Tìm hiểu khái quát về Chiếc thuyền ngoài xa - Cơ sở văn hóa Việt Nam | Đại học Sư Phạm Hà Nội
Tìm hiểu khái quát về Chiếc thuyền ngoài xa - Cơ sở văn hóa Việt Nam | Đại học Sư Phạm Hà Nội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống
Môn: Cơ sở văn hóa Việt Nam (PHIL177)
Trường: Đại học Sư Phạm Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
CHIẾC THU C Y HIẾC THU Ề Y N Ề N NG N O G À O I À X I A X Nguyễn Minh Châu I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả (1930- 1989) - Quê: Nghệ An - Bản thân:
+ Đầu 1950, gia nhập quân đội và theo học ở trường sĩ quan lục quân của Trần Quốc Tuấn
+ Từ 1952 - 1956, công tác và chiến đấu tại sư đoàn 330
+ 1962, ông về phòng văn nghệ quân đội, sau chuyển sang tạp chí văn nghệ quân đội
+ Cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới
+ 2000, nhận giải thưởng HCM về văn học và nghệ thuật - Sự nghiệp: ● Trước 1975
+ Gây ấn tượng bằng những tác phẩm viết về đề tài chiến tranh như “Cửa sông” (67), “Dấu chân người lính” (72)
+ Cảm hứng bao trùm: âm hưởng lạc quan, cảm hứng lãng mạn, niềm say mê, ca ngợi vẻ đẹp
cao quý của những tâm hồn VN trong những năm đánh Mĩ ● Sau 1975
+ Thành công với tập truyện ngắn “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành” (83), “Bến quê” (85), “CTNX” (84)
+ Ông luôn trăn trở, thể hiện ở cách viết mới, lối nghĩ mới, và ông đã trở thành 1 trong số những
“nhà văn mở đường tinh anh & tài năng nhất của văn học VN hiện đại”
+ Cách nhìn mới về đời sống, con người và văn học. Ông quan niệm văn học phải bật ra từ đáy
của sự thật đời sống”, nhưng không phải là đời sống hời hợt bên ngoài mà phải là đời sống bên
trong những quan hệ phức tạp, chồng chất, đa chiều, đầy nghịch lí. Trong thế giới đầy phức tạp
ấy, con người thậm chí phải đấu tranh quyết liệt với phần nông cạn, xấu xa trong mình để hoàn thiện nhân cách.
+ Cách viết mới: ông là người tiên phong trong việc đổi mới nt truyện ngắn. Nếu trước 1975,
NMC chú trọng đến cốt truyện thì sau 1975, ông chú trọng đến nhân vật đặc biệt là diễn biến
tâm lí nhân vật. Nên những sáng tác của NMC, cốt truyện sẽ bị đảo lộn để phục vụ cho kết cấu
tâm lí, còn nhân vật được miêu tả từ thế giới bên trong để phát hiện ra “hai con người trong
một”. Chính cách viết này đã tạo ra kiểu nhân vật tư tưởng và kiểu truyện ngắn luận đề. 2. Tác phẩm a. HCST, xuất xứ
- “CTNX” (1987) là tác phẩm tiêu biểu của văn học VN sau 1975. tác phẩm ra đời trong hoàn
cảnh cuộc KC chống Mĩ đã kết thúc, đời sống muôn mặt đời thường đã trở lại sau chiến tranh,
những quan niệm đạo đức phải được nhìn nhận lại trong tình hình mới. Vì thế văn học cũng
phải đổi mới và truyện ngắn “CTNX” đã mang xu hướng của văn học thời kì này: hướng nội,
khai thác sâu vào số phận cá nhân và thân phận những con người đời thường. 1
- CTNX là một trong những truyện ngắn đặc sắc, tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống ở góc độ
đời tư, thế sự của NMC sau 1975.
- Rút ra từ tập “Bến quê” (1985).
b. Thể loại và kiểu nhân vật
- Truyện ngắn luận đề: là truyện hướng tới bàn bạc, tranh luận một vấn đề nào đó của đời sống, nghệ thuật… - Kiểu nhân vật:
+ Nhân vật tư tưởng: nv mang chức năng chính thể hiện tư tưởng của tác giả.
