



















Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÀI TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MARX - LENIN Tên đề tài:
TÌM HIỂU VỀ CẠNH TRANH TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Giáo viên hướng dẫn: Lớp:
Nhóm sinh viên thực hiện: MỤC LỤC
MỤC LỤC. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .1
LỜI MỞ ĐẦU. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .1
CHƯƠNG I: QUY LUẬT CẠNH TRANH. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .3
1.1 Khái niệm. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 3
1.2 Nội dung quy luật. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 3
1.3 Tác động tích cực và tiêu cực của cạnh tranh. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 3
CHƯƠNG II: CẠNH TRANH TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. . . . . . . . . . 5
2.1 Kinh tế thị trường là gì?. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 5
2.2 Vai trò của cạnh tranh đối với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. . . . . . . .5
2.3 Biểu hiện và tác động của cạnh tranh trong trạng thái độc quyền. . . . . . . . . . . . 8
2.3.1 Độc quyền là gì?. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 8
2.3.2 Biểu hiện của cạnh tranh trong trạng thái độc quyền. . . . . . . . . . . . . . . . . . 8
2.3.3 Ảnh hưởng của độc quyền đến cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. . 11
KẾT LUẬN. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .15
TÀI LIỆU THAM KHẢO. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 17
ĐÁNH GIÁ PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 18 LỜI MỞ ĐẦU
Cạnh tranh là một trong những quy luật của nền kinh tế thị trường. Khi thực
hiện chuyển đổi nền kinh tế cũ sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa phải chấp nhận những quy luật của nền kinh tế thị trường trong đó có quy luật cạnh tranh.
Đứng trước quá trình hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng thì chúng ta cần có
một nền kinh tế với sức cạnh tranh đảm bảo cho quá trình phát triển kinh tế để đạt
được mục đích trở thành nước công nghiệp và phát triển. Muốn như vậy chúng ta
cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế với các đối tượng cần tác
động là các doanh nghiệp. Đặc biệt cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp nhà nước và tư nhân, phải phát huy các lợi thế cạnh tranh.
Và cạnh tranh là một quy luật khách quan, rất cần thiết để phát triển kinh tế.
Việt Nam của chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong quá trình phát
triển kinh tế. Nhưng ngoài những thành tựu đó thì nền kinh tế nước ta đang đối mặt
với một khó khăn và thách thức khá quan trọng. Đó là khả năng cạnh tranh của nền
kinh tế nớc ta còn non yếu. Việt Nam cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh để có
thể phát triển nền kinh tế thị trường.
Cạnh tranh là một cơ chế vận hành chủ yếu của nền kinh tế thi trường, nó là
động lực thúc đẩy kinh tế phát triển tuy vẫn có những mặt hạn chế nhưng nó không
phải là vấn đền quan trọng. Nhiều nước trên thế giới đã vận dụng tốt quy luật cạnh
tranh vào phát triển kinh tế và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Từ khi đổi mới
nền kinh tế chúng ta cúng đã áp dụng những quy luật này và một số thành tựu đã
đến vơi chúng ta: đời sống nhân dân cải thiện, xã hội phát triển hơn, kinh tế phát
triển ổn định. . những lợi ích ấy chưa phải là lơn lao nhưng cũng đã giúp chúng ta
định hướng cho chính sách phát triển kinh tế. 1
Độc quyền là sự chi phối thị trường của một hay nhiều công ty, hoặc một tổ
chức kinh tế nào đó về một loại sản phẩm trên một đoạn thị trường nhất định.
Nguyên nhân dân tới độc quyền thường do cạnh tranh không lành mạnh đem lại.
Độc quyền sẽ làm hạn chế rất nhiều đối với cạnh tranh và phát triển kinh tế
Để có một môi trường cạnh tranh lành mạnh và kiểm soát độc quyền có hiệu
quả đang là vấn đề quan trọng được đặt ra với thực trạng chung của thế giới hiện nay
Thực trạng cạnh tranh và độc quyền hiện nay như thế nào? Và chúng ta cần
làm gì để duy trì cạnh tranh và kiểm soát độc quyền? Chúng ta sẽ tìm hiểu ở dưới đây.
CHƯƠNG I: QUY LUẬT CẠNH TRANH 1.1 Khái niệm
Nếu Kinh tế thị trường được ví như một sân chơi, thì các chủ thể kinh tế được
coi những người tham gia chơi. Mỗi chủ thể kinh tế phải tự trả lời câu hỏi: sản xuất
cái gì? Sản xuất cho ai? và sản xuất như thế nào? Và tất nhiên, do sự khác biệt về
lợi ích, để đạt được lợi nhuận tối đa thì cạnh tranh trên thị trường là tất yếu khách
quan. Hay nói cách khác, các chủ thể kinh tế bị chi phối bởi bàn tay vô hình của
“Quy luật cạnh tranh”.
