Tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc. Giá trị của quan điểm nêu trên đối với việc bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ nước ta hiện nay | Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
Tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc. Giá trị của quan điểm nêu trên đối với việc bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ nước ta hiện nay | Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (LLTT1101)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45568214
BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------***------- BÀI TẬP LỚN
MÔN: Tư tưởng Hồ Chí Minh
ĐỀ TÀI: “ Tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về độc
lập dân tộc. Giá trị của quan điểm nêu trên đối với việc bảo vệ chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ nước ta hiện nay.”
Họ và tên SV : Vũ Đức Hạnh
Lớp tín chỉ : LLTT1101(122)_42
Lớp chuyên ngành : KTPT 62C Mã SV : 11201386
GVHD: TS.Nguyễn Chí Thiện
HÀ NỘI , NĂM 2022 1 lOMoAR cPSD| 45568214 Mục Lục
A. Mở Đầu ........................................................................................................................... 2
B. Nội dung .......................................................................................................................... 3
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc ........................................................ 3
1.1 Vấn đề độc lập dân tộc.............................................................................................. 3
1.2 Về cách mạng giải phóng dân tộc ............................................................................ 5
2. Giá trị của quan điểm đối với việc bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ nước ta
hiện nay ............................................................................................................................... 8
2.1 Tình hình hiện nay .................................................................................................... 8
2.2 Giá trị của quan điểm đối với việc bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ ............ 9
2.3 Vẫn dụng quan điểm của Hồ Chí Minh để bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh .. 10
thổ hiện nay ................................................................................................................... 10
C. Kết luận ........................................................................................................................ 13
Tài liệu tham khảo ............................................................................................................ 14 A. Mở Đầu
Theo dòng thời gian lịch sử, nước ta đã trải qua hàng nghìn năm độ hộ, từ một nghìn
năm đô hộ phong kiến phương Bắc đến bị chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa phát xít đô hộ.
Trong những khoảng thời gian ấy, nhân dân ta đã phải chịu nhiều áp bức, bóc lột, cả về
sức lực cũng như tài nguyên thiên nhiên của chính đất nước chúng ta, điều này cũng phần
nào kĩm hãm sự phát triển của đất nước. Thế mới thấy được sức mạnh, tầm quan trọng
của việc độc lập dân tộc. Vị lãnh tụ vĩ đại của chúng ta Hồ Chí Minh cũng đã có một câu
nói bất hủ, không chỉ phản ánh ý chí, khát vọng của toàn dân tộc mà còn tạo động lực,
tiếp sức mạnh cho nhân dân ta đó là: ‘Không có gì quý hơn độc lập, tự do’.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gần như cống hiến cả cuộc đời mình cho cách mạng, cho
mục tiêu độc lập dân tộc của nước nhà, để người dân có một cuộc sống tự do, hạnh phúc. 2 lOMoAR cPSD| 45568214
Để có thể hiểu rõ hơn về tinh thần ấy cũng như cách suy nghĩ của Người về độc lập dân
tộc thì chúng ta cần biết quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc, để từ đó thêm
tinh thần yêu nước, quý trọng sự độc lập hiện tại của nước ta. Và từ đó vận dụng giá trị từ
quan điểm của Bác trong việc bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nước ta hiện nay. B. Nội dung
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
1.1 Vấn đề độc lập dân tộc
a) Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả dân tộc
Đối với người dân mất nước, khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa là độc lập
cho Tổ quốc, tự do cho nhân dân. Đó là lẽ sống, nguồn cổ vũ to lớn đối với các dân tộc bị
áp bức trên thế giới trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc.
- Cách tiếp cận từ quyền con người
Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu, tiếp thu những
nhân tố về quyền con người được nêu trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ, Tuyên
ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 như quyền bình đẳng,
quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. “Đó là những lẽ phải
không ai chối cãi được”. Từ quyền con người, Hồ Chí Minh đã khái quát lên chân lý bất
diệt về quyền cơ bản của các dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình
đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
- Độc lập, tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa. Vì vậy, khi chưa
có độc lập thì phải quyết tâm đấu tranh để giành độc lập dân tộc.
Năm 1919, nhân cơ hội các nước đồng minh thắng trận trong chiến tranh thế giới
thứ nhất họp ở Hội nghị Vécxây (Pháp) Hồ Chí Minh đã gửi tới Hội nghị bản Yêu sách
của nhân dân An Nam, với hai nội dung chính là đòi quyền bình đẳng về mặt pháp lý và
đòi các quyền tự do dân chủ cho nhân dân Việt Nam.
Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng năm 1930, Hồ Chí Minh xác định mục tiêu
chính của Đảng là: đánh đổ đế quốc Pháp và bọn phong kiến và làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập.
Tháng 5/1941, Người chủ trì Hộ nghị trung ương 8 Đảng, viết thư kính cáo đồng
bào: “ Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn
kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa bỏng”. 3 lOMoAR cPSD| 45568214
Năm 1945, tình hình chiến tranh thế giới thứ hai có chuyển biến có lợi cho cách
mạng nước nhà, Hồ Chí Minh đã nêu lên quyết tâm phải đứng lên đấu tranh, giành bằng
được độc lập dân tộc, Nười nói: “ Dù hy sinh tới đâu. Dù phải đốt cháy cả dãy Trường
Sơn cũng phải kiên quyết giành được độc lập”.
- Khi đã giành độc lập. tự do, phải kiên quyết giữ vững quyền độc lập, tự do ấy
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, trong bản tuyên ngôn độc lập, Hồ
Chí Minh trịnh trọng tuyên bố với cả thế giới và toàn thể quốc dân đồng bào rằng: “ Nước
Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do độc lập.
Toàn thể dân Việt Nam quyết đem cả tinh thần, lực lượng, tính mạng và của cải để giữ
vững quyền độc lập, tự do ấy”.
Ý chí quyết tâm còn được thể hiện trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ.
b) Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm và hạnh phúc của nhân dân
Theo Hồ Chí Minh, độc lập phải gắn với tự do, hạnh phúc của nhân dân. Cách
mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước nhà được độc lập, Bác lại tiếp tục khẳng
định độc lập phải gắn với tự do. Ngoài ra theo Bác, độc lập cũng phải gắn với cơm no,
áo ấm và hạnh phúc của nhân dân, cũng ngay sau cách mạng tháng Tám Người đã yêu cầu chính phủ phải: “Làm cho dân có ăn Làm cho dân có mặc Làm cho dân chỗ ở
Làm cho dân có học hành”
c) Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để trên tất
cả các lĩnh vực. Người nhấn mạnh: độc lập mà người dân không có quyền tự quyết về ngoại
giao, không có quân đôi riêng, không có nền tài chính riêng,.. thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì.
d) Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Trong lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân tộc ta luôn đứng trước âm mưu chia
cắt đất nước của kẻ thù. Thực dân Pháp khi xâm lược đã chia nước ta thành ba kỳ, sau
cách mạng tháng Tám, miền Bắc bị Tưởng Giới Thạch chiếm đóng, miền nam bị thực dân
Pháp xâm lược.Trong hoàn cảnh đó, trong bức Thư gửi đồng bào Nam Bộ(1946), Hồ Chí
Minh khẳng định : “ Đồng bào Nam bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể 4 lOMoAR cPSD| 45568214
mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”. Sau khi hiệp định Giownevo năm 1954
được ký kết, đất nước ta tiếp tục bị chia cắt, Hồ Chí Minh lại tiếp tục đứng nên đấu tranh
chống lại âm mưu chia cắt đất nước.
Đến cuối đời, trong di chúc, Người vẫn đặt niềm tin tuyệt đối vào sự thắng lợi của
cách mạng, sự thống nhất nước nhà. Và để thực hiện mong ước của Người, nhân dân Việt
Nam đã tiến hành giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước năm 1975 và độc lập dân
tộc từ đó gắn liền với toàn vẹn lãnh thổ.
1.2 Về cách mạng giải phóng dân tộc
a) Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản
Rút kinh nghiệm từ sự thất bại của các phong trào yêu nước.
Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, hàng loạt những phong trào yêu nước đã nổ
ra theo những khuynh hướng khác nhau. Tuy nhiên tất cả các cuộc khởi nghĩa đều thất
bại. Điều đó chứng tỏ sự yếu kém của bộ máy nhà nước phong kiến trong nhiệm vụ giành độc lập dân tộc.
Đến đầu thế kỉ XX xuất hiện các phong trào theo khuynh hướng dân chủ tư sản. Cũng
giống như giai đoạn trước các phong trào này cũng đều thất bại, nguyên nhân sâu xa là
giai cấp tư sản ở nước ta còn non yếu và nguyên nhân trực tiếp là do những người đứng
đầu lãnh đạo các phong trào chưa có đường lối đúng đắn.