+ Nhân vật nhận thức: giàu suy tư về đời sống và luôn mang sự va đập với đời sống. Nv
này có sự biến đổi từ nông cạn → sâu sắc, từ bên ngoài → bên trong, từ phiến diện →
toàn diện, từ ngộ nhân → nhận thức đúng đắn (Phùng).
+ Nhân vật số phận, tính cách: là nv có thật trong cuộc đời, có một bản lí lịch đời tư gây
ấn tượng với người đọc bằng sự độc đáo, giàu cá tính và tính cách bằng sự trĩu nặng của
số phận con người (người đàn bà hàng chài). c. Ý nghĩa nhan đề
- Ý nghĩa tả thực: là hình ảnh con thuyền có thực đang ở ngoài xa trong 1 không gian thơ mộng
& Phùng bắt gặp ở vùng biển xa xôi
⇒ Chính hình ảnh tả thực này đã cho anh cảm hứng, đam mê lãng mạn khiến anh trở nên bối rối
- Ý nghĩa tượng trưng:
+ Hình ảnh bên ngoài cuộc sống mỹ miều, thơ mộng còn h/ảnh bên trong cuộc sống thì
chứa đựng sự thật phũ phàng.
⇒ Tác giả đưa ra 1 quan niệm nt, quan niệm nhân sinh sâu sắc
- Không được nhìn đơn giản về cuộc sống và con người mà phải nhìn tận đáy sâu
của cuộc sống để phát hiện ra bản chất thực, bởi vẻ ngoài đôi khi giống như 1
lớp sơn hào nhoáng và giả tạo.
- Mỗi nhân vật: phải luôn biết khao khát, có cái nhìn đích thực, sâu sắc, đa diện về
cuộc sống, về con ng, đồng thời nhà văn cũng phải biết trăn trở về số phận con
người cũng như nghịch lí phức tạp của con người. d. Bố cục
- P1: Hai phát hiện của Phùng - một bức tranh thiên nhiên hoàn mĩ, một bức tranh đời sống nghiệt ngã.
- P2: Câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện.
- P3: Tấm ảnh được chọn trong bộ lịch năm ấy. II.
Đọc hiểu chi tiết 1. Tình huống truyện
a. Khái niệm: là tình thế đặc biệt của đời sống, có khả năng làm phát hiện sâu sắc hoàn cảnh của
nhân vật và tư tưởng của tác phẩm.
b. Có 3 loại tình huống trong truyện ngắn
+ TH hành động: hướng tới những hành động có tính tước đoạt
+ TH tâm trạng: chủ yếu khám phá cảm xúc của nhân vật
+ TH nhận thức: chủ yếu được cắt ra từ những giây phút giác ngộ của nhân vật
⇒ Tình huống trong truyện ngắn CTNX là một chuỗi những tình huống đầy kịch tính được xđ từ
những phát hiện đầy nghịch lí của đời sống. 2
● Phát hiện trên bờ biển
- Phát hiện 1: Bức tranh thiên nhiên đẹp “cảnh “đắt” trời cho”
+ Hình ảnh con thuyền thu lưới trong biển sớm mù sương “mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe
nhòe vào…do ánh mặt trời chiếu vào”
+ Tg còn hình dung tất cả khung cảnh ấy được nhìn qua mắt y hệt ảnh 1 con dơi
→ Với Phùng, đó là 1 khoảnh khắc kì diệu trong đời cầm máy của mình bởi từ những người
ngư ngủ đến màu sắc, đường nét của cuộc sống đều hòa quyện tuyệt đẹp, “toàn bộ giống như
bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”
⇒ Cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh đã đem đến những cảm xúc mãnh liệt khiến Phùng bối rối, thấy
trái tim của mình “như có cái gì bóp thắt vào”.