Quy luật cạnh tranh được diễn giải như sau:
“Quy luật cạnh tranh là quy luật kinh tế điều tiết một cách khách quan mối
quan hệ ganh đua kinh tế giữa các chủ thể trong sản xuất và trao đổi hàng hóa.
Quy luật cạnh tranh yêu cầu, khi đã tham gia thị trường, các chủ thế sản xuất kinh
doanh, bên cạnh sự hợp tác luôn phải chấp nhân cạnh tranh.”
Như vậy, cạnh tranh trong kinh tế thị trường là tất yếu. Cạnh tranh là sự ganh
đua giữa các chủ thể tham gia sản xuất kinh doanh, tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ để
thực hiện tốt nhất lợi ích của mình. Ví dụ như: cạnh tranh giữa công ty Pepsi và
Cocacola, giữa hãng điện thoại samsung và iphone, nokia, hay như cạnh tranh giữa
các thương lái để thu mua nông sản … 1.2 Nội dung quy luật
Trong nền sản xuất hàng hóa, sự cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng
hóa, giữa người sản xuất và người tiêu dung là một tất yếu khách quan, là yêu cầu
thường xuyên đối với những người sản xuất hàng hóa. Quy luật cạnh tranh xuất
phát từ bản chất của nền sản xuất hàng hóa, của qui luật giá trị.
1.3 Tác động tích cực và tiêu cực của cạnh tranh
• Những tác động tích cực của cạnh tranh: 3
Cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất: trong nền kinh tế
thị thị trường, để nâng cao năng lực cạnh tranh, các chủ thể sản xuất kinh doanh
không ngừng tìm kiếm và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất,
từ đó kéo theo sự thay đổi về trình độ tay nghề, tri thức của người lao động.
Cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường: trong nền kinh tế
thị trường, mọi hành vi của mọi chủ thể kinh tế đều hoạt động trong môi trường
cạnh tranh. Mọi hoạt động của các chủ thể kinh tế đều nhằm mục đich lợi nhuận tối
đa, ngoài việc hợp tác, họ cũng cạnh tranh với nhau để có những điều kiện thuận
lợi trong sản xuất và kinh doanh để thu lợi nhuận cao nhất.
Cạnh tranh là cơ chế điều chỉnh linh hoạt việc phân bổ các nguồn lực: nền
kinh tế thị trường đòi hỏi việc tiếp cận các nguồn lực phải dựa trên nguyên tắc
cạnh tranh để phân bổ vào chủ thể có thể sử dụng hiệu quả hơn.
Cạnh tranh thúc đẩy năng lực thỏa mãn nhu cầu của xã hội: trong nền kinh
tế thị trường, mục đích của chủ thể là lợi nhuận tối đa. Vì vậy, những người sản
xuất phải tìm mọi cách tạo ra hàng hóa, sản phẩm đa dạng, dồi dào, phong phú,
chất lượng tốt, giá thành hạ làm cho nhu cầu của người tiêu dung và xã hội được đáp ứng.
• Những tác động tiêu cực của cạnh tranh:
Cạnh tranh không lành mạnh gây tổn hại môi trường kinh doanh: khi các
chủ thể thực hiện các biện pháp cạnh tranh thiếu lành mạnh, thậm chí là các thủ
đoạn xấu để tìm kiếm lợi nhuận sẽ làm xói mòn môi trường kinh doanh, thạm chí
làm xói mòn giá trị đạo đức xã hội.
Cạnh tranh không lành mạnh gây lãng phí nguồn lực xã hội: để giành ưu
thế trong cạnh tranh, các chủ thể có thể chiếm giữ các nguồn lực mà không phát
huy các vai trò của các nguồn lực đó trong sản xuất kinh doanh, không đưa vào sản
xuất để tạo ra hàng hóa dịch vụ cho xã hội.
Cạnh tranh không lành mạnh gây làm tổn hại phúc lợi của xã hội: khi các
nguồn lực bị lãng phí, cạnh tranh thiếu lành mạnh đã làm cho phúc lợi xã hội bị tổn
thất nếu sử dụng hiệu quả, xã hội sẽ có nhiều cơ hội lựa chọn hơn để thảo mãn nhu cầu.
