















Preview text:
lOMoAR cPSD| 60851861
BÀI: CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN DI SẢN VĂN HÓA
Môi trường tự nhiên và xã hội
1.1 Môi trường tự nhiên
- Vị trí địa lý và khí hậu
Vị trí địa lý quyết định điều kiện khí hậu tác động đến di tích và những
điều kiện thích ứng để bảo vệ cho di tích. Mỗi di tích đều được bao quanh bởi
một tiểu khí hậu riêng mà trạng thái của nó tùy thuộc vào sự tác động của những
nhân tố khác nhau, nhưng lại có quan hệ qua lại với nhau. Những nhân tố này
ảnh hưởng căn bản đến việc bảo quản các di tích. Gió và ánh nắng mặt trời là
yếu tố thường xuyên tác động tới di tích gây ra những biến đổi chậm chạp mà
chính chúng ta cũng không nhận ra trong một thời gian ngắn. Những biến đổi
này đã gây ra những hiện tượng như: cong, vênh, mầu sắc của gỗ bị biến đổi,
kính cửa bị mờ dần…
Ở những khu vực không khí bẩn, bụi bặm sẽ bám vào các di tích, nhất là
đối với các khu công nghiệp, trong khói bụi, còn chứa nhiều khí sunfua và oxit
cascbon. Chính những khí này cùng với khí ẩm ướt sẽ trực tiếp tác động đến lớp
đá và vữa trát ở bên ngoài. Còn tại những vùng có sự thay đổi đột ngột giữa nhiệt
độ ban đêm và ban ngày, hệ số giãn nở của khối xây bằng gạch, gốm, ngói và
các lớp men phủ ngoài đồ sứ sẽ khác nhau. Do tác động của mưa, những bộ phận
che chắn, những thành phần bao che kiến trúc cũng sẽ trở thành vô dụng.
Nước mưa và nước ngấm vào đất gây ra rất nhiều điều bất lợi cho nền
móng các công trình, và các di tích ngoài trời không có mái che. Thậm chí, đối
với những bộ phận công trình bằng gỗ cọc, và đài cọc, mạch nước ngầm rất có
hại vì những bộ phận này luôn ở trong trạng thái ẩm ướt.
- Tác động của động vật và thực vật
Những loại côn trùng và động vật có thể đem đến những tác hại lớn đối
với các di tích. Mối, mọt là loại nguy hiểm có thể làm hư hại rất nhanh đến di
tích đặc biệt là với các loại kết cấu xây dựng bằng chất liệu gỗ. Chúng đục khoét,
gậm nhấm làm mọt ruỗng các bộ phận bên trong, có những cây gỗ nhìn bề ngoài
còn khá nguyên vẹn, nhưng bên trong đã bị đục rỗng hoàn toàn không còn khả lOMoAR cPSD| 60851861
năng chịu lực cho công trình được nữa. Những thiệt hại do chúng gây ra, khó
thấy trên bề mặt, cho nên khi phát hiện ra thì đã quá muộn rồi.
Các loại động vật (trâu, bò, ngựa, chuột, dơi…) thậm chí cũng gây ra nhiều
tác hại cho các bộ phận kiến trúc gỗ đá.
Về các loại thực vật: những ngôi nhà xây bằng gạch, đặc biệt là các đoạn
tường thành cổ, cỏ dại và cây cối mọc vươn lên che khuất tường thành. Cây cối
mọc cao, to, đâm rễ sâu vào gây ra các vết nứt trong khối xây bằng gạch đá.
Những loại cây như cây đa, cây xương rồng mọc trên mái, bờ nóc tường nhà sẽ
phá hoại kết cấu và vật liệu của di tích. Chúng ta có thể thấy trên mặt đá mọc lên
một lớp muối nấm, loại muối nấm này sẽ làm giảm độ bền vật liệu hoặc kết cấu kết dính của chúng.
Loại rêu xanh, nấm mốc trắng xuất hiện khá nhanh trên các công trình kiến trúc
bằng gỗ và bằng gạch cũng là một tác nhân gây hư hỏng di tích. - Các tai họa
do thiên nhiên gây ra
Các tai họa như bão lũ, hiện tượng ngập lụt do bão lũ, nước lũ chảy xói mòn đất,
cầy trơ nền móng nhà, đặc biệt loại bão lũ ảnh hưởng rất nhanh tới các loại hình
di tích là địa điểm ngoài trời như các trận địa, địa đạo, hầm hào giao thông.
Chúng ta có thể nhận ra ngay sau mùa mưa bão đã làm biến dạng và mất đi khá nhiều bộ phận.
Động đất cũng là một hiện tượng gây nhiều thiệt hại lớn, đặc biệt đối với các
công trình lớn và cấu tạo “cứng:. Hiện tượng này sẽ làm rung chuyển đất, khiến
cho các nền móng nhà cũng bị rung chuyển và dẫn tới rạn nứt, sụt lở… Các tác
động của biến đổi khí hậu:
Các tác động của biến đổi khí hậu sẽ có những hậu quả to lớn cho toàn
nhân loại với sự mất đi các sản phẩm sáng tạo của con người. Đối với các công
trình di sản đô thị, hậu quả do tác động của biến đổi khí hậu sẽ được biểu hiện ít
nhất ở hai yếu tố: (1) các ảnh hưởng vật lý trực tiếp tới công trình và cấu trúc
công trình; (2) ảnh hưởng tới cấu trúc xã hội và môi trường sống, dẫn tới sự thay
đổi hoặc chuyển dịch các các xã hội nơi đang bảo tồn các di sản.
