Tìm hiểu sự vận dụng quan điểm của triết học Mác Lênin về nhà nước trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay | Tiểu luận môn Triết học Mác – Lênin
Quá trình xây dựng và hoàn thiện đất nước xã hội chủ nghĩa pháp quyền cũng là quá trình đấu tranh chống lại các quan điểm, luận điệu chống phá của các thế lực thù địch. Đây là nhiệm vụ gian khổ, phức tạp và lâu dài, đòi hỏi tư duy nhạy bén, tổ chức linh hoạt, sáng tạo, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin (LLCT130105)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM KHOA
ĐÀO TẠO CHẤT LƯỢNG CAO
MÔN HỌC: TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
Đề tài: Tìm hiểu sự vận dụng quan điểm của triết học Mác Lênin
về nhà nước trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
GVHD: Trần Thị Thảo. SVTH: 1. Phạm Ngọc Quỳnh Đan. 2. Nguyễn Thị Mỹ Hạnh. 3. Thái Huyền Minh Anh. 4. Tăng Khả Di. 5. Phạm Thị Anh Thư. 6. Bùi Hoàng Quyên. 7. Nguyễn Việt Phước Hòa. 8. Trần Thùy Linh.
Mã lớp học: 211LLCT130105_22CLC. 0 MỤC LỤ 1
I. MỞ ĐẦU:..............................................................................................................2
1. Lý do chọn đề tài:..............................................................................................2
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: ..................................................................2
3. Phương pháp nghiên cứu:.................................................................................3
4. Kết cấu đề tài:....................................................................................................3
II. NỘI DUNG...........................................................................................................4
CHƯƠNG 1:QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN VỀ NHÀ NƯỚC4
1.1. Nguồn gốc của nhà nước............................................................................4
1.2 Bản chất của nhà nước................................................................................4
1.3 Đặc trưng cơ bản của nhà nước...................................................................7
1.4 Chức năng của nhà nước:.............................................................................9
1.5 Các kiểu và hình thức nhà nước...................................................................9
CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY............................................................14
2.1. Khái niệm và đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa....14
2.2. Một số giải pháp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam....................................................................................................................16
2.3. Vai trò, trách nhiệm của sinh viên trong việc góp phần nhận thức và
tuyên truyền về nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam...............18
III. Kết luận:............................................................................................................19 2 I. MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài:
Quá trình xây dựng và hoàn thiện đất nước xã hội chủ nghĩa pháp quyền cũng
là quá trình đấu tranh chống lại các quan điểm, luận điệu chống phá của các thế
lực thù địch. Đây là nhiệm vụ gian khổ, phức tạp và lâu dài, đòi hỏi tư duy
nhạy bén, tổ chức linh hoạt, sáng tạo, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị.
Trong suốt quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, Đảng và nhà nước ta đã
vận động, chọn lọc và phát huy những quan điểm của chủ nghĩa Mác Lê Nin
vận dụng vào điều kiện thực tiễn cách mạng Việt Nam. Tư tưởng nhà nước
chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống lý luận của Lê-nin, bởi nó không
phải là lý luận khoa học thuần túy, mà gắn liền với các quan điểm chính trị,
không chỉ là sự phản ánh tinh thần mà còn liên quan đến hoạt động thực tiễn sinh
động của ông. Vì vậy, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện đất nước xã hội
chủ nghĩa pháp quyền ở Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu quan điểm nhà
nước của Lê-nin có ý nghĩa đặc biệt quan trọng..
Trên cơ sở triết học Mác - Lênin, Đảng và nước ta đã nghiên cứu, tiếp thu
những tư tưởng tiến bộ, đưa ra những mục tiêu, phương hướng chính xác, đúng
đắn, phù hợp với điều kiện đất nước để xây dựng và phát triển xã hội. Mặc dù
không tránh khỏi những thiếu sót, nhưng chúng ta đã luôn đi đúng hướng để cải
thiện và phát triển kinh tế, từng bước đưa nước ta ngang tầm với các nước khác
trên thế giới về mọi mặt. Những thành tựu của công cuộc xây dựng xã hội chủ
nghĩa mười năm đổi mới là minh chứng rõ ràng cho những vấn đề nêu trên. Ở
nước ta, nhất là trong công cuộc đổi mới hiện nay, việc hiểu và thực hành các
hoạt động cải tiến, nắm bắt các quy luật khách quan của vận hành kinh tế đang
là vấn đề đáng quan tâm và tranh cãi. Trên cơ sở những hiểu biết trên, nhóm 5-
22CLC-K21 quyết định chọn đề tài “Quan điểm triết học Mác - Lênin về Nhà
nước và vấn đề xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa theo pháp quyền ở Việt Nam.”
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài này, đối tượng mà chúng em muốn nghiên cứu đó là quan
điểm của triết học Mác Lênin về nhà nước và giải pháp xây dựng bộ máy nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong phạm vi nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 3 Phạm vi nghiên cứu:
Nước cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
3. Phương pháp nghiên cứu:
Trong tiểu luận chủ yếu sử dụng phương pháp tổng – phân – hợp để làm rõ đề tài.
Tham khảo giáo trình Triết Học Mác Lênin, sách, báo, internet và những tài
liệu khác liên quan đến đề tài.
Tổng hợp nguồn tài liệu thu thập thành đề cương chi tiết sau đó nghiên cứu,
thảo luận đưa vào nội dung bài tiểu luận sao cho phù hợp với đề tài.
4. Kết cấu đề tài:
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN VỀ NHÀ NƯỚC
CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 4 II. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN VỀ NHÀ NƯỚC 1.1.
Nguồn gốc của nhà nước
Trong xã hội nguyên thủy,do tồn tại các bộ lạc,bộ tộc,xã hội tồn tại theo chế độ
tự trị. Chế độ tư hữu đã xuất hiện vào giai đoạn cuối xã hội cộng sản nguyên
thủy.Trong xã hội ngày càng xảy ra nhiều bất bình đẳng và phân chia giai cấp.
