Tìm hiểu sự ảnh hưởng của những nét mới trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại đối với sự phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0) | Tiểu luận môn Kinh tế chính trị Mác -Lênin

Nền văn minh của nhân loại suy cho cùng là do sự phát triển đúng hướng của lực lượng sản xuất quyết định. Do đó việc nghiên cứu quy luật vận động và những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất là một vấn đề hết sức quan trọng. Lực lượng sản xuất ở Việt Nam trước thời kỳ đổi mới có thể nói là khó khăn, lỗi thời do cuộc chiến tranh bảo vệ dân tộc kéo dài. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH KHOA
LUẬN CHÍNH TRỊ
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BỘ MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN Tiểu luận
cuối kỳ
***
TÌM HIỂU SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA NHỮNG NÉT MỚI TRONG SỰ
PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN ĐẠI ĐỐI VỚI SỰ
PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM TRONG CUỘC
CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ IV
MÃ SỐ LỚP HP: 20CLC
GVHD: TS. ĐOÀN ĐỨC HIẾU
NHÓM THỰC HIỆN: NHÓM 6
HỌC KỲ: –NĂM HỌC: 2 2021-2022
TP.HỒ CHÍ MINH – 28/04/2022
DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN HỌC KỲ II
NĂM HỌC 2021 – 2022
Nhóm: 07 ( Lớp:LLCT120205_21_02_20CLC)
Tên đề tài: Tìm hiểu sự ảnh hưởng của những nét mới trong sự phát triển của chủ nghĩa tư
bản hiện đại đối với sự phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam trong cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư (4.0).
STT Họ và tên MSSV % HOÀN THÀNH
1 Võ Thị Bích Dân 21124346 100%
2 Hà Hương Giang 21124354 100%
3 Phạm Tấn Hiệp 21124360 100%
4 Nguyễn Phúc Uyên Nhi 21124389 100%
5 Trương Vũ Phương Thảo 21124406 100%
Ghi chú:
Tỷ lệ% = 100% Mức độ phần trăm của từng thành viên tham gia.
Nhóm trưởng: Võ Thị Bích Dân SĐT: 0338082465
ĐIỂM: _______________________________________
NHẬN XÉT CỦA GV:
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
Tp Thủ Đức, ngày 28, tháng 04, năm 2022
CHỮ KÝ XÁC NHẬN CỦA GIÁO VIÊN
2
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ
ĐẦU .......................................................................................................4
1. Lý do chọn đề tài...................................................................................................4
2. Mục tiêu nghiên cứu .............................................................................................4
3. Phương pháp nghiên cứu .....................................................................................5
B. PHẦN NỘI DUNG....................................................................................................6
CHƯƠNG 1: NHỮNG NÉT CHÍNH TRONG PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ
NGHĨA TƯ BẢN.............................................................................................6
1.1. Chủ nghĩa tư bản là gì? .................................................................................6
1.2. Những nét mới trong sự phát triển của chu nghĩa tư bản hiện đại ..........8
1.2.1. Sự phát triển nhảy vọt về lực lượng sản xuất......................................8
1.2.2. Sự điều chỉnh về quan hệ sản xuất và quan hệ giai cấp......................10
1.2.3. Thể chế quản lý kinh doanh trong nội bộ doanh nghiệp có những
biến đổi lớn: ......................................................................................................10
1.2.4. Điều tiết vĩ mô của nhà nước ngày càng được tăng cường.................14
1.2.5. Các công ty xuyên quốc gia có vai trò ngày càng quan trọng trong hệ
thống kinh tế tư bản chủ nghĩa ................................................................14
1.2.6. Điều tiết và phối hợp quốc tế được tăng cường:................................14
CHƯƠNG 2: SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA NHỮNG NÉT MỚI TRONG SỰ PHÁT
TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN ĐẠI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN
LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY........................................16
2.1. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ............................................................16
2.2. Các ngành kinh tế dựa trên hàm lượng tri thức cao phát triển:.............17
2.3. Hội nhập kinh tế...........................................................................................20
2.3.1. Việt Nam trong công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế:........................20
2.3.2. Những mặt hạn chế ..............................................................................21
2.3.3. Thử thách của nước ta:........................................................................21
PHẦN KIẾN THỨC VẬN
DỤNG .............................................................................24
C. PHẦN KẾT
LUẬN .................................................................................................26
D. TÀI LIỆU THAM
3
KHẢO.......................................................................................27
4
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nền văn minh của nhân loại suy cho cùng là do sự phát triển đúng hướng của lực
lượng sản xuất quyết định. Do đó việc nghiên cứu quy luật vận động những hình
thức phát triển của lực lượng sản xuất là một vấn đề hết sức quan trọng.
Lực lượng sản xuất ở Việt Nam trước thời kỳ đổi mới có thể nói khó khăn, lỗi
thời do cuộc chiến tranh bảo vệ dân tộc kéo dài. Trình độ người lao động thấp, hầu hết
không chuyên môn tay nghề, phần lớn lao động chưa qua đào tạo. Tư liệu sản xuất
còn thô sơ, lạc hậu. Sau thời kỳ đổi mới (1986) lực lượng sản xuất Việt Nam đã
nhiều tiến bộ, nhiều trường đại học, cao đẳng, trung cấp được mở, đáp ứng nhu cầu đào
tạo lao động cho đất nước. Tuy nhiên so với thế giới Việt Nam vẫn chưa được coi
nước phát triển.
Chủ nghĩa bản hiện đại đặc điểm lớn so với tất cả các giai đoạn phát triển
trước đây là trình độ phát triển rất cao của lực lượng sản xuất, trình độ khoa học công
nghệ rất cao của các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế.Các nước tư bản phát triển, như
Mỹ, các nước Tây Âu, Nhật Bản những nước đi đầu trong nghiên cứu phát triển
ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; đi đầu trong các lĩnh vực điện tử, tin học,
thông tin, viễn thông, phát triển Internet, trí tuệ nhân tạo, công nghệ vật liệu mới, năng
lượng mới, công nghệ sinh học... làm thay đổi căn bản phương thức sản xuất, chất
lượng, hiệu quả của những ngành kinh tế truyền thống tạo nên nhiều ngành, lĩnh
vực, nhiều sản phẩm mới, công nghệ cao, có giá trị gia tăng, mức cạnh tranh cao.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Từ đó cho thấy được cách mạng 4.0 xu thế công nghệ tất yếu Việt Nam
phải hướng đến để theo kịp các nước phát triển trên thế giới. Ngoài ra những nét mới
trong chủ nghĩa tư bản hiện đại cũng sẽ ảnh hưởng đến lực lượng
sản xuất của Việt Nam. Muốn nâng cao chất lượng lực lượng sản xuất ở nước ta
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 thì trước tiên chúng ta phải “ Tìm hiểu sự ảnh
hưởng của những nét mới trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại đối với sự
phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4”.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để hiểu rõ hơn về đề tài, bài tiểu luận này sẽ được chia làm hai chương gồm:
∙ Chương 1: Những nét chính trong phát triển chủ nghĩa tư bản. ∙ Chương 2: Sự
5
ảnh hưởng của những nét mới trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại đối với
sự phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay.
Do trình độ về chuyên môn còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu
sót, chính vì vậy em xin cám ơn TS.Trần Thị Thảo đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ.
6
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG NÉT CHÍNH TRONG PHÁT TRIỂN CỦA
CHỦ NGHĨA TƯ BẢN
1.1.Chủ nghĩa tư bản là gì?
Chủ nghĩa bản một hệ thống kinh tế dựa trên quyền sở hữu nhân đối với
liệu sản xuất hoạt động sản xuất lợi nhuận . Các đặc điểm đặc
1
trưng của chủ
nghĩa tư bản bao gồm: tài sản tư nhân, tích lũy bản, lao động tiền lương, trao đổi tự
nguyện, một hệ thống giá cả thị trường cạnh tranh. Trong nền kinh tế thị trường
bản, việc điều hành và đầu tư được quyết định bởi chủ
sở hữu tài sản, liệu sản xuất hoặc khả năng sản xuất trong thị trường tài chính,
trong khi giá cả, phân phối hàng hóa dịch vụ chủ yếu được quyết định bởi sự cạnh
tranh trong thị trường hàng hóa và dịch vụ. Chủ nghĩa tư bản xuất hiện đầu tiên tại châu
Âu phát triển từ trong lònghội phong kiến châu Âu chính thức được xác lập
như một hình thái hội tại Lan và Anh thế kỷ XVII. Sau cách mạng Pháp cuối
thế kỷ XVIII, hình thái chính trị của "nhà nước tư bản chủ nghĩa" dần dần chiếm ưu thế
hoàn toàn tại châu Âu loại bỏ dần hình thái nhà nước của chế độ phong kiến, quý
tộc. Và sau này hình thái chính trị – kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa lan ra khắp châu
Âu và thế giới.
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản (với tư cách một hình thái kinh tế) từ chủ nghĩa
phong kiến không do một lý thuyết gia nào xây dựng. Tuy nhiên A. Smith là người có
đóng góp to lớn nhất xây dựng một hệ thống lý luận tương đối hoàn chỉnh về chủ nghĩa
tư bản tự do hay tự do kinh tế. Chủ nghĩa tư bản không đồng nhất với chủ nghĩa tự do
dù nền tảng là kinh tế tư hữu, nói cách khác chủ nghĩa tư bản là một trong các hình thái
kinh tế của sản xuất tư hữu và đối lập với chủ nghĩa xã hội trên nền tảng sở hữu công
cộng, sở hữu tập thể. Các chính sách an sinh xã hội trong nền kinh tế tư bản không phải
là thành tố của chủ nghĩa tư bản, và cũng không phải biểu hiện đặc trưng của chủ nghĩa
xã hội.
1
Trích xuất từ Wikipedia trong bài viết về “Chủ nghĩa tư bản”
Các nhà kinh tế, chính trị, nhà xã hội học và nhà sử học đã áp dụng những quan điểm khác
nhau trong các phân tích về chủ nghĩa tư bản và đã công nhận nhiều hình thức tử bản có
trong thực tế, bao gồm laissez-faire hay chủ nghĩa tư bản thị trường tự do, chủ nghĩa tư bản
7
phúc lợi và chủ nghĩa tư bản nhà nước. Các hình thức khác nhau của chủ nghĩa tư bản có
mức độ khác nhau ở thị trường tự do, sở hữu công cộng,trở ngại cho cạnh tranh tự do và các
chính sách xã hội bị nhà nước xử phạt. Mức độ cạnh tranh trên thị trường, vai trò can thiệp
và điều tiết và phạm vi sở hữu nhà nước khác nhau giữa các mô hình chủ nghĩa tư bản khác
nhau. Hầu hết các nền kinh tế tư bản hiện tại là các nền kinh tế hỗn hợp, kết hợp các yếu tố
của thị trường tự do với sự can thiệp của nhà nước và trong một số trường hợp là hoạch định
kinh tế.
Các nền kinh tế thị trường đã tồn tại dưới nhiều hình thức của chính phủ
nhiều thời điểm, địa điểm và nền văn hóa khác nhau. Cáchội tư bản hiện đại, được
đánh dấu bằng sự phổ cập các quan hệ xã hội dựa trên đồng tiền, một nhóm công nhân
lớn toàn hệ thống phải làm việc để kiếm tiền, một tầng lớp bản sở hữu các
phương tiện sản xuất được phát triển ở Tây Âu trong một quá trình dẫn đến cuộc cách
mạng công nghiệp. Các hệ thống bản với mức độ can thiệp trực tiếp khác nhau của
chính phủ đã trở nên chiếm ưu thế trong thế
giới phương Tây và tiếp tục lan rộng ra thế giới. Theo thời gian, tất cả các nước tư
bản đã trải qua sự tăng trưởng kinh tế nhất quán sự nâng cao mức sống của con
người.