Từ tác động vật lý trực tiếp lên di sản đến tác động xã hội lOMoAR cPSD| 60851861
- Các ảnh hưởng vật lý trực tiếp tới công trình và cấu trúc công trình di sản
Với các di chỉ khảo cổ, biến đổi khí hậu làm thay đổi sự cân bằng của các
quá trình thuỷ văn, hoá học và sinh học của đất nơi bảo quản chứng cứ khảo cổ,
dẫn đến ảnh hưởng đến một số lớp khảo cổ, nguy hiểm hơn là có thể làm biến
mất những lớp bằng chứng lịch sử của di chỉ. Công trình cổ là những đối tượng
dễ bị tổn thương bởi biến đổi khí hậu hơn là những công trình hiện đại. Sự gần
gũi với mặt đất làm tăng sự thấm và dẫn nước lên kết cấu công trình. Đất ẩm
cũng góp phần gia tăng sự thẩm thấu và tích tụ muối trong khi các vật liệu xây
dựng trong lịch sử mủn nhanh hơn vật liệu xây dựng hiện đại nào, bất kỳ sự tăng
ẩm ướt nào của đất cũng có thể sẽ gây ra sự chuyển hóa muối mạnh hơn, các tinh
thể muối sẽ làm hư hại dần các vật liệu trang trí bề mặt. Gỗ và các vật liệu tự
nhiên là nguyên nhân thu hút các xâm nhập sinh học, gia tăng mối mọt làm hư
hại kết cấu dưới thời tiết nóng ẩm. Điều này lý giải sự dễ bị tổn thương của kết
cấu công trình gỗ khi có thêm tác động của các hiện tượng khác của biến đổi khí
hậu như lũ lụt, gió bão, hay lốc xoáy. Trong đó, lũ lụt tác động rất lớn đến các lOMoAR cPSD| 60851861
công trình cổ vốn được xây dựng thấp tầng và với vật liệu không chịu được ngập
nước dài ngày. Sau lũ lụt, các công trình tiếp tục bị ảnh hưởng do sự phát triển
của các vi sinh vật gây hại như nấm mốc. Dòng nước lũ chảy mạnh có thể làm
xói mòn và sụp đổ các công trình. Sự gia tăng của gió và bão có thể dẫn đến tổn
thương kết cấu công trình. Những di sản có thể di chuyển được thì bị tác động
bởi độ ẩm, nhiệt độ cao và sự gia tăng của tia cực tím. Vấn đề sa mạc hoá, thời
tiết nhiễm mặn và xói mòn cũng là những tác nhân đe doạ di sản.
- Tác động tới cấu trúc xã hội và môi trường sống
Rất nhiều các di sản thế giới đang là nơi sinh sống của người dân và phụ
thuộc vào các cộng đồng dân cư trong việc gìn giữ và bảo vệ di sản. Người dân
và chính quyền cũng khai thác được những giá trị của di sản cho việc phát triển
kinh tế và giữ gìn truyền thống văn hoá xã hội. Do vậy, hậu quả của những tác
động vật lý từ biến đổi khí hậu tới di sản cũng sẽ ảnh hưởng tới sự thay đổi về
mặt kinh tế xã hội. Sự suy tàn và mất mát di sản do biến đổi khí hậu ảnh hưởng
đến đời sống tinh thần và sinh kế của người dân; làm thay đổi lối sống, cách làm
việc, thờ tự của các cộng đồng và xã hội tại các công trình di sản và cảnh quan
bản địa; có thể dẫn đến khả năng người dân phải di chuyển chỗ ở và từ bỏ di sản
của họ. Đồng thời, sự tác động của biến đổi khí hậu sẽ làm suy giảm nguồn lực
và năng lực khai thác và bảo tồn di sản. Biến đổi khí hậu cùng với biến đổi kinh
tế xã hội tác động đến di sản lớn hơn là chỉ một mình biến đổi khí hậu. Bảo tồn
di sản dưới tác động của biến đổi khí hậu cần được xem xét trong bối cảnh phát
triển chung về mặt kinh tế xã hội và nghiên cứu liên ngành.
Để gia tăng hiệu quả cho các chiến lược hành động ứng phó biến đổi khí
hậu, chúng ta cần phải:
+ Tăng cường giáo dục những kiến thức cơ bản cần thiết về di sản và biến
đổi khí hậu, cùng với những tri thức truyền thống, tri thức bản địa cho các bên liên quan;
+ Đào tạo về các tác động của biến đổi khí hậu và ứng phó với biến đổi
khí hậu trong bảo tồn, cụ thể là phát triển các bài học địa phương, giám sát, quản
lý và ứng phó khẩn cấp; lOMoAR cPSD| 60851861
+ Nghiên cứu hỗ trợ việc ra quyết định của quốc gia/khu vực;
+ Đánh giá lại mức độ ưu tiên của công tác quản lý để ứng phó với biến đổi khí hậu;
+ Giám sát và bảo trì nghiêm ngặt và liên tục;
+ Phải có sự tham gia của tất cả các bên liên quan, đặc biệt là người dân
sống trong di sản và khu vực di sản.