Từ những bài học đó, Hồ Chí Minh hình thành một tư duy cách mạng mới là tìm kiếm
con đường cứu nước, giải phóng dân tộc mới khác với các vị tiền bối.
- Cách mạng tư sản là không triệt để
Trong những năm tháng bôn ba ở nước ngoài, Hồ Chí Minh đã có dịp khảo sát các
cuộc cách mạng điển hình trên thế giới. Người đã nhận ra và không chọn con đường cách
mạng Việt Nam đi theo cách mạng tư sản vì cho rằng cách mạng tư sản “ không đến nơi” , “ không triệt để”.
- Cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành thắng lợi triệt để phải đi theo con
đường cách mạng vô sản
Cách mạng tháng Mười Nga thành công (1917) đã ảnh hưởng sâu sắc tới Hồ Chí
Minh trong việc lựa chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Trong quá trình
nghiên cứu thành quả cách mạng Tháng Mười Nga do V.I Leenin lãnh đạo, Bác đã rút ra
cho mình những kết luận quan trọng. Đến năm 1920, sau khi đọc bản Sơ thào lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm
thấy con dường cứu nước, giải phóng dân tộc là con đường cách mạng vô sản. 5 lOMoAR cPSD| 45568214
- Giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp, trong đó giải phóng dân
tộc là trước hết, trên hết
b) Cách mạng giải phóng dân tộc, trong điều kiện của Việt Nam, muốn thắng lợi
phải do đảng cộng sản lãnh đạo -
Sự cần thiết phải có lãnh đạo của Đảng
Trong tác phẩm Đường cách mệnh Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề: cách mệnh trước
hết phải có gì? Người khẳng định: “ Trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận
động và tổ chức, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”. Đảng
có vững thì cách mệnh mới thành công, cũng giống người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy.
- Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và dân tộc Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam là “ Đảng của giai cấp vô sản”, đồng thời là “ Đảng của dân
tộc Việt Nam” đấu tranh vì độc lập, tự do cho dân tộc.
c) Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đại đoàn kết dân tộc,
lấy liên minh công – nông làm nền tảng
- Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc: toàn dân
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra
lịch sử. Đây là nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mac – Leenin và được Hồ Chí Minh kế thừa.
Năm 1930, trong Sách Lược vắn tắt của Đảng, Hồ Chí Minh xác định lực lượng
cách mạng của Đảng bao gồm toàn nhân dân.
- Công nông là chủ cách mện, là gốc cách mệnh
Người phân tích: “Vì bị áp bức mà sinh ra cách mệnh, cho nên ai mà bị áp bức
càng nặng thì lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết. Khi trước tư bản bị
phong kiến áp bức cho nên nó cách mệnh. Bây giờ tư bản lại đi áp bức công nông, cho
nên công nông là người chủ cách mệnh. 1. Là vì công nông bị áp bức nặng hơn, 2. Là vì
công nông là đông nhất cho nên sức mạnh hơn hết, 3. Là vì công nông là tay không chân
rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan
góc. Vì những cớ ấy, nên công nông là gốc cách mệnh”
d) Cách mạng giải phóng dân tộc cần được chủ động, sáng tạo, có khả năng giành
thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
Đại hội VI Quốc tế cộng sản năm 1928 đã thông qua Những luận cương về phong trào
cách mạng trong các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, trong đó cho rằng: chỉ có thể thực
hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các nước thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được
thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến. Quan điểm này đã làm giảm đi tính chủ động, sáng 6 lOMoAR cPSD| 45568214
tạo của nhân dân các nước thuộc địa trong công cuộc đấu tranh chống thực dân, đế quốc,
giành độc lập dân tộc.
- Hồ Chí Minh chỉ rõ mối quan hệ khăng khít, tác động qua lại lẫn nhau giữa cách
mạng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc nhưng là mối quan hệ bình đẳng,
không lệ thuộc, phụ thuộc vào nhau. Năm 1924, tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản,
Người nói: “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai
cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị
áp bức ở các nước thuộc địa”. Trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925),
Người cũng viết: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp
vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu
muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng cắt cả hai cái vòi. Nếu người ta chỉ cắt một
cái vòi thôi, thì cái vòi còn lại kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản, con vật
vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra”.