CHƯƠNG II: CẠNH TRANH TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
2.1 Kinh tế thị trường là gì?
Kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường. Đó là
nền kinh tế hàng hóa phát triển cao, ở đó mọi quan hệ sản xuất và trao đổi đều
được thông qua thị trường chịu sự tác động, điều tiết của các quy luật thị trường.
Sự hình thành kinh tế thị trường là khách quan trong lịch sử: từ kinh tế tự
nhiên, tự túc, kinh tế hàng hóa rồi từ kinh tế hàng hóa phát triển thành kinh tế thị
trường. Kinh tế thị trường cũng trải qua quá trình phát triển ở các trình độ khác
nhau từ kinh tế thị trường sơ khai đến kinh tế thị trường hiện đại ngày nay. Kinh tế
thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại.
2.2 Vai trò của cạnh tranh đối với sự phát triển của nền kinh tế thị trường
Cạnh tranh xuất hiện cung với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Cạnh
tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa những người sản xuất kinh doanh
với nhau để giành giật lấy những điều kiện có lợi về sản xuất và tiêu thụ hàng hoá,
nhằm tối đa hoá lợi nhuận của mình. 5
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh vừa là môi trường, vừa là động lực cho
sự phát triển kinh tế. Do đó mà cạnh tranh đóng vai trò quan trọng trong nền kinh
tế thị trường thể hiện qua một số chức năng sau:
Thứ nhất, cạnh tranh trong nền kinh tế có 2 loại cạnh tranh: cạnh tranh trong
nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành với nhau. Việc cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp trong cung một ngành là sự cạnh tranh nhằm giành giật lấy những
điều kiện có lợi cho sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau về sản phẩm. Do đó kết quả của sự cạnh
tranh này là hình thành nên giá trị thị trường của từng loại mặt hàng. Đó là giá trị
của hàng hoá được tính dựa vào điều kiện sản xuất trung bình của toàn xã hội. Nếu
như doanh nghiệp nào có điều kiện sản xuất dưới mức trung bình sẽ bị thiệt hại hay
bị lỗ vốn. Còn những doanh nghiệp có điều kiện sản xuất trên mức trung bình của
xã hội sẽ thu được lợi nhuận thông qua sự chênh lệch về điều kiện sản xuất. Ngoài
cạnh tranh trong nội bộ ngành còn có cạnh tranh giữa các ngành với nhau. Là cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất những mặt hàng khác nhau. Mục đích của
cạnh tranh này là tìm nơi đầu tư có lợi hơn. Các doanh nghiệp tự do di chuyển
trung bình của mình từ ngành này sang ngành khác. Cạnh tranh này dẫn đến hình
thành nên tỉ suất lợi nhuận bình quân, và giá trị hàng hoá chuyển thành giá cả sản
xuất. Việc hình thành nên giá thị trường của hàng hoá và tỉ suất lợi nhuận bình
quân là điều quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Với giá trị thị trường của
hàng hoá cho biết doanh nghiệp nào làm ăn có lãi hoặc không có hiệu quả. Từ đó
sẽ có những thay đổi trong sản xuất để nâng cao năng suất lao động. Với tỉ suất lợi
nhuận bình quân cho biết lợi nhuận của các nhà tư bản sẽ là như nhau cho du đầu
tư vào những ngành khác nhau với lượng trung bình như nhau.
Thứ hai, cạnh tranh giúp phân bổ lại nguồn lực của xã hội một cách hiệu quả
nhất. Các doanh nghiệp sản xuất cung một loại hay một số loại hàng hoá cạnh
tranh nhau về giá bán, hình thức sản phẩm, chất lượng sản phẩm trong quá trình
cạnh tranh đó doanh nghiệp nào có điều kiện sản xuất tốt, có năng suất lao động
cao hơn thì doanh nghiệp đó sẽ có lãi. Điều đó giúp cho việc sử dụng các nguồn
nguyên vật liệu của xã hội có hiệu quả hơn, đem lại lợi ích cho xã hội cao hơn.
Nếu cứ để cho các doanh nghiệp kém hiệu quả sử dụng các loại nguồn lực thì sẽ
lãng phí nguồn lực xã hội trong khi hiệu quả xã hội đem lại không cao, chi phí cho
sản xuất tăng cao, giá trị hàng hoá tăng lên không cần thiết.