NX: Bằng đôi mắt tinh tường của nhà nghề, Phùng đã phát hiện vẻ đẹp “trời cho”, vẻ đẹp mà cả đời
bấm máy Phùng chỉ gặp 1 lần. Nên người nghệ sĩ như Phùng cảm thấy hạnh phúc, đó là niềm hạnh
phúc của sự khám phá sáng tạo, của sự cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu. Vì vậy trong h/ả CTNX giữa
biển mờ sương, Phùng thấy tâm hồn hình như được thanh lọc, trở nên “trong ngần”.
- Phát hiện 2: Bức tranh đời sống - cảnh bạo lực trong gia đình
+ Khi chiếc thuyền tiến vào gần bờ, Phùng đã phát hiện ra 1 sự thật phũ phàng với cảnh đời
ngang trái, khổ đau. Đó là 1 người đàn bà xấu xí, mệt mỏi, tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới,
còn người đàn ông vũ phu, tàn bạo, mái tóc tổ quạ, chân đi chữ bát, con mắt chứa đầy vẻ độc
địa trút lên tấm lưng của vợ những trận đòn. Đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã lao vào bố một cách bản năng.
+ Phùng còn chứng kiến cảnh tượng đau lòng này lần 2 và biết được đó là chuyện hàng ngày.
- NMC đã dẫn dắt Phùng gặp gỡ gia đình 1 làng chài đột ngột mà hợp lí bởi cuộc gặp gỡ này,
Phùng mới có cái nhìn thấu vào bức tranh hiện thực cuộc sống với những bi kịch éo le mà
không máy ảnh nào chụp được. Tình huống này đã đập vỡ đám sương mù trắng trong bức ảnh
để làm lộ rõ cái lõi của nhân vật.
⇒ Cùng một đối tượng quan sát nhưng ở cự li khác nhau, góc độ khác nhau, người nghệ sĩ đã phát
hiện ra 2 bức tranh hoàn toàn tương phản. Phía sau cái đẹp trong trẻo, thánh thiện là sự thật tàn nhẫn
độc ác. Nhưng chính phát hiện này đã đem đến cho Phùng nhận thức mới mẻ về cách nhìn hiện thực, cuộc đời.
● Phát hiện ở tòa án huyện
- Với lòng nhân hậu và sự bất bình trước cái ác và cái xấu, cả Phùng và Đẩu đều hy vọng góp
phần giải thoát cho người đàn bà hàng chài khỏi người chồng vũ phu, họ hoàn toàn tin vào
thiện chí của mình nhưng đã phải kinh ngạc trước một nghịch lí - người đàn bà đau khổ ấy
không muốn bỏ người chồng tàn nhẫn. Con người bị cầm tù bởi đói nghèo, tối tăm và bạo lực
lại tuyệt đối không muốn giải thoát, thậm chí chị còn van xin: “Đừng bắt con bỏ nó”.
⇒ Hiện thực cuộc sống luôn chứa đựng những mâu thuẫn, nghịch lí nhưng câu chuyện của người đàn
bà thất học, quê mùa mà sâu sắc, từng trải đã biến Phùng và Đẩu trở thành những kẻ nông cạn. Lòng
tốt của các anh là lí thuyết nhưng phi thực tế, cho nên câu chuyện về người đàn và khiến “một cái gì
vừa mới vỡ ra trong đầu vị Bao Công của phó huyện vùng biển”. Đó chính là nhận thức, giác ngộ:
nghịch lí luôn tồn tại trong cuộc sống, nghịch lí dù đau đớn nhưng phải chấp nhận. 3 c. Ý nghĩa:
*** Là tình huống nhận thức:
- Nhận thức về NT và cuộc sống của người nghệ sĩ Phùng.
+ Cái đẹp ngoại cảnh đôi khi che khuất cái xấu của đời sống, nên ban đầu Phùng ngất
ngây hạnh phúc trước cái đẹp của bề ngoài, của hình ảnh con thuyền nhưng về sau anh
ta đã nhận ra cái đẹp ngoại cảnh đó đã che lấp mất cuộc sống nhức nhối bên trong con thuyền.