Bên cạnh những giải pháp từ bên ngoài, tự thân di sản cũng có thể tham
gia góp phần giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu. Tôn trọng phương pháp
thiết kế truyền thống trong việc bảo tồn và xây dựng mới chính là chìa khoá để
kế thừa và phát huy những giá trị của công trình di sản trong giảm thiểu biến đổi
khí hậu. Mỗi công trình di sản là một kho kinh nghiệm thiết kế với nhiều tính
năng bền vững phù hợp với với từng khí hậu và địa điểm. Với việc sử dụng các
vật liệu truyền thống cùng với các nguyên tắc thiết kế khai thác tối đa lợi thế của
hướng, thông gió và ánh sáng tự nhiên, giải pháp kiến trúc của các công trình di
sản là công cụ hữu hiệu nhằm cắt giảm khí thải Carbon, tiết kiệm đáng kể năng
lượng, chi phí xây dựng, vận hành và bảo dưỡng công trình. Khi khôi phục và
tái sử dụng có hiệu quả, các tính năng này có thể giúp tiết kiệm năng lượng đáng
kể, cung cấp những bài học có giá trị về thích nghi với khí hậu cho hoạt động
xây dựng hiện nay, kết hợp cùng với công nghệ mới, bền vững.
Bên cạnh vai trò và giá trị của từng công trình riêng lẻ, cấu trúc không
gian của các đô thị cổ cũng đóng góp một phần không nhỏ trong việc đề xuất các
ý tưởng quy hoạch và thiết kế đô thị nhân văn và thân thiện với môi trường, giảm
thiểu nhu cầu năng lượng, nhiên liệu, và phát thải Carbon. Đây là những cấu trúc
không gian nhỏ, mật độ cao, có tỉ lệ công trình và đường phố phù hợp với con
người, khuyến khích đi bộ và có bán kính phục vụ phù hợp với việc đi bộ (khu
phố cổ Hội An, khu phố cổ Hà Nội). Có thể ứng dụng những đặc điểm cấu trúc
của các khu vực lịch sử để đề xuất xây dựng hay đầu tư thiết lập các khu vực
sinh sống ưu tiên đi bộ với những tuyến phố đi bộ, tuyến xe đạp trong các cộng
đồng dân cư với các tiện ích và dịch vụ hỗ trợ người dân, nhằm khuyến khích đi
bộ và hạn chế việc sử dụng phương tiện giao thông cơ giới, góp phần vào mục lOMoAR cPSD| 60851861
tiêu giảm phát thải Carbon với chi phí thấp, đồng thời giảm áp lực phát triển lên
các không gian mở và đất nông nghiệp.
Lắng nghe tri thức bản địa từ những di sản sống
Di sản sống là “các tập quán, biểu hiện, diễn đạt, kiến thức, kĩ năng –
cũng như các công cụ, đồ vật, đồ tạo tác và các không gian văn hoá liên quan –
trong đó cộng đồng, các nhóm dân cư, và cá nhân (trong một số trường hợp)
được công nhận như một phần của di sản văn hoá của họ” (UNESCO). Nó được
“truyền từ đời này sang đời khác, không ngừng tái tạo bởi cộng đồng để đáp
ứng với môi trường, tương tác với thiên nhiên và lịch sử, đem lại cho người dân
cảm nhận về bản sắc và tính liên tục, từ đó thúc đẩy sự tôn trong đa dạng văn
hoá và sự sáng tạo của con người” (UN Agencies UNESCO, 2003). “Sự khác
biệt giữa di sản và di sản sống đó là một bên là lịch sử, một bên đang sống, năng
động và thay đổi và bạn cần phải nắm lấy sự thay đổi” (Shriji Arvind Singh Mewar, 2012).
Di sản sống thúc đẩy “cách tiếp cận bảo tồn lấy con người làm trung tâm” trong đó:
+ Tôn trọng sự đa dạng;
+ Tập trung vào cả quá khứ và hiện tại;
+ Ảnh hưởng của di sản tới cuộc sống đương đại và làm thế nào nó có thể
cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân;
+ Tôn trọng tiếng nói của người dân trong việc bảo tồn và quản lý di sản;
+ Việc cải thiện mối quan hệ giữa di sản và người dân;
+ Xem xét đến tác động của toàn cầu hóa đối với môi trường sống như các
trung tâm đô thị lịch sử và cảnh quan văn hóa;
+ Thừa nhận sự giám sát, theo dõi của người dân trong việc chăm sóc và
bảo vệ di sản dài hạn;
+ Mối liên kết giữa di sản với sự phát triển xã hội bền vững” (ICCROM, UNESCO).
Cách tiếp cận này mở ra lộ trình đưa người dân tham gia vào công tác bảo
tồn và gìn giữ di sản đô thị, đặc biệt là những người dân sống trực tiếp tại công lOMoAR cPSD| 60851861
trình di sản và các khu vực đô thị lịch sử. Điều này có ý nghĩa đặc biệt trong việc
bảo vệ và giữ gìn di sản, vận dụng những kinh nghiệm và kiến thức bản địa của
người dân địa phương – những người cũng chịu tổn thương dưới tác động của
biến đổi khí hậu. Một nghiên cứu về biến đổi khí hậu và nhà ở tại khu vực dân
cư ven mặt nước tại Cần Thơ, đồng bằng sông Cửu Long cho thấy sự tổn thương
của người dân và các loại hình nhà ở của họ trước sự đe doạ của lũ lụt hàng năm,
đồng thời cũng chỉ ra khả năng thích ứng và khả năng tự phục hồi của cộng đồng
trước thiên tai (Nga, 2015). Qua những chỉ số về sự tổn thương, khả năng thích
ứng và khả năng tự phục hồi, những tri thức và kinh nghiệm của người dân bản
địa chính là yếu tố then chốt trong việc xây dựng những bài học chung sống với
thiên tai và giảm thiểu những tác động tiêu cực đến cơ sở vật chất cũng như đời
sống hàng ngày của người dân. Những bài học này chính là nền tảng để phát triển
các chiến lược hành động với sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn di sản và
giữ gìn tri thức bản địa trong bối cảnh ngày càng phức tạp của biến đổi khí hậu.
