



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61457685
NGUYỄN CÔNG HOAN (Nhà văn hiện thực) I. Tác giả
Hai nhà nghiên cứu phê bình văn học Huệ Cho và Phong Lê đã có lần nhận xét về NCH
như saiL “Cái cười của ông là 1 phương tiện đả kích có 1 sức công phá thật mạnh mẽ. Đôi lúc ta
còn bất chợt thấy trong cái cười hài hước của ông 1 chút ngậm ngùi, 1 tình thương có thể nói là kín đáo”.
Truyện ngắn của NCH chủ yếu nhằm châm biếm đả kích những nhân vật phản diện theo
quan niệm của ông. Vì thế, NV chính thường là loại giàu có quyền thế và loại thanh niên nam nữ
nhố nhăng hư hỏng do chạy theo phong trào Âu hóa.
Có thể nói Nguyễn Công Hoan là ngọn cờ đầu của văn học hiện thực phê phán Việt Nam.
Nguyễn Công Hoan đến với chủ nghĩa hiện thực bằng văn học trào phúng, từ những truyện đầu
tiên, ông đã tìm đề tài trong những người nghèo khổ, cùng khốn của xã hội.
Đa số nhân vật phản diện của ông đều thuộc tầng lớp thượng lưu giàu có và quan lại, cường
hào. Toàn những cảnh xấu xa, bỉ ổi, những chuyện bất công, ngang ngược, những con người ghê
tởm, đáng khinh bỉ. Nguyễn Công Hoan tạo ra những tình huống bất ngờ, rồi phá lên cười và làm
cho người khác cười theo, nhưng ngẫm lại thật thương tâm đau xót. 1. Tiểu sử
- Sinh ngày 6-3-1903 trong một gia đình quan lại xuất thân khoa bảng bắt đầu thất thế ảnh
hưởng đến quan điểm đạo lí, đạo đức phong kiến trong các tiểu thuyết của NCH.
- Quê: làng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh (nay là huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên).
- Cha: Nguyễn Đạo Khang, đỗ tú tài, làm huấn đạo. Bác ruột Nguyễn Đạo Quán làm tri huyện,
sau thăng tri phủ, tuy làm quan nhưng thanh đạm, làm nguyên mẫu của nhân vật Lê Sĩ Cư trong tiểu thuyết Thanh đạm.
- NCH chịu ảnh hưởng nhiều từ người bác và bà nội, người bác luôn chăm sóc việc học hành
cho con cháu, thích sưu tầm phương ngôn, tục ngữ, ca dao, ngụ ngôn, soạn sách dạy chữ Nho bằng
đề tài VN. Bà nội thường kể cho NCH nghe truyện Nôm, thuộc nhiều thơ Đường.
“Bà nội là người thông minh, dòng dõi nhà nho, nên thuộc rất nhiều thơ phú. Tối tối trước
khi đi ngủ, bà thường ngâm nga rồi dạy truyền khẩu cho các cháu. Niêm luật của thơ ca, nhạc điệu
của ngôn ngữ được luyện vào tai cậu bé là cha tôi ngay từ ngày ấy” (Lê Minh).
- Sinh trưởng trong gia đình quan lại, NCH được tai nghe mắt thấy đủ mọi chuyện chốn quan
trường, chứng kiến các tấn kịch diễn ra hằng ngày ở nơi công đường, phòng nha trại lính vốn sống
quý giá để ông viết về đề tài quan lại, lính tráng sau này.
- Tốt nghiệp trường Sư phạm, từ 1926, vừa dạy học, vừa viết văn tới CMT8. Cuộc đời dạy
học long đong, thuyên chuyển nhiều nơi giúp ông có điều kiện tiếp xúc với nhiều cha mẹ học sinh,
chứng kiến đủ hạng người giàu nghèo sang hèn trong xã hội, được đến nhiều vùng đất, nhiều cảnh
đời, tạo nên vốn sống phong phú.
- 1928 gia nhập VN Quốc dân Đảng. Thời kì Mặt trận Dân chủ, NCH chịu ảnh hưởng của
một số chiến sĩ cộng sản, viết tiểu thuyết Bước đường cùng để trả món nợ lòng với họ. Cuốn tiểu lOMoAR cPSD| 61457685
thuyết có tư tưởng tiến bộ, bị chính quyền thực dân cấm, nhà văn bị theo dõi, truy tố. 1945 NCH
bị bắt vì hoạt động CM và gia đình tham gia CM.
- Sau CM, tiếp tục sáng tác, mất năm 1977, được truy tặng giải thưởng HCM. 2. Con người -
Là người có năng khiếu trào phúng bẩm sinh, ngay từ nhỏ đã chứng tỏ sự tinh nghịch, thích
khôi hài, hay chế giễu: “Tính cách con người tôi là nghịch ngợm, ranh mãnh, hay chế nhạo.” (Lấy
ngày ¼ là ngày sinh của mình vì muốn ngày sinh tháng đẻ có ý nghĩa dối trá).
Từ nhỏ đã nghịch ngợm. Vốn không tin vào trời phật, cúng bái, một lần nhà có giỗ, NCH cùng anh
họ nhón vụng thức ăn bày trên mâm cúng, để thử xem có bị thần vặn cổ như lời dọa của người lớn không. -
Thích đọc hài kịch Molie, bắt chước Molie, “làm hài kịch” rồi cùng anh em trong nhà diễn
kịch. “chỉ có mục đích làm cho mọi người cười sặc sụa”. -
Có sở thích “ban ngày thì đứng ở sân công đường hàng giờ để nhìn và để nghe, ban tối thì
xuống trại lệ, trại cơ nằm kề đùi với lính tráng để hỏi chuyện họ”. Cái tính tinh nghịch, thích khôi
hài như thanh nam châm nhạy bén hút những mẩu chuyện ở công đường trại lính kho tài liệu vô
giá để nhà văn sáng tác.
Năng khiếu trào phúng bẩm sinh, cá tính ưa hài hước được nuôi dưỡng, mài sắc trong môi trường
sống từ ấu thơ đã phát triển mạnh mẽ khi bắt rễ vào mảnh đất hiện thực VN trước Cách mạng, tạo
nên phong cách trào phúng đặc sắc của NCH.
3. QUAN ĐIỂM NHÌN NHẬN HIỆN THỰC CỦA NCH
Em hiểu thế nào là quan điểm giai cấp và quan điểm giàu nghèo?
A) quan điểm xh
- NCH nhìn hiện thực từ quan điểm giàu nghèo: tác phẩm của ông đều xoay quanh sự đối
chọi giữa kẻ giàu và người nghèo: “Sự xung đột giữa kẻ giàu và người nghèo là cái cốt của hầu
hết các truyện ngắn, truyện dài của NCH”.
- NCH luôn đứng về phía người nghèo khổ, cho dù họ có phạm tội ông cũng đứng ra bào
chữa, thanh minh, cãi trắng án cho họ (Thằng ăn cắp, Bữa no... đòn, Thế cho nó chừa). Ngược lại,
ông lật tẩy, phơi bày bản chất ăn cắp đểu giả, ti tiện của bọn nhà giàu (Thằng Quýt, Thằng ăn cướp).
-Đả kích bọn thực dân, quan lại, tư sản, địa chủ, cường hào, lính tráng chủ yếu với 2 tội:
+ Cậy quyền thế ức hiếp + Tham lam vô độ
Bọn chúng nhất loạt đều to béo, bởi ăn bẩn. Hàng loạt truyện ngắn của NCH chỉ xoay quanh
các mánh khéo ăn bẩn của bọn quan lại cường hào nhưng ko hề trùng lặp.
Quan điểm giàu nghèo được mài sắc, có xu hướng vươn tới quan điểm giai cấp trong hoàn
cảnh XH thuận lợi như thời kì Mặt trận dan chủ Đông Dương.
Nhưng nhiều trường hợp, chưa phải là quan điểm giai cấp chính xác. lOMoAR cPSD| 61457685
NCH đứng về phía người nghèo nhưng ko phải lúc nào cũng đứng trên lập trường của họ,
nhiều khi phóng đại cái nhếch nhác, bẩn thỉu của họ. b. Quan điểm luân lí đạo đức
- Căm ghét, khinh bỉ XH thực dân, bọn quan lại, những nhố nhăng, quái thai của XH mới
giày xéo lên truyền thống đạo đức của dân tộc. Ông đả kích mạnh mẽ bọn quan lại hãnh tiến vô
liêm sỉ, bọn tư sản, thanh niên chạy theo lối Âu hóa nhố nhăng Thống nhất với quan điểm giàu nghèo.
- Xung quanh vấn đề phụ nữ, hôn nhân gia đình, quan điểm luân lí đạo đức của ông bị chi
phối mạnh mẽ bởi tư tưởng phong kiến bảo thủ, bộc lộ cái nhìn thành kiến ác cảm với phụ nữ (Cô
Kếu gái tân thời, Cô giáo Minh, Thanh đạm, Danh tiết,...)