+ Cái xấu cũng có thể làm cái đẹp bị khuất lấp bởi khi tìm hiểu sâu xa gia đình hàng chài,
Phùng lại nhận ra cuộc sống tăm tối ấy đã chôn vùi vẻ đẹp của những thành viên trong gia đình.
⇒ Từ sự phức tạp của cuộc sống, Phùng nhận ra để hiểu sự thực của đời sống thì không thể nhìn đơn
giản mà phải nhìn đa diện, nhiều chiều.
- Nhận thức của Đẩu về con người và xã hội:
+ Đằng sau cái vô lí là cái có lí, đằng sau cái tưởng chừng như đơn giản nhưng lại chứa
chất rất nhiều vấn đề phức tạp: anh ta tưởng li hôn là giải quyết dứt điểm sự việc nhưng
anh nhận ra quan hệ của họ có những ràng buộc phức tạp hơn
+ Muốn giải quyết những vấn đề cuộc sống không chỉ dựa vào thiện chí, pháp luật hay lí
thuyết sách vở mà cần phải thấu hiểu cuộc sống và có giải pháp thực tế
⇒ Ý nghĩa tình huống truyện độc đáo, sâu sắc, giúp nhà văn NMC gửi gắm những thông điệp lớn lao mang đậm tính nhân văn:
● Cách nhìn cuộc sống, không thể có cái nhìn đơn giản mà người nghệ sĩ phải có cái nhìn đa chiều, sâu sắc
● Cách nhìn NT: NT không xa rời con người, văn chương phải nói được tận cùng nỗi khổ của
con người để tìm ra lối thoát cho những cảnh đời tăm tối
⇒ Đem đến những bài học toàn diện, sâu sắc về nhận thức
● Để giải phóng những con người đau khổ phải có những giải pháp thôi thúc mang tính toàn xã hội
● Có lúc con người ta phải tự nhìn lại mình bởi hđ sự nhận thức sẽ khiến con người trở nên hoàn thiện hơn
● Mạch truyện phát triển logic làm nổi bật tính cách nhân vật, góp phần thể hiện sâu sắc chủ đề của tác phẩm 2. Hệ thống nhân vật
A. Người đàn bà hàng chài 4
*** Người đàn bà hàng chài trong tác phẩm:
- Cũng giống như chồng, chị ta không có một cái tên mà thường được gọi là “mụ”. Phải chăng
NMC muốn mượn những đại từ không hề mĩ hóa để nhấn mạnh số phận bất hạnh và cũng là
cách che mờ cái cụ thể, làm nổi bật cái khái quát nhằm tô đậm số phận những người đàn bà
hàng chài ở vùng biển VN sau ngày giải phóng chưa thoát khỏi đói nghèo và lạc hậu.
- Tuy nhiên, người đàn bà không tên ấy lại là nv trung tâm của tác phẩm, chính cuộc đời, số
phận, tính cách, hành động, ngôn ngữ của chị đã là hạt nhân của mối quan hệ giữa các nhân vật trong tác phẩm.
- Người đàn bà hàng chài đã tạo ra những góc nhìn, góc tiếp cận về con người, cuộc sống, là
phép thử của những nhận thức là sự dẫn dắt nhận thức.
→ Qua nhân vật người đàn bà hàng chài, tấm lòng nhân đạo và quan điểm nhân sinh tiến bộ
của NMC được bộc lộ một cách sâu sắc.
*** Ngoại hình nhân vật:
- Thô kệch, xấu xí giúp cho người đọc nhận ra NMC như một chuyên gia nhân tướng học khi
đọc ra số phận con người qua từng chi tiết, ngoại hình.
- Khuôn mặt đầy vết rỗ, mệt mỏi, tái ngắt.
- Ngay bộ quần áo mang trên người chị ta cũng không bình thường, "tấm lưng áo bạc phếch và
rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng", "cặp mắt mệt mỏi".