Thứ ba, cạnh tranh điều tiết cung, cầu hàng hoá trên thị trường, kích thích thúc
đẩy việc ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất và tăng vốn đầu tư
vào sản xuất trên thị trường, khi cung một hàng nào đó lớn hơn cầu hàng hoá thì
làm cho giá cả của hàng hoá giảm xuống, làm cho lợi nhuận thu được của các
doanh nghiệp sẽ giảm xuống. Nếu như giá cả giảm xuống dưới mức hoặc bằng chi
phí sản xuất thì doanh nghiệp đó làm ăn không có hiệu quả và bị phá sản. Chỉ có
những doanh nghiệp nào có chi phí sản xuất giá cả thanh toán của hàng hoá thì
doanh nghiệp đó mới thu được. Điều đó buộc các doanh nghiệp muốn tồn tại được
thì phải giảm chi phí sản xuất hàng hoá, nâng cao năng suất lao động bằng cách
tích cực ứng dụng đưa khoa học công nghệ tiên tiến vào trong quá trình sản xuất.
Ngược lại khi cung một loại hàng hoá nào đó nhỏ hơn cầu hàng hoá của thị trường
điều đó dẫn đến sự khan hiếm về hàng hoá điều này dẫn tới giá cả của hàng hoá
tăng cao dẫn đến lợi nhuận của các doanh nghiệp tăng lên, điều này kích thích các
doanh nghiệp sẽ nâng cao năng suất lao động bằng cách ứng dụng khoa học - công
nghệ tiên tiến hoặc mở rộng qui mô sản xuất để có được lượng hàng hoá tung ra thị
trường. Điều này làm tăng thêm vốn đầu tư cho sản xuất, kinh doanh, nâng cao
năng lực sản xuất của toàn xã hội. Điều này quan trọng là động lực này hoàn toàn
tự nhiên không theo và không cần bất kỳ một mệnh lệnh hành chính nào của cơ quan quản lý nhà nước. 7
Thứ tư, cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường không chỉ có cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp sản xuất với nhau mà còn có sự cạnh tranh giữa những người lao
động với nhau, để có được một nơi làm việc tốt, công việc phu hợp. Điều đó khiến
cho mọi người trong xã hội luôn luôn phải nâng cao trình độ tay nghề của mình.
Với ý nghĩa đó cạnh tranh làm cho con người ta hoàn thiện hơn, cạnh tranh đóng
góp một phần trong việc hình thành nên con người mới trong xã hội mới thông
minh, năng động và sáng tạo. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau tất yếu
sẽ dẫn đến có kẻ thắng và người thua. Kẻ mạnh càng ngày càng mạnh lên nhờ làm
ăn hiệu quả. Kẻ yếu thì bị phá sản. Sự phá sản của các doanh nghiệp không hoàn
toàn mang ý nghĩa tiêu cực. Bởi vì có như vậy thì các nguồn lực của xã hội mới
được chuyển sang cho những nơi làm ăn hiệu quả. Việc duy trì các doanh nghiệp
kém hiệu quả sẽ dẫn đến sự lãng phí các nguồn lực xã hội. Do đó muốn có hiệu
quả sản xuất của xã hội cao buộc chúng ta phải chấp nhận sự phá sản của những
doanh nghiệp yếu kém. Sự phá sản này không phải là sự huỷ diệt hoàn toàn mà đó
là sự huỷ diệt sáng tạo.
2.3 Biểu hiện và tác động của cạnh tranh trong trạng thái độc quyền
2.3.1 Độc quyền là gì?
Độc quyền là thuật ngữ trong kinh tế học chỉ về trạng thái thị trường chỉ có duy
nhất một người bán và sản xuất ra sản phẩm đó cho người mua mà không có bất kỳ
sự lựa chọn nào khác giữa người bán và người mua.Đây là một trong những dạng
của thất bại thị trường,là trường hợp cực đoan của thị trường thiếu tính cạnh
tranh.Mặc du trên thực tế hầu như không thể tìm được trường hợp nào đáp ứng
hoàn hảo hai tiêu chuẩn của độc quyền và do đó độc quyền thuần túy có thể coi là
không tồn tại nhưng những dạng độc quyền không thuần túy đều dẫn đến sự không
hiệu quả của lợi ích xã hội.Độc quyền được phân loại theo nhiều tiêu chí: mức độ
độc quyền,nguyên nhân của độc quyền, cấu trúc của độc quyền.
2.3.2 Biểu hiện của cạnh tranh trong trạng thái độc quyền
Nhiều người mua và người bán:
Trong thị trường cạnh tranh độc quyền, có một số lượng lớn người mua và
người bán tham gia, tuy nhiên không lớn bằng thị trường cạnh tranh hoàn hảo.