Các nhà phê bình chủ nghĩa bản cho rằng hệ thống chủ nghĩa bản thiết lập
quyền lực trong tay một tầng lớp bản thiểu số tồn tại thông qua sự bóc lột giai cấp
công nhân đa số và lao động của họ; nó ưu tiên lợi nhuận hơn lợi ích xã
hội, tài nguyên thiên nhiên môi trường, chủ nghĩa bản một động cơ của
bất bình đẳng, tham nhũng bất ổn kinh tế. Trong khi những người ủng hộ chủ nghĩa
bản lập luận rằng cung cấp các sản phẩm tốt hơn đổi mới thông qua sự cạnh
tranh, thúc đẩy đa nguyên và phân cấp quyền lực, phân tán sự giàu có cho tất cả những
người sản xuất sau đó đầu tư vào các doanh nghiệp hữu ích dựa trên nhu cầu thị trường,
cho phép hệ thống khuyến khích linh hoạt trong đó ưu tiên hiệu quả bền vững. Từ
đó tạo ra sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ mang lại năng suất sự thịnh vượng
lợi cho xã hội.
1.2. Những nét mới trong sự phát triển của chu nghĩa tư bản hiện đại
1.2.1. Sự phát triển nhảy vọt về lực lượng sản xuất
Chủ nghĩa tư bản đang trong bước quá độ từ cơ sở vật chất kỹ thuật truyền thống
sang cơ sở vật chất kỹ thuật hoàn toàn mới về chất - đó là kinh tế trí thức.
Kinh tế tri thức có những đặc trưng là:Các tài sản vật thể (physical assets) như đất
8
đai, nhà máy, thiết bị không còn đóng vai trò như trước. Chất xám, vốn con người có ý
nghĩa quyết định sức mạnh kinh tế.Trong trao đổi, phần mềm chiếm vị trí quan
trọng.Các hoạt động kinh tế đều được “số hoá” được vận hành trên các siêu xa lộ
thông tin, các mạng lưới máy tính lan toả khắp nơi. Thông tin s đóng vai trò quyết
định nhất vai trò như “bản vị của mọi hoạt động kinh tế”Các quan niệm truyền
thống phương thức sản xuất kinh doanh sẽ thay đổi .Ví dụ, sở hữu trí tuệ được đề
2
cao, quản theo mạng sẽ thay thế phương pháp quản theo thứ bậc. Tuy nhiên hiện
nay loài người mới ở bước quá độ. Những biểu hiện cụ thể của bước quá độ là sự thay
thế từng bước các liệu sản xuất truyền thống do cuộc cách mạng công nghiệp mang
lại bằng các tư liệu sản xuất hiện đại dựa trên cơ sở của những thành tựu của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ, tập trung các lĩnh vực điện tử, tin học, vật liệu mới,
công nghệ sinh học... thể hiện trong những thiết bị siêu nhỏ, siêu nhẹ, siêu bền... tác
động nhanh, hiệu quả cao, tiêu tốn ít năng lượng. Các liệu sản xuất này hết sức đa
dạng, phong phú cả vế đối tượng lao động lẫn tư liệu lao động. Các công cụ thiết bị tự
động hoá ngày càng phát triển thay thế cho các công cụ, thiết bị cơ khí hoá.Có thể nói
khái quát là hiện đã có ba loại thiết bị biểu hiện chức năng tự động hoá. Đó là:
∙ Máy tự động trong quá trình hoạt động.
∙ Máy công cụ điều khiển bằng số.
∙ Đặc biệt là người máy(Robot) .
Công việc nặng nhọc, những công đoạn nguy hiểm, độc hại cho người lao động
được thực hiện băng máy móc, đồng thời đã xuất hiện những nhà máy tự động hoá do
người máy điều khiển những công đoạn cần thiết. Các quá trình lao động trí óc cũng đã
bước đầu được thử nghiệm để người máy thay thế. Tính cách mạng của tư liệu sản xuất
trước hết thể hiện công cụ lao động dây chuyền đến tất cả các khâu của quá trình tái
sản xuất. Do vậy, phương thức sản xuất của cải vật chất cũng bước nhảy vọt từ kỹ
thuật cơ khí sang bán tự động và tự
động các yếu tố bản của nền kinh tế tri thức đã xuất hiện.Nguyên nhân của
bước quá độ này do tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ. Chính
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ với những lĩnh vực mũi nhọn được tập trung là
kỹ thuật điện tử, công nghệ thông tin, vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ hải
dương... đã tạo ra những thành tựu mới và được chủ nghĩa tư bản.
2
Trích “Những đặc điểm của chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày nay và xu hướng vận động
9
của nó” – tác giả: V Cafe
Giáo dục - đào tạo được tăng cường làm cho tố chất công nhân được nâng cao, từ
đó đặt nền móng vững chắc cho việc nâng cao năng suất lao động sức cạnh
tranh.Đội ngũ người lao động làm thuê lực lượng sản xuất cơ bản, cũng sự biến đổi
cả về trình độ nghiệp vụ cơ cấu các yếu tố cấu thành giá trị hàng hoá sức lao động
để phù hợp với bước nhảy vọt mang tính cách mạng củaliệu sản xuất. Cho đến nay,
đội ngũ lao động các nước bản phát triển đã đạt trình độ văn hoá, chuyên môn
nghiệp vụ cao. Cơ cấu lao động đãsự thay đổi theo chiều hướng tiến bộ các yếu
tố tái sản xuất tư bản chủ nghĩa một cách có hiệu quả.
1.2.2. Sự điều chỉnh về quan hệ sản xuất và quan hệ giai cấp: Thứ nhất, quan hệ sở hữu
cũng có những thay đổi, biểu hiện nổi bật là sự phân tán quyền nắm cổ phiếu tăng lên.Phân
tán hóa quyền khống chế cổ phiếu có lợi cho cải thiện quan hệ giữa chủ xí nghiệp và công
nhân. Nhưng trên thực tế, công nhân là cổ đông nhỏ, không thể cùng với nhà tư bản phân
chia quyền lực, nên phân tán hóa quyền khống chế cổ phiếu cũng không thể làm thay đổi địa
vị làm thuê của người lao động.
Thứ hai, kết cấu giai cấp cũng đã những biến đổi lớn, các giai cấp, tầng lớp,
đoàn thể hội tập đoàn cùng tồn tại tác động lẫn nhau.Nổi bật nhất sự xuất
hiện của tầng lớp trung lưu (hay còn gọi giai cấp trung sản), chiếm khoảng 40-50%
dân số. Trên thực tế, phần lớn trong số này cổ phiếu hoặc một phần vốn, rất nhiều
trong số họ là phần tử tri thức hoặc nhân viên chuyên ngành, có địa vị nghề nghiệp khá
tốt, đã không còn là giai cấp vô sản theo quan niệm truyền thống nữa.
Thứ ba, cùng với sự tăng trưởng của sản xuất sợ điều chỉnh về quan hệ sản
xuất, thu nhập bằng tiền lương của người lao động cũng được mức tăng trưởng khá
lớn.Tất cả những điều này cho thấy, mâu thuẫn giai cấp trong hội bản chủ nghĩa
vẫn tồn tại nhưng nhờ những điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản về quan hệ sản xuất,
bắt nguồn từ những thay đổi trong quan hệ sở hữu, nên đã phần nào xoa dịu được tính
gay gắt của mâu thuẫn này. Những điều chỉnh đó nói lên rằng chủ nghĩa bản muốn
tồn tạiphát triển cũng phải lo giải quyết các vấn đề hội, giải quyết mối quan hệ
giữa bản lao động, song song với sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản
xuất và cuộc đấu tranh bền bỉ của giai cấp công nhân
1.2.3. Thể chế quản lý kinh doanh trong nội bộ doanh nghiệp có những biến
đổi lớn:
10
Trong điều kiện mới của cách mạng khoa học kỹ thuật và kinh tế tri thức, thể chế
quản lý kinh doanh trong nội bộ các doanh nghiệp đã thực hiện các bước điều chỉnh
cải cách lớn:
Thứ nhất, doanh nghiệp cải cách chế quản lý, thiết lập cấu tổ chức hàng
ngang mạng lưới. Phương hướng cải cách xóa bỏ hệ thống kiểu kim tự tháp
truyền thống như tập trung quá lớn quyền lực, đa tầng thứ theo chiều dọc, thay thế
bằng hệ thống kiểu mạng lưới phân quyền, ít tầng thứ theo chiều ngang nhằm giảm
bớt khâu trung gian, thông tin thuận lợi, đơn giản trình tự quyết sách, phát huy đầy đủ
tính chủ động trách nhiệm của toàn thể công nhân nhằm nâng cao hiệu quả công
tác.
∙ Thứ hai, dùng công nghệ cao cải cách cơ chế quản lý sản xuất. Để thích ứng với
những thay đổi từ thể chế sản xuất theo "đơn đặt hàng", doanh nghiệp thiết lập hệ
thống sản xuất linh hoạt, hệ thống sản xuất bằng máy tính, chế độ cung cấp thích hợp
và cơ chế phát triển theo nhu cầu (tức khâu sản xuất càng gần gũi với khách hàng hơn).
∙ Thứ ba, thực hiện cải cách quản lý lao động lấy con người làm gốc, yêu cầu đối
với công nhân chủ yếu không phải là điều kiện thế lực mà là phải có kỹ năng và tri thức
cao hơn để họ phát huy tính chủ động tính sáng tạo, từ đó nâng cao năng suất lao
động và tăng cường thế cạnh tranh của doanh nghiệp.
Thứ tư, thay đổi hình thức tổ chức doanh nghiệp xuất hiện xu thế hai loại hình
lớn hóa và nhỏ hóa cùng hỗ trợ nhau tồn tại. Các doanh nghiệp lớn đã không ngừng mở
rộng ưu thế về quy mô, tăng cường sức mạnh thị trường của công ty. Đồng thời, các
doanh nghiệp nhỏ linh hoạt hơn, tinh thần sáng tạo hơn cũng được phát triển mạnh
mẽ, làm cho kinh tế tư bản chủ nghĩa có sức sống và hiệu quả cao.