⇒ Đây là những chi tiết biết nói dựng lên số phận lam lũ. Nhọc nhằn gợi mở 1 cuộc đời đầy giông
bão. Tuy nhiên, ngoại hình này mới cung cấp cho người đọc những phán đoán bc đầu, những phán
đoán bên ngoài nhân vật.
*** Số phận đầy bất hạnh:
- Hồi trẻ, chị là người con gái xấu, không ai lấy, trót có mang với 1 anh con trai 1 nhà hàng chài
- Chị phải sống với 1 người chồng thô bạo, liên tục bị hành hạ. Những chi tiết đầu tiên về mối
quan hệ vợ chồng của người đàn bà hàng chài đã làm cho người đọc nhói đau trước một số
phận bởi sự thô bạo của người chồng không chỉ ở lời nói mà còn ở hành động.
+ Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt
lưng của lính Ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết,
chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng
quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng
nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau
đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”.
⇒ Câu văn như một thước phim quay chậm dựng lên cái địa ngục gia đình còn người đàn bà hàng
chài là nạn nhân bị lưu đày trong cái địa ngục khủng khiếp ấy.
*** Vẻ đẹp phẩm hạnh của người đàn bà hàng chài:
- Trong văn chương, dường như phụ nữ là nơi để các nhà văn bộc lộ tình cảm yêu thương, thái
độ ngợi ca, như chị Dậu lam lũ nhọc nhằn nhưng vẫn ngời lên vẻ đẹp hoặc cô Mị như bông
hoa ban của núi rừng TB thì người đàn bà hàng chài của NMC lại không có được may mắn đó,
thô kệch, xấu xí về ngoại hình nhưng chị lại như 1 bông sen nở giữa bùn lầy, mang vẻ đẹp bình
dị đời thường, ẩn sau sự nhẫn nhục là bản năng sinh tồn mãnh liệt, 1 tấm lòng bào dung, 1 sự hi sinh đáng nể.
- Hiện lên với 3 tư cách: 5
+ Với tư cách là một người mẹ, nó ánh lên vẻ đẹp thánh thiện của tình mẫu tử. Tình mẫu
tử của chị không hề đơn giản, nó vừa là nỗi đau, sự giày vò tràn ngập tình yêu thương, nỗi hi sinh.
+ Tình yêu thương con người vô bờ bến đã giúp chị nuốt hận ngâm đòn. Chị giải thích
điều này thật giản dị: “Đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn
ông để chèo chống khi phong ba….nuôi ngấn đặng 1 sắp con nhỏ nào cũng trên dưới
chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn
cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không
thể sống cho mình như ở trên đất được!”
+ Lí lẽ của người đàn bà cho thấy đây là biểu hiện cảm động của tình mẫu tử khi ty biến
thành đức hi sinh, sự quên mình cao cả.
+ Chỉ yêu thương những đứa con nên sợ làm tổn thương tâm hồn làm tổn thương tinh
thần chúng nên chị đã xin chồng đưa mình lên bờ để đánh.