+ Thể hiện xung đột giữa 2 thế hệ: già và trẻ, hai giới tính: nam và nữ, vợ cả và vợ lẽ.
+ Luôn đứng về phía người già, nam giới, vợ cả để phê phán. Nhân vật diễn trò thường là nữ
giới, người trẻ, vợ lẽ (Oằn tà roằn, Thế là mợ nó đi Tây, Nỗi vui sướng của thằng bó khố nạn, Vợ
lẽ của bạn tôi, Truyện trung kỳ).
4. Truyện ngắn của nch 4.1. Quá trình sáng tác
a. 1929 – 1935 -
NCH bắt đầu viết truyện ngắn từ đầu những năm 20, nhưng từ 1929 trở đi thì được chú ý.
Kép Tư bền gồn 15 truyện, sáng tác khoảng từ 29 – 35 gây tiếng vang lớn, làm nảy sinh cuộc
tranh luận về quan điểm nghệ thuật giữa Hải Triều và Hoài Thanh.
Với Kép Tư bền, NCH là 1 trong những người mở đầu và cắm ngọn cờ chiến thắng cho chủ nghĩa hiện thực. -
NCH tập trung làm nổi bật sự xung đột giàu nghèo, phơi bày sự bất công thối nát của XH +
Vạch trần bộ mặt tàn ác, đểu cáng của những kẻ giàu có, có tiền có quyền. VD:
Răng con chó của nhà tư sản:
Miêu tả người ăn mày: “Cái bị bẹp há hốc miệng, nằm chờ bên cạnh cái dạ dày lép kẹp”.
Miêu tả con người và con chó giành nhau 1 miếng ăn:
“Con chó cũng giương mắt nhìn lại thằng người. Thành ra đĩa cơm nằm ở giữa, người tiến
thì chó cũng tiến, người lui thì chó cũng lui: Hai bên hầm hè nhau, người lườm chó, chó lườm người”.
“À mày đánh gẫy răng chó ông, ông chỉ kẹp cho mày chết tươi, ông đền mạng. Bất quá ba
chục bạc là cùng!”
+ Thể hiện tình cảnh khốn cùng, thảm thương của người dân nghèo thành thị: phu xe, ăn mày,
lưu manh, gái điếm, con sen, thằng quýt. VD:
Thằng ăn cắp, Được chuyến khách, Thanh! Dạ!, Ngựa người và người ngựa, Kép Tư Bền. Hai cái bụng lOMoAR cPSD| 61457685
Ngựa người và người ngựa: bi hài kịch giữa anh phu xe gặp cô gái điếm, cả 2 đều cần bắt
khách, xung đột hạ màn khi cô gái giang hồ chuồn mất, bật ra tiếng cười, nhưng đó là tiếng cười
đau xót cho những kiếp “ngựa người và người ngựa”.
Ở chặng này, tầm bao quát hiện thực còn hạn chế, chủ yếu phản ánh hiện thực đời sống ở
thành thị, mới chỉ phê phán nhà giàu mà bất nhân trên phương diện đạo đức. Thái độ với người
nghèo, đối với phụ nữ chưa thực sự được trân trọng.
b) Chặng 1936 – 1939
- Vẫn chĩa mũi nhọn trào phúng vào tầng lớp quan lại (bổ sung) - Truyện ngắn NCH đạt
đỉnh cao về tư tưởng, nghệ thuật.
- Đề tài, đối tượng mở rộng, nói đến cả công nhân, thực dân, vua chúa. Đào kép mới:
Kể về 1 rạp hát quảng cáo rùm beng là có tính hát mới, rạp mới chấn chỉnh, đào kép mới,
nhưng thực chất thì vẫn tích hát cũ, đào kép cũ đổi vai cho nhau, để ám chỉ sự tuyên truyền của
thực dân Pháp về việc đổi mới triều đình Bảo Đại.
- Vẫn chĩa mũi nhọn trào phúng vào tầng lớp quan lại, địa chủ, cường hào, nhưng viết đúng,
trúng, trào phúng cay nghiệt hơn.
Tuy vẫn nhằm vào đối tượng cũ nhưng đòn đả kích giai đoạn này nhiều khi đụng được đến
bản chất giai cấp của chúng. Sức tố cáo vì thế mãnh liệt hơn, ý nghĩa khái quát sâu rộng hơn (Sáu
mạng người, Thịt người chết, Tấm giấy một trăm,...)
Nhiều tác phẩm đánh thẳng vào bọn thực dân và những chính sách xảo quyệt của chúng (Sáng,
chị phu mỏ, Đào kéo mới, Tinh thần thể dục).
+ Châm biếm thói dâm ô của quan lại: Vẫn còn trịnh thượng, Chiếc đèn pin, Nạn râu
+ Vạch trần thói ăn cắp ti tiện, bỉ ổi, trắng trợn
Đồng hào có ma, Thằng ăn cướp, Thịt người chết, Ngượng mồm, Gánh khoai lang, Chính sách thân dân,...
Mỗi truyện là 1 thủ đoạn ăn bẩn bỉ ổi của bọn quan lại.
+ Tố cáo tội ác giết người đẫm máu của 1 viên quan: Sáu mạng người
+ Đả kích những cải cách lừa bịp của bọn thống trị: Đào kép mới
+ Lật tẩy chủ trương thể dục thể thao bịp bợm của chính quyền thực dân: Tinh thần thể dục
Ở chặng này, sự đối lập giàu nghèo đã tiến gần đến quan điểm giai cấp. -
Viết về những người nghèo khổ có sự phát triển cả bề rộng và chiều sau: nhân vật
không chỉ có ăn mày, phu xe, gái điếm mà có cả nông dân, công nhân. Thái độ của nhà văn
với họ cũng cảm thông, trân trọng hơn, không chỉ mô tả họ như nạn nhân tiêu biểu mà còn
phát hiện ra bản chất ngoan cường, bất khuất của họ.
VD: Sáng, chị phu mỏ: khẳng định vẻ đẹp tinh thần của nhân vật Sáng: lòng hiếu thảo, ý thức
về nhân phẩm, tinh thần phản kháng mãnh liệt chống lại chủ Tây dâm ác (1938)
Bước đường cùng: anh Pha phang đòn gánh vào đầu Nghị Lại (1938) lOMoAR cPSD| 61457685 -
Tôi cũng không hiểu tại làm sao (I), -
Tôi cũng không hiểu tại làm sao (II)
(hai trong số ít tác phẩm viết về nỗi nhục của người dân nô lệ): thể hiện xung đột trong nội
tâm nhân vật, giữa lòng tự trọng của người có học và thái độ hèn nhát của kẻ mất tự do, thể hiện
cái nhục của người nô lệ: “Cái kiếp chúng mình như thế. Nô lệ thì còn đâu nhân cách mà giữ.
Chúng mình nên đành chịu, chứ biết làm thế nào”, thức tỉnh tinh thần tự trọng của người dân nô lệ.
c. Chặng 1940 1945 -
Có vài truyện ngắn có giá trị, nhưng nhìn chung là chặng đường sa sút. -
Hoàn cảnh XH ngột ngạt khiến nhà văn không còn kiên định lập trường của chủ
nghĩa hiện thực: “Đời viết văn của tôi, cho đến năm 1943, có thể gọi là tàn tạ, sắp chết”.
4.2. Phong cách nghệ thuật nch trong truyện ngắn
Nhân tố tạo nên phong cách nghệ thuật NCH -
Tố chất năng khiếu trào phúng bẩm sinh, tính khôi hài, hay chế giễu mọi người.
Lấy ngày sinh là ngày 1/4 , ngày cho phép nói dối, khai lậu 2 tuổi. -
Môi trường sống: Xuất thân trong gia đình quan lại, biết nhiều câu chuyện chốn
công đường, trại lính. -
Hoàn cảnh hiện thực XH Việt Nam n1930 – 1945
Biểu hiện phong cách NCH
a. Cái nhìn mới mẻ, độc đáo, có tính phát hiện đối với con người và cuộc sống
Nam Cao: cuộc đời là sự chết mòn, dùng sống mòn để nói về những cái chết khi đang sống
Vũ Trọng Phụng: đời là sự vô nghĩa lí, XH khốn nạn, chó đểu.