- Hồ Chí Minh cho rằng: cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc
vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở
chính quốc. Người viết: “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức
thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ
hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn
tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em
mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn. Luận điểm sáng tạo trên của
của Hồ Chí Minh dựa trên những cơ sở sau: +
Thứ nhất, thuộc địa có vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt đối với chủ
nghĩa đế quốc, là nơi duy trì sự tồn tại, phát triển, là món mồi “béo bở” cho chủ nghĩa để
quốc. Cho nên cách mạng ở thuộc địa có vai trò rất lớn trong việc cùng với cách mạng vô
sản ở chính quốc tiêu diệt chủ nghĩa đế quốc. Người cho rằng, “nọc độc và sức sống của
con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các nước thuộc địa hơn là ở chính quốc”,
nếu thờ ơ về vấn đề cách mạng ở thuộc địa thì như “đánh chết rắn ở đằng đuôi”. Cho nên,
cách mạng ở thuộc địa có vai trò rất lớn trong việc cùng với cách mạng vô sản ở chính
quốc tiêu diệt chủ nghĩa đế quốc. +
Thứ hai, trong khi yêu cầu Quốc tế Cộng sản và các Đảng Cộng sản quam
tâm đến cách mạng thuộc địa, Hồ Chí Minh vẫn khẳng định công cuộc giải phóng nhân
dân thuộc địa chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực tự giải phóng. Vận dụng công thức
của C.Mác: “Sự giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp
công nhân”, Hồ Chí Minh đi đến luận điểm: “Công cuộc giải phóng anh em (tức nhân dân
thuộc địa), chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”. +
Thứ ba, tinh thần đấu tranh cách mạng hết sức quyết liệt của các dân tộc
thuộc địa, mà theo Hồ Chí Minh sẽ bùng lên mạnh mẽ, hình thành một “lực lượng khổng
lồ” khi được tập hợp, hướng dẫn và giác ngộ cách mạng.
Thực tiễn thắng lợi cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam cũng như phong
trào giải phóng dân tộc trên thế giới đã thành công vào những năm 60, trong khi cách 7 lOMoAR cPSD| 45568214
mạng vô sản ở chính quốc chưa nổ ra và thắng lợi càng chứng minh luận điểm trên của
Hồ Chí Minh là đúng đắn, độc đáo, sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn.
e) Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng phương pháp bạo lực cách mạng
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin:
Tính tất yếu của bạo lực cách mạng đã được các nhà lý luận Mác – Lênin khẳng định
trong cách mạng vô sản. Ph. Ănghen cho rằng, bạo lực là bà đỡ cho mọi xã hội cũ đang
thai nghén một xã hội mới. Còn V. I. Lênin tiếp tục khẳng định và làm sáng tỏ hơn: không
có bạo lực thì không thể thay thế nhà nước tư sản bằng nhà nước vô sản được.
- Quan điểm của Hồ Chí Minh: +
Dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng Hồ Chí Minh
thấy rõ sự cần thiết phải sử dụng bạo lực cách mạng. Người khẳng định hành động xâm
lược của chủ nghĩa đế quốc đối với các dân tộc nhỏ yếu là một hành động bạo lực phản
cách mạng. Vì vậy, các dân tộc thuộc địa phải sử dụng bạo lực cách mạng để chống lại
bạo lực phản cách mạng, đánh đổ kẻ thù, giành, giữ nền độc lập dân tộc. Người khẳng
định: “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và dân tộc, cần dùng bạo
lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính
quyền”. Vì, hành động mang quân đi xâm lược của thực dân đế quốc đối với các nước
thuộc địa và phụ thuộc bản thân nó “đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi”.
+ Về hình thức của bạo lực cách mạng, theo Hồ Chí Minh bạo lực ở đây là bạo lực
quần chúng với hai lực lượng: lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, hai hình thức đấu
tranh: đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang; chính trị và đấu tranh chính trị của quần
chúng là cơ sở, nền tảng cho việc xây dựng lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang; đấu
tranh vũ trang có ý nghĩa quyết định đối với việc tiêu diệt lực lượng quân sự và âm mưu
thôn tính của thực dân đế quốc, đi đến kết thúc chiến tranh. Trong chiến tranh, “quân sự là
việc chủ chốt”, nhưng đồng thời phải kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị, ngoại giao,
đấu tranh trên tất cả các mặt trận: kinh tế, văn hóa, xã hội.