1.2. Môi trường xã hội
Đôi khi con người cũng là nhân tố gây ra phần lớn những sai lệch và phá
hoại di sản. Trong lịch sử, khi các triều đại phong kiến thay nhau lên nắm quyền,
họ thường tìm cách sáng tạo ra các giá trị văn hóa mới phù hợp với thời đại của
họ. Ở nước ta ít có những trường hợp triều đại sau phá bỏ những thành tựu của
triều đại trước một cách tàn khốc, nhưng cũng không phải là không có, cá biệt
như triều Nguyễn tìm cách phá hủy những thành tựu văn hóa của triều đại Tây
Sơn trong sự trả thù chính trị của mình.
Đặc biệt chiến tranh giữa các quốc gia cũng là những tác nhân gây ra hủy
hoại đến giá trị văn hóa. Ở nước ta, khi giặc phong kiến phương Bắc sang xâm
lược (Hán, Đường, Tống, Minh, Thanh) chúng đã tìm cách vơ vét, cướp bóc, đập
phá, thiêu hủy những di sản quý giá của người Việt (như dùng chuông đồng để đúc súng…)
Bên cạnh đó, những cuộc chiến tranh khốc liệt chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ với bom đạn, triệt phá hàng loạt các di tích di sản văn hóa quý giá. Ngay cả lOMoAR cPSD| 60851861
khi buộc phải rút khỏi Việt Nam, thực dân Pháp vẫn còn dùng xe tăng để húc đổ
Đình Bảng, dùng mìn phá sập chùa Một Cột.
Những đợt trùng tu, tu bổ các di tích đặc biệt là di tích kiến trúc. Tuy
người ta ý thức được việc phải bảo vệ các di sản văn hóa, nhưng trên thực tế, vẫn
có những cán bộ lãnh đạo, hoặc chuyên gia chưa nắm vững được nguyên tắc
trùng tu, chưa đủ trình độ để xã định giá trị chân xác của di tích, thiếu hiểu biết
về luật bảo vệ di tích lịch sử văn hóa nên xem nhẹ những giá trị của di sản cần
bảo tồn. Vì vậy đã có nhiều hoạt động có liên quan đến hoàn toàn hay một phần
thay đổi công dụng ban đầu của nó. Những di tích vẫn giữ nguyên công năng ban
đầu, nhưng được cơi nới, xây thêm nhà phụ, hoặc xây thêm tầng để tăng thêm
diện tích sử dụng (trường hợp này hay xảy ra với kiến trúc nhà ở dân dụng trong
khu đô thị cổ). Điều đó còn thể hiện trong việc trông nôm và củng cố một cách
thiếu kinh nghiệm những di tích đã bị đổ nát, mong muốn thay đổi hình dáng
công trình cho phù hợp với trào lưu kiến trúc mới. Nghiêm trọng hơn nữa là do
bị lôi cuốn vào quy luật của kinh tế thị trường, đôi khi ở các giải pháp mà họ đưa
ra, mọi điểm xuất phát đều từ những tính toán thực dụng đơn thuần.
Quan niệm về cái đẹp cũng là nguyên nhân thay đổi bộ mặt công trình.
Có thể người ta đã nhận ra rằng, kiến trúc cũ không đáp ứng thẩm mỹ mới. Vì
thế, đôi khi các mảng tường bị quét trùm lên những màu sắc khác, thậm chí ở
mặt chính hay trong nội thất còn đắp thêm khá nhiều hình trang trí…Vậy là
không ít những công trình có giá trị nghệ thuật và lịch sử to lớn đã phải và bị mất
đi do những võ đoán sai lầm- kết quả của những ý kiến không sành sỏi và thiếu thông thạo.
Sức tàn phá của thiên nhiên, xét về khía cạnh nào đó, vẫn không so sánh
được với tốc độ “phá hoại” của con người đối với các di tích. Các công trình kiến
trúc tôn giáo, tín ngưỡng chưa được sử dụng theo đúng chức năng xã hội, trong
một thời kỳ lịch sử nào đó, người ta coi đó là nguyên nhân gây nên các hiện
tượng mê tín dị đoan và nếu như phá bỏ cơ sở ấy đi là có thể thực hiện chương
trình chống mê tín dị đoan. Xuất phát từ những quan điểm đó, đã có thời kỳ hàng
loạt các ngôi đình, chùa, đền được phá bỏ, bị lấn chiếm trái phép thậm chí dỡ bỏ lOMoAR cPSD| 60851861
làm trường học, làm trụ sở, làm kho chứa, làm cửa hàng, hoặc bị đào bới để tìm
của quý .v.v.. Chính vì vậy mà di tích không những không được bảo dưỡng
thường xuyên, mà còn bị tiêu hủy khá nhiều.
Trong một thời gian dài, những khó khăn về kinh tế sau chiến tranh chống
Pháp và Mỹ đã hạn chế rất nhiều đến việc triển khai bảo quản, tu bổ di tích theo
quy mô lớn. Chế độ bao cấp của nhà nước không đủ phân phối cho số lượng di
tích lớn như ở nước ta, còn sự đóng góp của nhân dân thì bị hạn chế bởi những
lý do kinh tế, xã hội, chính vì vậy khó có thể chặn đứng tình trạng xuống cấp của các di tích.
