ thể hiện, 
thực hiện tính giai cấp không hoàn toàn như nhau trong tổ chức và hoạt 
động của các nhà nước khác nhau ở vào những giai đoạn lịch sử nhất định. 
Các yếu tố này bao gồm tương quan lục lượng giai cấp, lực lưỡng xã hội, 
bối cảnh quốc tế, truyền thống, phong tục, tâm lý dân tộc, hoàn cảnh lịch 
sử, quan điểm chính trị, đạo đức của nhà cầm quyền, ý thức giác ngộ của     
nhân dân,… Ví dụ, do hoàn cảnh lịch sử, tính giai cấp của nhà nước chiếm 
hữu nô lệ, phong kiến và các nhà nước tư sản trước đây được thể hiện một 
cách quyết liệt, thậm chí thô bạo. 
b, Tính xã hội của nhà nước 
Đây là thuộc tính thứ hai, phương diện hoạt động thứ hai của nhà 
nước trong bất kì giai đoạn phát triển nào, chỉ khác nhau về sự thể hiện và 
thực hiện. Như phần trên đã nói, ngay từ thời đại của mình, các nhà kinh 
điển Mác Lê nin đã khẳng định về vấn đề này, chỉ có điểu, do hoàn cảnh, 
điều kiện lịch sử lúc bấy giờ, tính xã hội của nhà nước, pháp luật chưa 
được đề cập sâu rộng như tính giai cấp. Các nhà kinh điển của chúng ta 
cũng đã nêu lên tính mở, sự bổ sung, thay đổi cho phù hợp với học thuyết 
của mình trong tương lai. 
Tính xã hội của nhà nước được thể hiện bên cạnh việc bảo vệ lợi ích 
của giai cấp thống trị, nhà nước còn phải quan tâm đến việc bảo đảm, bảo 
vệ giải quyết lợi ích ở mức độ nhất định cho các tầng lớp, giai cấp khác 
nhau trong xã hội và các vấn đề chung của toàn xã hội. Với tư cách là đại 
diện chính thức cho toàn xã hôi, nhà nước đồng thời còn thực hiện những 
công việc chung, những chức năng xã hội, xuất phát từ bản chất cũa xã 
hội, như Các MÁc đã từng khẳng định. Nhà nước một mặt là tổ chức 
quyền lực chính trị của giai cấp thống trị, mặt khác còn là tổ chức quyền 
lực của đại diện lợi ích chung của xã hội nhằm duy trì và phát triển xã hội. 
Do vậy bản chất nhà nước, yếu tố chi phối hoạt động của nhà nước tất yếu 
phải bao gồm hai phương diện, hai thuộc tính cơ bản; giai cấp và xã hội. 
Tính xã hội là một thuộc tính tất yếu khách quan của bất kỳ một nhà 
nước nào. Sự tồn tại, lý do tồn tại, cơ sở của sự tồn tại của nhà nước quy 
định cho phương diện xã hội này của nhà nước bên cạnh phương diện giai 
cấp. Đó là vấn đề mang tính tất yếu khách quan, không phụ thuộc vào ý 
chí chủ quan của nhà cầm quyền, càng không phải một sự gán ghép nào 
cho nhà nước cả. Nhà nước sẽ không tồn tại được nếu không quan tâm 
đến quyền lợi của giai tầng khác, không giải quyết các vấn đề xã hội nảy 
sinh. Điều này đặc biệt thể hiện rõ nét trong xã hội hiện đại. 
Mức độ thể hiện và thực hiện tính xã hội không hoàn toàn giống 
nhau ở các nhà nước và ngay cả trong một nhà nước vào những giai đoạn 
lịch sử khác nhau. Bởi vì, tính xã hội, tức các chức năng xã hội của nhà 
nước, phụ thuộc vào hang loạt các yếu tố khách quan và chủ quan như     
hoàn cảnh lịch sử, điều kiện phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bối cảnh 
quốc tế, trình độ nhận thức và quan điểm đạo đức chính trị… của nhà cầm 
quyền, trình độ và nhu cầu của các cá nhân, xã hội v.v…Trước đây, các 
nhà nước phong kiến trong chính sách và pháp luật cũng có các quy định 
về quyền lợi của người lao động, về xây dựng các công trình thủy lợi, các 
hoạt động cứu trợ xã hội vv.. Theo quy luật chung, tính xã hội, tính nhân 
loại của nhà nước ngày càng được thể hiện rõ cùng với sự phát triển không 
ngừng của đời sống hiện đại. Đối với nhà nước ta trong nền kinh tế thị 
trường, hội nhập quốc tế, ngày càng có nhiều vấn đề xã hội mới phát sinh 
đặt nên trách nhiệm xã hội của nhà nước phải giải quyết. Đó là các vấn đề 
xã hội như lao động, việc làm, thất nghiệp, bảo vệ môi trường, chính sách 
đối với các đối tượng dân cư, phòng chống các tệ nạn xã hội, tội phạm….