NCH: đời là 1 sân khấu hài kịch, một tấn trò hề lố lăng, giả dối. •
“Sống dưới chế độ thống trị của thực dân, tôi thấy cái gì cũng là giả dối, lừa bịp,
đáng khôi hài” (Đời viết văn của tôi, NXB Văn học, 1971). •
Có những vụ trộm rất bất ngờ: •
Cái ví ấy của ai: Các ông huyện, ông đốc, bà tham, bà cử sang trọng, lịch sự, nói
tiếng Tây, khiêu vũ tưởng chỉ có say vì nhạc, mê vì tình, nhưng lại xoay ra lần ví của nhau •
Thằng Quýt: tố cáo 1 ông phán ăn cắp tiền của đầy tớ 1 cách đểu giả, độc ác •
Cụ Chánh Bá mất giầy: dựng lên chuyện mất cắp để thực sự ăn cắp 1 đôi giày mới. •
Đồng hào có ma: Đê tiện nhất: quan huyện oai vệ lại đi ăn cắp 1 đồng hào đánh rơi
của người dân nghèo, ăn cắp giữa công đường. •
Li kì hơn, trong Thằng ăn cướp: quan huyện ăn cướp của 1 thằng ăn cướp đến nỗi
nó phải giải nghệ vì lỗ vốn to với quan lớn. • Vô đạo: Xuất giá tòng phu lOMoAR cPSD| 61457685 Báo hiếu: trả nghĩa cha
Báo hiếu: trả nghĩa mẹ
- Thái độ của nhà văn: chế giễu, mỉa mai, châm biếm, đả kích bọn quan lại, bọn tư sản, cường
hào ác bá, thanh niên nam nữ hư hỏng đua đòi theo lối sống Âu hóa,...
Những cái xấu, cái ác của chúng là sựu lăng nhục đối với những giá trị đạo đức, văn hóa cổ truyền của dân tộc.
b. Phát hiện ra những mâu thuẫn, tạo dựng được các tình huống trào phúng độc đáo, oái oăm:
- Truyện cười NCH thường là những truyện rất ngắn, ông ko có khả năng tổ chức “chuỗi
cười dài” kiểu Số đỏ, ông thường tạo ra 1 tình thế có tính hài hước. NCH nhạy bén với các loại
mâu thuẫn, đây là đặc điểm của óc quan sát, trí tưởng tượng, tư duy nghệ thuật của NCH Chỉ ra
1 kiểu mâu thuẫn trào phúng/ xung đột kịch trong 1 truyện ngắn của NCH?
+ Mâu thuẫn giữa nội dung và hình thức, bản chất và hiện tượng (bề ngoài và bên trong, vỏ và ruột) •
Báo hiếu: trả nghĩa cha: vỏ chí hiếu, ruột đại bất hiếu •
Báo hiếu: trả nghĩa mẹ •
Mâu thuẫn giữa cái tâm bất hiếu, bất nghĩa với biểu hiện hết sức hiếu nghĩa của 1 ông quý tử. •
Đồng hào có ma: vỏ oai vệ, ruột lưu manh •
Một tấm gương sáng: vỏ tiết hạnh, ruột dâm ô •
Cái ví ấy của ai? Mất cái ví, Thằng điên: Vỏ lịch sự sang trọng, ruột xỏ xiên bần tiện •
Chính sách thân dân: bề ngoài nhân đức, bên trong bất nhân •
Thế là mợ nó đi Tây: bề ngoài tiết hạnh, bên trong hư hỏng
Loại mâu thuẫn chính, chiếm đại bộ phận trong truyện ngắn trào phúng của NCH
+ Mâu thuẫn giữa mục đích ý nghĩa và bản chất: mục đích ý nghĩa có vẻ tốt đẹp, cao sang
nhưng thực chất lại xấu xa, thảm hại • Tinh thần thể dục •
Mục đích bề ngoài: rất vui, rất thoải mái của việc tổ chức xem bóng đá •
Thực chất: đó là tai họa ghê gớm với đời sống đầu tắt mặt tối của người dân cày,
khiến những kẻ tổ chức phải dùng các biện pháp cưỡng bức hùng hổ nhất
+ Mâu thuẫn giữa hi vọng và thất vọng, niềm tin và nỗi buồn •
Hi vọng càng cao, thất vọng càng lớn • Ngậm cười •
Ngựa người và người ngựa: tình thế oái oăm giữa cô gái điếm và anh phu xe dựa
vào nhau, hi vọng kiếm được chút may mắn cuối cùng của 1 năm bất hạnh, hóa ra càng kéo
nhau đi sâu hơn vào con đường bất hạnh lOMoAR cPSD| 61457685 •
Một tin buồn: mâu thuẫn giữa niềm vui của ông chủ hiệu xe đòn đám ma và nỗi
buồn của những gia đình có người đau ốm.
+ Mâu thuẫn giữa phúc và họa: chiếm số ít, nhân vật được mô tả là người gặp điều may mắn,
hạnh phúc, nhưng thực ra gặp phải tai họa • Hé! Hé! Hé! • Thật là phúc... • Được chuyến khách
+ Mâu thuẫn nguyên nhân – kết quả: nguyên nhân nhỏ, kết quả to, nguyên nhân tầm thường, kết quả nghiêm trọng. •
Thằng ăn cắp: thằng ăn cắp bị đám đông đuổi bắt, đánh đập dã man (kết quả nghiêm
trọng), chỉ vì nó ăn hai xu bún riêu rồi nó chạy, ăn quỵt tiền khiến bả bán bún riêu hô hoan là
“thằng ăn cắp” (nguyên nhân nhỏ) • Thế cho nó chừa • Nỗi lòng ai tỏ • Lại chuyện con mèo •
Các mâu thuẫn, xung đột này tạo nên chất kịch trong truyện ngắn NCH •
Xung đột là chất liệu cơ bản của kịch. Mỗi truyện của Nguyễn Công Hoan là 1 vở
kịch, sự đối lập, mâu thuẫn được dùng như một nguyên tắc để xây dựng mối quan hệ giữa các nhân vật, tình tiết. •
Mâu thuẫn trong Kép Tư Bền: kịch lồng trong kịch:
o xung đột nhân vật: giàu - nghèo, chủ - tớ, xung đột tình huống: phải diễn trò cười cho
thiên hạ trong khi anh ta cần khóc nhất. Mâu thuẫn giữa hoàn cảnh đáng khóc (bố chết)
và tình thế buộc phải cười (đóng vai hề) vì đã trót bán tự do cho kẻ có tiền. o Người
kép: tài hoa, hiếu thảo nhưng nghèo túng
o Người chủ rạp ko xuất hiện mà 1 bạn diễn đưa xấp tiền vào tay Kép Tư Bền có ý nghĩa gì?
c. Thủ pháp cường điệu phóng đại: phóng đại cái xấu xa của con người, tạo nên những bức chân dung biếm họa
- Nghệ thuật trào phúng thường có 2 lối gây cười:
+ Gây cười gián tiếp: trình bày khách quan, bình thản sự việc, để cho người đọc tự rút ra kết
luận trào phúng từ cái vô lí, vô nghĩa, lố bịch, ngu xuẩn của hiện thực được phản ánh (thường thấy
ở phong cách thâm trầm, kín đáo)
+ Gây cười trực tiếp: nhà văn công khai vai trò bố trí sắp xếp của mình, thường dùng lối
phóng đại để làm nổi bật chất hài hước (NCH thuộc loại thứ 2) - Lối cường điệu làm biến chất sự vật:
+ “Hình như trời đã đặt một cái khuôn riêng để đúc nặn các người làm bà lớn. Nên chẳng mấy
chốc, bà phủ đã được đúng kiểu mẫu. Chỉ riêng bộ mặt cũng đã đủ long trọng. Người ta tưởng
chiếc bánh giầy đám cưới, ở giữa đặt một quả chuối ngựm và ngay đầu quả chuối, nằm dài hai múi lOMoAR cPSD| 61457685
cà chua. Rồi khi hai múi cà chua tách ra để theo nhịp với cặp mắt híp, đưa quan ông vào chốn nát
bàn, thì ai cũng phải thấy một cái hố sâu thăm thẳm, sâu như bụng dạ một người đàn bà” (Đàn bà
là giống yếu) +Vật hóa tả người:
Sử dụng nguyên tắc vật hóa, lố bịch hóa, kệch cớm hóa nhưng nhân vật phản diện, tô đậm
phần “con” lấn át phần “người”.
“Vậy thì bà nằm đó. Nhưng thoạt trông, đố ai dám bảo là một người. Nếu người ta chưa nom
rõ cái mặt phị, cái cổ rụt, cái thân nung núc, và bốn chân tay ngắn chùn chùn, thì phải bảo là một
đống hai ba cái chăn bông cuộn lại với nhau, sắp đem cất đi” (Phành phạch).
- Mức độ phóng đại sao cho hợp lí thể hiện tài năng của nhà văn, có những phóng đại chưa
đủ gây cười, có cái phóng đại quá độ mất đi sự chân thực của hình tượng.
NCH trào phúng 1 cách bộc trực, bạo khỏe, gần với nghệ thật dân gian, nhưng nhiều khi để
cho ngời bút vượt quá độ cần thiết, tạo ra đc nhiều trận cười khoái trá.