Điều này cũng dẫn đến sự xuất hiện của giai cấp bị trị và giai cấp thống trị.
Mâu thuẫn giữa hai giai cấp ngày càng trở nên phức tạp, dẫn đến cuộc đấu
tranh chống lại sự thống trị của giai cấp bị trị. Cuộc đấu tranh giai cấp đầu tiên
trong xã hội chủ nô nổ ra giữa chủ nô và nô lệ, đòi hỏi sự xuất hiện của một
nhà nước để giải quyết mâu thuẫn giữa các giai cấp, để duy trì sự tồn tại của xã hội
Nhà nước ra đời để trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử nhất định. Nhà nước là
sản phẩm của một xã hội đã phát triển tới một giai đoạn nhất định khi: “ Xã hội
đó bị phân thành những mặt đối lập không thể điều hòa mà xã hội đó bất lực
không sao loại bỏ được.”
Nhà nước ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu duy trì trật tự và ổn định trong xã hội.
VI Lê Nin cho rằng, nhà nước ra đời khi trong xã hội xuất hiện “những
biểu hiện của mâu thuẫn giai cấp không thể hòa giải”. Rằng: " bất cứ ở
đâu, hễ lúc nào và chừng nào, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai
cấp không thể điều hòa được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại, sự tồn
tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được."
( VI Lê Nin(2019), Giáo trình triết học Mác-Lê Nin, Nhà xuất bản Chính
Trị Quốc Gia, Hà Nội, trang 181)
Vậy tóm lại ta có thể thấy nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự xuất hiện của nhà
nước nằm ở chỗ, sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự phong phú
tương đối của cải và sự xuất hiện của chế độ tư hữu, còn nguyên nhân trực tiếp
của sự xuất hiện của nhà nước là bắt nguồn từ sự mâu thuẫn giai cấp không thể
hòa giải trong xã hội, do đó, sự ra đời của nhà nước là một tất yếu khách quan
nhằm "xoa dịu" mâu thuẫn giữa các giai cấp, nhằm duy trì một xã hội ổn định,
trật tự, trong đó giai cấp thống trị được bảo đảm về địa vị và quyền lợi của mình. 5
1.2 Bản chất của nhà nước
Theo học thuyết Mác - Lê-nin, các nhà nước đều có bản chất giai cấp. Một nhà
nước chỉ ra đời khi xã hội có sự phân chia thành các giai cấp. Không có bất kì
nhà nước nào trong xã hội nguyên thủy vì không có sự phân chia giai cấp trong xã hội nguyên thủy.
Bản chất của nhà nước được chia thành hai tính chất: tính xã hội và tính giai
cấp cùng tồn tại chặt chẽ và có mối quan hệ biện chứng. Đặc tính của giai cấp
là những thuộc tính cơ bản vốn có mà bất kì nhà nước nào cũng đều tồn tại nó.
1.2.1: Tính giai cấp của nhà nước
Nhà nước chỉ ra đời và tồn tại trong một xã hội có mâu thuẫn giai cấp và đấu
tranh giai cấp nên bao giờ cũng thể hiện bản chất giai cấp sâu sắc. Nhà nước là
là một giai cấp công cụ để chiếm, giữ và sử dụng một vị trí quan trọng trong xã
hội. Những mâu thuẫn không thể giải quyết được giữa các giai cấp đã nảy sinh
nhu cầu giữ quyền cai trị và kiểm soát xã hội. Đơn giản hơn, sự thống trị về
kinh tế của một giai cấp trong bối cảnh mâu thuẫn giai cấp và xã hội đòi hỏi
giai cấp đó phải trở thành giai cấp thống trị thông qua các “công cụ đặc biệt” là nhà nước.
Theo chủ nghĩa Mác thì không thể có một nhà nước trên các giai cấp hay một
nhà nước dùng chung cho mọi giai cấp. Nhà nước là một bộ máy do các giai
cấp thống trị về kinh tế tạo ra nhằm hợp pháp hóa và tăng cường sự áp bức của
họ đối với quần chúng lao động. Giai cấp thống trị sử dụng bộ máy nhà nước
để đàn áp, cưỡng bức các giai cấp khác vì lợi ích của giai cấp thống trị. Đó là
bản chất của nhà nước theo nghĩa nguyên thủy- nhà nước của giai cấp bóc lột.
Theo đó, nhà nước không thể là lực lượng làm trung gian hòa giải mâu thuẫn
giai cấp, ngược lại, nó làm mâu thuẫn giai cấp ngày càng trở nên gay gắt. Cũng
dựa vào đó mà nhà nước là bộ máy kiến trúc thượng tầng quan trọng nhất trong xã hội có giai cấp.
“ Nhà nước là một bộ máy dùng để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối
với giai cấp khác, và theo đúng nghĩa của nó, là một bộ máy trấn áp đặc biệt
của giai cấp này đối với một giai cấp khác”
( VI Lê Nin (năm 1976), toàn tập, tập 33, Nhà xuất bản tiến bộ, Matxcova, trang 110 )
Tuy nhiên, nhà nước cũng có thể là kết quả của sự thỏa hiệp tạm thời về lợi
nhuận của một giai cấp này với giai cấp khác. Ngoài ra, nhà nước có thể duy trì
thái độ độc lập với hai giai cấp đối địch khi cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp đó 6
đạt đến trạng thái cân bằng nhất định. Và chính Ph.Angghen cũng chỉ rõ: “
Tuy nhiên cũng có trường hợp ngoại lệ, là có những thời kì trong đó những
giai cấp đang đấu tranh với nhau lại gần đạt được một thể bình quân
khiến cho chính quyền nhà nước, tựa hộ một kẻ trung gian giữa các bên,
lại tạm thời có được một mức độ độc lập nào đó đối với cả hai giai cấp.”