Điều này có nghĩa là các nhà cung cấp sản phẩm hàng hóa, dịch vụ có thể kiểm
soát được chính sách giá, sản lượng của doanh nghiệp mình ở một mức độ nào đó.
Chính vì vậy, trong thị trường cạnh tranh độc quyền, mỗi doanh nghiệp sẽ tuân
theo một chính sách giá độc lập. Giả sử, nếu doanh nghiệp đang giảm giá doanh số
bán được sẽ bị chênh lệch một chút so với nhiều đối thủ của nó, do đó mức độ mà
mỗi đối thủ phải gánh chịu sẽ rất nhỏ. Như vậy các đối thủ này sẽ không có lý do
gì để phản ứng trước sự thay đổi của doanh nghiệp này.
Sự khác biệt của sản phẩm:
Một đặc điểm khác của cạnh tranh độc quyền là sự khác biệt hóa của sản phẩm.
Sự khác biệt hóa sản phẩm này sẽ giúp doanh nghiệp gia tăng giá trị so với đối thủ
cạnh tranh. Nó thể hiện ở việc người tiêu dung có khả năng phân biệt sản phẩm
được cung cấp bởi doanh nghiệp này so với sản phẩm của một doanh nghiệp khác.
Về cơ bản, sản phẩm của các hãng khác nhau không hoàn toàn khác nhau. Sự khác
biệt về sản phẩm này có thể là thực sự (thiết kế, vật kiệu được sử dụng, kỹ năng. .)
hoặc tưởng tượng (thông qua quảng cáo, nhãn hiệu thương mại. .).
Rào cản gia nhập và rút khỏi thị trường thấp:
Giống như cạnh tranh độc quyền, các doanh nghiệp có quyền tự do gia nhập và
rút khỏi thị trường. Các doanh nghiệp sẽ tham gia vào thị trường khi các doanh
nghiệp hiện tại đang tạo ra lợi nhuận siêu ngạch. Với sự gia nhập của các doanh
nghiệp mới, nguồn cung sẽ tăng lên làm giảm giá và do đó các doanh nghiệp hiện
tại sẽ chỉ còn lại với lợi nhuận bình thường. Tương tự, nếu các doanh nghiệp đang 9
hoạt động trong thị trường cạnh tranh độc quyền đang tiếp tục thua lỗ, một số
doanh nghiệp sẽ lựa chọn rút khỏi thị trường. Điều này sẽ làm giảm nguồn cung
sản phẩm hàng hóa, dịch vụ từ đó giá cả sẽ tăng lên, và các doanh nghiệp hiện tại
sẽ chỉ còn lại với lợi nhuận bình thường.
Lợi nhuận siêu ngạch trong ngắn hạn:
Các doanh nghiệp trong thị trường cạnh tranh độc quyền có thể tạo ra lợi
nhuận siêu ngạch nếu họ có thể hưởng lợi từ khoảng trống trên thị trường. Ví dụ
như xét trong thị trường quần áo, doanh nghiệp có thể tạo ra một thiết kế mới chưa
từng có trước đó, nếu thiết kế này có thể gây ấn tượng tốt đối với khách hàng,
doanh nghiệp đó đương nhiên sẽ thu hồi về lợi nhuận lớn từ sự tăng lên về nhu cầu
của khách hàng. Tuy nhiên, điều này chỉ có thể mang đến cho doanh nghiệp lợi
nhuận siêu ngạch trong ngắn hạn cho đến khi đối thủ của họ biết đến sự tồn tại của
thiết kế đó. Sau đó họ sẽ nhanh chóng tạo ra các sản phẩm tương tự để cung cấp ra
thị trường. Điều này khiến cho mức lợi nhuận của doanh nghiệp ban đầu bị giảm đi.
Lợi nhuận bình thường trong dài hạn:
Trong dài hạn, lợi nhuận thu hẹp khi những người mới tham gia vào thị trường
để cạnh tranh. Do rào cản gia nhập thấp, các doanh nghiệp mới có thể nhìn thấy bất
kì khoản lợi nhuận siêu ngạch nào được tạo ra và nhanh chóng tham gia để giành
lấy thị phần. Vì vậy, trong khi một số doanh nghiệp có thể thu lợi từ các sản phẩm
mới trong ngắn hạn, thì những khoản lợi nhuận siêu ngạch này lại bị giảm xuống khi có sự cạnh tranh.