Nhưng nhiều khi ông vượt quá ngỡng cho phép, do mai chạy theo tiếng cười, chạy theo hình
thức, coi nhẹ nội dung nên tác phẩm mang thiên kiến chủ quan: vấn đề phụ nữ, người nghèo
(Bữa no ... đòn, hai cái bụng, Chiếc quan tài)
e. Nghệ thuật kể chuyện: cốt truyện li lì hấp dẫn, giàu tính kịch.
Đối với việc một nhà văn trào phúng, việc tìm ra mâu thuẫn trào phúng có ý nghĩa quyết định
như việc tìm ra tứ thơ với một nhà thơ. -
NCH tài hoa trong tổ chức cốt truyện, ít chú ý tính cách, tâm lí. Biết cách dẫn dắt
tình tiết sao cho mâu thuẫn trào phúng, tình thế hài hước bật ra ở cuối tác phẩm một cách đột ngột, bất ngờ.
Nhiều khi để cho cốt truện li kì, hấp dẫn nhà văn sẵn sàng hi sinh cả tính hợp lí, chân thực
trong quá trình diễn biến tâm lí nhân vật.
Thủ thuật: đánh lạc hướng người đọc khỏi cái đích thật sự của câu chuyện:
+Dùng một nhân vật đóng vai người trong cuộc hay người chứng kiến, người này thường
thật thà, ngớ ngẩn nhưng lại mang tất cả cái hóm hỉnh, ranh mãnh của nhà văn (Lại chuyện con
mèo, Nỗi lòng ai tỏ, Oằn tà rroằn, Cái lò gạch bí mật, ...) . Oằn tà rroằn: nhân vât Bắc. -
Hai cái bụng: nghệ thuật kể chuyện đặc sắc, mô tả 2 đoạn tách biệt, không liên quan
gì đến nhau, ko một câu so sánh, nhưng đọc xong cả truyện, thấy đối lập, mỉa mai. Phần đầu:
tình cảnh thằng bé ăn mày lang thang, đói rách, bẩn thỉu đến “bất thành nhân dạng”. -
Phần sau: một bà béo quá đến nỗi “cổ rụt, má chảy, bụng xệ”, có hàng dãy nhà cho
thuê với hàng trăm mẫu ruộng. Mắc bệnh “không đói cho”, vì từ hôm đi ăn cỗ cưới con bạn,
bà bị éo ăn những bóng, mực, long tu, nên đến nay bụng bà vẫn cứ bình bịch không đói cho. -
Phản ánh hai hạng người: kẻ ăn không hết, người lần ko ra. -
Câu kết đoạn dưới “bà ấy chỉ thèm ăn được”, làm độc giả liên tưởng đến câu kết
đoạn trên: “nó chỉ thèm được ăn”.
g, Ngôn ngữ đậm chất trào phúng lOMoAR cPSD| 61457685 -
Ngôn ngữ quần chúng đc chọn lọc, nâng cao, đậm chất ca dao, tục ngữ. -
Giản dị, giàu hình ảnh hay so sánh, ví von khiến người đọc có những liên tưởng thú vị.
“Xe thứ bảy, thì một cô xấu nhưng tân thời, mặt phấn má hồng, môi đỏ, rẽ lệch, chiếc áo căng
lườn, trông tức anh ách như một bài thơ thất luật: (Đào kép mới)
“Mĩ thuật nhất là cái ngực đầy như cái ví của nhà tư bản, chứ ko như cái óc của ông Nghị ngay
cả trước ngày họp hội đồng” (Samandji) -
Mỗi loại nhân vật đều có sắc thái ngôn ngữ riêng. -
Câu văn thường mang mâu thuẫn hài hước đối chọi bên trong
+ “Nàng vì quá nhẹ dạ, nên phải nặng lòng, cái khối lo nó đương nằm co ro ở trong bụng.
Chàng lo vì vô tình định đoạt thỏa bụng muốn, bây giờ phải cố tình đẩy cái khong muốn ra” (oằn tà rroằn)
+ “Đối với lời nói ngọt ngào của quan phụ mẫu này, người ta sợ như gà phải cáo” (Chính sách thân dân)
+ “Tí người chết thì mình sống làm sao” (Một tin buồn)
+ “Nỗi vui sướng của thằng bé khốn nạn”, “Sự thành công của anh cu Bản đã làn vợ anh góa chồng” (Ngậm cười) - Cách dùng từ:
+Dùng từ Hán Việt có sắc thái trang trọng và từ thuần Việt có sắc thái thông tục để làm bật ra tếng cười:
“Thì lúc ấy, trên vờ đầm, quan huyện tư pháp là một, cụ lục sự là hai, cậu lính lệ là ba, cùng
trịnh trọng làm việc và cùng trịnh trọng khạc nhổ” (Thịt người chết)
Trịnh trọng (từ Hán Việt)
Khạc nhổ (Từ thuần Việt)
Đã khạc nhổ thì không thể trịnh trọng, sự đối lập này nhằm mỉa mai về cách “làm việc” của quan huyện tư pháp.
+Dùng từ trang trọng để chỉ những việc không trang trọng:
“Cái áo dài vải tây đen nay chỉ còn giữ đc màu nước dưa, thì ở lưng, vai, tay, ngực bướp ra,
mà năm khuy thì về hưu trí bốn. Mỗi chỗ rách là kỉ niệm một tận đòn mê tơi, kết quả của một kỳ
công về sự nghiệp trong đì sống của nó” (Bữa no đòn) -
Nói vòng: nói A nhưng để độc giả thấy rằng điều mình muốn nói ko phải là A (đánh lạc hướng)
+ “Tang vật đó to bằng vành khăn đàn bà, cuộn quanh lù lù trên mặt đất thành một bãi, đầu
hình búp măng, màu vàng, mà đứt đuôi là có hơi ngạt, thôi thối”. (Cái lò gạch bí mật)
Đọc lên, người đọc biết ngay là vật gì, nhưng cách nói vòng gợi liên tưởng thú vị.
+ “Nhất là mũi ông ko thể lúc nào tránh đc mà ko giao thiệp với cái không khí đc êm đềm” (Thầy cáu)
Nếu nói rằng: “Nhất là mũi ông ko thể tránh đc mũi thối” thì chất hài sẽ giảm hẳn. lOMoAR cPSD| 61457685 -
Câu văn thường ngắn gọn, lặp lại cú pháp nhằm mục đích tăng kịch tính.
“Chửi. Kêu. Đấm. Đá. Thụi. Bịch Như mưa vào đầu. Như mưa vào lưng. Như mưa vào chân nó” (Bữa no đòn).
“Xong đâu đấy, cô lận đôi giày mang cá, ôm cái ví đầm, đến trước tú gương mà đứng, cô quay
đằng trước, cô quay đằng sau. Cô đi đi. Cô lại lại, Cô uốn éo. Cô thướt tha. Rồi cô đứng yên. Cô
ngắm. Cô bàn. Cô bình pẩm... Cô khoái lắm!” (Cô Kếu, gái tân thời)
“Nào hoa tại, nào hột vàng, nào tráp đồi mồi, nào ống nhổ sứ, ai trông cũng đoán đc là nhà
giàu” (Báo hiếu: trả nghĩa mẹ) +Lời văn mang tính nhạt
Nhại văn hành chính, công vụ: Tinh tần thể dục, chính sách thân dân
Nhại văn báo chí công luận: Một tấm gương sáng, Ông chủ báo chẳng bằng lòng.
Nhại văn cáo phó: báo hiế: trả nghĩa mẹ
Nhại văn trữ tình lãng mạn: Thế là mợ nó đi tây
Nhại vă trinh thám: Cái lò gạch bí mật
Nhại giọng hát tuồng: Đào kép mới
Nhại giọng tiểu thư: Nỗi lòng ai tỏ Nhại
giọng con buôn thớ lợ: Hé! Hé! Hé!