Việc xác định hình thức đấu tranh phải căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà áp
dụng cho thích hợp, như Người đã chỉ rõ: “Tùy tình hình cụ thể mà quyết định những
hình thức đấu tranh thích hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ
trang và đấu tranh chính trị để giành thắng lợi cho cách mạng”. Trong cách mạng Tháng
Tám 1945, với hình thức tổng khởi nghĩa của quần chúng nhân dân trong cả nước, chủ
yếu dựa vào lực lượng chính trị, kết hợp với lực lượng vũ trang, nhân dân ta đã thắng lợi,
giành chính quyền về tay nhân dân.
2. Giá trị của quan điểm đối với việc bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ nước ta hiện nay
2.1 Tình hình hiện nay
Trong bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều phức tạp, chúng ta kiên quyết, kiên trì đấu
tranh giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo đảm 8 lOMoAR cPSD| 45568214
quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội. Nhận thức về mục tiêu, yêu cầu bảo vệ Tổ
quốc; về vị trí, vai trò của quốc phòng, an ninh trong tình hình mới; về quan hệ đối tác,
đối tượng có bước phát triển. Chủ động, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bằng các biện pháp
phù hợp, bảo vệ được chủ quyền, biển, đảo, vùng trời và giữ được hòa bình, ổn định để
phát triển đất nước. Chủ trương, giải pháp trong chiến lược quốc phòng, quân sự, chiến
lược an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện. Thế trận
quốc phòng toàn dân gắn kết chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân tiếp tục được tăng
cường, củng cố, nhất là trên các địa bàn chiến lược quan trọng; sức mạnh về mọi mặt của
Quân đội nhân dân và Công an nhân dân được tăng cường. Kết hợp có hiệu quả giữa
nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa
kinh tế với quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Đấu tranh làm thất bại âm mưu "diễn biến hòa
bình", hoạt động phá hoại, gây rối, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; bước đầu đối
phó có hiệu quả với mối đe dọa an ninh phi truyền thống, kiềm chế được tốc độ gia tăng tội phạm.
Tuy nhiên, nhận thức của một số cán bộ các cấp, các ngành về nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới chưa thật đầy đủ, sâu sắc. Kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã
hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh trên một số lĩnh vực, địa bàn có lúc, có nơi chưa
chặt chẽ. Việc quán triệt và triển khai thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, các nghị quyết
của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng, an ninh của một số cấp ủy, chính
quyền có nơi, có lúc chưa kiên quyết, triệt để; còn thiếu những giải pháp mang tính chiến
lược, tổng thể. Cơ chế, chính sách, pháp luật về quốc phòng, an ninh chưa hoàn thiện.
2.2 Giá trị của quan điểm đối với việc bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ
Từ những thực trạng đã nêu nên ở trên ta đã thấy được phần nào tầm quan trọng của
việc phải bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Khi Việt Nam là một quốc gia có vị trí địa
– chính trị vô cùng quan trọng tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương và trên thế giới. Là
cầu nối giữa Trung Quốc và khu vực Đông Nam Á cũng như là quốc gia trấn giữ hàng hải
chiến lược giữa vịnh Thái Lan và biển Đông. Vì vị trí chiến lược này mà Việt Nam
thường xuyên bị nhòm ngó bởi rất nhiều thế lực khu vực và đặc biệt là các siêu cường
quốc tế. Lúc này những quan điểm của Bác lại có giá trị to lớn, là kim chỉ nam để toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục thực hiện nhiệm vụ bảo vệ vững chắc, toàn vẹn chủ
quyền lãnh thổ, thiêng liêng của Tổ quốc hiện nay.
Những quan điểm của Hồ Chí Minh là điểm tựa, là gốc để chúng ta có thể phát triển
những quan điểm mới, đường lối để có thể bảo vệ chủ quyền của đất nước ta. Cũng từ
việc dựa trên quan điểm của Người trong bài viết “ Một số vấ đề lý luận và thực tiễn về
chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của TỔng bí thư
Nguyễn Phú Trọng đã đặc biệt khẳng định: “ Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”. Nội hàm của bài viết đã thể hiện rõ quan điểm: Kiên
quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ 9 lOMoAR cPSD| 45568214
quốc. Như vậy có thể thấy được tầm quan trọng, cũng như sức ảnh hưởng của quan điểm
của Bác khi luôn được các nhà lãnh đạo đất nước lấy làm gốc để có thể định hướng tư
tưởng của người dân cũng như làm giá trị để đưa những hướng đi, những việc phải làm để
có thể bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia.