Gần đây phong trào xã hội hóa bảo tồn di tích đã khuyến khích có sự đóng
góp tích cực của tập thể và cá nhân. Tuy nhiên những đóng góp của họ đôi khi
cũng thiên lệch về các di tích kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng. Việc đóng góp ấy là
có mục đích, vì mong được thánh, thần phù hộ. Còn những di tích thuộc các loại
hình khác như di tích lích sử cách mạng, kháng chiến thì sự quan tâm đóng góp
của quần chúng ít hơn nhiều, thậm chí đã không đóng góp tu bổ, còn lấn chiếm, xâm phạm nghiêm trọng.
Cuối cùng, cũng phải đề cập tới một thành phần không nhỏ, nhưng công
việc của họ lại có tính chất quyết định sự thành công hay thất bại của công tác
bảo tồn di sản văn hóa đô thị. Đó là các kiến trúc sư, các nhà quy hoạch. Chính
họ là người vạch ra đồ án cải tạo chỉnh trang đô thị…Chỉ cần một sự nhận thức
hời hợt, không nắm vững các chính sách bảo tồn hoặc thiếu tinh thần coi trọng
di sản văn hóa dân tộc là có thể dẫ tới những mất mát khôn lường. Các chiến
lược quy hoạch không thể tách rời với công tác bảo tồn. Vì thế phải có sự phối
hợp chặt chẽ giữa những nhà bảo tồn và quy hoạch đô thị thì mới mong công
việc gìn giữ di tích đạt được hiệu quả cao.
Biến đổi xã hội với Di sản
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng đầy
thách thức đối với các nước đang phát triển trong vấn đề phát triển kinh tế bên
cạnh việc bảo tồn văn hóa truyền thống, di sản văn hóa của dân tộc. Trong mối
quan hệ đa chiều về văn hóa ngày càng mạnh mẽ giữa các quốc gia, di sản văn
hóa Việt Nam chịu nhiều tác động cả bên trong lẫn bên ngoài. lOMoAR cPSD| 60851861
Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, trước hết, giúp tăng cơ hội
tiếp cận, trao đổi, giao lưu và làm giàu vốn hiểu biết sâu rộng về các nguồn tài
nguyên văn hóa, tài nguyên thiên nhiên của mỗi quốc gia, mỗi khu vực,. Thêm
vào đó, sự nổi lên của cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0 khiến cho việc
tìm hiểu, đánh giá về tài nguyên di sản của các quốc gia vượt qua những ranh
giới địa lý với nhiều loại hình và cách tiếp cận thông tin sống động và đa dạng.
Những quá trình trên đồng thời làm nảy sinh các thách thức nhất định
trong việc duy trì bản sắc quốc gia, dân tộc trước những nguy cơ tiềm tàng của
việc du nhập và lai căng văn hóa cũng như khai thác vượt quá ngưỡng chịu đựng
các nguồn tài nguyên văn hoá và thiên nhiên từ các hoạt động du lịch, phát triển
kinh tế không bền vững. Sản xuất nông nghiệp kiểu thâm canh và sản xuất hàng
hóa nông nghiệp, chuyển đổi mô hình nhà ở nông thôn gây biến hình phong cảnh
cùng với đô thị hoá bùng nổ kéo theo, di cư tăng nhanh và sự phân phối không
đồng đều các nguồn lực tạo nên áp lực ngày càng tăng của xã hội dân sự đối với
di sản[1]. Bài học từ Bali (Indonesia) là một dẫn chứng cụ thể và là lời cảnh báo
về sự biến mất gần như hoàn toàn văn hóa bản địa nếu phát triển du lịch không
kiểm soát; hay vấn đề Di sản văn hóa thế giới Cố đô Authaya (Thái Lan) đang
phải đối mặt trong bối cảnh du lịch tấn công và làm biến đổi các giá trị căn bản
của di tích khiến chính phủ Thái Lan buộc phải lựa chọn giữa bảo tồn di sản văn
hóa hay phát triển kinh tế… Vịnh Hạ Long (Việt Nam) cũng đã nhiều lần đứng
trước nguy cơ vượt khỏi tầm kiểm soát theo tiêu chí và tiêu chuẩn của Công ước
Bảo tồn Di sản thế giới bởi các hạng mục kinh tế và du lịch phát triển ồ ạt làm
thay đổi cảnh quan và môi trường nghiêm trọng ở Hạ Long… Điều này đòi hỏi
những định hướng, giải pháp trong việc quản lý và khai thác giá trị di sản văn
hóa ở mỗi địa phương. Quan trọng hơn cả là cần nhận biết được giá trị di sản,
xác định được vai trò của di sản trong đời sống đương đại và có ứng xử phù hợp với nó.
Tại hội nghị của ICOMOS Dublin 2010, bốn vấn đề lớn về quan hệ giữa
di sản với biến đổi xã hội hiện nay đã được đặt ra, đó là i. Di sản của những cộng
đồng đang biến đổi, đang phát triển; ii. Di cư, di dân và di sản bản địa; iii. Di sản
tôn giáo; iv. Các tác động xã hội của biến đổi khí hậu toàn cầu. ″Khi các cộng lOMoAR cPSD| 60851861
đồng trên thế giới nhận ra tầm quan trọng của di sản văn hoá, những phân tích
cho thấy một số kết quả bất ngờ, gồm sự xuất hiện của các tiêu chí mới về di sản,
sự hội tụ ngày càng tăng giữa di sản phi vật thể và phi vật thể, và nhu cầu ngày
càng lớn đối với các chuyên gia bảo tồn truyền thống để chia sẻ thẩm quyền ra
quyết định với những cá nhân và nhóm có mối quan hệ chặt chẽ với một địa điểm
di sản cụ thể. Các nhiệm vụ bảo tồn còn phức tạp hơn do các hiện tượng toàn cầu
hoá về văn hoá và kinh tế, đô thị hoá bùng nổ, các đợt di cư và sự phân phối
không đồng đều các nguồn lực cùng với ảnh hưởng ngày càng tăng của xã hội
dân sự đối với di sản”.