( Ph Angghen (2019), giáo trình triết học Mác Lenin, Nhà xuất bản Chính
Trị Quốc Gia, Hà Nội, trang 182)
Có thể nói, giai cấp là thuộc tính bản chất của bất kỳ nhà nước nào, nhưng mức
độ thực hiện của nó ở mỗi loại hình nhà nước cụ thể là rất khác nhau, tùy thuộc
vào điều kiện, bối cảnh, và mối quan hệ quyền lực xã hội. Khi một giai cấp có
đủ điều kiện và sức mạnh để trở thành giai cấp thống trị thì tự mình nắm quyền
nhà nước, nhưng nếu không tự mình cầm quyền được thì sẽ nhân nhượng, chia
sẻ quyền lực nhà nước với các giai cấp, lực lượng khác để bảo vệ địa vị và lợi
ích của giai cấp và của xã hội.
1.2.2: Tính xã hội của nhà nước
Ngoài bản chất giai cấp thì nhà nước còn thể hiện bản chất xã hội của mình.
Thuộc tính xã hội được thể hiện rõ nét qua vai trò quản lý nhà nước hay nói
cách khác còn được gọi là vai trò kinh tế của xã hội- nhà nước. Nhà nước là
một tổ chức xã hội, chịu trách nhiệm duy trì, quản lý và giải quyết các vấn đề
nảy sinh trong xã hội nhằm bảo vệ lợi ích của xã hội và đáp ứng nhu cầu của xã
hội. Để xã hội phát triển ổn định, cần có sự quản lý và vận hành hết sức chặt
chẽ dựa trên những nguyên tắc chung. Xã hội luôn tồn tại những vấn đề chung
chứ không phải vấn đề của cá nhân hay tổ chức nên rất dễ bị rối nếu không có người quản lý.
Để giải quyết những vấn đề chung của xã hội như thiên tai, sản xuất, ổn định
trật tự xã hội, chúng ta cần một tổ chức chung, tức là một nhà nước, thay mặt
cho toàn xã hội giải quyết những vấn đề chung. Nhà nước phải đứng ra giải
quyết các vấn đề xã hội vì sự ổn định và tồn tại của toàn xã hội chứ không phải
vì một giai cấp riêng biệt nào hết.
Nhà nước phải thực hiện các biện pháp để giúp cho sự hoạt động và phát triển
bình thường của mọi lĩnh vực trong xã hội và vì những nhiệm vụ chung của sự
phát triển xã hội như: xây dựng đường xá, bệnh viện, trường học, giải quyết các
tệ nạn xã hội, ... vì lợi ích phát triển chung của toàn bộ người dân trong cộng
đồng. Vì vậy, trong xã hội có giai cấp, nếu giai cấp này bị giai cấp khác suy
yếu, lật đổ thì phải thành lập nhà nước khác để duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội. 7
Như vậy ở khía cạnh xã hội thì nhà nước là một tổ chức công ích quản lý và
thực hiện công việc vì lợi ích chung của xã hội. Xã hội không thể tồn tại nếu
nhà nước chỉ tập trung vào việc thực hiện và thỏa mãn các quyền của giai cấp
thống trị mà không quan tâm đến lợi ích của các giai cấp và lực lượng khác trong xã hội.
1.2.3: Mối quan hệ của tính giai cấp và tính xã hội của nhà nước
Tính xã hội và tính giai cấp là hai mặt cơ bản thống nhất bản chất của mọi nhà
nước, chúng luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. Trong bất kỳ xã hội nào, nhà nước
phải quan tâm đến lợi ích chung của toàn xã hội và bảo vệ lợi ích của giai cấp
thống trị ở những mức độ khác nhau. Tuy nhiên mức độ thể hiện của tính giai
cấp và tính xã hội là khác nhau của những nhà nước khác nhau, và cũng có thể
khác nhau trong mỗi giai đoạn tùy thuộc vào điều kiện và trình độ nhận thức
của nhà cầm quyền ( tham khảo ở Phân tích tính giai cấp và tính xã hội của
pháp luật ? (luatminhkhue.vn) )
1.3 Đặc trưng cơ bản của nhà nước
Đặc điểm của nhà nước làm cho người ta có thể phân biệt nó với tổ chức của xã hội
nói chung. Phân biệt với các tổ chức chính trị xã hội khác. Đặc điểm của nhà nước bộc
lộ vai trò trung tâm và vị trí của nó trong hệ thống chính trị:
Thứ nhất: quản lý dân cư dân trên 1 vùng lãnh thổ nhất định
Trong các xã hội cộng sản nguyên thủy, nếu các tổ chức thị tộc được tập hợp giữa các
thành viên theo dòng dõi, thì nhà nước chia dân cư thành các đơn vị hành chính không
phân biệt quan điểm chính trị, nghề nghiệp, tổ tiên, giới tính, tôn giáo, v.v. Sự phân
biệt này xác định: Quy mô ảnh hưởng của nhà nước là lớn nhất và dẫn đến việc hình
thành các cơ quan chủ quản trong nhà nước. Trong một xã hội có thứ bậc, không có tổ
chức xã hội nào mà không có miền riêng. Lãnh thổ là một đặc điểm riêng của một
quốc gia. Nhà nước thực hiện quyền lực trên lãnh thổ của mình. Mỗi quốc gia có lãnh
thổ riêng, được chia thành các đơn vị hành chính như tỉnh, huyện, quận, xã. Do tính
chất lãnh thổ, có sự độc quyền về quốc tịch và các quy định về các quy tắc và luật lệ.
Sự liên kết của một công dân đến các bang và vùng lãnh thổ nhất định được nhà nước
sử dụng để thiết lập quan hệ với công dân của mình.
Nhà nước là một tổ chức của quyền lực có chủ quyền. Chủ quyền nhà nước có nội
dung chính trị và pháp lý thể hiện ở chỗ chủ quyền của nhà nước trong mọi chính sách
đối nội và đối ngoại, không phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài. Lãnh thổ không bị
ảnh hưởng hoặc phụ thuộc vào bất kỳ quốc gia nào khác. 8
Trong các vấn đề đối nội, Nhà nước có quyền lực tối cao đối với tất cả mọi
người và các tổ chức trong lãnh thổ của mình và không bị ảnh hưởng hoặc
ảnh hưởng bởi các quốc gia khác.