Thông tin không hoàn hảo:
Trong cạnh tranh không hoàn hảo, nhiều doanh nghiệp cung cấo các sản phẩm
hơi khác nhau. Điều này làm cho việc thu nhập thông tin về sản phẩm tốn nhiều
thời gian và chi phí hơn. Chính vì thế, người mua không thể có tất cả thông tin
hoàn hảo về sản phẩm, chất lượng và giá cả của chúng. Rất nhiều người tiêu dung
lựa chọn một trong vài sản phẩm, hàng hóa được bày bán ở gần nhà. Đôi khi người
mua có thể biết về một loại hàng hóa cụ thể ở nơi đó có sẵn với giá thấp. Tuy nhiên,
họ không thể tự mình đến đó. Tương tự, người bán không biết chính xác sở thích
của người đi mua và do dó, không cung cấp dịch vụ đúng nơi mà khách hàng có nhu cầu cao.
Cạnh tranh phi giá cả:
Thị trường cung cấp các sản phẩm hơi khác nhau, vì vậy các doanh nghiệp
cạnh tranh về chất lượng sản phẩm/ dịch vụ. Chẳng hạn như chất lượng phục vụ
của nhân viên chu đáo hơn, thời gian chờ đợi ít hơn. Đồng thời, các doanh nghiệp
cũng sẽ cạnh tranh nhau dựa trên các yếu tố phi giá cả khác như vị trí, thương hiệu/
quảng cáo và chất lượng.
2.3.3 Ảnh hưởng của độc quyền đến cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
2.3.3.1 Tác hại của Độc quyền:
Do tối đa hóa doanh thu nên doanh nghiệp chiếm đoạt quyền sẽ sản xuất
hàng hóa ở mức sản phẩm mà tại đó doanh thu biên bằng với thu nhập biên thay vì
sản xuất ở mức sản lượng mà ở đó giá sản phẩm cao hơn nhiều chi phí biên như
trong thị trường (cân bằng cung cầu). Khác với thị trường cạnh tranh hoàn hảo, nơi
mà giá bán sản phẩm phụ thuộc vào số lượng sản phẩm do một doanh nghiệp sản
xuất ra, trong tình trạng chiếm đoạt quyền giá bán sẽ tăng lên khi doanh nghiệp
chiếm đoạt quyền giảm sản lượng. Vì thế lợi nhuận biên sẽ lớn hơn giá bán sản
phẩm và cứ một đơn vị sản phẩm sản xuất thêm doanh nghiệp chiếm đoạt quyền sẽ
thu thêm được một khoản tiền lớn hơn giá bán sản phẩm đó. Điều này có nghĩa là
nếu cứ sản xuất thêm sản phẩm thì doanh thu thu thêm được có thể đủ bu đắp tổn 11
thất do giá bán của tất cả sản phẩm giảm xuống. Mặt khác, nếu áp dụng nguyên tắc
biên của tính hiệu quả nghĩa là sản xuất sẽ đạt hiệu quả khilợi ích biên bằng doanh
thu biên, tất nhiên lợi ích biên và chi phí biên ở đây xét trên góc độ xã hội chứ
không phải đối với doanh nghiệp độc quyền ta thấy rằng: ở mức sản lượng mà
doanh nghiệp chiếm đoạt quyền sản xuất thì lợi ích biên (chính là đường cầu) lớn
hơn chi phí biên đồng nghĩa với tình trạng không hiệu quả. Tóm lại, doanh nghiệp
chiếm đoạt quyền sẽ sản xuất ở sản lượng thấp hơn và bán với giá cao hơn so với
thị trường cạnh tranh. Tổn thất mà xã hội phải gánh chịu do sản lượng tăng lên trừ
đi tổng chi phí biên để sản xuất ra phần sản lượng đáng lẽ nên được sản xuất ra
thêm đó chính là tổn thất do chiếm đoạt quyền.
Như vậy, tác hại của độc quyền là:
(1) Giá cao hơn và mức sản lượng thấp hơn cạnh tranh hoàn hảo.
(2) Khả năng chi phí cao hơn do không có cạnh tranh.
(3) Bất công bằng trong phân chia thu nhập.
2.3.3.2 Lợi ích của độc quyền:
(1) Tiết kiệm chi phí nhờ quy mô sản xuất lớn.
(2) Khả năng chi phí thấp hơn nhờ có nghiên cứu và đầu tư nhiều hơn.
(3) Khả năng tạo phát minh và sản phẩm mới.
(4) Lợi nhuận độc quyền là mong muốn lớn nhất đổi với các nhà sản xuất. Vì
vậy các nhà độc quyền luôn tìm mọi cách để duy trì vị trí độc quyền. Khác với
trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, sự tồn tại của lợi nhuận độc quyền không cho
phép các hãng khác tham gia vào ngành. Nhà độc quyền luôn cố gắng ngăn chặn
các nhà sản xuất mới xâm nhập vào thị trường.