Những thay đổi trong quan điểm về di sản mà trong đó đặc biệt là mối liên
quan giữa di sản với những thay đổi về môi trường, xã hội và chính trị cả mặt
tích cực và cả mặt hạn chế dẫn đến những thay đổi trong cách thức bảo tồn và
phát huy giá trị và nhu cầu cấp thiết của nghiên cứu liên ngành tìm ra những giá
trị cốt lõi và những biến đổi mang tính thời đại để đưa ra chính sách và công cụ
thực hành thích hợp đối với di sản trong thế kỷ 21.
Tài nguyên Di sản Việt Nam trong bối cảnh xã hội đương đại:
Đối với Việt Nam, nguồn tài nguyên di sản đang đứng trước những thách
thức lớn của công nghiệp hoá, hiện đại hoá và cơ chế thị trường. Quá trình đổi
mới đất nước, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và cơ chế thị trường, toàn
cầu hoá, biến đổi khí hậu tác động ngày càng mạnh mẽ đến các di sản văn hoá,
đặt di sản văn hoá đứng trước những thử thách khốc liệt. Điều đó thể hiện qua
sự xuống cấp của nhiều di sản văn hoá vật thể; Nhiều di sản phi vật thể bị mai
một lãng quên trong khi nhiều loại hình nghệ thuật mới được du nhập vào nước
ta, thu hút ngày càng nhiều sự quan tâm của công chúng, nhất là giới trẻ; Không
gian cảnh quan kiến trúc di sản bị xâm hại do những yếu kém, tồn tại cố hữu
trong quá trình trùng tu, tôn tạo di tích; Việc khai thác quá mức nguồn tài nguyên
di sản thiên nhiên trong khi chưa quan tâm đầy đủ đến tính hài hòa và bền vững
về mặt môi trường và xã hội. Những điều này đã và đang đặt ra các thách thức
cho việc phát triển các nguồn tài nguyên di sản một cách bền vững, đặc biệt là
trong công tác quản lí, bảo tồn và phát huy các giá trị di sản Việt Nam - quốc gia
có đa dạng các nguồn tài nguyên di sản từ vật thể, phi vật thể và tự nhiên. lOMoAR cPSD| 60851861
Có thể khái quát về những huỷ hoại của từng loại hình di sản trên những mặt sau: -
Đối với di sản vật thể: Xuống cấp, huỷ hoại hoàn toàn hay từng
phần do nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân khách quan khí hậu,
môi trường thời tiết khắc nghiệt, khó lường, chiến tranh, xung đột tôn giáo, tín
ngưỡng, đứt gãy truyền thống do những quan điểm sai lầm của một giai đoạn
lịch sử, nhiều công trình tôn giáo bị phá huỷ một cách cố ý. Hiện nay mức độ
huỷ hoại nhanh hơn do chưa có quy hoạch đồng bộ giữa cái cần bảo tồn với xây
dựng mới. Môi trường thiên nhiên truyền thống của một số khu di sản bị biến
dạng, Nhiều không gian hoạt động tại di sản văn hóa, không gian lễ hội bị phá
vỡ, hoặc thu hẹp lại (đình, chùa bị phá hoại trong chiến tranh, các con đường
hành lễ, các địa điểm sinh hoạt lễ hội, không gian văn hóa bị chia cắt do việc xây
dựng mở mang các đô thị, khu công nghiệp…). Bên cạnh đó, bảo tồn không đúng
cách dẫn đến làm mới di tích, hiện tượng hoành tráng hoá di tích làm mất di
tích... Quan điểm bảo tồn trái ngược nhau, kinh phí bảo tồn ít và chi tiêu chưa
hợp lý, thất thoát, lãng phí và có cả những trường hợp tham những... Chưa có
đội ngũ làm công tác trùng tu chuyên nghiêp và đồng bộ. -
Đối với di sản phi vật thể: Nhiều di sản đang bị mai một, thất
truyền, xu hướng bị pha tạp gia tăng, nghệ nhân dân gian giữ bí quyết và truyền
bá văn hóa dân tộc cũng chưa được đề cao và tạo điều kiện phát huy một cách
đúng mức, đặc thù của di sản văn hóa phi vật thể là tồn tại trong trí nhớ, được
lưu truyền chủ yếu bằng con đường truyền miệng và biến đổi rất nhanh. Đối với
di sản phi vật thể, những biến đổi thường nhanh hơn, mạnh hơn nhưng lại rất
khó nhận biết cả bằng cách định tính và định lượng. Chủ thể của di sản có nhiều
thay đổi do di dân, do đô thị hoá và công nghiệp hoá... dẫn đến mối tương tác và
tình yêu và trách nhiệm đối với di sản suy giảm, nhiều tri thức bản địa biến mất hoàn toàn. -
Đối với di sản thiên nhiên: Tác động của gia tăng dân số, của khai
thác vô tội vạ môi trường tự nhiên, ô nhiễm môi trường, suy giảm đa dạng sinh
học và đặc biệt là chưa có nghiên cứu đánh giá một cách khoa học về tác động lOMoAR cPSD| 60851861
của biến đổi môi trường tự nhiên đến các di sản thiên nhiên để từ đó có những
sách lược ứng phó phù hợp và khả thi.