Trong quan hệ đối ngoại, nhà nước hoàn toàn có quyền độc lập với nước
ngoài trong các hoạt động chính trị và kinh tế, chính trị, văn hóa của mình.
Các quốc gia có quyền tự quyết định công việc của mình một cách tự do và
độc lập, đồng thời tôn trọng chủ quyền của các quốc gia khác và tuân thủ
các chuẩn mực của luật pháp quốc tế.
Chủ quyền nhà nước là quan trọng hàng đầu, không thể tách rời nhà nước. Quyền tối
cao của chủ quyền nhà nước thể hiện ở chỗ quyền lực của nhà nước là phổ biến và
hoạt động không ngoại lệ đối với toàn thể nhà nước, đối với người dân và đối với tất
cả các nhóm tổ chức công quyền. Các dấu hiệu về chủ quyền quốc gia cho thấy quyền
tự chủ và bình đẳng giữa các quốc gia, bất kể là lớn hay nhỏ. Nhà nước thông qua
pháp luật và bảo đảm quy tắc cưỡng chế đối với mọi công dân.
Thứ hai: Có một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chế xã hội
Họ không còn hòa nhập với dân cư của hệ thống bộ lạc, mà thực sự bị cô lập khỏi
xã hội. Quyền lực công cộng này là quyền lực chung. Chủ thể là giai cấp thống trị về
chính trị và xã hội. Để quản lý xã hội và thực hiện quyền lực thống trị, nhà nước phải
có những người chuyên làm công việc hành chính, các tầng lớp nhân dân này được tổ
chức thành các thiết chế nhà nước và hình thành các cơ quan đại diện. Để quyền lực
chính trị duy trì địa vị của giai cấp thống trị, buộc các giai cấp khác phải phục tùng ý
chí của giai cấp thống trị, quyền lực cưỡng chế phải bảo đảm “phục vụ” lợi ích của
giai cấp thống trị trong xã hội.
Ví dụ: Quân đội, nhà tù, cảnh sát, tòa án, ...
Nhà nước là đại diện chính thức của mọi thành viên xã hội nhằm kiểm soát họ. Các
quốc gia thông qua luật pháp và đảm bảo thực thi bằng vũ lực. Các quy định của nhà
nước đối với công dân được thể hiện trong các đạo luật do nhà nước thông qua. Thông
qua pháp luật, ý chí của nhà nước trở thành ý chí của toàn xã hội, và mọi thiết chế, tổ
chức đều chịu sự điều chỉnh của nó. Nhà nước và pháp luật có quan hệ chặt chẽ với
nhau, tác động qua lại và phụ thuộc vào nhau. Nhà nước không thể thực hiện chức
năng quản lý xã hội nếu không có pháp luật, và ngược lại, pháp luật phải thông qua
nhà nước. Trong xã hội, chỉ có nhà nước mới có quyền thông qua pháp luật, không có
tổ chức nào khác có quyền này và chính nhà nước bảo đảm cho việc thực hiện pháp luật trong cuộc sống. 9
Thứ ba: Hình thành hệ thống khóa để nuôi bộ máy chính quyền.
Nhà nước đặt ra và thu thuế dưới hình thức bắt buộc đối với nhân dân nhằm duy
trì bộ máy nhà nước, viên chức nhà nước; Phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh,
quốc phòng bảo đảm giải quyết các vấn đề chung của xã hội. Trong xã hội có nhà
nước không một tổ chức chính trị nào ngoài nhà nước có quyền quy định, đặt ra các
loại thuế và thu các loại thuế. Thuế là khoản thu bắt buộc của những công dân và các
tổ chức kinh tế trên lãnh thổ đất nước vào ngân sách nhà nước, đây là nguồn thu nhập
chủ yếu của nhà nước. Dưới góc độ thuế, nhà nước gắn bó chặt chẽ với xã hội và
người dân chứ không tách rời. Xây dựng chính sách thuế chính xác, công bằng, hợp
lý, đơn giản và thuận tiện.
1.4 Chức năng của nhà nước:
1. Định nghĩa chức năng của Nhà nước:
Chức năng của Nhà nước là những phương diện hoạt động chủ yếu của Nhà nước
tương ứng với bản chất và mục đích của Nhà nước. Trong mỗi giai đoạn phát triển
của đất nước điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước là nhân tố quyết định.
2. Phân loại chức năng của nhà nước:
Nếu chúng ta nói về hoạt động của nhà nước, chúng ta thực sự xem xét phạm vi
của nhà nước để thiết lập các mối quan hệ trong các hệ thống xã hội. Đây cũng là một
vấn đề gây tranh cãi rất nhiều và các ý kiến thường trái ngược nhau. Việc phân loại
các chức năng của nhà nước trước hết phụ thuộc vào các tiêu chí, trong đó quan trọng
nhất là tiêu chí về tính chất giai cấp của nhà nước. Tiêu chí này được thể hiện trên các
khía cạnh chính sau: Thứ nhất, nhà nước bảo vệ lợi ích cơ bản của tầng lớp kinh tế
hùng mạnh. Điều này chủ yếu được thực hiện dưới hình thức bảo vệ các quyền tài sản
cơ bản trong hệ thống kinh tế. Thứ hai, dung hòa các giai cấp và các mối quan hệ cùng
có lợi của họ trong xã hội trên cơ sở các lợi ích chiến lược đã chọn. Theo các lĩnh vực
hoạt động chính của quốc gia, các chức năng của nhà nước có thể được chia thành hai
chức năng: đối nội và đối ngoại.
Chức năng đối nội là những mặt hoạt động chủ yếu của Nhà nước trong nội bộ
đất nước. Nhằm đảm bảo an ninh, trật tự xã hội, đàn áp những phần tử chống
đối, khủng bố chế độ nhà nước, bảo vệ chế độ kinh tế … là những chức năng
về đối nội của nhà nước. Được thể hiện rõ ở những hoạt động như:
Bảo vệ chế độ, hệ thống chính trị – kinh tế – xã hội hiện tại.