5. Những đặc trưng/ phong cách/ thế giới nghệ thuật truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công Hoan 1. Gia đình
* Yếu tố gia đình -
Ảnh hưởng từ Bác và bà Nội
+ Bác sưu tầm nhiều chuyện cười tục ngữ, ca dao, ngụ ngôn,…
+ Bà nội thuộc nhiều thơ Đường, truyện Nôm ngâm nga truyền khẩu cho ông -
Cách đặt tên đệm của dòng họ Nguyễn Công Hoan: Đức – Đạo –
Công– Tài – Trường – Kì – Thế - Tộ -
Gia đình khoa bảng – quan lại thất thế ảnh hưởng đến thái độ của ông vs quan lại
* Môi trường quan lại
- Nhìn từ cuộc đời quan lại của bố, lắng nghe những câu chuyện quan trường từ bố và bác
+ Khoa bản (con người học hành – đi thi làm quan) làm quan với ý niệm
rất rõ về bổn phận của vị quan thanh liêm (trên giúp vua, dưới lOMoAR cPSD| 61457685 chăm dân)
+ Sang thời Pháp thuộc nhiều ông quan theo chân thực dân Pháp làm
quan để kiếm cháp, hà hiếp nhân dân
+ Gia đình Nguyễn Công Hoan làm quan thanh liêm, theo đạo nhà Nho
bất mãn với tầng lớp quan lại mới NCH được nghe câu chuyện về những
viên quan suy đồi từ bố và bác mang lại thái độ phẫn nộ + đem lại vốn sống cho ông
- Lắng nghe những câu chuyện từ lính lệ. 2. Cá tính bẩm -
Cá tính: hài hước, nghịch ngợm, ranh mãnh sinh
+ Ngày sinh tháng đẻ khai gian là ¼ - ngày nói dối -
Trường liên tưởng lố bịch, đáng cười nhìn cái gì cũng khiến ông bật cười -
Thích và sưu tầm hài kịch Molie gặp gỡ giữa truyện cười dân
gian và hài kịch cổ điển 3. Cuộc đời
- Cuộc đời dạy học long đong đi đến nhiều vùng đất tiếp xúc với nhiều dạy học
loại người, chứng kiến nhiều cảnh đời Thời kì
- Thời kì nở rộ của tiếng cười
+ Trước đó, hệ thống VH viết VN là nền văn học đạo mạn không có tiếng
cười (trước đó tiếng cười chỉ có ở VHDG) 4. Dân chủ -
- Bên cạnh con người hài hước và ranh mãnh ấy mà còn là con người rất Báo chí
nhạy cảm với những bất hạnh của đồng loại, đặc biệt là những con người dưới đáy xã hội
“Đời viết văn của tôi” có những câu chuyện k được viết ra
Tăng cước kéo xe tay: từ 5 xu lên 1 hào Hạ cước
Người kéo xe tay mất việc NCH chứng kiến cảnh 1 gia tàu điện
đình phải chuyển sang làm bán dâm (ông chồng là người từ 1 hào
đi kiếm khách cho người vợ: người vợ trang điểm và đem xuống 5
con đi gửi và người chồng đi tìm khách về cho vợ) có 2 xu
câu chuyện: (1) người khách ra chê vợ mình; (2) người
khách vui vẻ cùng vợ NCH k đủ nhẫn tâm để viết câu
chuyện nhà văn k phải thích viết gì thì viết mà họ luôn
có giới hạn. Trong mỗi nhà văn luôn có những ranh giới,
NCH là 1 con người như thế, trong trường hợp này,
NCH k đủ can đảm để viết lại câu chuyện đó
1 con người rất nhạy cảm
6. Những đặc trưng/ phong cách/ thế giới nghệ thuật truyện ngắn trào phúng của lOMoAR cPSD| 61457685
Nguyễn Công Hoan (phần IV.2)
Cái nhìn: sân khấu HÀI KỊCH / BI KỊCH +
Phát hiện mâu thuẫn trào phúng độc đáo – ngắn TẤN TRÒ HỀ - Phát hiện mâu thuẫn
Thủ pháp cường điều – phóng đại: cái xấu Nghệ thuật dựng truyện linh hoạt li kì – kịch biến hóa tính
Ngôn ngữ đậm chất trào phúng
7. Những nguyên tắc của kịch cổ điển và những ảnh hưởng của nó đến truyện ngắn Nguyễn Công Hoan.
- T1: Chỉ có 1 hành động kịch nên truyện của NCH ngắn gọn. chỉ xoay quanh 1 tình huống duynhất - T2: LUẬT TAM DUY NHẤT:
+ một nguyên tắc biên kịch của chủ nghĩa cổ điển Pháp, quy định một vở kịch phải được xây dựng
và trình bày trong ba điều kiện duy nhất sau đây: 1) Duy nhất về địa điểm: hành động kịch xảy
ra từ đầu đến cuối chỉ được giới hạn trong một không gian cụ thể, nhất định. 2) Duy nhất về thời
gian: cốt truyện kịch, hành động kịch chỉ được kéo dài trong 24 giờ, gói trọn trong một ngày một
đêm. 3) Duy nhất về hành động: hành động kịch phải tập trung vào một hành động nhất quán từ
đầu đến cuối vở kịch, theo một tư tưởng, chủ đề nhất định.
- T3: Truyện của NCH rất dễ đc chuyển thể thành sân khấu
Truyện của NCH rất ngắn gọn, NV của ông ta thiên về hành Truyện của NCH rất dễ
chỉ xoay quanh 1 tình huống động, ngôn ngữ thoại. Còn nội chuyển thể thành sân khấu duyn nhất
tâm nhân vật k đc khai thác
II. Quan điểm nhìn nhận hiện thực của NCH
1. Quan điểm giàu nghèo và quan điểm giai cấp
1.1. Quan điểm giàu nghèo
Nhìn hiện thực từ quan điểm giàu nghèo, hầu hết những truyện dài, truyện ngắn xoay quanh sự đối
chọi giữa người giàu và người nghèo. Người giàu là những kẻ ăn cắp.
Quan điểm của NCH về giàu nghèo: người nghèo luôn đáng thương, ngả về phía người nghèo
1.2. Quan điểm giai cấp
Ông đả kịch thực dân, quan lại, cường hào, lính tráng, cậy quyền thế ức hiếp, tham lam vô độ, ăn bẩn, mánh khóe
Quan điểm giai cấp: sự đấu tranh giai cấp
Quan điểm giàu nghèo mài sắc thành quan điểm giai cấp: công nhân, nông dân không phải
chỉ cam chịu, còn đứng lên phản kháng
Nhiều khi trong vài trường hợp, NCH phóng đại sự nhếch nhác của người nghèo, khiến họ kì quái, ghê tởm.
Con sen, thằng quýt = người đi ở lOMoAR cPSD| 61457685
2. Quan điểm luân lí, đạo đức
Coi trọng vấn đề đạo đức trong sáng tác, bảo vệ truyền thống đạo đức của dân tộc; Căm ghét,
khinh bỉ xã hội thực dân, những nhố nhăng, lai căng Âu Á, nhìn ra mặt trái của xã hội Âu hóa, đả
kích lối sống phóng đãng của thanh niên
Tư tưởng phong kiến bảo thủ và cái nhìn thành kiến, ác cảm với phụ nữ: Xung đột già trẻ,
nam nữ, vợ cả vợ lẽ thường đứng về phía người già, nam, vợ lẽ (người đến sau).
III. 4 truyện ngắn 1. NGƯỜI NGỰA NGỰA NGƯỜI 1.1 Văn bản
Đố ai biết anh phu xe lững thững dắt cái xe không ở đằng ngã tư đầu phố kia, đi như thế từ bao giờ đấy?
Trông anh ấy có vẻ "đói" khách lắm. Có lẽ thế thật. Vì ai lại tám giờ tối ba mươi Tết rồi, còn
lang thang phố nọ sang phố kia thế? Mà hàng phố, nhà nào nhà nấy đóng cửa cả rồi, còn mấy ai ra
ngoài đường làm gì, mà còn hòng một "cuốc" tất niên?
Ấy thế! Trả xe cho xong quách, về nhà hú hí với vợ con có hơn không, tội gì! Vợ anh, con
anh, đương chờ anh ở cửa đó nọ. Năm hết tết đến rồi. Còn mấy giờ đồng hồ nữa thôi, chứ còn lâu la gì?
Ấy, giá trong túi có nặng cái đồng tiền, thì chả phải bảo, anh ta cũng về nhà cho xong quách,
việc gì còn phải vơ vẩn vẩn vơ như thế này! Khốn nhưng anh ấy vừa mới ốm dậy, ốm một trận
tưởng mười mươi chết, thành ra không những mất một dịp kiếm tiền vào lúc cuối năm, mà bao
nhiêu tiền dành dụm trong bấy lâu, sạch sành sanh cả.
Bởi vậy hôm nay, anh ấy cố vay được cái vốn để đi mua xe, kiếm bữa gạo để ăn tết.
Quái, không hiểu cái ngày nay là ngày gì, mà từ chiều đến bây giờ, anh ấy mới được có hai
hào chỉ! Ban chiều, khách áo gấm, áo nhung, đi nhan nhản ở đường, mà mời mỏi miệng, cũng
không có một ai lên xe, nữa là bây giờ! Bực nhất là thỉnh thoảng lại lẹt đẹt tràng pháo nổ, làm cho
anh ấy nóng cả ruột gan. Nghĩ đến cái cảnh tết nhà giàu mà thèm rỏ dãi. Họ quăng tiền đi về dịp
tết, thi nhau tiền trăm bạc nghìn để xa phí vô ích, mà mình thì lo méo mặt mấy hào bạc gạo ngày mai không xong.
Thỉnh thoảng, anh ta dỏng tai quay cổ, xem có ai gọi ở đằng xa không. Thì chỉ thấy đánh đẹt,
lòe một cái ở giữa đường, làm cho anh ta giật mình đánh thót. Giật mình, rồi lại thở dài, ngán cho
cái đời bấp bênh, lắm lúc muốn quẳng phăng cái xe đi, làm nghề khác. Nhưng bỏ nghề này thì xoay ra nghề gì?