2.3 Vẫn dụng quan điểm của Hồ Chí Minh để bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ hiện nay
Hiện nay tình hình an ninh, chính trị thế giới, khu vực diễn biến nhanh chóng, phúc
tạp, khó dự báo. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo, diễn ra căng thẳng,
phức tạp, quyết liệt. Hòa bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên
biển Đông đứng trước thách thức to lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột. Các nước trong khu
vực gia tăng các hoạt động, yêu sách chủ quyền, nhất là tại các vùng biển giáp ranh, nhậy
cảm, chưa phân định. Vì vậy vấn đề chủ quyền, đặc biệt là chủ quyền biển đảo càng trở
nên quan trọng, đòi hỏi chúng ta phải thấm nhuần sâu sắc và vận dụng sáng tạo tư tưởng
Hồ Chí Minh về độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ để có thể bảo vệ lãnh thổ của quốc gia.
Một là, nâng cao nhận thức về chủ quyền lãnh thổ và trách nhiệm bảo vệ toàn vẹn chủ
quyền lãnh thổ cho cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu, nhằm tạo sự thống nhất nhận thức và hành động
trong hệ thống chính chính trị và toàn xã hội đối với trách nhiệm bảo vệ vững chắc chủ
quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Bởi vì, chỉ trên cơ sở nhận thức đúng
thì mới tạo được sự đồng thuận xã hội, khơi dậy tinh thần đoàn kết, lòng yêu nước trong
mỗi người dân Việt Nam đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của
Tổ quốc, như Bác Hồ đã căn dặn: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một
truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần
ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự
nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả bè lũ bán nước và bè lũ cướp nước”. Cần đẩy
mạnh và nâng cao hiệu quả giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận
trong mọi tầng lớp nhân dân đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Nội dung tuyên
truyền cần tập trung vào vị trí, vai trò, tầm quan trọng của lãnh thổ, biển, đảo trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; truyền thống, ý thức bảo vệ chủ quyền lãnh thổ,
biển, đảo của dân tộc ta; đường lối, quan điểm, chính sách, pháp luật, phương châm, tư
tưởng chỉ đạo, đối sách giải quyết các vấn đề lãnh thổ của Đảng và Nhà nước ta; các tập
quán, điều ước quốc tế về biển và Việt Nam là thành viên; bản chất âm mưu, thủ đoạn của
các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề lãnh thổ để chống phá nước ta; tính chất khó khăn,
phức tạp, nhạy cảm của nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo hiện nay... 10 lOMoAR cPSD| 45568214
Hai là, vận dụng đúng đắn, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng “dĩ
bất biến, ứng vạn biến” trong bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.
Quán triệt và vận dụng phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Người, cần thấm
nhuần quan điểm có tính nguyên tắc: Chủ quyền lãnh thổ là chủ quyền quốc gia, là lợi ích
quốc gia thiêng liêng, bất khả xâm phạm, là cái “bất biến”. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng
thay mặt đất nước và nhân dân Việt Nam, tuyên bố với thế giới rằng, nhân dân chúng tôi
thành thực mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu
đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc và độc lập
cho đất nước; toàn thể nhân dân Việt Nam “quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính
mệnh và của cải” để giữ vững chủ quyền quốc gia. Cái “vạn biến” là cách ứng xử của ta
phải linh hoạt, khôn khéo trong đấu tranh bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ theo đúng
tinh thần: “Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt”.