Trấn áp, đàn áp kẻ thù giai cấp.
Đảm bảo trật tự an ninh an toàn xã hội. 10
Định hướng, điều chỉnh, quản lý mọi mặt hoạt động của xã hội (kinh tế, văn
hoá, giáo dục, thông tin – tuyên truyền các tư tưởng chính thống.)
Trong số các chức năng đối nội của nhà nước đã nêu thì bảo vệ chế độ chính trị và
trấn áp, đàn áp kẻ thù giai cấp bộc lộ bản chất chuyên chính của nhà nước.
Chức năng đối ngoại thể hiện vai trò của Nhà nước trong quan hệ với các nhà
nước và dân tộc khác. Bao gồm:
Bảo vệ lợi ích của nhà nước trong các quan hệ quốc tế.
Bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và chủ quyền quốc gia.
Phát triển quan hệ bình thường với các nước khác.
Ngày nay trong quá trình toàn cầu hoá thì hợp tác và cùng tham gia vào việc giải
quyết những vấn đề toàn cầu là một trong những hoạt động đối ngoại quan trọng của các quốc gia.
Ngoài cách phân chia chức năng nhà nước được nói trên, một số khía cạnh khác cũng
được xét để phân định chức năng của nhà nước như theo từng phạm vi ảnh hưởng
(quản lý, điều chỉnh, kiểm soát) của nhà nước ở những lĩnh vực cơ bản của xã hội
như: kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục.v.v. Theo cách phân chia này cách gọi tên các
chức năng của nhà nước được gắn liền với những lĩnh vực tác động, chẳng hạn như:
chức năng kinh tế, chức năng chính trị.v.v.
1.5 Các kiểu và hình thức nhà nước
Khái niệm kiểu nhà nước: Kiểu nhà nước là thuật ngữ để chỉ những nhà nước cùng
có chung những dấu hiệu đặc trưng cơ bản thể hiện bản chất giai cấp của nhà nước và
những điều kiện kinh tế xã hội của sự tồn tại của nhà nước.
Căn cứ vào tính chất giai cấp của nhà nước có thể phân biệt các kiểu nhà nước.
Trong lịch sử xã hội có giai cấp, chỉ có giai cấp chủ nô, địa chủ phong kiến, tư sản và
vô sản đã từng có nhà nước, lấy nhà nước làm công cụ thống trị giai cấp của mình. Do
đó, đã từng tồn tại 4 kiểu nhà nước trong lịch sử: nhà nước chủ nô quý tộc, nhà nước
phong kiến, nhà nước tư sản, nhà nước vô sản. Các kiểu nhà nước trên cơ bản giống
nhau ở chỗ đều là công cụ thống trị của giai cấp thống trị. Tuy nhiên, Nhà nước Vô
sản có sự khác biệt về chất với các kiểu nhà nước khác ở chỗ: nó là nhà nước đặc biệt,
nhà nước của số đông thống trị số ít. Giai cấp vô sản liên minh với giai cấp nông dân,
tầng lớp trí thức tiến bộ và các tầng lớp nhân dân lao động khác duy trì sự thống trị
của mình đối với toàn xã hội.
Hình thức nhà nước là khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức, phương thức
thực hiện quyền lực nhà nước của giai cấp thống trị. Hình thức nhà nước thực chất là
hình thức thẩm quyền của giai cấp thống trị. Hình thức nhà nước chịu sự quy định của 11
bản chất giai cấp của nhà nước, bởi tính chất và trình độ phát triển của kinh tế xã hội,
bởi cơ cấu giai cấp, tương quan lực lượng giữa các giai cấp trong xã hội, bởi đặc điểm
lịch sử, văn hóa xã hội, phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo của mỗi quốc gia dân tộc.
Trong kiểu nhà nước chủ nô quý tộc thời chiếm hữu lệ từng tồn tại nhiều hình
thức nhà nước khác nhau như: nhà nước quân chủ chủ nô, Nhà nước Cộng hòa Dân
chủ chủ nô. Nhà nước thành bang Xpác ở Hy Lạp thời Cổ đại là điển hình của hình
thức quân chủ chủ nô. Ở đó quyền lực nhà nước nằm trong tay hoàng đế. Nhà nước
thành bang Aten là điển hình của hình thức nhà nước Cộng hòa Dân chủ chủ nô.
Quyền lực nhà nước thuộc về Hội đồng trưởng lão.
Về hình thức, dù là nhà nước dân chủ hay quân chủ thì về bản chất đều là công
cụ thống trị của giai cấp chủ nô đối với giai cấp nô lệ và các tầng lớp cư dân khác
trong xã hội. Lênin, trong tác phẩm Bàn về nhà nước cho rằng: “... người ta đã phân
biệt chính thể quân chủ và chính thể cộng hòa, chính thê quý tộc và chính thể dân chủ.
Chính thể quân chủ, tức là chính quyền của một người; trong chính thể cộng hòa thì
không một quyền lực nào mà không phải do bầu cử mà có: chính thể quý tộc tức là
chính thể của một thiểu số tương đối nhỏ hẹp; chính thể dân chủ tức là chính quyền
của nhân dân... Mặc dù có sự khác nhau như thế, nhưng nhà nước trong thời đại chế
độ nô lệ, dù là dân chủ hay cộng hòa quý tộc hay cộng hòa dân chủ đều là nhà nước chủ nô”.
Thời trung cổ, giai cấp địa chủ phong kiến nắm trong tay quyền thống trị xã
hội. Nhà nước tồn tại dưới hình thức nhà nước phong kiến tập quyền và nhà nước
phong kiến phân quyền. Trong hình thức nhà nước phong kiến tập quyền thì quyền lực
tập trung trong tay chính quyền trung ương đứng đầu là vua, hoàng đế. Nhà nước
phong kiến phân quyền là hình thức nhà nước mà ở đó quyền lực bị phân tán bởi
nhiều thế lực phong kiến cát cứ ở các địa phương khác nhau. Chính quyền trung ương
tồn tại chỉ trên danh nghĩa. Thực tế vua, hoàng đế chỉ là bù nhìn, không có thực quyền.