2.3.3.3 Ví dụ về sự ảnh hưởng của doanh nghiệp đến cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
Facebook dung sức mạnh độc quyền để tìm, diệt đối thủ cạnh tranh
Facebook được nhận xét là đã sử dụng sức mạnh độc quyền để tiêu diệt các đối
thủ cạnh tranh, cũng như gây các ảnh hưởng tới xã hội từ nội dung thu địch, độc hại và tin giả.
"Sức mạnh độc quyền của Facebook rất vững chắc và khó có thể bị xóa bỏ từ
sự cạnh tranh của các công ty trên thị trường", những nhà điều tra nhận xét. Bản
báo cáo lưu ý Facebook đã sử dụng các công cụ của mình như công ty phân tích dữ
liệu Onavo để tìm kiếm "những cảnh báo sớm nhất", là các app đang phổ biến trên các chợ ứng dụng.
Cách Facebook "mua để giết"
Để mô tả hành vi "mua để giết" các đối thủ của Facebook, báo cáo này trích
dẫn đoạn nói chuyện giữa CEO Facebook Mark Zuckerberg và Giám đốc tài chính
của công ty này về việc mua lại Instagram với giá 1 tỷ USD.
"Một cách nhìn về vụ này là chúng ta đang bỏ tiền để mua thời gian. Kẻ cả khi
có những kẻ cạnh tranh mới, mua Instagram sẽ cho chúng ta khoảng một năm hoặc
hơn để tích hợp những điểm mạnh trước khi bất kỳ ai có thể đạt tới quy mô của
Instagram", báo cáo này trích lời CEO Mark Zuckerberg.
Trong cuộc nói chuyện giữa Mark Zuckerberg và nhà đồng sáng lập Instagram
Kevin Systrom, CEO Facebook được cho là đã đe dọa Instagram sẽ "phải nhận hậu
quả" nếu như từ chối lời đề nghị của Facebook.
Báo cáo cũng trích dẫn những cuộc hội thoại tương tự giữa Mark Zuckerberg
và các quản lý cấp dưới khi nói về WhatsApp, ứng dụng nhắn tin mà Facebook
mua lại với giá 19 tỷ USD năm 2014. CEO Facebook cho rằng công ty này vẫn có 13
cơ hội để phát triển ứng dụng nhắn tin với số lượng người dung khổng lồ, nhưng
"cơ hội đó sẽ không tồn tại mãi mãi". Mark Zuckerberg nhận xét Facebook sẽ chỉ
có chưa tới một năm trước khi phải cạnh tranh trực tiếp với WhatsApp.
Sự độc quyền về dữ liệu của Facebook
Với quy mô người dung các dịch vụ lên tới hơn 3 tỷ, Facebook sở hữu lượng
dữ liệu khổng lồ từ người dung, nhiều hơn bất kỳ mạng xã hội cạnh tranh nào khác.
Việc sở hữu lượng dữ liệu quá lớn có tác dụng kép đối với Facebook. Càng có
nhiều dữ liệu, Facebook càng có thể tạo ra những trải nghiệm cá nhân hóa hơn với
người dung, qua đó lôi kéo thêm người dung mới và khiến người dung cũ gắn bó
hơn với dịch vụ của họ.
"Lợi thế về dữ liệu của Facebook do vậy ngày càng tăng lên theo thời gian,
giúp vị thế số một của họ trên thị trường càng vững chắc hơn và khiến các nền tảng
mới gặp khó hơn để đưa ra trải nghiệm người dung tương tự", báo cáo này cho biết.
Thậm chí, sự cạnh tranh giữa các dịch vụ của Facebook còn lớn hơn sức cạnh
tranh từ những dịch vụ bên ngoài. Instagram là một ví dụ. Dịch vụ chia sẻ hình ảnh
này đã tăng trưởng quá nhanh, khiến Mark Zuckerberg lo ngại và phải đưa ra
những biện pháp để Facebook cũng được hưởng lợi từ Instagram, như hợp nhất
dịch vụ nhắn tin trên cả 3 nền tảng.
Do sở hữu quá nhiều dữ liệu, Facebook cũng trở nên thiếu tôn trọng dữ liệu
người dung. Điều đó tạo ra cơ hội cho tin giả, các nội dung thu hận phát triển trên
các nền tảng của công ty này. Báo cáo của Hạ viện Mỹ đề xuất một hình thức
tương tác, chia sẻ dữ liệu giữa các nền tảng lớn, cho phép các dịch vụ mới có lợi thế cạnh tranh tốt hơn.