Vận dụng tư tưởng này của Người trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh thổ đòi hỏi phải
tuân thủ các nguyên tắc để đạt mục đích tối thượng là bảo vệ toàn vẹn từng tấc đất, sải
biển, song phương pháp, cách thức đấu tranh phải linh hoạt, mềm dẻo bằng mọi hình
thức, biện pháp, trong đó lấy đối thoại, đàm phán hòa bình để giải quyết bất đồng; kiên
quyết, kiên trì không mắc âm mưu khiêu khích, tạo cớ. Kiên định đấu tranh bảo vệ chủ
quyền lãnh thổ, biển, đảo bằng giải pháp “hòa bình”, bằng sức mạnh tổng hợp: đấu tranh
chính trị, ngoại giao, chứng cứ pháp lý, lịch sử. Chúng ta kiên trì, tránh xung đột nhưng
khi chủ quyền bị xâm phạm, chúng ta sẵn sàng đáp trả bằng quyền tự vệ chính đáng. Xử
lý thật tốt mối quan hệ toàn vẹn độc lập, chủ quyền và duy trì hòa bình, ổn định. Đồng
thời, cần cảnh giác trước những mưu toan hạ thấp giá trị chủ quyền biển, đảo hoặc làm
suy giảm lòng tự tôn dân tộc, tinh thần yêu nước…
Ba là, xây dựng “thế trận lòng dân”, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững
mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới.
Xây dựng “thế trận lòng dân” đặc biệt là trên biển là quá trình xây dựng nhân tố chính
trị tinh thần, ý chí, tâm lý và niềm tin của nhân dân trên vùng biển, đảo của Tổ quốc, mà
cốt lõi là lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí chiến đấu của nhân dân. Xây dựng “thế
trận lòng dân” trên biển hay đất liền phải song hành với việc giữ gìn giá trị, phát huy
truyền thống lịch sử, bản sắc văn hoá; bảo đảm quyền tham gia, hưởng lợi và trách nhiệm
của người dân đối với phát triển bền vững kinh tế biển trên cơ sở công bằng, bình đẳng,
tuân thủ pháp luật. Xây dựng “thế trận lòng dân” vững mạnh là trách nhiệm của cả hệ
thống chính trị, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân là nòng cốt.
Tập trung xây dựng và phát huy sức mạnh tổng hợp của lực lượng hải quân, cảnh sát ,
biên phòng, kiểm ngư và dân quân tự vệ, trên đất liền và biển, có số lượng hợp lý, chất
lượng tổng hợp cao; chú trọng xây dựng trình độ kỹ thuật, chiến thuật, trình độ hợp đồng
tác chiến quân binh chủng đi liền với trang thiết bị kỹ thuật ngày càng hiện đại; kết hợp 11 lOMoAR cPSD| 45568214
tốt phát triển kinh tế gắn với quốc phòng, an ninh trên biển của các lực lượng chuyên
trách. Đồng thời, cần phát huy tốt vai trò tham mưu của lực lượng vũ trang làm nhiệm vụ
bảo vệ chủ quyền biển, đảo cho cấp ủy, chính quyền địa phương về công tác quốc phòng,
quân sự địa phương; về xây dựng khu vực phòng thủ biên giới, biển, đảo vững chắc;
tuyên truyền, bồi dưỡng nâng cao kiến thức quốc phòng, an ninh cho người dân dân.
Bốn là, bảo vệ vùng biển đảo cụ thể là phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Xác lập và thực thi chiến lược phát triển đất nước thành một quốc gia mạnh về
biển, làm giàu từ biển; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc
phòng - an ninh; phát huy các nguồn lực bên trong, thu hút mạnh các nguồn lực bên ngoài
để phát triển các khu vực ven biển. Phát triển kinh tế biển là cơ sở quan trọng để củng cố
quốc phòng - an ninh trên biển, đồng thời củng cố quốc phòng - an ninh trên biển là điều
kiện, tiền đề để phát triển kinh tế biển một cách bền vững. Bảo đảm mỗi bước phát triển
kinh tế biển phải tạo cơ sở cho việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo và ngược lại. Sự gắn kết
và mối quan hệ biện chứng này phải được xác định rõ từ quan điểm, chủ trương, chính
sách, kế hoạch về phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng, an ninh trên biển; gắn chặt và
thống nhất chung trong chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đảng ta khẳng định: “Đến năm 2030 đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh;
đạt cơ bản các tiêu chí về phát triển bền vững kinh tế biển; hình thành văn hoá sinh thái
biển; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; ngăn chặn xu thế ô nhiễm,