Về bản chất, dù tồn tại dưới hình thức phân quyền hay tập quyền thì nhà nước
phong kiến vẫn là nhà nước của giai cấp địa chủ, quý tộc là công cụ thống trị giai cấp
của giai cấp địa chủ quý tộc.
Trong xã hội tư bản tồn tại nhiều hình thức nhà nước như: chế độ cộng hòa, chế
độ Cộng hòa đại nghị, chế độ Cộng hòa tổng thống, chế độ Cộng Hòa Thủ tướng, chế
độ quân chủ lập hiến, nhà nước liên bang, nhà nước phúc lợi chung...Các hình thức
nhà nước này dù có khác nhau về hình thức do chế độ bầu cử, chế độ 1 hay 2 viện,
nhiệm kỳ và quyền lực của tổng thống, thủ tướng, sự phân chia quyền lực giữa tổng 12
thống, thủ tướng và nội các chính phủ…; song, về bản chất đều là nhà nước tư sản, là
công cụ thống trị của giai cấp tư sản đối với các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội.
Lênin trong tác phẩm nhà nước và cách mạng đã viết: “những hình thức của nhà nước
tư sản thì hết sức khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một; chung quy lại thì tất cả
những hình thức nhà nước ấy, vô luận thế nào, cũng tất nhiên phải là nền chuyên chính tư sản”.
Trong các hình thức nhà nước tư sản, các tập đoàn tư bản, thông qua tổ chức
đảng chính trị thực hiện quyền lãnh đạo của mình, bảo vệ quyền lợi và địa vị thống trị
của giai cấp, tập đoàn mình. Về hình thức, các hình thức nhà nước tư sản đều đề cao
quyền tự do, dân chủ của mọi người. Tuy nhiên cần chú ý rằng, về bản chất thì nhà
nước tư sản nào cũng là công cụ chuyên chính của giai cấp tư sản, được pháp luật tư
sản bảo vệ, nền dân chủ tư sản, thực chất là nền dân chủ của số ít những người có
quyền, có tiền và địa vị, thế lực trong xã hội, có nền dân chủ, có giới hạn trong nền dân chủ tư sản.
Kiểu nhà nước vô sản là nhà nước “đặc biệt”, là nhà nước của số đông thống
trị số ít. Trong kiểu nhà nước vô sản giai cấp vô sản liên minh với giai cấp nông dân,
tầng lớp trí thức tiến bộ và nhân dân lao động sau khi tiến hành đấu tranh cách mạng
giành chính quyền nhà nước từ tay giai cấp địa chủ phong kiến và chính quyền đô hộ
như ở Việt Nam năm 1945, ở Trung Quốc năm 1949, hoặc từ tay giai cấp tư sản như ở
nước Nga năm 1917, thiết lập nền chuyên chính của mình. Trong tác phẩm phê phán
cương lĩnh gôta, C. Mác cho rằng : “giữa xã hội tư sản chủ nghĩa và Cộng sản chủ
nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với
thời kỳ ấy là một kỳ quá độ chính trị. và Nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì
khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản. Nền chuyên chính vô
sản (Nhà nước vô sản) có chức năng cơ bản là xây dựng dùng một trật tự xã hội mới,
thủ tiêu chế độ người áp bức bóc lột người, đập tan sự phản kháng của các thế lực
phản động đã bị đánh đổ nhưng chưa bị tiêu diệt vẫn ngoan cố chống lại chính quyền
do giai cấp vô sản lãnh đạo. Tuy khác nhau về tên gọi nhưng thực chất Nhà nước Vô
sản là nhà nước do giai cấp vô sản lãnh đạo, liên minh với giai cấp nông dân, tầng lớp
trí thức tiến bộ, đại diện và bảo vệ quyền lợi của giai cấp và của toàn thể nhân dân lao
động. Trong đó, nhân dân lao động thực sự làm chủ xã hội, thực hiện quyền dân chủ
vô sản, dân chủ kiểu mới, dân chủ của số đông, có nhiệm vụ tiếp tục cuộc cách mạng
vô sản, thực hiện mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện sứ
mệnh của mình, giai cấp vô sản phải thực hiện chức năng tổ chức xây dựng và chức năng trấn áp.
Chức năng tổ chức xây dựng đòi hỏi nhà nước phải chú ý xây dựng một trật tự
kinh tế mới, một trật tự xã hội mới được xem là có vai trò quyết định nhất đối với sự 13
tồn tại của nhà nước vô sản. Cùng với đó nhà nước còn phải thực hiện chức năng trấn
áp sự phản kháng của các lực lượng chống đối. Chức năng này có vai trò hết sức quan
trọng, đó là điều kiện để nhà nước vô sản giữ vững nền chuyên chính của mình.
Để thực hiện tốt chức năng tổ chức, xây dựng và chức năng trấn áp, phải thực
hiện nguyên tắc dân chủ của nền dân chủ vô sản. Lênin cho rằng, một trong những
nhiệm vụ hàng đầu của chuyên chính vô sản là “phát triển nền dân chủ đến cùng, tìm
ra những hình thức của sự phát triển ấy, đem thí nghiệm những hình thức ấy trong thực tiễn”.