Trong bối cảnh hiện nay của Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá, Đô thị hoá,
Toàn cầu hoá và Biến đổi Khí hậu thì những thách thức chính đối với bảo tồn và
phát huy giá trị Di sản có thể liệt kê như sau:
Những thách thức: 1.
Xung đột lợi ích, trước hết là xung đột lợi ích trong cách đánh giá
giá trị của di sản. Di sản đang tồn tại trong một xã hội có rất nhiều xung đột lợi
ích diễn ra. Những lợi ích này nhiều khi trái ngược nhau đến mức một bên lựa
chọn di sản thì bên kia lựa chọn loại bỏ di sản (được biện minh bằng thuật ngữ
phát triển). Có thể thấy để xây dựng và phát triển, nhiều tập đoàn kinh tế lớn,
nhỏ cả của tư nhân, cả của nhà nước, trong nước và nước ngoài đã bất chấp Luật
Di sản hiện hành và Công ước Quốc tế, xây dựng những công trình mới mà
không có bất cứ khảo sát điều tra nào. Bằng cách đó di sản vật thể biến mất, môi
trường di sản biến mất, di sản phi vật thể hoặc bị biến dạng hoặc cũng dần bị
triệt tiêu. Xung đột không chỉ giữa kinh tế với văn hoá, mà xung đột còn hiện
hữu giữa cộng đồng chủ thể của di sản với các nhà quản lý, với các nhà nghiên
cứu.... Có một nghịch lý càng ngày càng có nhiều những khu đô thị, thương mại
lớn do các tập đoàn lớn như Vin Group, FLC, Sun Group... xây dựng nhưng ngày
càng ít những khu vực được khảo sát khai quật khảo cổ học thực thi luật Di sản
trước khi xây dựng. Đây là thực trạng chung không chỉ ở Việt Nam mà phổ biến
ở các quốc gia đang phát triển và chậm phát triển. Sự bành trướng của các tập
đoàn kinh tế giàu có, sức cám giỗ của các dự án bất động sản hứa hẹn những
món lợi nhuận khổng lồ khiến nhiều địa phương bất chấp các giá trị văn hóa và
tài nguyên cảnh quan thiên nhiên cần được bảo tồn, giữ gìn tính nguyên vẹn.
Xung đột lợi ích trong mỗi cộng đồng cư dân ở ngay trong di sản thế giới hay
quốc gia cũng đặt ra rất nhiều thách thức, việc di chuyển dân cư cũng như hình
thành những cụm dân cư mới và sự thay đổi không gian sinh sống của các tộc
người, các nhóm người đã có tác động không nhỏ đế biến đổi những di sản phi
vật thể. Ngay như ở Hội An, nơi được coi là điển hình tiên tiến của công tác bảo lOMoAR cPSD| 60851861
tồn và phát huy giá trị di sản thì những thay đổi về khía cạnh phi vật thể thực sự
đáng để chúng ta quan tâm giải quyết... Xung đột giữa ba nhóm người nghiên
cứu di sản- người quản lý - và người thụ hưởng tức cộng đồng ngày càng gia
tăng phản ánh qua ví dụ đòi trả lại danh hiệu như ở Đường Lâm… 2.
Triết lý về bảo tồn không nhất quán, đặc biệt là sự tranh cãi về tính
chân thực của di sản. Với khái niệm này, một số học giả quốc tế, đặc biệt ở các
nước nói tiếng Anh, như Herbert, Tunbridge và Ashworth, Hitchcock,… không
cho rằng tính chân thực của di sản, trong đó có những di sản văn hóa phi vật thể,
lại quá quan trọng trong việc quản lý và phát huy di sản trong khi đối với nhiều
nhà nghiên cứu Việt Nam khái niệm chân thực và khái niệm gốc còn được hiểu
một cách cứng nhắc. Sự không nhất quán này dẫn đến những quan điểm trái
ngược trong bảo tồn, quản lý và phát huy giá trị di sản. Mặc dù coi văn hoá là
động lực phát triển xã hội nhưng do sự không nhất quán trong triết lý bảo tồn,
không chấp nhận giá trị kinh tế của di sản, không nhận thức được về các mục
đích đa dạng của phát huy giá trị di sản và chỉ nhìn nhận di sản ở góc nhìn văn
hóa dẫn đến những sai lầm trong cách thức quản lý và phát huy di sản. 3.
Thiếu hụt kinh phí, bảo tồn trùng tu và phát huy di sản hầu như chỉ
dựa vào ngân sách nhà nước, kinh phí ít và nhiều trường hợp không được sử
dụng một cách hiệu quả. Công tác xã hội hoá phụ thuộc vào lợi ích của các tập
đoàn kinh tế, của các nhóm tổ chức xã hội vì thế xảy ra hiện tượng ″nước chảy
chỗ trũng″, bên cạnh đó khi đã nhận kinh phí xã hội hoá thì thường sẽ phải đáp
ứng những yêu cầu của người cấp tiền và những yêu cầu đó không phải lúc nào
cũng đúng Luật Di sản, cũng phù hợp với các tiêu chí khoa học. 4.