suy thoái môi trường biển, tình trạng sạt lở bờ biển và biển xâm thực; phục hồi và bảo tồn
các hệ sinh thái biển quan trọng”(10). Để hiện thực hóa mục tiêu trở thành quốc gia biển
mạnh, cần khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển các ngành khai thác, chế
biến dầu khí; cảng biển, đóng và sửa chữa tàu biển, vận tải biển; tạo điều kiện thuận lợi và
khuyến khích người dân định cư lâu dài trên các đảo. Tăng cường công tác cứu hộ, cứu
nạn và bảo đảm an ninh, an toàn trên biển, đảo. Tập trung xây dựng và nhân rộng các mô
hình khu kinh tế, khu công nghiệp sinh thái ven biển gắn với hình thành và phát triển các
trung tâm kinh tế biển mạnh. Đổi mới tư duy trong xây dựng và thực hiện các quy hoạch,
kế hoạch phát triển hệ thống đô thị ven biển có kết cấu hạ tầng kỹ thuật, xã hội đồng bộ,
hiện đại, theo mô hình, tiêu chí tăng trưởng xanh, đô thị thông minh. Đẩy nhanh xây dựng
hoàn thiện kết cấu hạ tầng các khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển theo hướng tiếp cận
mô hình khu kinh tế, khu công nghiệp sinh thái, công nghệ cao, có sức hấp dẫn các nhà
đầu tư, thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao;
giải quyết tốt vấn đề môi trường, xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân. 12 lOMoAR cPSD| 45568214 C.Kết luận
Qua quá trình tìm hiểu những quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc ta đã
được mở rộng tầm hiểu biết về nhiều điều từ những kiến thức lịch sử đến những tư duy
lập luận của Bác để đưa ra con đường cách mạng đúng đắn giúp nước ta trở thành một
quốc gia độc lập, tự chủ. Từ đó ta thêm chân quý sự độc lập, tự do mà ta đang có hiện tại,
những công sức mà cha ông ta đã bỏ ra, đã hi sinh để được như hiện tại. Tất cả sẽ tạo
thành động lực để giúp chúng ta, những chủ nhân tương lai của đất nước sẽ tiếp tục bảo
vệ chủ quyền thiêng liêng của đất nước, để không bỏ phí công sức của Hồ Chí Minh, của
ông cha ta, của toàn thể dân tộc đã cùng nhau chung sức.
Không chỉ có vậy việc nghiên cứu đề tài này cũng giúp em tìm hiểu nhiều điều hơn về
quá trình bảo vệ độc lập chủ quyền lãnh thổ hiện nay của nước ta. Từ đó có thể thấy rằng
những nha lãnh đạo chủ chốt của đất nước vẫn đi đúng với những quan điểm của Hồ Chí
Minh về độc lập dân tộc. Trong quá trình tìm hiểu đó em cũng tham khảo nhiều tài liệu để
tổng hợp, đưa ra một số những giải pháp vận dụng những tư tưởng của Bác để có thể bảo
vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ quốc gia trong bối cảnh hiện tại, để có thể góp một chút
sức lục nhỏ bé của mình vào công cuộc bảo vệ chủ quyền của cả dân tộc. 13 lOMoAR cPSD| 45568214
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Giáo dục và đào tạo, chương 3: Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Sự Thật.
2. Nguyễn Hữu Cần. 2021. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ chủ quyền
biển, đảo Việt Nam trong tình hình mới.
Truy cập 16/9/2022 từ https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-
phongan-ninh-oi-ngoai1/-/2018/821811/van-dung-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-bao-
ve-chuquyen-bien%2C-dao-viet-nam-trong-tinh-hinh-moi.aspx
3. Nguyễn Đức Vinh. 2022. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền,
thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Truy cập ngày 16/9/2022 từ: https://doanthanhnien.vn/tin-tuc/bao-ve-nen-tang-
tutuong-cua-dang/kien-quyet-kien-tri-dau-tranh-bao-ve-doc-lap-chu-quyen-thong
nhat-va-toan-ven-lanh-tho-cua-to-quoc
4. 2019. Bảo vệ vũng chắc độc lập, chủ quyền, thông nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Truy cập 17/9/2022 từ: https://dangcongsan.vn/tu-lieu-tham-khao-cuoc-thi-
tracnghiem-tim-hieu-90-nam-lich-su-ve-vang-cua-dang-cong-san-viet-nam/tu-
lieucuoc-thi/bao-ve-vung-chac-doc-lap-chu-quyen-thong-nhat-toan-ven-lanh-tho- cuato-quoc-544849.html
2 Độc lập, tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa. Vì vậy, kh 14