Anh ấy đi lững thững như thế, qua Hàng Trống, quặt ra phố Nhà Thờ, xuyên thẳng ra lối nhà
thương Phủ Doãn, thì bỗng đứng dừng, quay cổ lại nhìn. - Xe! - Đây!
Ba chân, bốn cẳng, anh ấy chạy vội lại phía có người gọi, hạ hai càng xuống. - Bà về đâu?
Một bà trạc độ ngót ba mươi tuổi, mình mặc xa tanh nâu, đầu quàng khăn bịt trắng, bỏ giọt
xuống tận bụng, đứng ở đầu hè: lOMoAR cPSD| 61457685 - Anh có đi giờ không? - Bà đi mấy giờ? - Một giờ. - Xin bà sáu hào.
- Sao anh lấy đắt thế? Hai hào!
- Thưa bà, xe ngày tết vẫn thế, vả lại bây giờ còn ai kéo nữa, mà bà giả rẻ thế. Con
kéo mộtchuyến, rồi cũng đi giả xe, về ăn tết đây!
Bà khách thấy anh xe nói ra ý không thiết kéo, nên quay lưng đi. - Này, bà giả bao nhiêu?
- Hai hào là đắt rồi, ngày dưng chỉ có hào rưỡi một giờ thôi.
- Thôi, năm hào rưỡi, bà có đi, không thì thôi. - Thôi.
Bà khách lại quay lưng đi, lần này thì đi thẳng.
Anh xe vắt chân chéo kheo, chỏng càng lên trời mà nhìn theo mãi một lúc. Anh đoán có lẽ
người này cũng là khách kiết, nên mới trả rẻ quá như vậy. Thôi thì người già thì ta non. Anh chạy theo và gọi:
- Này, mời bà lên xe!... Hai... hào..! Xin bà hai hào rưỡi.
Bà khách vừa bước chân lên sàn xe, thấy anh xe vòi hai hào rưỡi, vội nhảy tọt ngay xuống đất: - Không hai hào thì thôi.
- Thôi, đây, mời bà lên.
Bà khách vạch cổ tay áo, xem đồng hồ:
- Chín giờ năm nhé, nhưng kể là chín giờ đúng cũng được.
Anh xe kéo giờ, nên cũng chỉ chạy "dưỡng lão" thôi, đít nhổm mạnh, mà bước ngắn. Vì thì
giờ là tiền bạc, chậm phút nào là tiền phút ấy.
Trước anh xe tưởng bà khách đi có việc gì, cho nên còn chạy. Sau thấy bà cứ trỏ vơ vẩn hết
phố nọ sang phố kia, mà chả đỗ ở phố nào cả, thì mới đoán có lẽ là cánh "ăn sương" chi đây. Anh
bèn đi bước một. Nhiều lúc muốn hỏi thực, nếu có phải giăng há thì mình giới thiệu cho một món sộp đáo để.
Nhưng lỡ không phải thì họ mắng cho và không trả tiền thì khổ.
Qua chợ Đồng Xuân, vòng về Hàng Cót, lại rẽ sang Cửa Đông, bà khách bỗng hỏi:
- Anh có bằng lòng kéo tôi giờ nữa không?
- Vâng, nhưng bà có cho cháu hai hào thì cháu kéo hầu bà giờ nữa. - Được.
- À, anh có hào lẻ không, cho tôi vay mấy hào, chốc nữa tôi giả cả đồng cho tiện.
Anh xe móc bao phục, lấy ra hai hào, đưa cho bà khách. Bà khách vào hiệu, mua gói thuốc
lá, bao diêm, còn tiền mua cả hạt dưa để cắn. lOMoAR cPSD| 61457685
Anh xe nhấp nhổm chạy rảo cẳng vài bước, rồi lại tiến bước như trước. Một lúc, anh mới
đánh bạo hỏi một câu rõ khôn: - Bà tìm ai, thưa bà? - Tôi tìm người quen.
- Người quen bà ở phố nào? - Anh cứ kéo đi.
Anh xe lại cứ kéo như thế, ra Ga, vòng về đường Sinh Từ, quặt về Hàng Bông, Hàng Mành,
Hàng Vải Thâm, vân vân. Mãi mãi, mà người khách vẫn không tìm thấy ai quen.
- Thưa bà bây giờ mấy giờ rồi?
- Mười một giờ kém năm.
- Con kéo hết giờ này, xin bà cho tiền để con đi đón khách ở ga về.
- Anh có bằng lòng kéo tôi giờ nữa không?
- Thưa bà, con đón khách ở ga hay ở nhà chớp bóng thì một cuốc cũng được hai hào chỉ.
- Anh đã chắc có khách chưa? Hay là mật ít ruồi nhiều, rồi dắt xe về không. Anh lại
cố kéotôi giờ nữa, đi thủng thỉnh thế này mà được tiền, chả hơn chạy mửa mật ra ư?
Anh xe nghe bùi tai, lại bằng lòng kéo. Hàng phố càng thấy thưa người đi. Các cửa đóng kín
mít. Đi một lúc, qua Ngõ Trạm, vòng sang Hàng Điếu, rồi rẽ sang Hàng Bồ. Lúc ấy, bốn bên im
lặng như tờ, chỉ thấy tiếng lách tách bà khách cắn hạt dưa thôi, thì bỗng một tràng pháo nổ, đì đẹt pháo giao thừa.
- Mấy giờ rồi, thưa bà?
- Phải gió nhà nào bây giờ đã đốt pháo giao thừa! Mới có mười hai giờ kém mười lăm.
Anh xe mới nghĩ: "Mười lăm phút nữa, mình sẽ có sáu hào. Sáu hào với hai hào là tám. Thế
nào ta cũng nài thêm bà ấy mở hàng cho một hào nữa là chín. Chín hào! Mở hàng ngay từ lúc năm
mới vừa đến. Thật là may! Mới năm mới đã phát tài! Thôi, sang năm tất là làm ăn bằng mười bằng trăm năm nay".
Rồi anh nghĩ đến vợ con anh, mà phấn chấn trong lòng, như có cái sức gì nó xúi giục anh
quên khổ để vui lòng làm việc vậy.
"Sáng mai, kéo chuyến khách qua ga, xong rồi, ta đánh bát phở tái, rồi mua cho con cái bánh
ga tô cho nó mừng. Vợ ta nghe thấy trong túi ta có tiền, thì chắc hớn hở, thấy ta làm lụng vất vả
để kiếm tiền nuôi cả nhà, tất là thương ta lắm. Nhưng ta sẽ làm ra dáng không mệt nhọc, để vợ
chồng con cái ăn tết với nhau cho hể hả".
Anh vừa nghĩ thế, vừa kéo về phía nhà thương Phủ Doãn. Tới chỗ khi nẫy, anh dừng xe lại, nói:
- Bây giờ có lẽ mười hai giờ, xin bà cho cháu tiền.
Bà khách có ý luống cuống, nói:
- Chết! Anh hỏi tiền tôi bây giờ à? Anh chịu khó kéo tôi một giờ nữa đi. lOMoAR cPSD| 61457685
- Thôi khuya rồi, cháu phải về nhà.
- Này, chả nói giấu gì anh, tôi cũng đi kiếm khách từ tối đến giờ. Có anh biết đấy. Có
gặpai hỏi han gì đâu. Tôi định nếu có khách thì hỏi vay tiền trước để giả anh. Nhưng chẳng
may gặp phải cái tối xúi quẩy thế này, thì tôi biết làm thế nào?
- Thế cô đi xe tôi từ chín giờ, cô không giả tiền tôi à?
- Bây giờ thì tôi biết làm thế nào? - Tôi kéo cô lên Cẩm.
- Lên Cẩm thì tôi cũng đành lên với anh, chứ tôi biết làm thế nào!
- Thế mà cũng vác mặt mặc cả xe giờ, lại còn vay tiền người ta mà mua thuốc lá với hạtdưa!
- Nhà tôi ở ngay đầu ngõ Hàng Bún, khi nào anh đi qua, thì tôi giả tiền anh chứ gì!
- Chứ gì! Một trăm ngõ Hàng Bún, ai biết ngõ nào mà tìm!
- Tôi không có tiền đâu, chả tin anh khám mà xem.
- Tôi không khám, cô giả tiền tôi cho tôi về!
- Đây, hay là phu la, áo, đồng hồ đây, anh muốn lấy thức gì thì lấy.
- Tôi lấy để làm ma mẹ tôi à?
- Thôi này, đừng cáu làm gì. Tôi bảo, cảnh tôi cũng như cảnh anh, cũng là đi kiếm
kháchcả. Nhỡ phải một tối thế này, thì chịu vậy, chứ biết làm thế nào?