Phát triển và hoàn thiện nền dân chủ vô sản cũng có nghĩa là phát triển hoàn
thiện nhà nước vô sản. Và theo quan điểm của mác xít, đến một lúc nào đó, khi Nhà
nước Vô sản đã hoàn thành chức năng của nó, khi nền kinh tế và trình độ phát triển xã
hội đến giai đoạn cao: “Giai đoạn cộng sản chủ nghĩa:, xã hội tồn tại theo một trật tự
mới theo nguyên tắc “tự giác”, thì lúc đó nhà nước “tự tiêu vong”. 14
CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Khái niệm và đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
-Khái niệm:.Nhà nước xã hội chủ nghĩa theo pháp quyền là nước tổ chức và
hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội theo Hiến pháp và pháp
luật; để bảo đảm tính thượng tôn của Hiến pháp, nhà nước pháp quyền cần có
đất nước và đời sống xã hội. Đó là sự tổ chức và hoạt động của quyền lực chính
trị công cộng và mối quan hệ tương hỗ của nó với các quốc gia khác. Với tư
cách là chủ thể của pháp luật, cá nhân là người có quyền tự do dân sự và con
người. Địa vị pháp lý hay hệ thống thể chế, mọi người đều phải tuân theo và
tôn trọng luật pháp, từ cá nhân đến các cơ quan công quyền -Đăc trưng:
1)Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân
do nhân dân làm chủ, quản lý và nhân dân hưởng thụ; bảo đảm mọi quyền lực
nhà nước đều thuộc về nhân dân.
-Nhà nước của nhân dân: Có nghĩa là mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân
-Nhà nước do nhân dân: thiết chế nhà nước các cấp từ trung ương đến địa
phương do nhân dân thành lập và bầu ra
- Nước là vì dân: Mọi tổ chức, hoạt động, đường lối, chính sách của Đảng và
nhà nước đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân, đem lại hạnh phúc
cho nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân
=>Đặc điểm này thể hiện tính dân chủ: nhân dân là dân chủ thực sự, là điểm
khác biệt cơ bản nhất so với quốc gia hiện có và quốc gia hiện có.
2) Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt động trên
cơ sở Hiến pháp, tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp theo nguyên tắc quyền lực nhà
nước thống nhất, nhưng trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành chính
và tư pháp có sự phân công lao động, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan.
-Sở dĩ nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có những đặc điểm trên là do:
+Thứ nhất là mối quan hệ và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa việc thực hiện ba
quyền lập pháp, hành chính và tư pháp.
+Thứ hai, về bản chất, quyền lực nhà nước là thống nhất và không thể tách
biệt độc lập với các lĩnh vực hoạt động của quyền lực nhà nước; 15
+Thứ ba, giữa các bộ phận quyền lực đôi lúc có thể có mâu thuẫn, nhưng vì
mục tiêu thống nhất của quyền lực nhà nước thì chúng phải luôn phối hợp với nhau. .
Có thể thấy, sự thống nhất lợi ích của nhân dân là cơ sở của sự thống nhất về
quyền lực, sự thống nhất này còn thể hiện ở những điểm sau: Sự thống nhất
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - dưới chế độ ta, lợi ích của giai
cấp công nhân, lợi ích của nhân dân và lợi ích của toàn dân tộc về cơ bản là thống nhất.
3)Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo đảm vị
trí tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội
Đây là một trong những đặc trưng tiến bộ, khoa học của nhà nước pháp quyền.
Nhà nước phải tổ chức, hoạt đông trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật để đảm
bảo nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn của các cơ quan không trùng lặp, bảo đảm
tính hợp pháp của chủ nghĩa xã hội, hạn chế lạm quyền, lạm quyền, lạm quyền.
quyền lực cùng một lúc. Cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước vi
phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
4)Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn trọng và bảo vệ quyền
con người, các quyền và tự do của công dân, giữ vững mối liên hệ giữa Nhà
nước và công dân, giữa Nhà nước và xã hội
Việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người không chỉ được thể hiện trong Hiến
pháp và pháp luật của nước ta, mà còn được thể hiện trong việc thực thi quyền
lực nhà nước thông qua các phương pháp như giáo dục, thuyết phục, cưỡng
chế. Hơn nữa, nước ta đã thể hiện rõ bản chất xã hội chủ nghĩa và nhân đạo của
việc đặc xá, đại xá cho những người phạm tội ăn năn hối cải, tạo điều kiện cho
những người sa ngã trở lại xã hội.
Để đảm bảo trách nhiệm giải trình giữa nhà nước và công dân, việc thực hành
dân chủ đi kèm với tăng cường kỷ luật. Nhà nước tạo ra các thể chế pháp lý và
khuôn khổ pháp lý làm cơ sở cho tổ chức và hoạt động của các thể chế nhà
nước, chẳng hạn như "Đạo luật Quốc hội", "Đạo luật Tổ chức Chính phủ", "Uỷ
ban" và Đạo luật về các cơ quan và tổ chức.Mục đích cuối cùng là thực hiện và
bảo vệ quyền con người.
5) nhà nước thực hiện đường lối hoà bình, hữu nghị với nhân dân các dân tộc
và các nhà nước trên thế giới.. Tôn trọng và cam kết thực hiện các công ước,
hiệp ước và điều ước quốc tế đã gia nhập, ký kết và phê chuẩn. 16
Đây là đặc trưng mang tính thời đại, là xu thế chung trên thế giới hiện nay
trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa, nhưng vẫn bảo đảm độc
lập chủ quyền của mỗi quốc gia, dân tộc. Nó cũng là để đảm bảo quyền con
người quyền và lợi ích của công dân trong mỗi quốc gia, dân tộc đó.
Ở mỗi quốc gia và con người này. Đă ›c trưng này thể hiê ›n cho bản chất của nhà
nước pháp quyền xã hô ›i chủ nghĩa đồng thời cũng bảo đảm nghĩa vụ quốc tế
của nước ta đối với phong trào cách mạng thế giới.
Vì vậy, khi nói về đặc trưng của Nhà nước pháp quền xã hội chủ nghĩa là chúng
ta đang nói đến những đặc trưng thuộc kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa
mà trong đó nhà nước là trung tâm. Tóm lại, những nét khác biệt và những mặt
hạn chế của nhà nước pháp quyền xã hô ›i chủ nghĩa bao gồm ba nội dung chính:
Bản chất của nước (nước của dân, do dân, vì dân,mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân);
Cơ sở tổ chức, hoạt động và quản lý để thực hiện quyền lực nhà nước (chủ
nghĩa xã hội được quản lý theo pháp luật, đảng cầm quyền duy nhất lãnh đạo,
quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công phối phối hợp giữa
các cơ quan trong thực hiện quyền lực nhà nước);
Mục tiêu cuối cùng là hiện thực hóa và bảo vệ quyền con người.