Mặc dù quá trình toàn cầu hoá có những tác động tích cực đối với
làm giàu giá trị văn hoá, làm phong phú thêm loại hình và tính chất của di sản
và kích thích sự phát triển các hoạt động bảo tồn di sản như một nhu cầu gìn giữ
quá khứ ngày một lớn, phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế lẫn tăng cường
hình ảnh văn hóa quốc gia nhưng trên thực tế, do chưa có những chiến lược tổng
thể và dài hơi về đề kháng văn hoá nên chưa chắt lọc được những cái hay từ bên
ngoài và gạt bớt những cái dở. Tại những di sản mang danh hiệu Di sản Thế giới, lOMoAR cPSD| 60851861
tác động của Toàn cầu hóa mạnh hơn và tạo ra nhiều thách thức hơn. Môi trường
phát huy di sản thay đổi do cần có nhiều phương thức thu hút du khách, thực
hành di sản kiểu của khách du lịch, sân khấu hóa, thương mại hóa… dẫn đến di
sản dễ bị biến dạng, biến đổi.
5.Nhà nước có nhiều chính sách và giải pháp tháo gỡ những bất cập và
khó khăn trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị tài nguyên di sản, tuy vậy
trong một số trường hợp, sự can thiệp của chính quyền và sự thụ động của cộng
đồng địa phương đã dẫn đến di sản bị tách ra khỏi cộng đồng và biến thành xa
lạ, cộng đồng nghiễm nhiên coi những công việc liên quan đến di sản là việc của
nhà nước, của chính quyền. Hiện tượng di sản hóa di sản, hội chứng “Di sản Thế
giới” cũng dẫn đến sự biến dạng tính chất của di sản.
6.Cũng như vậy đối với tác động của biến đổi khí hậu, mặc dù nhận thức
của chúng ta rất rõ ràng rằng Việt Nam là một trong những nước chịu tác động
nặng nề của biến đổi khí hậu nhưng những chiến lược và chính sách đưa ra mới
chỉ chú ý đến khía cạnh kinh tế, chưa thực sự chú ý đến xây dựng kế hoạch và
chiến lược từ góc độ văn hoá đối phó với biến đổi khí hậu, toàn cầu hoá ....
7.Đội ngũ người làm di sản từ nghiên cứu đến quản lý đến thực hành vẫn
được đào tạo theo các chương trình đơn lẻ, nội dung chương trình đào tạo ít đổi
mới, câp nhật những vấn đề hiện nay và cách xử lý vấn đề. Trong tất cả các bài
viết, các nghiên cứu về đào tạo nguồn nhân lực di sản, chương trình đào tạo, cách
thức đào tạo, quan điểm đào tạo... đều được đánh giá là chưa đáp ứng nhu cầu
thực tế hiện nay. Nguồn nhân lực vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về chuyên môn
và đặc biệt là tầm nhìn đơn ngành, những kiến thức được đào tạo chưa đủ để
người thực hành di sản có những cách ứng xử thích hợp trong những hoàn cảnh
biến đổi cụ thể. Đó cũng là lý do mà chính sách, chiến lược di sản không được
triển khai một cách đầy đủ và đúng hướng.
8.Công tác nghiên cứu đánh giá và thu thập thông tin chưa thực sự đi vào
thực chất, còn nặng về giấy tờ, thủ tục... Chưa có những tiếp cận liên ngành đồng
bộ trong đánh giá giá trị tài nguyên di sản để đưa ra những phương thức bảo tồn
và phát huy giá trị phù hợp và khoa học. lOMoAR cPSD| 60851861
Trước tác động bối cảnh đương đại toàn cầu hóa, đô thị hóa, hiện đại hóa,
biến đổi khí hậu, gia tăng xung đột… đối với các tài nguyên di sản, nhu cầu về
nghiên cứu liên ngành và chiến lược bảo tồn và phát huy giá trị bền vững các tài
nguyên di sản này ngày bức thiết. Do đó, giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa
phát triển kinh tế và gìn giữ bản sắc văn hóa là vấn đề mang tính toàn cầu, được
quan tâm ở hầu hết tất cả các quốc gia trên thế giới. Việt Nam có thể học hỏi
những bài học kinh nghiệm của các quốc gia để chọn lựa cách đi và hướng đi phù hợp.
Tất cả các nguồn tài nguyên di sản đều rất nhạy cảm trước/trong những
hoàn cảnh chính trị, xã hội, kinh tế… đặc biệt. Việc khai thác các nguồn tài
nguyên tự nhiên và văn hóa có thể khác nhau ở cách thức, công nghệ, mức độ…
nhưng đều giống nhau, đặc biệt ở chỗ, nếu không có môi trường phù hợp sẽ dẫn
đến hoang hóa, cạn kiệt. Tài nguyên văn hóa và thiên nhiên không phải “nồi cơm
Thạch Sanh” để chỉ khai thác mà không tái tạo và sáng tạo những giá trị mới. Để
di sản tài nguyên phát huy trong phát triển bền vững trước hết cần nghiên cứu
đánh giá trữ lượng, tìm hiểu những nhân tố tác động tới hiện trạng và tương lai
của những tài nguyên từ cả góc độ khách quan và chủ quan, qua đó xây dựng kế
hoạch bảo tồn và phát huy, đồng thuận nhiều mặt giữa bộ ba: đào tạo/nghiên cứu
– quản lý- bảo tồn phát huy.
Chiến lược phát triển kinh tế, xã hội 2011 - 2020, Đảng ta nhấn mạnh:
trong quá trình phát triển kinh tế xã hội phải coi trọng bảo tồn và phát huy các di
sản văn hóa dân tộc. Tài nguyên di sản trong bối cảnh xã hội đương đại sẽ trở
nên vô tận và liên tục tái tạo nếu có những chiến lược thích hợp và nhiệm vụ của
những người nghiên cứu, những người quản lý và cộng đồng là chung tay vì một
xã hội “đa văn hóa” để tiến tới xã hội ‘sẻ chia văn hóa”.