1.2.4. Điều tiết vĩ mô của nhà nước ngày càng được tăng cường:
Nguyên nhân sâu xa của việc tăng cường vai trò điều chỉnh của nhà nước tư
bản bắt nguồn từ sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất dưới tác động của
cuộc cách mạng khoa học, công nghệ, khiến trình độ xã hội hoá tăng lên một cách
mạnh mẽ, làm cho độc quyền tư nhân không thể thích ứng nổi. Cuộc cách mạng khoa
3
học - công nghệ đã đưa tới sự ra đời của nhiều ngành mới như: điện tử, năng
lượng,hàng không vũ trụ. Phát triển những ngành này một mặt đòi hỏi phải có nguồn
vốn rất lớn, cơ sở hạ tầng hiện đại, đội ngũ những người lao động lành nghề có tri thức
cao, được đào tạo toàn diện, trong khi điều này các nhà tư bản không thể tự giải quyết
được và mặt khác, chính sự ra đời của những ngành sản xuất mới đòi hỏi các quốc gia
phải có chiến lược kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ để định hướng cho sự phát
11
triển, đồng thời nó còn đòi hỏi những khoản đầu tư lớn cho việc nghiên cứu khai triển,
đào tạo và đào tạo lại, xây dựng kết cấu hạ tầng mới. Những việc này chỉ có nhà nước
mới giải quyết nổi. Quá trình quốc tế hoá sản xuất và lưu thông được đẩy mạnh, sự
phân công hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng đã làm nảy sinh những mâu thuẫn mới
mang tính quốc tế, chỉ có nhà nước mới đứng ra điều chỉnh, giải quyết và phối hợp
được các hoạt động mang tính quốc tế. Ngoài ra, để đối phó với những biến động kinh
tế, chính trị, xã hội, diễn ra trong và ngoài nước như: khôi phục nền kinh tế sau chiến
tranh chạy đua kinh tế và quốc phòng anh ninh trong việc đối đầu với phong trào giải
phóng dân tộc và đối Phó với những cuộc khủng hoảng kinh tế, nạn thất nghiệp và
những khuyết tật của cơ chế thị trường, không ngoài ai khác là nhà nước phải trực tiếp
can thiệp vào các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội để đảm bảo cho sự vận động
bình thường của nền kinh tế. Sự chuyển biến nền kinh tế của các nước tư bản từ nền
kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế thông tin đã làm thay căn bản môi trường hoạt
động của nhà nước.Chính sách thuế khoá và những quy định về đầu tư cũng như các
chính sách kinh tế nói chung cần phải đáp ứng được nhiều hơn bao giờ hết các thông
số của nền kinh tế thế giới toàn cầu hoá. Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật đã mở ra những cơ hội mới cho phép mở rộng vai trò của thị trường.
Những thay đổi này làm cho chính phủ có một vai trò mới và khác biệt. Nó không còn
là người đảm bảo độc nhất nữa mà trở thành người tạo điều kiện và người điều tiết hoạt
động xã hội.
Cuộc cải cách hành chính được thực hiện trên sở xác định lại vai trò của nhà
nước. Mục tiêu của cuộc cải cách hành chính thực hiện “chính phủ gọn nhẹ”,cơ cấu
lại bộ máy chính quyền trung ương, thực hiện phi tập trung hoá, phân cấp mạnh mẽ
hơn cho chính quyền địa phương. Chính phủ trước đây vừa người cầm lái vừa
người bơi chèo con thuyền quốc gia. Ngày nay, cầm lái bơi chèo được tách riêng
ra.Chính phủ cầm lái chứ không phải bơi chèo.Việc cầm lái đòi hỏi phải cónhững
người nhìn nhận được toàn bộ tổng thể các vấn đề và các khả năngthể cân đối được
các yêu cầu trái ngược nhau về
nguồn lực. Việc bơi chèo đòi hỏi phải có những người chú ý tập chung vào một
nhiệm vụ thực hiện tốt nhiệm vụ đó. Các tổ chức cầm lái cần phải tìm ra những
phương pháp tốt nhất để đạt được những mục tiêu của mình. Xã hội hoá và tư nhân hoá
con đường làm giảm nhẹ gánh nặng của nhà nước trong việc cung ứng các dịch vụ
hội, làm cho chính phủ gọn nhẹ, chỉ tập chung vào việc cầm lái. Nhà nước không
teo đi mà trái lại, mạnh mẽ, chắc chắn và năng động hơn. Nhà nước “thực hiện” và “thi
hành” được thay bằng một nhà nước “cai trị mạnh chỉ làm cái việc quyết định
12
và lãnh đạo và việc thực hiện giao nhiệm vụ cho người khác.
Mục tiêu của sự điều tiết kinh tế nhà nước tư bản độc quyền là nhằm khắc phục
những khuyết tật của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, định hướng cho
sự phát triển kinh tế - xã hội nhằm tăng trưởng kinh tế, đảm bảo sự tồn tại và phát
triển của chủ nghĩa bản, giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát
triển,thúc đẩy cạnh tranh và kích thích cạnh tranh.
Thứ nhất, kịp thời điều chỉnh chiến lược tổng thể phát triển kinh tế nhằm nâng
cao sức cạnh tranh tổng thể của quốc gia. Những năm 90 của thế kỷ XX, việc thiết lập
thị trường chung châu Âu sự ra đời của đồng tiền chung châu Âu, bất kể đối với
châu Âu hay đối với cả thế giới, đều có ý nghĩa không thể xem nhẹ.
∙ Thứ hai, sự lựa chọn chính sách thực dụng. Những năm 90 của thế kỷ XX, dù là
Mỹ hay châu Âu đều áp dụng mô hình chính sách "Con đường thứ ba", trên thực tế là
sự dụng hòa quan niệm giá trị truyền thống và chủ trương chính trị của chủ nghĩa tự do
với một số biện pháp của chủ nghĩa bá thủ mới, đóng vai trò tích cực cho việc xoa dịu
những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản hiện nay.
Thứ ba, căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế khác nhau của từng thời kỳ, vận
dụng linh hoạt chính sách tài chính và chính sách tiền tệ, kịp thời điều chỉnh mâu thuẫn
cung cầu trong xã hội và mâu thuẫn giữa các tầng lớp xã hội khác nhau.
1.2.5. Các công ty xuyên quốc gia có vai trò ngày càng quan trọng trong hệ
thống kinh tế tư bản chủ nghĩa:
Các công ty xuyên quốc gia (TNC) các công ty bản độc quyền bành trướng
thế lực ra nước ngoài dưới hình thức cài cắm nhanh. Hiện tại, các công ty xuyên quốc
gia được nhà nước các nướcbản chủ nghĩa nâng đỡ, thông qua đầutrực tiếp ra
nước ngoài trên quy mô lớn,các công ty xuyên quốc gia mua thôn tính các tài sản
nước ngoài, không ngừng tăng cường thực lực, mở rộng thị phần. Cùng với sự phát
triển nhanh của toàn cầu hóa kinh tế, ngày càng nhiều nghiệp trong nước trở thành
công ty xuyên quốc gia. Dựa vào thực lực hùng hậu của bản thân, các công ty xuyên
quốc gia đã trở thành lực lượng chủ
yếu thúc đẩy toàn cầu hóa kinh tế chủ nghĩa bản độc quyền liên quốc gia
phát triển. Do có thực lực kinh tế, chính trị hùng mạnh, hệ thống sản xuất, tiêu thụ,dịch
vụ, nghiên cứu khoa học, thông tin toàn cầu hóa, các công ty xuyên quốc gia đãtác
động lớn đến các mặt của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, và thế lực của họ
đã thâm nhập các lĩnh vực trên toàn thế giới.
13
1.2.6. Điều tiết và phối hợp quốc tế được tăng cường:
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, nhà nước của các quốc gia tư bản chủ nghĩa
ngày càng chú trọng phối hợp chính sách kinh tế . vậy, những xung đột kinh
4
tế như chiến tranh mậu dịch, chiến tranh tỷ giá hối đoái, chiến tranh lãi suất trước
đây thường giữa các nước phương Tây đã giảm xuống.Việc giải quyết mâu thuẫn
giữa các nước phương Tây đã giảm xuống thường áp dụng hình thức thương lượng
thỏa hiệp chứ không đối kháng gay gắt như trước.Những năm gần đây, phối hợp và hợp
tác quốc tế được tăng cường rệt, hiệu quả cũng không ngừng được nâng cao. Vai trò
của các tổ chức kinh tế
khu vực và quốc tế phát huy tác dụng ngày càng nổi bật khi điều tiết quan hệ kinh
tế quốc tế và trở thành một trong những chủ thể mới điều tiết quan hệ kinh tế tư bản
chủ nghĩa tăng cường điều tiết và phối hợp quốc tế có vai trò không thể xem nhẹ trong
việc xoa dịu mâu thuẫn bên trong và bên ngoài các nước tư bản chủ nghĩa, tạo không
gian phát triển rộng lớn hơn cho chủ nghĩa tư bản.
14
4
Trích Báo Điện Tử Cộng Sản Việt Nam – “Chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội 10 năm 2021 – 2030” (22/3/2021)
CHƯƠNG 2: SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA NHỮNG NÉT MỚI TRONG SỰ PHÁT
TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN ĐẠI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN LỰC
LƯỢNG SẢN XUẤT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài:
Kinh tế vốn đầu nước ngoài vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta.
Trong mười năm qua (1991-2000) các doanh nghiệp vốn đầu nước ngoài phát
triển khá nhanh. Giá trị sản xuất tăng bình quân 22% một năm. Trong 5 năm (1996-
2000) vốn đầu trực tiếp nước ngoài được thực hiện khoảng 10 tỷ USD, chiếm 23%
tổng vốn đầu tư toàn xã hội; các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo ra 34% giá
trị sản xuất toàn ngành công nghiệp, trên 22% kim ngạch xuất khẩu đóng góp trên
10% GDP chung của cả nước.
5
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã có mặt ở 63 tỉnh và thành phố trên cả nước. Số
liệu tháng 04/2020 cho thấy 5 khu vực được đầu tư nhiều nhất là Thành phố Hồ Chí
Minh, Hà Nội, bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu, Đồng Nai.
S
T
T
Địa phương Số dự án Tổn
g vốn đầu
tư ( Triệu
USD
)
1
TP. Hồ Chí Minh 9,519 47,61
7.00
2
Hà Nội 6,187 34,93
5.90
3
Bình Dương 3,825 34,71
5.73
4
Bà Rịa - Vũng Tàu 474 32,54
0.01
15
5
Đồng Nai 1,692 31,44
2.46
5
Trích Báo Điện Tử Cộng Sản Việt Nam – “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 1996
– 2000” (22/2/2017)
2.2. Các ngành kinh tế dựa trên hàm lượng tri thức cao phát triển: Kinh tế tri
thức đã và đang trở thành xu hướng phát triển chung của kinh tế thế giới, được nhiều
quốc gia lựa chọn làm chiến lược phát triển, điển hình như: Mỹ, Ca-na-đa, Nhật Bản,
Xin-ga-po, Ô-xtrây-li-a, các nước Tây Âu, nơi các yếu tố của nền kinh tế tri thức ở mức
khá cao, trong đó các ngành công nghiệp dựa trên tri thức đã đóng góp hơn 40% GDP.
6
Tại những quốc gia này, những quyết sách để phát triển kinh tế tri thức nhằm tạo
ra những bước đột phá, được tập trung vào những yếu tố sau:
Xác định tầm quan trọng của nguồn vốn con người như một nguồn lực cơ bản
cho phát triển kinh tế, nhấn mạnh học tập suốt đời; ưu tiên đầucho giáo dục đào
tạo, tạo lập môi trường kết nối hiệu quả giữa các sở giáo dục đại học với doanh
nghiệp.
∙ Thực hiện chính sách vượt trội để thu hút lao động có kỹ năng và tài năng ở
trong và ngoài nước vào tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế. ∙ Chú trọng phát triển khoa
học - công nghệ, đô thị thông minh, kinh tế số; đầu tư cho khoa học - công nghệ, thúc
đẩy đổi mới sáng tạo trong các lĩnh vực.
∙ Không ngừng cải cách, đổi mới để bảo đảm vai trò dẫn dắt, quản lý của Nhà
nước đối với nền kinh tế.
Tập trung phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp lan tỏa tinh thần khởi nghiệp,
trong đó Chính phủ đóng vai trò trung tâm, hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp để tạo điều
kiện tốt nhất cho các doanh nghiệp khởi nghiệp; quan tâm phát triển các tập đoàn công
nghệ trở thành các trụ cột của kinh tế quốc gia. TP Hồ Chí Minh luôn xác định tầm
quan trọng của việc phát triển kinh tế tri thức trong định hướng, chiến lược phát triển.