"Quan trọng nhất, việc chia sẻ dữ liệu sẽ phá vỡ hiệu ứng mạng lưới, cho phép
một công ty mới nhận được lợi thế từ mạng lưới đang tồn tại ở mức độ thị trường.
Nó cũng sẽ giảm chi phí chuyển đổi nền tảng cho người dung, họ không bị mất dữ
liệu khi chuyển từ một mạng lưới này sang mạng lưới khác", báo cáo này đề xuất. KẾT LUẬN
Cạnh tranh là một đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh giúp
cho sự phân bổ nguồn lực xã hội có hiệu quả, đem lại ích lợi lớn hơn cho xã hội.
Cạnh tranh có thể được xem như là quá trình tích luỹ về lượng để từ đó thực hiện
các bước nhảu thay đổi về chất. Mỗi bước nhảy thay đổi về chất là mỗi nấc thang
của xã hội, nó làm cho xã hội phát triển di lên, tốt đẹp hơn. Sự tồn tại của cạnh
tranh trong nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan.
Cạnh tranh là một quy luật, là một phần của nền kinh tê thị trường. Cạnh tranh
cũng có mặt trái của nó, cạnh tranh thường dẫn đến độc quyền, và nó được đánh
giá bằng sự phá sản của một bên tham gia cạnh tranh, Cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp với nhau tất yếu sẽ dẫn đến có kẻ thắng và người thua. Kẻ mạnh càng ngày
càng mạnh lên nhờ làm ăn hiệu quả. Kẻ yếu thì bị phá sản. Sự phá sản của các
doanh nghiệp không hoàn toàn mang ý nghĩa tiêu cực. Bởi vì có như vậy thì các
nguồn lực của xã hội mới được chuyển sang cho những nơi làm ăn hiệu quả. Việc
duy trì các doanh nghiệp kém hiệu quả sẽ dẫn đến sự lãng phí các nguồn lực xã hội.
Do đó muốn có hiệu quả sản xuất của xã hội cao buộc chúng ta phải chấp nhận sự
phá sản của những doanh nghiệp yếu kém. Sự phá sản này không phải là sự huỷ
diệt hoàn toàn mà đó là sự huỷ diệt sáng tạo. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp,
các tổ chức kinh tế với nhau sẽ làm nguồn lực của xã hội được phân bố sử dụng có
hiệu quả hơn. Những mặt trái do cạnh tranh đem lại là điều không đáng ngại nếu
như chúng ta có một chính sách cạnh tranh và chống độc quyền hợp lý. 15
Nhiều nước trên thế giới đã áp dụng tốt chính sách cạnh tranh trong phát triển
kinh tế và đem lại hiệu quả cao. Một trong những nước sử dụng rộng rãi và thành
công yếu tố cạnh tranh để phát triển kinh tế là Mỹ, Mỹ đã ban hành rất sớm luật cạnh tranh.
Cạnh tranh có vai trò vô cung quan trọng đối với nền kinh tế thị trường hiện
nay. Cơ chế thị trường bắt buộc các doanh nghiệp phải thực sự tham gia vào cạnh
tranh để tồn tại và phát triển Chính điều này đòi hỏi cần phải có sự quản lý của nhà
nước, đảm bảo cho các doanh nghiệp có thể tự do cạnh tranh một cách lành mạnh có hiệu quả.
Tóm lại, cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là một con dao hai lưỡi, nó có
là động lực cho sự phát triển kinh tế hay không còn tuy thuộc vào sự vận dụng quy
luật này ở mỗi nước. Nếu có chính sách cạnh tranh hợp lý thì nước đó sẽ được lợi
to do cạnh tranh đem lại, nhược bằng không thì nó sẽ là một cổ máy nghiền nát nền kinh tế. 17 TÀI LIỆU THAM KHẢO
Kim, H. (n.d.). Tác hại, lợi ích của độc quyền. Retrieved from
ht ps://hoangkim.net.vn/chi-tiet-tin/3396/15-hay%20cho-biet-loi-ich-va-tac-hai- cua-doc-quyen.html
Vietnamnet. (2020). Ví dụ về sự ảnh hưởng của độc quyền. Retrieved from
ht ps://vietnamnet.vn/vn/cong-nghe/cong-dong-mang/facebook-dung-suc-manh-
doc-quyen-de-tim-diet-doi-thu-canh-tranh-680377.html
Wikipedia. (n.d.). Độc quyền (kinh tế). Retrieved from
ht ps://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99c_quy%E1%BB %81n_(kinh_t%E1%BA%BF)