+ Khi Đẩu khuyên chị bỏ chồng, chị chắp tay vái lia lịa: “Quý tòa bắt tội con cũng được,
phạt tù con cũng được đừng bắt con bỏ nó…”
→ Đằng sau cái vái lạy của chị chứa đựng những lời muốn nói về những lẽ đời mà có dịp nhìn suốt
cả đời mình chị đã ngẫm ra; chấp nhận đòn roi thô bạo là 1 nghịch lý nhưng buộc chị ly hôn lại càng
nghịch lý hơn. Nghịch lý này chỉ có thể lí giải bằng cái lý của lòng mẹ, đôi lúc niềm vui lóe lên thật giản dị đến bất ngờ
+ “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no…”. Đặt trong hoàn cảnh đói
khổ, có lúc cả nhà phải ăn xương rồng luộc chấm muối, ta mới thấy được niềm vui giản
dị nhưng lại là khát vọng cháy bỏng của người mẹ
+ Với tư cách là một người vợ thì người đàn bà hàng chài nhẫn nhục, chịu đựng nhưng
cũng là người đầy lòng bao dung và vị tha
+ Khi nói về người chồng. người đàn bà không hề kể tội mà chỉ kể những điều tốt đẹp về
anh ta, kẻ đã 1 thời “là 1 anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”
→ Chị thấu hiểu những bế tắc của chồng, vì hoàn cảnh nghèo khó gánh nặng mưu sinh đã biến người
đàn ông tử tế trở nên thô bạo, dã man với vợ con
+ Trước tòa, chị bên vực cho chồng, chấp nhận người chồng vũ phu với chị, gia đình hạnh
phúc là gia đình có trọn vẹn các tv dù tính cách còn sứt mẻ, Đây không phải là hđ bao
che mà là một sự che chở, không chỉ che chở cho 1 con người mà cho cả 1 gia đình
đang nương tựa vào đôi vai vạm vỡ của người đàn bà thô bạo
+ Với tư cách là 1 người phụ nữ, chị là người sâu sắc, từng trải, thấu hiểu lẽ đời
+ Trước chị, Phùng và Đẩu, 2 chàng trí thức - trở nên hời hợt, nông cạn, chị đã giảng cho
họ về cái lí không thể bỏ chồng. Chị còn chỉ ra cái nông cạn trong kho trí thức của
Phùng và Đẩu: “Lòng các chú tốt nhưng các chú đâu phải người làm ăn, cho nên các
chú đâu có hiểu cái vc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc,...” hoặc “Các chú không
phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết ntn là nỗi vất vả của người đàn bà trên 1 chiếc
thuyền không có đàn ông…”
→ Những lí lẽ ấy là trí khôn của đời sống mà những người đọc sách nhiều chưa chắc đã nhận ra, vì
thế mà không phải ngẫu nhiên cả Phùng và Đẩu thốt lên: “Không thể nào hiểu được”
+ Từ lí lẽ ấy của chị, 1 triết lí của đời sống bật ra - đời sống đầy rẫy những nghịch lí. Để
tồn tại, nhiều khi ngta phải chung sống với cả những nghịch lí đó. Lẽ đời đã chiến
thắng, người lao động nghèo khổ, lam lũ không có quyền uy nhưng cái tâm của 1 người 6
phụ nữ thương chồng, thương con thấu hiểu lẽ đời là thứ quyền uy có sức công phá lớn.
Nó đã làm cho chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng thức tỉnh, ngôn ra nhiều điều mà trong sách vở không nói hết → Tiểu kết:
- Nhân vật người đàn bà hàng chài là kiểu nv tính cách số phận độc đáo của NMC để diễn tả nỗi
khổ đau, sự nhẫn nhục, lòng bao dung ở người đàn bà này. Đó là biểu hiện của tính nữ thánh
thiện, là “hạt ngọc ẩn giấu” trong những cái lấm láp đời thường mà NMC muốn tìm kiếm
- Nv người đàn bà hàng chài là 1 hình tượng nt thành công của NMC; là biểu hiện sinh động cho
triết lí nhân sinh và triết lí nt của nhà văn - không thể nhìn cuộc đời và con người đơn giản
được. Sứ mệnh của nhà văn không phải là tráng lên 1 lớp men trữ tình cho đời sống mà là đào
xới đến tận cùng cái đáy của cuộc đời. Nhà văn tồn tại trên đời là để bênh vực cho những
người không có ái để bênh vực. B. Nhân vật Phùng
*** Vai trò: nếu không có nhân vật này sẽ không có tác phẩm hoặc chủ đề tác phẩm bị đẩy lệch về
hướng khác. Nếu truyện là bài học về cái nhìn đời, nhìn người, Phùng sẽ là chủ thể của cái nhìn và
người đàn bà hàng chài là đối tượng của cái nhìn ấy.
⇒ Cả Phùng và người đàn bà hàng chài đều có vai trò chất lượng và thẩm mĩ của tác phẩm.