- Thế sao cô không bảo thực tôi từ trước, để tôi kéo cô qua các nhà săm để hỏi, cô còn sĩdiện mãi.
- Nào ai biết cơ sự nó ra thế này. Thôi, này, tôi nói thế này thì anh nghe. Nếu bây giờ
anhbỏ tôi ở đây, thì tôi không có tiền giả anh, sự ấy đã đành rồi, nhưng mà anh thiệt. Vậy
anh cố kéo tôi nữa, may tôi có khách thì tôi có tiền, mà anh cũng không phải phàn nàn nữa.
- Tôi thật là nợ nần gì cô kiếp trước hay sao, mà nay tôi khổ với cô như thế này. Đầu
nămmà đã rấp! Rắc rối!
- Anh đừng nói thế, ai muốn thế này làm gì!
Bất đắc dĩ, con ngựa người lại phải kéo con người ngựa vậy.
Nhưng lần này thì thật là không buồn bước lên nữa. Chán quá!
Rõ số đâu mà số ăn mày thế này!
Anh xe vừa đi, vừa thở dài. Khách cũng vừa đi, vừa thở dài. Càng đi, càng thấy phố vắng
tanh, vắng ngắt. Thỉnh thoảng mới gặp một người tùm hum cái áo ba đờ xuy, mà đi có ý vội vàng.
Buồn thay! Đàn muỗi vo vo bay, đùa nhau xung quanh ngọn đèn. Lá cây sột soạt rụng, đuổi
nhau ở trên đường nhựa.
Anh xe dắt xe đi diễu qua các cửa nhà săm để xin việc cho cô ả. Nhưng lúc ấy đã hai giờ
sáng rồi cho nên ế! May sao, đến đầu phố Hàng Gai, thì gặp một người ăn mặc ra dáng ăn chơi,
đang tất tả cúi đầu đi. Cô ả dử mồi, đánh liều gọi lại, vờ vĩnh hỏi thăm đường. Nhưng khốn nạn,
anh chàng này lắc đầu, và cứ rảo cẳng bước đều: lOMoAR cPSD| 61457685
- Tôi không biết, cô hỏi thăm anh xe này cũng được. Tôi còn vội đi mời đốc tờ cho vợ tôiốm đây!
Hai cái thở dài thất vọng theo đuôi nhau, rồi không ai nói thêm một lời nào. Anh xe lại từ từ tiến bước.
- Cô làm thế này thì tôi chết mất!
- Thôi anh bằng lòng vậy.
- ấy cũng may cho cô, vớ vẩn mãi ở ngoài phố thế này mà gặp mật thám hoặc đội con gáithì khốn!
- Mật thám tôi cũng chả sợ, đội con gái tôi cũng chả cần, vì tôi có "ba tăng".
Đi một lúc lâu, chẳng gặp một ai cả, cô ả bảo anh xe:
- Này, anh đỗ xuống tôi bảo. Tôi nói thực với anh nhé. Bây giờ đã về sáng rồi, chắc
anhkéo tôi mãi cũng đến thế mà thôi. Tôi thì thực không có tiền giả anh đâu. Tôi gán cho
anh khăn, áo, đồng hồ mà anh không lấy, thì tôi chả biết nghĩ thế nào cho phải cả. Thôi thì
anh kéo tôi ra chỗ kín, vắng, anh muốn bắt tôi gì tôi xin chịu.
- Tôi bắt gì cô mà tôi bắt!
Cô ả nắm lấy tay, vỗ vào vai anh xe, nhăn nhở cười:
- Anh này thực thà quá, nghĩa là chỉ có anh với tôi thôi, thì người tôi đây, anh muốn
làm gìtôi cũng bằng lòng.
- ối thôi! Tôi lạy cô. Nhỡ cô đổ bệnh cho tôi thì tôi bỏ mẹ tôi.
- Không sợ, tôi mới khám bệnh hôm qua.
- Thôi, tôi chắp tay tôi van cô, cô có thương tôi thì mời cô xuống xe cho tôi về, và xin côtiền xe!
- Thế thì anh cứ kéo tôi về nhà tôi, xem có đồ đạc gì đáng giá, thì anh cứ việc lấy.
Anh xe bụng bảo dạ, thôi thì cầm bằng như mất tất cả buổi đêm nay là cùng. Nhưng ta chịu
khó kéo nó về, may xem có cái gì thì ta lấy, còn hơn về không. Thật là đò nát đụng nhau. - Nhà cô ở đâu? - Trên Hàng Bún.
Anh xe vừa kéo, vừa lẩm bẩm nói một mình:
- Không có tiền, cũng leo lên xe mà ngồi, chỉ sĩ diện hão thôi, lại còn tí tách hạt dưa,
vớiphì phèo thuốc lá mà không biết ngượng!
Cô ả đành chịu mặt dày cho anh xe mắng một ít câu cho bõ hờn, cứ ngồi im như phỗng.
Lúc ấy, gió bấc thổi căm căm, buốt đến tận xương. Nhà hàng phố đã thấy có người dậy.
Nhưng họ dậy có phải để đi tìm gái đâu!
Đến cửa một nhà săm, cô ả bảo:
- Anh hãy ghé vào đây một tý cho tôi hỏi vay tiền người này xem có được không.
Anh xe hơi có hy vọng, đỗ lại để cho cô ả vào. Rồi vì mệt lử, anh ngồi phịch xuống sân xe,
tựa lưng vào thành, vừa chờ, vừa nghĩ vơ nghĩ vẩn. lOMoAR cPSD| 61457685
Một lúc lâu, một tràng pháo nổ vang trời, làm anh giật mình. Anh sực nghĩ đến cô ả, không
biết cô ta vào đấy làm gì mà lâu thế. Hay có lẽ đã có món khách nào chăng. Nhưng thế nào cũng
phải trả tiền cho mình về đã chứ, lại bắt mình chờ đến sáng hay sao? Anh gõ cửa gọi. Người bồi săm ra.
- Ông ơi, tôi hỏi thăm ông, người con gái quấn khăn quàng trắng vào đây ban nãy, nằm ởbuồng nào?
- Chả có buồng nào có khách cả.
- Thế người con gái ấy đâu?
- Ra ngay từ bao giờ rồi, còn đâu mà hỏi?
- Thôi chết tôi rồi, ra cửa nào?
Người bồi lấy ngón tay cái, hất ngang về phía cổng sau. Anh xe choáng người như nghe tiếng
sét đánh. Anh bàng hoàng như chợt tỉnh giấc chiêm bao.
Người bồi săm nói xẵng:
- Đi cho người ta đóng cửa. Ai bảo anh xông nhà cho tôi? Năm mới đừng bí beng! - Ông ơi!...
Người bồi giúi vai anh xe, đẩy ra, rồi đóng ập cửa lại. Anh xe nghiến răng, cau mặt, lủi thủi
ra hè, cầm cái đệm quật mạnh vào hòm đánh thình một cái! Anh móc túi lấy bao diêm đốt vía, rồi
khoèo bàn chân, co cái càng lên, đưa tay ra đỡ, thủng thẳng dắt xe đi.
Tiếng pháo chào xuân nối đuôi nhau đùng đùng toạch toạch... 11-2-1931 1.2. Tóm tắt
Mở đầu truyện là hình ảnh lam lũ của anh phu xe vào đêm ba mươi Tết, khi tất cả mọi người
đều đang quây quần bên gia đình thì anh vẫn phải vác xe đi tìm khách. Vì mới trải qua một trận
ốm nặng, tiền của dành dụm bấy lâu đều mất hết, nên bây giờ anh phải làm việc chăm chỉ gấp đôi
để lo cho vợ con có cơm ăn, áo mặc.“Ấy, giá trong túi có nặng cái đồng tiền, thì chả phải bảo, anh
ta cũng về nhà cho xong quách, việc gì còn phải vơ vẩn vẩn vơ như thế này! Khốn nhưng anh ấy
vừa mới ốm dậy, ốm một trận tưởng mười mươi chết, thành ra không những mất một dịp kiếm tiền
vào lúc cuối năm, mà bao nhiêu tiền dành dụm trong bấy lâu, sạch sành sanh cả.”
Dù đã cố vay vốn thuê xe để kéo ngày ba mươi nhưng may mắn lại không đến với anh, khi
vất vả mời khách cả ngày cũng chỉ kiếm được có được hai hào. Chính vào lúc đang lúc tuyệt vọng
thì anh phu xe nghe có người gọi. Vị khách của anh là một người phụ nữ ăn mặc khá sang trọng
nhưng lại có phần bủn xỉn, sau một hồi kì kèo giá cả, phu xe quyết định chở bà khách này với giá
hai hào. Dù giá cuốc xe không cao nhưng trong hoàn cảnh túng quẫn, anh nghĩ chỉ cần có tiền
mang về cho vợ con và khiến họ vui mừng là đủ. Suy nghĩ đó không chỉ tiếp thêm động lực mà
còn giúp anh phu xe vơi đi phần nào nỗi vất vả từ chặng đường mưu sinh phía trước. “Sáng mai,
kéo chuyến khách qua ga, xong rồi, ta đánh bát phở tái, rồi mua cho con cái bánh ga tô cho nó
mừng. Vợ ta nghe thấy trong túi ta có tiền, thì chắc hớn hở, thấy ta làm lụng vất vả để kiếm tiền lOMoAR cPSD| 61457685
nuôi cả nhà, tất là thương ta lắm. Nhưng ta sẽ làm ra dáng không mệt nhọc, để vợ chồng con cái
ăn Tết với nhau cho hể hả.”