Thành phố khai thác hiệu quả lợi thế của một đô thị đặc biệt, một trung tâm lớn về
kinh tế, văn hóa, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ vào phát triển kinh tế tri thức,
hình thành những nền tảng của kinh tế tri thức, bao gồm đội ngũ trí thức đông đảo, đô
thị thông minh, khu công nghệ cao, trung tâm khởi nghiệp sáng tạo, các tập đoàn lớn về
công nghệ, các
16
6
Trích Báo Nhân Dân Điện Tử - “Phát triển kinh tế tri thức - kinh nghiệm
quốc tế và thực tiễn từ TP Hồ Chí Minh” (28/1/2021)
trung tâm nghiên cứu phát triển, hạ tầng công nghệ thông tin trên nền tảng mạng
5G. Trên sở đó, từng bước chuyển dịch cấu kinh tế theo hướng gia tăng hàm
lượng tri thức, tập trung phát triển các ngành công nghệ cao, tham gia vào chuỗi giá trị
toàn cầu.
Thành phố đã thành lập phát triển Chuỗi Công viên phần mềm Quang Trung,
Khu Công nghệ cao, Khu Nông nghiệp Công nghệ cao, Trung tâm ươm tạo chuyên về
trí tuệ nhân tạo, Công viên Khoa họccông nghệ tại Khu Công nghệ cao, Viện Khoa
học Công nghệ tính toán… Khu Công nghệ cao đến nay đã thu hút 162 dự án với
tổng mức đầu hơn 7,65 tỷ USD, giá trị sản xuất sản phẩm công nghệ cao năm 2020
đạt hơn 20 tỷ USD, năng suất lao động bình quân gấp 20 lần bình quân của thành phố
và hơn 60 lần bình quân cả nước…
7
Thành phố đang nghiên cứu lập, xây dựng quy hoạch Khu đô thị sáng tạo tương
tác cao phía đông gắn với việc thành lập thành phố Thủ Đức. Thành phố cũng ban hành
nhiều cơ chế, chính sách thúc đẩy các nghiên cứu khoa học - công nghệ gắn với cuộc
sống, hoàn thiện hệ sinh thái khởi nghiệp, hệ sinh thái đổi mới sáng tạo - nơi vừa có sự
liên kết của các trường, viện nghiên cứu với các doanh nghiệp, vừa có vai trò của chính
quyền trong hỗ trợ đầu tư mạo hiểm cho các dự án khởi nghiệp. Không ngừng nâng cao
tính hiệu lực hiệu quả của bộ máy chính quyền, xây dựng một nền quản trị công năng
động. Tập trung nâng cao năng lực dự báo, phản ứng chính sách của chính quyền thành
phố để hoàn thiện cơ chế,chính sách nhằm quản lý và phát triển kinh tế tri thức, kinh tế
số trong điều kiện phát triển mới; nâng cao năng lực của cán bộ, công chức, viên chức
đáp ứng yêu cầu quản lý, phát triển kinh tế tri thức...
Thành phố đề xuất bảy giải pháp trọng tâm phát triển kinh tế tri thức trong thời
gian tới, đó là:
Thứ nhất, đổi mới chế, chính sách, tạo lập một khuôn khổ pháp mới phù
hợp với sự phát triển nền kinh tế tri thức. Cần thiết xây dựng chiến lược phát triển kinh
tế tri thức giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2045. Chiến lược cần đánh
7
Trích baochinhphu.vn – “Phát triển kinh tế tri thức là xu hướng tất yếu” (27/1/2021)
17
giá đúng thực trạng, xác định rõ quan điểm phát triển kinh tế tri thức, chỉ hình,
mục tiêu, khâu đột phá và định hướng phát triển kinh tế tri thức, đồng thời tổ chức thực
hiện hiệu quả các nội dung đề ra. Trong chiến lược cần xác định triển khai lộ
trình, bước đi giải pháp thích hợp, xác định những khâu, những bước đột phá,
không dàn trải.
Thứ hai, phát triển mạnh nguồn lao động chất lượng cao, nâng caon trí, đào
tạo nhân tài. Tập trung đầu phát triển giáo dục, cải cách giáo dục theo hướng tăng
cường thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn; đàm phán, hợp tác, chuyển giao
chương trình đào tạo tiên tiến của các nước trong khu vực và trên thế giới. Tăng nhanh
đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật công nhân lành nghề, đội ngũ cán bộ
quản lý, doanh nhân...Thứ ba, tăng cường năng lực khoa học - công nghệ quốc gia để
có thể tiếp thu, làm chủ, vận dụng sáng tạo các tri thức khoa học -
công nghệ mới nhất của thế giới cần thiết cho phát triển của đất nước, từng bước
sáng tạo công nghệ đặc thù của đất nước, xây dựng nền khoa học - công nghệ tiên tiến
của Việt Nam.
Thứ tư, đầu phát triển mạnh mẽ hạ tầng công nghệ thông tin; đẩy mạnh ứng
dụng phát triển công nghệ thông tin phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đặc
biệt, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 còn diễn biến phức tạp trên thế giới, đây tình
huống xuất hiện các ngành, lĩnh vực mới liên quan đến chuyển đổi số,đó vừa là cơ hội,
vừa là áp lực để nước ta phát triển mạnh mẽ kinh tế số trong thời gian tới.
Thứ m, ban hành các chế, chính sách để hoàn thiện hệ sinh thái khởi
nghiệp, hỗ trợ, khuyến khích, thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư cho khoa học công nghệ và
đổi mới sáng tạo. Cơ chế, chính sách phải thật sự vừa khuyến khích nhưng vừa tạo ra sự
đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới dựa trên công nghệ mới và thúc đẩy nhanh
chóng sự ra đời các doanh nghiệp mới, nhất là các doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm
mới, công nghệ mới; trong đó khâu then chốt là cải cách mạnh mẽ thủ
tục hành chính để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp.
∙ Thứ sáu, không ngừng cải cách, đổi mới để bảo đảm vai trò dẫn dắt, quản lý của
Nhà nước đối với nền kinh tế. Cần chế đặc thù để các khu công nghệ cao, khu
công viên phần mềm phát huy vai trò trung tâm đổi mới sáng tạo. Trên sở đó,
từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng hàm lượng tri thức, tập trung
phát triển các ngành công nghệ cao, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Từng bước
thoát dần bẫy thu nhập trung bình.
∙ Thứ bảy, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế nhằm tranh thủ nguồn ngoại lực,
kết hợp nội lực để bắt kịp xu thế phát triển khoa học - công nghệ tiên tiến, phục vụ cho
18
mục tiêu hiện đại hóa lực lượng sản xuất của đất nước.
2.3. Hội nhập kinh tế
2.3.1. Việt Nam trong công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế
Từ khi nước ta chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới
(năm 2007) đến nay, tiến trình chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta
ngày càng sâu rộng hơn, đạt được nhiều kết quả tích cực, khá toàn diện trên các lĩnh
vực, nổi bật là:
Hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một trong những động lực quan trọng để
phát triển kinh tế - hội , làmng sức mạnh tổng hợp quốc gia; thúc đẩy hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa; mở rộng thị trường, đẩy mạnh
xuất khẩu, tranh thủ được khối lượng lớn vốn đầu tư, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm
quản lý và các nguồn lực quan trọng khác; tạo thêm nhiều việc làm; nâng cao dân trí và
cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Năng lực đội ngũ cán bộ làm công
tác hội nhập quốc tế từ Trung ương đến địa phương được nâng lên một bước; tổ chức,
bộ máy các quan quản nhà nước được củng cố nâng cao hiệu quả hoạt động.
Đội ngũ doanh nhân Việt Nam có bước trưởng thành đáng kể.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã đóng góp quan trọng vào việc mở rộngđưa quan
hệ của nước ta với các đối tác đi vào chiều sâu, tạo thế đan xen lợi ích, góp phần gìn
giữ môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; giữ vững độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự, an toàn
hội; quảnghình ảnh đất nước con người Việt Nam, nâng cao uy tín vị thế
của nước ta trên trường quốc tế.
2.3.2. Những mặt hạn chế
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, hội nhập kinh tế quốc tế vẫn còn một số
hạn chế, yếu kém:
∙ Chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về hội
nhập kinh tế quốc tế có nơi, có lúc chưa được quán triệt kịp thời, đầy đủ và thực hiện
nghiêm túc. Hội nhập kinh tế quốc tế còn bị tác động bởi cách tiếp cận phiến diện, ngắn
hạn và cục bộ ; do đó, chưa tận dụng được hết các cơ hội và ứng phó hữu hiệu với các
thách thức.
∙ Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và quá trình đổi mới ở trong nước, nhất là đổi
mới, hoàn thiện thể chế, trước hết là hệ thống luật pháp, chế, chính sách chưa được
thực hiện một cách đồng bộ, chưa gắn kết chặt chẽ với quá trình nâng cao năng lực
19
cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu bảo đảm quốc phòng - an ninh, bảo vệ an ninh chính trị,
trật tự, an toàn hội, môi trường sinh thái, giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc.
Hội nhập kinh tế quốc tế chưa được phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với hội nhập
trong các lĩnh vực khác. Chưa tạo được sự đan xen chặt chẽ lợi ích chiến lược, lâu dài
với các đối tác, nhất là các đối tác quan trọng. Việc ứng phó với những biến động và xử
những tác động từ môi trường khu vực quốc tế còn bị động, lúng túng chưa
đồng bộ.
2.3.3. Thử thách của nước ta
Hiện nay, tình hình trong nước, khu vực thế giới đã nhiều thay đổi, đang
diễn biến phức tạp, khó lường. Bên cạnh thời cơ, thuận lợi, đất nước ta tiếp tục phải đối
mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong phát triển kinh tế - xã hội, khả năng bảo đảm
quốc phòng, an ninh, ổn định chính trị - xã hội, giữ vững môi trường hòa bình, bảo đảm
phát triển nhanh và bền vững.
Việc thực hiện hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới sẽ
tạo ra hội mở rộng, đa dạng hóa thị trường với mức ưu đãi cao, tham gia sâu hơn
vào chuỗi cung ứng, mạng lưới sản xuất toàn cầu; góp phần tích cực vào quá trình đổi
mới đồng bộ toàn diện, khơi dậy tiềm năng của đất nước sức sáng tạo của các
tầng lớp nhân dân, cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao trình độ phát triển, giảm dần
tỷ trọng gia công lắp ráp của nền kinh tế. Nước ta cũng có cơ hội tham gia chủ động và
sâu hơn vào quá trình định hình cải cách các định chế,chế, cấu trúc khu vực
quốc tế có lợi cho ta và có điều kiện thuận lợi để đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia - dân
tộc, lợi ích của các tổ chức, nhân; bảo đảm độc lập, tự chủ, củng cố duy trì môi
trường hòa bình, ổn định để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Doanh nghiệp Việt Nam nhìn
chung có cơ hội để phát triển mạnh hơn, sáng tạo hơn và có sức cạnh tranh hơn. Người
tiêu dùng có thêm cơ hội lựa chọn hàng hóa, dịch vụ chất lượng cao, giá cả cạnh tranh;
bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh, môi trường.
Tuy nhiên, việc khắc phục những hạn chế, yếu kém, tồn tại và triển khai thực hiện
các cam kết quốc tế mới cũng sẽ đặt ra nhiều khó khăn, thách thức không chỉ về kinh tế
còn cả về chính trị, hội. Sức ép cạnh tranh ngày càng gay gắt, nhiều ngành,
doanh nghiệp sản phẩm của nước ta sẽ gặp khó khăn hơn. Việc thực hiện các cam
kết sâu rộng cao hơn, nhất vấn đề lao động, việc làm, bảo vệ môi trường... đáp
ứng yêu cầu nội luật hóa các cam kết nếu không được nghiên cứu, chuẩn bị kỹ, lộ
20
| 1/25

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BỘ MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN Tiểu luận cuối kỳ ***
TÌM HIỂU SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA NHỮNG NÉT MỚI TRONG SỰ
PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN ĐẠI ĐỐI VỚI SỰ
PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM TRONG CUỘC
CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ IV
MÃ SỐ LỚP HP: 20CLC
GVHD: TS. ĐOÀN ĐỨC HIẾU
NHÓM THỰC HIỆN: NHÓM 6
HỌC KỲ: –NĂM HỌC: 2 2021-2022
TP.HỒ CHÍ MINH – 28/04/2022
DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN HỌC KỲ II
NĂM HỌC 2021 – 2022
Nhóm: 07 ( Lớp:LLCT120205_21_02_20CLC)
Tên đề tài: Tìm hiểu sự ảnh hưởng của những nét mới trong sự phát triển của chủ nghĩa tư
bản hiện đại đối với sự phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam trong cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư (4.0). STT Họ và tên MSSV % HOÀN THÀNH 1 Võ Thị Bích Dân 21124346 100% 2 Hà Hương Giang 21124354 100% 3 Phạm Tấn Hiệp 21124360 100% 4 Nguyễn Phúc Uyên Nhi 21124389 100% 5 Trương Vũ Phương Thảo 21124406 100% Ghi chú:
Tỷ lệ% = 100% Mức độ phần trăm của từng thành viên tham gia.
Nhóm trưởng: Võ Thị Bích Dân SĐT: 0338082465
ĐIỂM: _______________________________________ NHẬN XÉT CỦA GV:
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
Tp Thủ Đức, ngày 28, tháng 04, năm 2022
CHỮ KÝ XÁC NHẬN CỦA GIÁO VIÊN 2 MỤC LỤC A. PHẦN MỞ
ĐẦU .......................................................................................................4
1. Lý do chọn đề tài...................................................................................................4
2. Mục tiêu nghiên cứu .............................................................................................4
3. Phương pháp nghiên cứu .....................................................................................5
B. PHẦN NỘI DUNG....................................................................................................6
CHƯƠNG 1: NHỮNG NÉT CHÍNH TRONG PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ
NGHĨA TƯ BẢN.............................................................................................6
1.1. Chủ nghĩa tư bản là gì? .................................................................................6
1.2. Những nét mới trong sự phát triển của chu nghĩa tư bản hiện đại ..........8
1.2.1. Sự phát triển nhảy vọt về lực lượng sản xuất......................................8
1.2.2. Sự điều chỉnh về quan hệ sản xuất và quan hệ giai cấp......................10
1.2.3. Thể chế quản lý kinh doanh trong nội bộ doanh nghiệp có những
biến đổi lớn: ......................................................................................................10

1.2.4. Điều tiết vĩ mô của nhà nước ngày càng được tăng cường.................14
1.2.5. Các công ty xuyên quốc gia có vai trò ngày càng quan trọng trong hệ
thống kinh tế tư bản chủ nghĩa ................................................................14

1.2.6. Điều tiết và phối hợp quốc tế được tăng cường:................................14
CHƯƠNG 2: SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA NHỮNG NÉT MỚI TRONG SỰ PHÁT
TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN ĐẠI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN

LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY........................................16
2.1. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ............................................................16
2.2. Các ngành kinh tế dựa trên hàm lượng tri thức cao phát triển:.............17
2.3. Hội nhập kinh tế...........................................................................................20
2.3.1. Việt Nam trong công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế:........................20
2.3.2. Những mặt hạn chế ..............................................................................21
2.3.3. Thử thách của nước ta:........................................................................21
PHẦN KIẾN THỨC VẬN
DỤNG .............................................................................24 C. PHẦN KẾT
LUẬN .................................................................................................26 D. TÀI LIỆU THAM 3
KHẢO.......................................................................................27 4 A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nền văn minh của nhân loại suy cho cùng là do sự phát triển đúng hướng của lực
lượng sản xuất quyết định. Do đó việc nghiên cứu quy luật vận động và những hình
thức phát triển của lực lượng sản xuất là một vấn đề hết sức quan trọng.
Lực lượng sản xuất ở Việt Nam trước thời kỳ đổi mới có thể nói là khó khăn, lỗi
thời do cuộc chiến tranh bảo vệ dân tộc kéo dài. Trình độ người lao động thấp, hầu hết
không có chuyên môn tay nghề, phần lớn lao động chưa qua đào tạo. Tư liệu sản xuất
còn thô sơ, lạc hậu. Sau thời kỳ đổi mới (1986) lực lượng sản xuất ở Việt Nam đã có
nhiều tiến bộ, nhiều trường đại học, cao đẳng, trung cấp được mở, đáp ứng nhu cầu đào
tạo lao động cho đất nước. Tuy nhiên so với thế giới Việt Nam vẫn chưa được coi là nước phát triển.
Chủ nghĩa tư bản hiện đại có đặc điểm lớn so với tất cả các giai đoạn phát triển
trước đây là trình độ phát triển rất cao của lực lượng sản xuất, trình độ khoa học công
nghệ rất cao của các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế.Các nước tư bản phát triển, như
Mỹ, các nước Tây Âu, Nhật Bản là những nước đi đầu trong nghiên cứu phát triển và
ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba
và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; đi đầu trong các lĩnh vực điện tử, tin học,
thông tin, viễn thông, phát triển Internet, trí tuệ nhân tạo, công nghệ vật liệu mới, năng
lượng mới, công nghệ sinh học... làm thay đổi căn bản phương thức sản xuất, chất
lượng, hiệu quả của những ngành kinh tế truyền thống và tạo nên nhiều ngành, lĩnh
vực, nhiều sản phẩm mới, công nghệ cao, có giá trị gia tăng, mức cạnh tranh cao.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Từ đó cho thấy được cách mạng 4.0 là xu thế công nghệ tất yếu mà Việt Nam
phải hướng đến để theo kịp các nước phát triển trên thế giới. Ngoài ra những nét mới
trong chủ nghĩa tư bản hiện đại cũng sẽ ảnh hưởng đến lực lượng
sản xuất của Việt Nam. Muốn nâng cao chất lượng lực lượng sản xuất ở nước ta
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 thì trước tiên chúng ta phải “ Tìm hiểu sự ảnh
hưởng của những nét mới trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại đối với sự
phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4”.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để hiểu rõ hơn về đề tài, bài tiểu luận này sẽ được chia làm hai chương gồm:
∙ Chương 1: Những nét chính trong phát triển chủ nghĩa tư bản. ∙ Chương 2: Sự 5
ảnh hưởng của những nét mới trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại đối với
sự phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay.
Do trình độ về chuyên môn còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu
sót, chính vì vậy em xin cám ơn TS.Trần Thị Thảo đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ. 6 B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG NÉT CHÍNH TRONG PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN
1.1.Chủ nghĩa tư bản là gì?
Chủ nghĩa tư bản là một hệ thống kinh tế dựa trên quyền sở hữu tư nhân đối với
tư liệu sản xuất và hoạt động sản xuất vì lợi nhuận .1 Các đặc điểm đặc •trưng của chủ
nghĩa tư bản bao gồm: tài sản tư nhân, tích lũy tư bản, lao động tiền lương, trao đổi tự
nguyện, một hệ thống giá cả và thị trường cạnh tranh. Trong nền kinh tế thị trường tư
bản, việc điều hành và đầu tư được quyết định bởi chủ
sở hữu tài sản, tư liệu sản xuất hoặc khả năng sản xuất trong thị trường tài chính,
trong khi giá cả, phân phối hàng hóa và dịch vụ chủ yếu được quyết định bởi sự cạnh
tranh trong thị trường hàng hóa và dịch vụ. Chủ nghĩa tư bản xuất hiện đầu tiên tại châu
Âu và phát triển từ trong lòng xã hội phong kiến châu Âu và chính thức được xác lập
như một hình thái xã hội tại Hà Lan và Anh ở thế kỷ XVII. Sau cách mạng Pháp cuối
thế kỷ XVIII, hình thái chính trị của "nhà nước tư bản chủ nghĩa" dần dần chiếm ưu thế
hoàn toàn tại châu Âu và loại bỏ dần hình thái nhà nước của chế độ phong kiến, quý
tộc. Và sau này hình thái chính trị – kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa lan ra khắp châu Âu và thế giới.
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản (với tư cách một hình thái kinh tế) từ chủ nghĩa
phong kiến không do một lý thuyết gia nào xây dựng. Tuy nhiên A. Smith là người có
đóng góp to lớn nhất xây dựng một hệ thống lý luận tương đối hoàn chỉnh về chủ nghĩa
tư bản tự do hay tự do kinh tế. Chủ nghĩa tư bản không đồng nhất với chủ nghĩa tự do
dù nền tảng là kinh tế tư hữu, nói cách khác chủ nghĩa tư bản là một trong các hình thái
kinh tế của sản xuất tư hữu và đối lập với chủ nghĩa xã hội trên nền tảng sở hữu công
cộng, sở hữu tập thể. Các chính sách an sinh xã hội trong nền kinh tế tư bản không phải
là thành tố của chủ nghĩa tư bản, và cũng không phải biểu hiện đặc trưng của chủ nghĩa xã hội.
1 Trích xuất từ Wikipedia trong bài viết về “Chủ nghĩa tư bản”
Các nhà kinh tế, chính trị, nhà xã hội học và nhà sử học đã áp dụng những quan điểm khác
nhau trong các phân tích về chủ nghĩa tư bản và đã công nhận nhiều hình thức tử bản có
trong thực tế, bao gồm laissez-faire hay chủ nghĩa tư bản thị trường tự do, chủ nghĩa tư bản 7
phúc lợi và chủ nghĩa tư bản nhà nước. Các hình thức khác nhau của chủ nghĩa tư bản có
mức độ khác nhau ở thị trường tự do, sở hữu công cộng,trở ngại cho cạnh tranh tự do và các
chính sách xã hội bị nhà nước xử phạt. Mức độ cạnh tranh trên thị trường, vai trò can thiệp
và điều tiết và phạm vi sở hữu nhà nước khác nhau giữa các mô hình chủ nghĩa tư bản khác
nhau. Hầu hết các nền kinh tế tư bản hiện tại là các nền kinh tế hỗn hợp, kết hợp các yếu tố
của thị trường tự do với sự can thiệp của nhà nước và trong một số trường hợp là hoạch định kinh tế.
Các nền kinh tế thị trường đã tồn tại dưới nhiều hình thức của chính phủ và ở
nhiều thời điểm, địa điểm và nền văn hóa khác nhau. Các xã hội tư bản hiện đại, được
đánh dấu bằng sự phổ cập các quan hệ xã hội dựa trên đồng tiền, một nhóm công nhân
lớn và toàn hệ thống phải làm việc để kiếm tiền, và một tầng lớp tư bản sở hữu các
phương tiện sản xuất được phát triển ở Tây Âu trong một quá trình dẫn đến cuộc cách
mạng công nghiệp. Các hệ thống tư bản với mức độ can thiệp trực tiếp khác nhau của
chính phủ đã trở nên chiếm ưu thế trong thế
giới phương Tây và tiếp tục lan rộng ra thế giới. Theo thời gian, tất cả các nước tư
bản đã trải qua sự tăng trưởng kinh tế nhất quán và sự nâng cao mức sống của con người.
Các nhà phê bình chủ nghĩa tư bản cho rằng hệ thống chủ nghĩa tư bản thiết lập
quyền lực trong tay một tầng lớp tư bản thiểu số tồn tại thông qua sự bóc lột giai cấp
công nhân đa số và lao động của họ; nó ưu tiên lợi nhuận hơn lợi ích xã
hội, tài nguyên thiên nhiên và môi trường, chủ nghĩa tư bản là một động cơ của
bất bình đẳng, tham nhũng và bất ổn kinh tế. Trong khi những người ủng hộ chủ nghĩa
tư bản lập luận rằng nó cung cấp các sản phẩm tốt hơn và đổi mới thông qua sự cạnh
tranh, thúc đẩy đa nguyên và phân cấp quyền lực, phân tán sự giàu có cho tất cả những
người sản xuất sau đó đầu tư vào các doanh nghiệp hữu ích dựa trên nhu cầu thị trường,
cho phép hệ thống khuyến khích linh hoạt trong đó ưu tiên hiệu quả và bền vững. Từ
đó tạo ra sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ và mang lại năng suất và sự thịnh vượng có lợi cho xã hội.
1.2. Những nét mới trong sự phát triển của chu nghĩa tư bản hiện đại
1.2.1. Sự phát triển nhảy vọt về lực lượng sản xuất
Chủ nghĩa tư bản đang trong bước quá độ từ cơ sở vật chất kỹ thuật truyền thống
sang cơ sở vật chất kỹ thuật hoàn toàn mới về chất - đó là kinh tế trí thức.
Kinh tế tri thức có những đặc trưng là:Các tài sản vật thể (physical assets) như đất 8
đai, nhà máy, thiết bị không còn đóng vai trò như trước. Chất xám, vốn con người có ý
nghĩa quyết định sức mạnh kinh tế.Trong trao đổi, phần mềm chiếm vị trí quan
trọng.Các hoạt động kinh tế đều được “số hoá” và được vận hành trên các siêu xa lộ
thông tin, các mạng lưới máy tính lan toả khắp nơi. Thông tin sẽ đóng vai trò quyết
định nhất và có vai trò như “bản vị của mọi hoạt động kinh tế”Các quan niệm truyền
thống và phương thức sản xuất kinh doanh sẽ thay đổi2.Ví dụ, sở hữu trí tuệ được đề
cao, quản lý theo mạng sẽ thay thế phương pháp quản lý theo thứ bậc. Tuy nhiên hiện
nay loài người mới ở bước quá độ. Những biểu hiện cụ thể của bước quá độ là sự thay
thế từng bước các tư liệu sản xuất truyền thống do cuộc cách mạng công nghiệp mang
lại bằng các tư liệu sản xuất hiện đại dựa trên cơ sở của những thành tựu của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ, mà tập trung ở các lĩnh vực điện tử, tin học, vật liệu mới,
công nghệ sinh học... thể hiện trong những thiết bị siêu nhỏ, siêu nhẹ, siêu bền... tác
động nhanh, hiệu quả cao, tiêu tốn ít năng lượng. Các tư liệu sản xuất này hết sức đa
dạng, phong phú cả vế đối tượng lao động lẫn tư liệu lao động. Các công cụ thiết bị tự
động hoá ngày càng phát triển thay thế cho các công cụ, thiết bị cơ khí hoá.Có thể nói
khái quát là hiện đã có ba loại thiết bị biểu hiện chức năng tự động hoá. Đó là:
∙ Máy tự động trong quá trình hoạt động.
∙ Máy công cụ điều khiển bằng số.
∙ Đặc biệt là người máy(Robot) .
Công việc nặng nhọc, những công đoạn nguy hiểm, độc hại cho người lao động
được thực hiện băng máy móc, đồng thời đã xuất hiện những nhà máy tự động hoá do
người máy điều khiển những công đoạn cần thiết. Các quá trình lao động trí óc cũng đã
bước đầu được thử nghiệm để người máy thay thế. Tính cách mạng của tư liệu sản xuất
trước hết thể hiện ở công cụ lao động dây chuyền đến tất cả các khâu của quá trình tái
sản xuất. Do vậy, phương thức sản xuất của cải vật chất cũng có bước nhảy vọt từ kỹ
thuật cơ khí sang bán tự động và tự
động và các yếu tố cơ bản của nền kinh tế tri thức đã xuất hiện.Nguyên nhân của
bước quá độ này là do tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Chính
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ với những lĩnh vực mũi nhọn được tập trung là
kỹ thuật điện tử, công nghệ thông tin, vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ hải
dương... đã tạo ra những thành tựu mới và được chủ nghĩa tư bản.
2Trích “Những đặc điểm của chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày nay và xu hướng vận động 9
của nó” – tác giả: V Cafe
Giáo dục - đào tạo được tăng cường làm cho tố chất công nhân được nâng cao, từ
đó đặt nền móng vững chắc cho việc nâng cao năng suất lao động và sức cạnh
tranh.Đội ngũ người lao động làm thuê lực lượng sản xuất cơ bản, cũng có sự biến đổi
cả về trình độ nghiệp vụ cơ cấu và các yếu tố cấu thành giá trị hàng hoá sức lao động
để phù hợp với bước nhảy vọt mang tính cách mạng của tư liệu sản xuất. Cho đến nay,
đội ngũ lao động ở các nước tư bản phát triển đã đạt trình độ văn hoá, chuyên môn
nghiệp vụ cao. Cơ cấu lao động đã có sự thay đổi theo chiều hướng tiến bộ và các yếu
tố tái sản xuất tư bản chủ nghĩa một cách có hiệu quả.
1.2.2. Sự điều chỉnh về quan hệ sản xuất và quan hệ giai cấp: Thứ nhất, quan hệ sở hữu
cũng có những thay đổi, biểu hiện nổi bật là sự phân tán quyền nắm cổ phiếu tăng lên.Phân
tán hóa quyền khống chế cổ phiếu có lợi cho cải thiện quan hệ giữa chủ xí nghiệp và công
nhân. Nhưng trên thực tế, công nhân là cổ đông nhỏ, không thể cùng với nhà tư bản phân
chia quyền lực, nên phân tán hóa quyền khống chế cổ phiếu cũng không thể làm thay đổi địa
vị làm thuê của người lao động.
Thứ hai, kết cấu giai cấp cũng đã có những biến đổi lớn, các giai cấp, tầng lớp,
đoàn thể xã hội và tập đoàn cùng tồn tại và tác động lẫn nhau.Nổi bật nhất là sự xuất
hiện của tầng lớp trung lưu (hay còn gọi là giai cấp trung sản), chiếm khoảng 40-50%
dân số. Trên thực tế, phần lớn trong số này có cổ phiếu hoặc một phần vốn, rất nhiều
trong số họ là phần tử tri thức hoặc nhân viên chuyên ngành, có địa vị nghề nghiệp khá
tốt, đã không còn là giai cấp vô sản theo quan niệm truyền thống nữa.
Thứ ba, cùng với sự tăng trưởng của sản xuất và sợ điều chỉnh về quan hệ sản
xuất, thu nhập bằng tiền lương của người lao động cũng có được mức tăng trưởng khá
lớn.Tất cả những điều này cho thấy, mâu thuẫn giai cấp trong xã hội tư bản chủ nghĩa
vẫn tồn tại nhưng nhờ những điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản về quan hệ sản xuất, mà
bắt nguồn từ những thay đổi trong quan hệ sở hữu, nên đã phần nào xoa dịu được tính
gay gắt của mâu thuẫn này. Những điều chỉnh đó nói lên rằng chủ nghĩa tư bản muốn
tồn tại và phát triển cũng phải lo giải quyết các vấn đề xã hội, giải quyết mối quan hệ
giữa tư bản và lao động, song song với sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản
xuất và cuộc đấu tranh bền bỉ của giai cấp công nhân
1.2.3. Thể chế quản lý kinh doanh trong nội bộ doanh nghiệp có những biến đổi lớn: 10
Trong điều kiện mới của cách mạng khoa học kỹ thuật và kinh tế tri thức, thể chế
quản lý kinh doanh trong nội bộ các doanh nghiệp đã thực hiện các bước điều chỉnh và cải cách lớn:
∙ Thứ nhất, doanh nghiệp cải cách cơ chế quản lý, thiết lập cơ cấu tổ chức hàng
ngang và mạng lưới. Phương hướng cải cách là xóa bỏ hệ thống kiểu kim tự tháp
truyền thống như tập trung quá lớn quyền lực, đa tầng thứ và theo chiều dọc, thay thế
bằng hệ thống kiểu mạng lưới phân quyền, ít tầng thứ và theo chiều ngang nhằm giảm
bớt khâu trung gian, thông tin thuận lợi, đơn giản trình tự quyết sách, phát huy đầy đủ
tính chủ động và trách nhiệm của toàn thể công nhân nhằm nâng cao hiệu quả công tác.
∙ Thứ hai, dùng công nghệ cao cải cách cơ chế quản lý sản xuất. Để thích ứng với
những thay đổi từ thể chế sản xuất theo "đơn đặt hàng", doanh nghiệp thiết lập hệ
thống sản xuất linh hoạt, hệ thống sản xuất bằng máy tính, chế độ cung cấp thích hợp
và cơ chế phát triển theo nhu cầu (tức khâu sản xuất càng gần gũi với khách hàng hơn).
∙ Thứ ba, thực hiện cải cách quản lý lao động lấy con người làm gốc, yêu cầu đối
với công nhân chủ yếu không phải là điều kiện thế lực mà là phải có kỹ năng và tri thức
cao hơn để họ phát huy tính chủ động và tính sáng tạo, từ đó nâng cao năng suất lao
động và tăng cường thế cạnh tranh của doanh nghiệp.
∙ Thứ tư, thay đổi hình thức tổ chức doanh nghiệp xuất hiện xu thế hai loại hình
lớn hóa và nhỏ hóa cùng hỗ trợ nhau tồn tại. Các doanh nghiệp lớn đã không ngừng mở
rộng ưu thế về quy mô, tăng cường sức mạnh thị trường của công ty. Đồng thời, các
doanh nghiệp nhỏ linh hoạt hơn, có tinh thần sáng tạo hơn cũng được phát triển mạnh
mẽ, làm cho kinh tế tư bản chủ nghĩa có sức sống và hiệu quả cao.
1.2.4. Điều tiết vĩ mô của nhà nước ngày càng được tăng cường:
Nguyên nhân sâu xa của việc tăng cường vai trò điều chỉnh của nhà nước tư
bản bắt nguồn từ sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất dưới tác động của
cuộc cách mạng khoa học, công nghệ, khiến trình độ xã hội hoá tăng lên một cách
mạnh mẽ, làm cho độc quyền tư nhân không thể thích ứng nổi. Cuộc cách mạng khoa 3
học - công nghệ đã đưa tới sự ra đời của nhiều ngành mới như: điện tử, năng
lượng,hàng không vũ trụ. Phát triển những ngành này một mặt đòi hỏi phải có nguồn
vốn rất lớn, cơ sở hạ tầng hiện đại, đội ngũ những người lao động lành nghề có tri thức
cao, được đào tạo toàn diện, trong khi điều này các nhà tư bản không thể tự giải quyết
được và mặt khác, chính sự ra đời của những ngành sản xuất mới đòi hỏi các quốc gia
phải có chiến lược kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ để định hướng cho sự phát 11
triển, đồng thời nó còn đòi hỏi những khoản đầu tư lớn cho việc nghiên cứu khai triển,
đào tạo và đào tạo lại, xây dựng kết cấu hạ tầng mới. Những việc này chỉ có nhà nước
mới giải quyết nổi. Quá trình quốc tế hoá sản xuất và lưu thông được đẩy mạnh, sự
phân công hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng đã làm nảy sinh những mâu thuẫn mới
mang tính quốc tế, chỉ có nhà nước mới đứng ra điều chỉnh, giải quyết và phối hợp
được các hoạt động mang tính quốc tế. Ngoài ra, để đối phó với những biến động kinh
tế, chính trị, xã hội, diễn ra trong và ngoài nước như: khôi phục nền kinh tế sau chiến
tranh chạy đua kinh tế và quốc phòng anh ninh trong việc đối đầu với phong trào giải
phóng dân tộc và đối Phó với những cuộc khủng hoảng kinh tế, nạn thất nghiệp và
những khuyết tật của cơ chế thị trường, không ngoài ai khác là nhà nước phải trực tiếp
can thiệp vào các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội để đảm bảo cho sự vận động
bình thường của nền kinh tế. Sự chuyển biến nền kinh tế của các nước tư bản từ nền
kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế thông tin đã làm thay căn bản môi trường hoạt
động của nhà nước.Chính sách thuế khoá và những quy định về đầu tư cũng như các
chính sách kinh tế nói chung cần phải đáp ứng được nhiều hơn bao giờ hết các thông
số của nền kinh tế thế giới toàn cầu hoá. Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật đã mở ra những cơ hội mới cho phép mở rộng vai trò của thị trường.
Những thay đổi này làm cho chính phủ có một vai trò mới và khác biệt. Nó không còn
là người đảm bảo độc nhất nữa mà trở thành người tạo điều kiện và người điều tiết hoạt động xã hội.
Cuộc cải cách hành chính được thực hiện trên cơ sở xác định lại vai trò của nhà
nước. Mục tiêu của cuộc cải cách hành chính là thực hiện “chính phủ gọn nhẹ”,cơ cấu
lại bộ máy chính quyền trung ương, thực hiện phi tập trung hoá, phân cấp mạnh mẽ
hơn cho chính quyền địa phương. Chính phủ trước đây vừa là người cầm lái vừa là
người bơi chèo con thuyền quốc gia. Ngày nay, cầm lái và bơi chèo được tách riêng
ra.Chính phủ cầm lái chứ không phải là bơi chèo.Việc cầm lái đòi hỏi phải cónhững
người nhìn nhận được toàn bộ tổng thể các vấn đề và các khả năng có thể cân đối được
các yêu cầu trái ngược nhau về
nguồn lực. Việc bơi chèo đòi hỏi phải có những người chú ý tập chung vào một
nhiệm vụ và thực hiện tốt nhiệm vụ đó. Các tổ chức cầm lái cần phải tìm ra những
phương pháp tốt nhất để đạt được những mục tiêu của mình. Xã hội hoá và tư nhân hoá
là con đường làm giảm nhẹ gánh nặng của nhà nước trong việc cung ứng các dịch vụ
xã hội, làm cho chính phủ gọn nhẹ, chỉ tập chung vào việc cầm lái. Nhà nước không
teo đi mà trái lại, mạnh mẽ, chắc chắn và năng động hơn. Nhà nước “thực hiện” và “thi
hành” được thay bằng một nhà nước “cai trị “ mạnh vì nó chỉ làm cái việc quyết định 12
và lãnh đạo và việc thực hiện giao nhiệm vụ cho người khác.
Mục tiêu của sự điều tiết kinh tế nhà nước tư bản độc quyền là nhằm khắc phục
những khuyết tật của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, định hướng cho
sự phát triển kinh tế - xã hội nhằm tăng trưởng kinh tế, đảm bảo sự tồn tại và phát
triển của chủ nghĩa tư bản, giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát
triển,thúc đẩy cạnh tranh và kích thích cạnh tranh.
∙ Thứ nhất, kịp thời điều chỉnh chiến lược tổng thể phát triển kinh tế nhằm nâng
cao sức cạnh tranh tổng thể của quốc gia. Những năm 90 của thế kỷ XX, việc thiết lập
thị trường chung châu Âu và sự ra đời của đồng tiền chung châu Âu, bất kể đối với
châu Âu hay đối với cả thế giới, đều có ý nghĩa không thể xem nhẹ.
∙ Thứ hai, sự lựa chọn chính sách thực dụng. Những năm 90 của thế kỷ XX, dù là
Mỹ hay châu Âu đều áp dụng mô hình chính sách "Con đường thứ ba", trên thực tế là
sự dụng hòa quan niệm giá trị truyền thống và chủ trương chính trị của chủ nghĩa tự do
với một số biện pháp của chủ nghĩa bá thủ mới, đóng vai trò tích cực cho việc xoa dịu
những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản hiện nay.
∙ Thứ ba, căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế khác nhau của từng thời kỳ, vận
dụng linh hoạt chính sách tài chính và chính sách tiền tệ, kịp thời điều chỉnh mâu thuẫn
cung cầu trong xã hội và mâu thuẫn giữa các tầng lớp xã hội khác nhau.
1.2.5. Các công ty xuyên quốc gia có vai trò ngày càng quan trọng trong hệ
thống kinh tế tư bản chủ nghĩa:
Các công ty xuyên quốc gia (TNC) là các công ty tư bản độc quyền bành trướng
thế lực ra nước ngoài dưới hình thức cài cắm nhanh. Hiện tại, các công ty xuyên quốc
gia được nhà nước ở các nước tư bản chủ nghĩa nâng đỡ, thông qua đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài trên quy mô lớn,các công ty xuyên quốc gia mua và thôn tính các tài sản ở
nước ngoài, không ngừng tăng cường thực lực, mở rộng thị phần. Cùng với sự phát
triển nhanh của toàn cầu hóa kinh tế, ngày càng nhiều xí nghiệp trong nước trở thành
công ty xuyên quốc gia. Dựa vào thực lực hùng hậu của bản thân, các công ty xuyên
quốc gia đã trở thành lực lượng chủ
yếu thúc đẩy toàn cầu hóa kinh tế và chủ nghĩa tư bản độc quyền liên quốc gia
phát triển. Do có thực lực kinh tế, chính trị hùng mạnh, hệ thống sản xuất, tiêu thụ,dịch
vụ, nghiên cứu khoa học, thông tin toàn cầu hóa, các công ty xuyên quốc gia đã có tác
động lớn đến các mặt của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, và thế lực của họ
đã thâm nhập các lĩnh vực trên toàn thế giới. 13
1.2.6. Điều tiết và phối hợp quốc tế được tăng cường:
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, nhà nước của các quốc gia tư bản chủ nghĩa
ngày càng chú trọng phối hợp chính sách kinh tế vĩ mô4. Vì vậy, những xung đột kinh
tế như chiến tranh mậu dịch, chiến tranh tỷ giá hối đoái, chiến tranh lãi suất mà trước
đây thường có giữa các nước phương Tây đã giảm xuống.Việc giải quyết mâu thuẫn
giữa các nước phương Tây đã giảm xuống và thường áp dụng hình thức thương lượng
thỏa hiệp chứ không đối kháng gay gắt như trước.Những năm gần đây, phối hợp và hợp
tác quốc tế được tăng cường rõ rệt, hiệu quả cũng không ngừng được nâng cao. Vai trò
của các tổ chức kinh tế
khu vực và quốc tế phát huy tác dụng ngày càng nổi bật khi điều tiết quan hệ kinh
tế quốc tế và trở thành một trong những chủ thể mới điều tiết quan hệ kinh tế tư bản
chủ nghĩa tăng cường điều tiết và phối hợp quốc tế có vai trò không thể xem nhẹ trong
việc xoa dịu mâu thuẫn bên trong và bên ngoài các nước tư bản chủ nghĩa, tạo không
gian phát triển rộng lớn hơn cho chủ nghĩa tư bản. 14
4 Trích Báo Điện Tử Cộng Sản Việt Nam – “Chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội 10 năm 2021 – 2030” (22/3/2021)
CHƯƠNG 2: SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA NHỮNG NÉT MỚI TRONG SỰ PHÁT
TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN ĐẠI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN LỰC
LƯỢNG SẢN XUẤT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài:
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta.
Trong mười năm qua (1991-2000) các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát
triển khá nhanh. Giá trị sản xuất tăng bình quân 22% một năm. Trong 5 năm (1996-
2000) vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện khoảng 10 tỷ USD, chiếm 23%
tổng vốn đầu tư toàn xã hội; các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo ra 34% giá
trị sản xuất toàn ngành công nghiệp, trên 22% kim ngạch xuất khẩu và đóng góp trên
10% GDP chung của cả nước. 5
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã có mặt ở 63 tỉnh và thành phố trên cả nước. Số
liệu tháng 04/2020 cho thấy 5 khu vực được đầu tư nhiều nhất là Thành phố Hồ Chí
Minh, Hà Nội, bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu, Đồng Nai. S Địa phương Số dự án Tổn T g vốn đầu T tư ( Triệu USD ) 1 TP. Hồ Chí Minh 9,519 47,61 7.00 2 Hà Nội 6,187 34,93 5.90 3 Bình Dương 3,825 34,71 5.73 4 Bà Rịa - Vũng Tàu 474 32,54 0.01 15 5 Đồng Nai 1,692 31,44 2.46
5 Trích Báo Điện Tử Cộng Sản Việt Nam – “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 1996 – 2000” (22/2/2017)
2.2. Các ngành kinh tế dựa trên hàm lượng tri thức cao phát triển: Kinh tế tri
thức đã và đang trở thành xu hướng phát triển chung của kinh tế thế giới, được nhiều
quốc gia lựa chọn làm chiến lược phát triển, điển hình như: Mỹ, Ca-na-đa, Nhật Bản,
Xin-ga-po, Ô-xtrây-li-a, các nước Tây Âu, nơi các yếu tố của nền kinh tế tri thức ở mức
khá cao, trong đó các ngành công nghiệp dựa trên tri thức đã đóng góp hơn 40% GDP.6
Tại những quốc gia này, những quyết sách để phát triển kinh tế tri thức nhằm tạo
ra những bước đột phá, được tập trung vào những yếu tố sau:
∙ Xác định tầm quan trọng của nguồn vốn con người như một nguồn lực cơ bản
cho phát triển kinh tế, nhấn mạnh học tập suốt đời; ưu tiên đầu tư cho giáo dục và đào
tạo, tạo lập môi trường kết nối hiệu quả giữa các cơ sở giáo dục đại học với doanh nghiệp.
∙ Thực hiện chính sách vượt trội để thu hút lao động có kỹ năng và tài năng ở
trong và ngoài nước vào tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế. ∙ Chú trọng phát triển khoa
học - công nghệ, đô thị thông minh, kinh tế số; đầu tư cho khoa học - công nghệ, thúc
đẩy đổi mới sáng tạo trong các lĩnh vực.
∙ Không ngừng cải cách, đổi mới để bảo đảm vai trò dẫn dắt, quản lý của Nhà
nước đối với nền kinh tế.
∙ Tập trung phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp và lan tỏa tinh thần khởi nghiệp,
trong đó Chính phủ đóng vai trò trung tâm, hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp để tạo điều
kiện tốt nhất cho các doanh nghiệp khởi nghiệp; quan tâm phát triển các tập đoàn công
nghệ trở thành các trụ cột của kinh tế quốc gia. TP Hồ Chí Minh luôn xác định tầm
quan trọng của việc phát triển kinh tế tri thức trong định hướng, chiến lược phát triển.
Thành phố khai thác có hiệu quả lợi thế của một đô thị đặc biệt, một trung tâm lớn về
kinh tế, văn hóa, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ vào phát triển kinh tế tri thức,
hình thành những nền tảng của kinh tế tri thức, bao gồm đội ngũ trí thức đông đảo, đô
thị thông minh, khu công nghệ cao, trung tâm khởi nghiệp sáng tạo, các tập đoàn lớn về công nghệ, các 16
6 Trích Báo Nhân Dân Điện Tử - “Phát triển kinh tế tri thức - kinh nghiệm
quốc tế và thực tiễn từ TP Hồ Chí Minh” (28/1/2021)
trung tâm nghiên cứu phát triển, hạ tầng công nghệ thông tin trên nền tảng mạng
5G. Trên cơ sở đó, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng hàm
lượng tri thức, tập trung phát triển các ngành công nghệ cao, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Thành phố đã thành lập và phát triển Chuỗi Công viên phần mềm Quang Trung,
Khu Công nghệ cao, Khu Nông nghiệp Công nghệ cao, Trung tâm ươm tạo chuyên về
trí tuệ nhân tạo, Công viên Khoa học và công nghệ tại Khu Công nghệ cao, Viện Khoa
học và Công nghệ tính toán… Khu Công nghệ cao đến nay đã thu hút 162 dự án với
tổng mức đầu tư hơn 7,65 tỷ USD, giá trị sản xuất sản phẩm công nghệ cao năm 2020
đạt hơn 20 tỷ USD, năng suất lao động bình quân gấp 20 lần bình quân của thành phố
và hơn 60 lần bình quân cả nước…7
Thành phố đang nghiên cứu lập, xây dựng quy hoạch Khu đô thị sáng tạo tương
tác cao phía đông gắn với việc thành lập thành phố Thủ Đức. Thành phố cũng ban hành
nhiều cơ chế, chính sách thúc đẩy các nghiên cứu khoa học - công nghệ gắn với cuộc
sống, hoàn thiện hệ sinh thái khởi nghiệp, hệ sinh thái đổi mới sáng tạo - nơi vừa có sự
liên kết của các trường, viện nghiên cứu với các doanh nghiệp, vừa có vai trò của chính
quyền trong hỗ trợ đầu tư mạo hiểm cho các dự án khởi nghiệp. Không ngừng nâng cao
tính hiệu lực hiệu quả của bộ máy chính quyền, xây dựng một nền quản trị công năng
động. Tập trung nâng cao năng lực dự báo, phản ứng chính sách của chính quyền thành
phố để hoàn thiện cơ chế,chính sách nhằm quản lý và phát triển kinh tế tri thức, kinh tế
số trong điều kiện phát triển mới; nâng cao năng lực của cán bộ, công chức, viên chức
đáp ứng yêu cầu quản lý, phát triển kinh tế tri thức...
Thành phố đề xuất bảy giải pháp trọng tâm phát triển kinh tế tri thức trong thời gian tới, đó là:
∙ Thứ nhất, đổi mới cơ chế, chính sách, tạo lập một khuôn khổ pháp lý mới phù
hợp với sự phát triển nền kinh tế tri thức. Cần thiết xây dựng chiến lược phát triển kinh
tế tri thức giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2045. Chiến lược cần đánh
7 Trích baochinhphu.vn – “Phát triển kinh tế tri thức là xu hướng tất yếu” (27/1/2021) 17
giá đúng thực trạng, xác định rõ quan điểm phát triển kinh tế tri thức, chỉ rõ mô hình,
mục tiêu, khâu đột phá và định hướng phát triển kinh tế tri thức, đồng thời tổ chức thực
hiện có hiệu quả các nội dung đề ra. Trong chiến lược cần xác định và triển khai lộ
trình, bước đi và giải pháp thích hợp, xác định rõ những khâu, những bước đột phá, không dàn trải.
∙ Thứ hai, phát triển mạnh nguồn lao động chất lượng cao, nâng cao dân trí, đào
tạo nhân tài. Tập trung đầu tư phát triển giáo dục, cải cách giáo dục theo hướng tăng
cường thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn; đàm phán, hợp tác, chuyển giao
chương trình đào tạo tiên tiến của các nước trong khu vực và trên thế giới. Tăng nhanh
đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật và công nhân lành nghề, đội ngũ cán bộ
quản lý, doanh nhân...Thứ ba, tăng cường năng lực khoa học - công nghệ quốc gia để
có thể tiếp thu, làm chủ, vận dụng sáng tạo các tri thức khoa học -
công nghệ mới nhất của thế giới cần thiết cho phát triển của đất nước, từng bước
sáng tạo công nghệ đặc thù của đất nước, xây dựng nền khoa học - công nghệ tiên tiến của Việt Nam.
∙ Thứ tư, đầu tư phát triển mạnh mẽ hạ tầng công nghệ thông tin; đẩy mạnh ứng
dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đặc
biệt, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 còn diễn biến phức tạp trên thế giới, đây là tình
huống xuất hiện các ngành, lĩnh vực mới liên quan đến chuyển đổi số,đó vừa là cơ hội,
vừa là áp lực để nước ta phát triển mạnh mẽ kinh tế số trong thời gian tới.
∙ Thứ năm, ban hành các cơ chế, chính sách để hoàn thiện hệ sinh thái khởi
nghiệp, hỗ trợ, khuyến khích, thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư cho khoa học công nghệ và
đổi mới sáng tạo. Cơ chế, chính sách phải thật sự vừa khuyến khích nhưng vừa tạo ra sự
đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới dựa trên công nghệ mới và thúc đẩy nhanh
chóng sự ra đời các doanh nghiệp mới, nhất là các doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm
mới, công nghệ mới; trong đó khâu then chốt là cải cách mạnh mẽ thủ
tục hành chính để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp.
∙ Thứ sáu, không ngừng cải cách, đổi mới để bảo đảm vai trò dẫn dắt, quản lý của
Nhà nước đối với nền kinh tế. Cần có cơ chế đặc thù để các khu công nghệ cao, khu
công viên phần mềm phát huy vai trò là trung tâm đổi mới sáng tạo. Trên cơ sở đó,
từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng hàm lượng tri thức, tập trung
phát triển các ngành công nghệ cao, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Từng bước
thoát dần bẫy thu nhập trung bình.
∙ Thứ bảy, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế nhằm tranh thủ nguồn ngoại lực,
kết hợp nội lực để bắt kịp xu thế phát triển khoa học - công nghệ tiên tiến, phục vụ cho 18
mục tiêu hiện đại hóa lực lượng sản xuất của đất nước.
2.3. Hội nhập kinh tế
2.3.1. Việt Nam trong công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế
Từ khi nước ta chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới
(năm 2007) đến nay, tiến trình chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta
ngày càng sâu rộng hơn, đạt được nhiều kết quả tích cực, khá toàn diện trên các lĩnh vực, nổi bật là:
Hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một trong những động lực quan trọng để
phát triển kinh tế - xã hội , làm tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia; thúc đẩy hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; mở rộng thị trường, đẩy mạnh
xuất khẩu, tranh thủ được khối lượng lớn vốn đầu tư, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm
quản lý và các nguồn lực quan trọng khác; tạo thêm nhiều việc làm; nâng cao dân trí và
cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Năng lực đội ngũ cán bộ làm công
tác hội nhập quốc tế từ Trung ương đến địa phương được nâng lên một bước; tổ chức,
bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước được củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động.
Đội ngũ doanh nhân Việt Nam có bước trưởng thành đáng kể.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã đóng góp quan trọng vào việc mở rộng và đưa quan
hệ của nước ta với các đối tác đi vào chiều sâu, tạo thế đan xen lợi ích, góp phần gìn
giữ môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; giữ vững độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự, an toàn
xã hội; quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam, nâng cao uy tín và vị thế
của nước ta trên trường quốc tế.
2.3.2. Những mặt hạn chế
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, hội nhập kinh tế quốc tế vẫn còn một số hạn chế, yếu kém:
∙ Chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về hội
nhập kinh tế quốc tế có nơi, có lúc chưa được quán triệt kịp thời, đầy đủ và thực hiện
nghiêm túc. Hội nhập kinh tế quốc tế còn bị tác động bởi cách tiếp cận phiến diện, ngắn
hạn và cục bộ ; do đó, chưa tận dụng được hết các cơ hội và ứng phó hữu hiệu với các thách thức.
∙ Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và quá trình đổi mới ở trong nước, nhất là đổi
mới, hoàn thiện thể chế, trước hết là hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa được
thực hiện một cách đồng bộ, chưa gắn kết chặt chẽ với quá trình nâng cao năng lực 19
cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu bảo đảm quốc phòng - an ninh, bảo vệ an ninh chính trị,
trật tự, an toàn xã hội, môi trường sinh thái, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
∙ Hội nhập kinh tế quốc tế chưa được phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với hội nhập
trong các lĩnh vực khác. Chưa tạo được sự đan xen chặt chẽ lợi ích chiến lược, lâu dài
với các đối tác, nhất là các đối tác quan trọng. Việc ứng phó với những biến động và xử
lý những tác động từ môi trường khu vực và quốc tế còn bị động, lúng túng và chưa đồng bộ.
2.3.3. Thử thách của nước ta
Hiện nay, tình hình trong nước, khu vực và thế giới đã có nhiều thay đổi, đang
diễn biến phức tạp, khó lường. Bên cạnh thời cơ, thuận lợi, đất nước ta tiếp tục phải đối
mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong phát triển kinh tế - xã hội, khả năng bảo đảm
quốc phòng, an ninh, ổn định chính trị - xã hội, giữ vững môi trường hòa bình, bảo đảm
phát triển nhanh và bền vững.
Việc thực hiện có hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới sẽ
tạo ra cơ hội mở rộng, đa dạng hóa thị trường với mức ưu đãi cao, tham gia sâu hơn
vào chuỗi cung ứng, mạng lưới sản xuất toàn cầu; góp phần tích cực vào quá trình đổi
mới đồng bộ và toàn diện, khơi dậy tiềm năng của đất nước và sức sáng tạo của các
tầng lớp nhân dân, cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao trình độ phát triển, giảm dần
tỷ trọng gia công lắp ráp của nền kinh tế. Nước ta cũng có cơ hội tham gia chủ động và
sâu hơn vào quá trình định hình và cải cách các định chế, cơ chế, cấu trúc khu vực và
quốc tế có lợi cho ta và có điều kiện thuận lợi để đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia - dân
tộc, lợi ích của các tổ chức, cá nhân; bảo đảm độc lập, tự chủ, củng cố và duy trì môi
trường hòa bình, ổn định để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Doanh nghiệp Việt Nam nhìn
chung có cơ hội để phát triển mạnh hơn, sáng tạo hơn và có sức cạnh tranh hơn. Người
tiêu dùng có thêm cơ hội lựa chọn hàng hóa, dịch vụ chất lượng cao, giá cả cạnh tranh;
bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh, môi trường.
Tuy nhiên, việc khắc phục những hạn chế, yếu kém, tồn tại và triển khai thực hiện
các cam kết quốc tế mới cũng sẽ đặt ra nhiều khó khăn, thách thức không chỉ về kinh tế
mà còn cả về chính trị, xã hội. Sức ép cạnh tranh ngày càng gay gắt, nhiều ngành,
doanh nghiệp và sản phẩm của nước ta sẽ gặp khó khăn hơn. Việc thực hiện các cam
kết sâu rộng và cao hơn, nhất là vấn đề lao động, việc làm, bảo vệ môi trường... đáp
ứng yêu cầu nội luật hóa các cam kết nếu không được nghiên cứu, chuẩn bị kỹ, có lộ 20