*** Giới thiệu về Phùng
- Là người nghệ sĩ nhiếp ảnh say mê công việc và say mê cái đẹp
+ Có khả năng khám phá, phát hiện tinh tế và có những rung động mãnh liệt trước cái đẹp
của thiên nhiên: Phục kích mấy buổi sáng chỉ để thu vào ống kính cảnh vật hết sức thơ
mộng - cảnh đẹp trên một đầm phá ở vùng biển và coi đó là cảnh “cảnh đắt trời cho”.
⇒ Đây chính là sáng tạo đích thực của một đời nghệ sĩ.
- Phùng hưởng thụ niềm vui sáng tạo xứng đáng với lao động nghệ thuật của mình. Đó là lúc
“hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình”.
⇒ Trạng thái hạnh phúc của Phùng là niềm hân hoan chân chính của cảm hứng sáng tạo ở
người nghệ sĩ. Ngòi bút NMC thật tinh tế khi miêu tả cảm giác run rẩy của người nghệ sĩ trước
cái đẹp trong trẻo của thiên nhiên và nghệ thuật. Cái đẹp ấy khiến Phùng trở nên “bối rối, trái
tim như có cái gì bóp thắt vào”.
→ Niềm hân hoan, sung sướng của sự sáng tạo đưa Phùng đến cảm giác kì diệu như chạm
được tay vào chân lí, Phùng tưởng chính mình vừa khám phá thấy “khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”.
*** Phùng là nhân vật tư tưởng, nhân vật nhận thức với tấm lòng đầy trăn trở, lo âu về số phận của con người.
- Trong khoảng không gian gần hơn, thật hơn, Phùng đã phát hiện ra bức tranh đời sống của gia
đình hàng chài đầy bất ngờ và nghịch lí.
+ Cái đẹp thơ mộng chỉ là khi chiếc thuyền ngoài xa còn khi chiếc thuyền vào gần nó chở
theo cả một sự thật phũ phàng. Chiếc thuyền chòng chành với những số phận đầy bi
kịch của một gia đình ngư dân. Nếu từ góc nhìn của người nghệ sĩ, Phùng sung sướng 7
cảm nhận cái đẹp thì từ góc nhìn đạo đức, Phùng lại đau đớn chứng kiến điều ác, sự bạo
hành trong gia đình hàng chài.
→ Con người đạo đức trong con người nghệ sĩ Phùng đã xui khiến anh đứng lên bảo vệ
điều thiện, bảo vệ chân lí.
- Hình ảnh chiếc thuyền đẹp toàn bích lùi xa, không còn mù sương, không còn biển cả, chỉ còn
lại những nghịch lí cuộc đời, cái cuộc đời mà Nguyễn Khải từng nhận xét là “ngổn ngang, bề
bộn, bóng tối và ánh sáng, màu đỏ và màu đen, đầy rẫy những biến động, những bất ngờ”.
- Khi chứng kiến cảnh bạo lực gia đình, Phùng rơi vào trạng thái tâm lí lưỡng phân. Những phát
hiện đầy nghịch lí của Phùng cho thấy tấm ảnh trên tờ lịch mới chỉ là những bức ảnh NT chứ
chưa phải là bức tranh toàn diện và đời sống. Hay nói đúng hơn, đó là thứ NT xa vời cuộc
sống, xa vời số phận con người. Cho nên bức ảnh tuyệt đẹp có tất cả nhưng lại thiếu một thứ
quan trọng: đó là hơi thở của cuộc đời. Nó xa xôi như “bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”.
*** NMC từng phê phán lối viết “tráng lên một lớp men trữ tình” làm mờ đi sự thật của cuộc
đời. Phải chăng đám sương mờ trắng kia cũng là lớp men trữ tình bên ngoài tráng lên sự thật của đời
sóng, vì thế Phùng vừa tự hào về bức tranh NT vừa trăn trở trước nó. Vì đằng sau cái đẹp là cuộc
sống tù đọng, nhẫn nhục, đau khổ, câm lặng của con người, và hai cực đối lập ấy đã kéo Phùng về hai
phía: vừa đẩy Phùng về phía tự hào sung sướng vừa kéo Phùng về phía trăn trở, tạo nên một ám ảnh day dứt khôn nguôi.
- Câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở tòa án lại giúp cho Phùng có những vỡ lẽ:
+ Với người đàn bà hàng chài, tình thương, sự hi sinh vô bờ bến của người mẹ đối với
con là căn nguyên của mọi sự nhẫn nhục, chịu đựng. Đó là “hạt ngọc ẩn giấu” trong tâm
hồn mỗi con người mà người nghệ sĩ phải tìm kiếm.
+ Với người chồng thô bạo, Phùng có phần cảm thông. Có lẽ do cuộc sống đói nghèo với
bao mưu toan cực nhọc đã khiến anh con trai “kiêu hãnh nhưng cục tính” xưa thành một
kẻ độc ác, vũ phu. Và Phùng phải làm gì để nâng cao phần người, phần lương thiện
trong con người thô bạo ấy.
+ Với thằng bé Phác, trở thành đứa con lỗi đạo với cha cũng chính từ nguyên nhân đói
nghèo, thất học và bạo lực gia đình. Biết bao trăn trở trong lòng Phùng sau câu chuyện
ấy, và phải làm sao để những đứa trẻ như Phác được no cơm và được sống trong hạnh phúc?
+ Bộ lịch năm ấy và mãi về sau còn được treo ở nhiều nơi, nhất là ở trong những gia đình
sành chơi NT. Nhưng lạ thay, mỗi lần Phùng ngắm kĩ, nhìn lâu tấm ảnh thuyền và biển,
Phùng lại thấy hình ảnh người đàn bà hàng chài lam lũ hiện ra, vừa xót xa thương cảm,
vừa nhắc nhở Phùng về MQH giữa NT và cuộc sống: Đó là NT chân chính, là NT phục
vụ con người, vì con người. Qua đó bộc lộ quan điểm NT của NMC - luôn khao khát
kết nối chân - thiện - mĩ.
C. Nhân vật Đẩu - vị “Bao Công” vùng biển
- Là kiểu nhân vật nhận thức, là vị chánh án tốt bụng, sống có trách nhiệm, giàu tình thương con
người, am hiểu luật pháp nhưng lại có phần nông nổi trước cuộc sống đích thực.
- Đẩu là người biết nhìn lại mình với tinh thần cầu tiến. Đẩu đã vỡ ra nhiều vấn đề về cách nhìn
nhận, đánh giá con người. Và đỉnh điểm của hđ nhận thức là chi tiết thoáng qua nhưng rất quan 8
trọng: “Một cái gì vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công”. Sau cái vỡ ra kia là bước ngoặt, nói đúng
hơn là bước tiến trong nhận thức về cuộc sống và con người. III. Tổng kết 1. Nội dung
a. Quan điểm nt của tác giả
- Bài học nhân sinh đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống con người - phải có cái nhìn đa diện,
nhiều chiều để phát hiện ra bản chất thật của hiện tác giả.
- Nt phải gắn bó với cuộc sống và con người cho nên người nghệ sĩ phải quan tâm sâu sắc đến
con người, phải biết trăn trở khôn nguôi để góp phần giải phóng con người khỏi cầm tù, tăm tối, bạo lực.
b. Giá trị nhân đạo
- Phê phán hành động vũ phu của người chồng để người đọc thấy rõ tình trạng bạo lực vẫn tồn tại trong gia đình.
- Nhà văn quan tâm tới số phận con người và đã đứng về phía công lý để bênh vực con người,
đặc biệt là người phụ nữ.
- Trân trọng vẻ đẹp của tình mẫu tử vị tha, đức hi sinh & những khao khát hạnh phúc bình dị của người lao động. 2. Nghệ thuật
- Xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống. - NT khắc họa nhân vật.
- NT kể chuyện sinh động.
- Giọng văn biến hóa linh hoạt: lúc thì bay bổng đam mê, khi thì lại trầm lắng suy tư.
- Ngôn ngữ phù hợp với đặc điểm tính cách của từng nhân vật → góp phần khắc sâu chủ đề tư tưởng tác phẩm. 9