2.2. Một số giải pháp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1) Đối với Quốc hội, ngoài chức năng cơ bản của Hiến pháp và pháp luật, cần
tăng cường chức năng tiếp thu và phản hồi ý kiến của nhân dân, chức năng
giám sát hoạt động của chính phủ, tòa án, và các cơ quan lập pháp. cơ thể người. Khởi tố.
2) Chính phủ phải đảm bảo các yêu cầu sau:
⇨ Độc lập về quyền lực hành chính.
⇨ Nguyên tắc thống nhất và thứ bậc của hệ thống hành chính.
⇨ Tính chuyên nghiệp của hệ thống hành chính quốc gia.
(3) Công tác tư pháp phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
⇨Phát huy dân chủ và tăng cường pháp quyền.
⇨ Phòng ngừa hiệu quả và xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm hình sự. 17
⇨ Phải dựa vào nhân dân để hoạt động, đồng thời là chỗ dựa vững chắc cho
nhân dân đấu tranh chống tội phạm.
⇨ Xây dựng nền tư pháp trong sạch vững mạnh. Mở rộng
1. Trần Ngọc Đường và Ngô Đức Mạnh đã chỉ ra những tồn tại của bộ máy
nhà nước Việt Nam trong cuốn sách "Phương thức tổ chức và hoạt động của
Quốc hội và Chính phủ ở một nước xã hội chủ nghĩa, pháp quyền ở Việt
Nam".Quốc hội và chính phủ. Theo họ, từ trước đến nay, trong quá trình thực
hiện chức năng, Quốc hội chồng lên chính phủ, Quốc hội thay mặt chính phủ
và ngược lại. Để thoát khỏi tình trạng này, tác giả đề xuất giải pháp cải cách,
cập nhật bộ máy nhà nước mà trọng tâm là Quốc hội để tránh sự chồng chéo
về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ba bên trong bộ máy nhà nước. Tác
giả cho rằng “trong điều kiện xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa theo pháp
quyền do nhân dân làm chủ, nhân dân hưởng thụ ... Để Đại hội thực sự thực
hiện tốt chức năng quyết định hành chính. các vấn đề của đất nước, phạm vi
quyền quyết định của Đại hội cần tập trung vào hai vấn đề cơ bản: một là duy
trì ngân sách Quyền quyết định Ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách
trung ương. Thứ hai, quyền quyết định thực tế các vấn đề về tổ chức của nhà nước.”
2. Tác giả Bùi Ngọc Sơn có cách tiếp cận khá độc đáo và mới về mối quan hệ
giữa pháp luật và văn hóa. Trong chuyên khảo Xây dựng Nhà nước pháp quyền
trong bối cảnh văn hoá Việt Nam tác giả có cách nhìn độc đáo mang tính gợi
mở về vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền. Theo đó, văn hoá là một trong
những phương diện cơ bản quyết định tính hiệu quả của việc lập pháp, hành
pháp và tư pháp, văn hoá đồng thời là một trong những động lực thúc đẩy sự
nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Do vậy, cần phải khơi dậy
những nét đẹp văn hoá truyền thống mà cốt lõi là những giá trị nhân văn trong
Nho, Phật, Lão làm nền tảng cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền. Theo tác
giả, để hoàn thành sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, cần phải:
Truyền tinh thần yêu nước cho xã hội hiện đại.
Tăng tính đại diện của các cộng đồng tiểu bang.
Biết ơn vì đã thực thi quyền lực và thiết lập quyền tự chủ ở cơ sở.
Xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 18
Xây dựng thói quen chấp hành kỷ luật, pháp luật trong đời sống công cộng.
Để mọi người có hiểu biết mới về sân vận động
2.3. Vai trò, trách nhiệm của sinh viên trong việc góp phần nhận thức và tuyên
truyền về nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
• Sinh viên là tương lai của đất nước, năng động, sáng tạo, trẻ khỏe, có vai trò
quan trọng trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa và pháp quyền ở Việt Nam.
Trách nhiệm của học sinh trong việc nâng cao nhận thức và tuyên truyền về
đất nước xã hội chủ nghĩa, pháp quyền ở Việt Nam
Nước ta là nước xã hội chủ nghĩa, nước pháp quyền, mọi người lao động, nhất
là thế hệ trẻ học sinh, sinh viên của đất nước có trách nhiệm tham gia xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN. Chi tiết:
• Luôn nêu gương, tuyên truyền và vận động quần chúng thực hiện chính sách
của Đảng và pháp luật của dân tộc.
• Tích cực tham gia các hoạt động: xây dựng, củng cố và bảo vệ chính quyền,
giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
• Thường xuyên nâng cao cảnh giác đề phòng những âm mưu, thủ đoạn chống
phá của các thế lực mạnh
Trách nhiệm đối với bản thân:
1. Rèn luyện đạo đức, nhân cách, tác phong học sinh XHCN, lối sống lành
mạnh , ứng xử có văn minh; có tinh thần trách nhiệm công dân và ý thức tuân
thủ pháp luật; phòng, chống tiêu cực, tội phạm xã hội, trái pháp luật và đạo đức xã hội.
2. Tích cực học tập, nâng cao trình độ, kiến thức, kỹ năng học tập, tiếp cận,
nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ vào thực tiễn. Học tập tốt, mục
đích học tập đúng đắn.
4. Đào tạo, bảo vệ, nâng cao sức khỏe, phát triển thể chất và tinh thần; có kiến
thức, kỹ năng sống, sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục, phòng chống bệnh tật và các kiến thức khác.
5. phòng chống bệnh tật và các kiến thức khác; không lạm dụng rượu, bia; hạn
chế sử dụng thuốc lá; không sử dụng ma túy, chất gây nghiện và các chất kích
thích khác bị pháp luật cấm; phòng, chống tác hại của không gian mạng. 19