Những tưởng đã có thể về nhà cùng số tiền nhận được từ công sức của mình thì anh ngậm
ngùi phát hiện vị khách kia chỉ là một cô gái bán hoa đang tìm khách, không có tiền trong túi.
Cô gái nói với anh rằng hãy kéo cô ấy đi tiếp, nếu tìm được khách thì sẽ trả tiền cho anh
ngay. Một thoáng thất vọng hiện lên trong mắt anh nhưng vì đã lỡ giờ nên anh quyết định ôm tia
hy vọng cuối cùng và kéo cô gái đó đến tận sáng. Cái kết lấp lửng kèm theo tiếng pháo hoa cùng
dáng đi lủi thủi của anh đã khiến độc giả ngậm ngùi và xót thương cho số phận của người phu xe
nghèo.“Anh xe nghiến răng, cau mặt, lủi thủi ra hè, cầm cái đệm quật mạnh vào hòm đánh thình
một cái! Anh móc túi lấy bao diêm đốt vía, rồi khoèo bàn chân, co cái càng lên, đưa tay ra đỡ,
thủng thẳng dắt xe đi./ Tiếng pháo chào xuân nối đuôi nhau đùng đùng, toạch toạch…”
Lấy bối cảnh xã hội Việt Nam thời thuộc địa Pháp, Nguyễn Công Hoan đã vẽ ra sự đối lập
xoay quanh anh phu xe và cô gái bán hoa.
Tuy đều sống dưới đáy xã hội nhưng cách mà cả hai mưu sinh lại không giống nhau, nếu anh
phu xe đổi sức lao động của mình để có được những đồng tiền chân chính thì vị khách trên xe lại
vô cùng lười biếng, không chịu lao động. 1.3 Phân tích
- Mâu thuẫn giữa hi vọng và thất vọng, niềm vui và nỗi buồn: tình thế oái oăm giữa
cô gái điếm và anh phu xe dựa vào nhau, hi vọng kiếm được chút may mắn cuối cùng của
một năm bất hạnh, hóa ra càng kéo nhau đi sâu hơn vào con đường bất hạnh. - Hành động nhân vật:
+ Một gái làm tiền vs cách ăn mặc sang trọng mà phải nhảy tọt xuống đất khi anh phu xe đòi
2 hào rưỡi. Và lộ rõ chân tướng thì đã phải lừa anh phu xe trốn mất để lại sự choáng váng và thất
vọng cho con “ngựa người” đó Thương xót cho sự bất hạnh của người phu xe bất hạnh đã bị lừa
mất tiền công và hai hào. - Giọng điệu:
+ Anh phu xe: giọng điệu khẩn khoản của anh phu xe rách rưới khi mời chào khách lên xe:
“- Thưa bà, xe ngày tết vẫn thế, vả lại bây giờ còn ai kéo nữa, mà bà giả rẻ thế. Con kéo một
chuyến, rồi cũng đi giả xe, về ăn tết đây!”. Nhưng đến khi khách hàng k có tiền trả thì giọng điệu
anh ấy thay đổi, thay vì những lời thưa gửi nhỏ nhẹ lúc trước thì giờ trở lên gay gắt, trống không:
“- Không có tiền, cũng leo lên xe mà ngồi, chỉ sĩ diện hão thôi, lại còn tí tách hạt dưa, với phì phèo
thuốc lá mà không biết ngượng!”
+ Cô gái điếm: khi gọi xe thì lên giọng bà chủ: “- Hai hào là đắt rồi, ngày dưng chỉ có hào
rưỡi một giờ thôi”. Cho đến khi không có tiền trả bị ép vào thế đường cùng, thì giọng điệu của cô
gái điếm lại chau xót, khốn khó: “- Anh đừng nói thế, ai muốn thế này làm gì!”
Cả 2 NV đều nhẫn nhịn, cam chịu vì muốn kiếm thêm tiền để nuôi thân, tồn tại, bất chấp
gian khổ, dối trá; cả 2 trong tình cảnh này đều rất đáng thương lOMoAR cPSD| 61457685 2. Kép Tư Bền 2.1 Văn bản
Các ngài thích xem hát bội, hẳn chẳng ai là không biết tên kép Tư Bền. ấy anh ta chỉ nổi
tiếng về cái tài bông lơn, lắm lúc ra sân khấu, chẳng cần nói một câu khôi hài nào, nhưng chỉ nhìn
một cái điệu bộ cỏn con của anh ta, các khán quan cũng đủ phải ôm bụng mà cười, vỗ tay đôm đốp.
Anh ở Sài Gòn ra hát ở Hà Nội đã ba năm nay. Vì anh có tài riêng mà tính lại thích tự do nên
anh chẳng chịu làm chuyên cho một rạp nào. Nhưng hễ rạp nào khéo dùng anh một độ, là cũng
đông khách. Cho nên, tối nào bà con Hà thành đọc chương trình hay xem báo, thấy kép Tư Bền
đóng vai giễu, thì cũng nô nức đi xem. Lắm người đến chậm, phải mang tiền về không và phàn
nàn rằng rạp chật quá!
Cho nên những tối hát có anh giúp, thì các hý viện đều trưng lên là buổi hát đặc biệt.
Nhưng đã hơn một tháng nay, anh ta không diễn ở đâu cả. Vì đã hơn một tháng nay, cha
anh ta ốm. Đã hơn một tháng nay, lúc nào trong cái gác tối om ở gian nhà ngay đầu ngõ Sầm
Công, cái tiếng rền rĩ của ông cụ cũng hoà lẫn với tiếng rầu rĩ của siêu thuốc mà làm anh Tư
Bền phải rầu gan nát ruột, chẳng thiết đến sự làm ăn. Bệnh cha anh càng ngày càng nặng,
thuốc thang chữa chạy, nào anh có quản ngại gì. Nhưng cái số tiền để dành của một vai kép, dần
dần nó cũng đi bài tẩu mã, đến nỗi anh phải đi vay trước của các ông chủ rạp hát ít nhiều.
Một hôm, ông chủ rạp Kịch trường đến nhà anh ta chơi. Sau một vài câu hỏi thăm chiếu
lệ, ông ta nghiêm sắc mặt, nhắc đến món nợ:
- Sao? Cái số tiền đó, cậu đã có để trả tôi chưa?
- Thưa ngài, xin ngài hãy thư cho ít bữa, khinào thư thả, tôi sẽ đi làm và nộp sau. Ông chủ bĩu môi, nói:
-Thôi, biết bao lần rồi! Cậu không trả, tôi sẽ đem ra toà đó.
Anh Tư Bền cười lạt cho xong chuyện, nhưng lại thấy ông chủ ngọt ngào dỗ:
-Bấy lâu cậu nghỉ hát ở các rạp, khách nhắc nhở luôn đấy. Vậy cậu liệu liệu mà đi làm ăn chứ?
-Vâng, tôi vẫn định thế...
- Tôi mới nhờ một nhà văn sĩ đại danh soạn cho một vở hài kịch theo lối tuồng cổ. Vậy cậu
ra giúp tôi vai chính. Vì phi cậu, không còn ai xứng đáng.
-Diễn vở mới thì phải học, thưa ngài?
-Phải, phải học và tập diễn trong độ nửa tháng.
-Trong nửa tháng! Chà!Anh Tư Bền nhắc lại ba tiếng đó, như trong óc anh lẩn vẩn nghĩ ngợi
biết bao nhiêu điều: Trong nửa tháng, trong mười lăm hôm trời, mỗi ngày anh phải xa cách cha
anh mấy tiếng đồng hồ để đi học diễn. Cha anh ốm.
Trong khi anh vắng nhà, ai trông nom săn sóc thay anh? Nghĩ vậy anh đáp phắt:
-Thôi, xin lỗi ông, tôi bận quá mà! Rồi an h trỏ vào màn và nói tiếp:
-Cha tôi yếu, tôi phải ở nhà.Lúc ấy, ở trên giường bệnh, ông cụ ho sù sụ, rồi thò
tay ra cái ghế đẩu kê ở cạnh, để với lấy cái ống nhổ. Nhưng lật bật cầm
không vững, cụ đánh rơi ngay xuống sàn gác, đờm dãi nổi lềnh bềnh. Anh Tư Bền giật mình, chạy lại đỡ cha: