










Preview text:
  lOMoAR cPSD| 59092960
Chủ đề: Tìm hiểu về chủ thể của Luật Dân sự Việt Nam.    MỤ ỤC L C 
LỜI MỞ ĐẦU.............................................................................................................................................1 
NỘI DUNG.................................................................................................................................................2 
1. Tìm hiểu về quan hệ chủ thể của pháp luật Dân sự Việt Nam hiện hành..........................................2 
1.1. Căn cứ pháp lý.............................................................................................................................2 
1.2. Quan hệ chủ thể của pháp luật Dân sự......................................................................................2 
2. Năng lực pháp luật và năng lực hành vi pháp luật của cá nhân.........................................................3 
3. Các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự...........................................................................................3 
3.1. Cá nhân.........................................................................................................................................3 
3.2. Pháp nhân.....................................................................................................................................4 
3.3. Hộ gia đình, tổ hợp tác................................................................................................................5 
4. Tư cách chủ thể của cá nhân khi tham gia giao dịch dân sự...............................................................6 
5. Nguyên tắc xác định năng lực pháp luật của các chủ thể nước ngoài................................................9 
6. Ví dụ về quan hệ chủ thể pháp luật dân sự..........................................................................................9 
KẾT LUẬN...............................................................................................................................................11 
DANH MỤC THAM KHẢO...................................................................................................................12                            LỜI MỞ ĐẦU 
Con người là chủ thể đầu tiên và cơ bản trong tất cả các mối quan hệ xã hội. Nhà nước 
ra đời với bản chất gia cấp đồng thời cũng mang bản chất xã hội. Bản chất xã hội của nhà 
nước thể hiện bằng việc thông qua các cơ quan quyền lực của mình, nhà nước điều chỉnh các 
mối quan hệ chủ yếu và quan trọng xã hội. Nói như vậy có nghĩa là nhà nước điều chỉnh con 
người trong xã hội thông qua việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Nói riêng về các mối 
quan hệ trong xã hội dân sự, luật pháp nước ta chia làm hai mảng chính: quan hệ tài sản và 
quan hệ nhân thân nhưng điều đó không nói lên rằng quan hệ dân sự thiếu tính đa dạng mà 
chính là thể hiện sự phức tạp của vấn đề. Tham gia vào các mối quan hệ pháp luật dân sự, con 
người thể hiện những tư cách chủ thể khác nhau. 
Tại sao phân chia tư cách chủ thể? Một lý do có thể thấy: trong dân sự các chủ thể 
tham gia với mong muốn đó là sự giao dịch này phải có đảm bảo được độ tin cậy, người tham 
gia làm sao thoả mãn được ý chí của mình (có thể giao dịch hoặc không thể giao dịch). Luật 
dân sự có quy định riêng cho mỗi chủ thể tham gia, tính bảo đảm tư cách chủ thể được luật 
dân sự đảm bảo về quyền và nghĩa vụ: cá nhân tham gia có quyền, nghĩa vụ khác với quyền 
và nghĩa vụ pháp nhân tham gia. 
Vì những vấn đề trên, em sẽ nghiên cứu con người với tư cách chủ thề trong quan hệ 
pháp luật dân sự. Và vấn đề nghiên cứu đề cập trong bài nghiên cứu này là: “Tìm hiểu về chủ 
thể của Luật Dân sự Việt Nam” con nguời tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự là cá nhân 
- một chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự.                        NỘI DUNG 
2. Năng lực pháp luật và năng lực hành vi pháp luật của cá nhân 
a) Năng lực hành vi dân sự 
Theo quy định tại điều 19 Bộ luật Dân sự 2015, năng lực hành vi dân sự của cá nhân 
là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. 
Ví dụ: Khi đủ 18 tuổi, con gái có quyền đăng ký kết hôn 
Điều 19 Bộ luật Dân sự 2015 quy định năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả 
năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Theo đó 
tùy theo từng điều kiện, năng lực hành vi dân sự của mỗi cá nhân là khác nhau. 
=> Việc đăng ký kết hôn thể hiện năng lực hành vi dân sự. b) 
Năng lực pháp luật dân sự 
Điều 16 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả 
năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự” 
Có nghĩa là, Nhà nước công nhận và trao cho cá nhân quyền cũng như nghĩa vụ dân  sự. 
Đây là tiền đề, điều kiện cần thiết để công dân có quyền, có nghĩa vụ; là thành phần 
không thể thiếu được của cá nhân với tư cách chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, là một 
mặt của năng lực chủ thể. 
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi  người đó chết. 
Ví dụ: Con người ngay từ khi sinh ra đã có quyền được khai sinh, có họ tên. 
3. Các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự  3.1. Cá nhân 
Đây là chủ thể chủ yếu tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự và tham gia thường 
xuyên bao gồm: công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không có quốc tịch sống ở Việt 
Nam được quy định tại Chương III Bộ luật Dân sự. Để có tư cách chủ thể thì cá nhân phải có     
các điều kiện đầy đủ năng lực pháp luật dân sự (Điều 14) “1. Năng lực pháp luật dân sự của 
cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự. 
2. Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau. 
3. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm 
dứtkhi người đó chết”. và năng lực hành vi dân sự (Điều 17) “Năng lực hành vi dân sự 
của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, 
nghĩa vụ dân sự.” Năng lực hành vi dân sự của cá nhân chỉ có được khi đạt độ tuổi nhất  định:  – 
Năng lực hành vi dân sự đầy đủ: Theo quy định tại Điều 19 người có năng 
lựchành vi dân sự đầy đủ khi đủ 18 tuổi trở lên nhưng không bị mắc bệnh tâm thần, bệnh 
khác (Điều 22) hoặc người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác (Điều 23).  – 
Năng lực hành vi một phần: Điều 20 quy định Năng lực hành vi dân sự củangười 
chưa thành niên từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch 
dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu 
sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy định khác, trường hợp có tài 
sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự 
mà không cần phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật  có quy định khác. 
-Không có năng lực hành vi dân sự : là người chưa đủ 6 tuổi theo quy định Điều 21  – 
Mất năng lực hành vi dân sự và hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quy định  Điều 22 và Điều 23  3.2. Pháp nhân 
Cơ quan, tổ chức, chủ thể khác tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập có các 
kiện quy định tại Điều 84 về Pháp nhân: Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ  4 điều kiện sau đây: 
 Thứ nhất, là được thành lập hợp pháp: thành lập theo đúng trình tự, thủ tục do pháp  luật quy định;      – 
Thứ hai, là có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;  – 
Thứ ba, là có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách 
nhiệmbằng tài sản đó: pháp nhân phải có tài sản riêng không phụ thuộc và bị chi phối bởi bất 
kì chủ thể tham gia quan hệ pháp luật nào khác, trên cơ sở tài sản riêng đó pháp nhân phải 
chịu trách nhiệm, thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình  – 
Thứ tư, là nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập: 
vìtham gia vào quan hệ pháp luật một cách độc lập nên pháp nhân sẽ được hưởng các quyền 
và gánh vác các nghĩa vụ dân sự phù hợp với pháp nhân nên pháp nhân phải nhân danh chính  mình. 
3.3. Hộ gia đình, tổ hợp tác 
Chủ thể quan hệ pháp luật dân sự là hộ gia đình 
Điều 106 quy định: “Hộ gia đình mà các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp 
công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh 
vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định là chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự 
thuộc các lĩnh vực này.” 
Để có tư cách chủ thể hộ gia đinh phải xác định được các thành viên của hộ. Chỉ những 
hô gia đ ̣ ình đáp ứng đủ các điều kiên sau ṃ ới trở thành chủ thể của quan hê dân ṣ ự:  – 
Các thành viên trong hô gia đ ̣  ình có tài sản chung;  – 
Cùng đóng góp công sức hoạt đông kinh ṭ  ế chung;  – 
Phạm vi những loại việc dân sự mà hộ gia đình tham gia chỉ giới hạn 
trong một số lĩnh vực do pháp luât quy đ ̣ ịnh. 
Thời điểm phát sinh và chấm dứt tư cách chủ thể của hô gia đ ̣ ình là không xác định. 
Tư cách chủ thể của hô gia đ ̣ ình được xác định thông qua mục đích của giao dịch và lĩnh vực  giao dịch. 
Chủ thể quan hệ pháp luật dân sự là Tổ hợp tác 
Quy định tại Điều 111: “1. Tổ hợp tác được hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp tác có 
chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn của từ ba cá nhân trở lên, cùng đóng     
góp tài sản, công sức để thực hiện những công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu 
trách nhiệm là chủ thể trong các quan hệ dân sự.” 
Tư cách tổ hợp tác được hình thành khi có hợp đồng hợp tác và tiến hành đăng ký tại  UBND cấp xã. 
4. Tư cách chủ thể của cá nhân khi tham gia giao dịch dân sự 
Tư cách chủ thể của cá nhân khi tham gia giao dịch dân sự được hiểu là năng lực chủ 
thể của cá nhân đó, tùy từng trường hợp mà Bộ luật dân sự 2015 sẽ có quy định về những cá 
nhân không được quyền tham gia giao dịch dân sự cụ thể. 
Năng lực chủ thể của cá nhân bao gồm năng lực hành vi dân sự và năng lực pháp luật 
dân sự. Trong đó năng lực pháp luật là quyền xử sự của chủ thể được ghi nhận và được phép 
thực hiện. Năng lực hành vi là khả năng tự có của chủ thể trong việc thực hiện, kiểm soát và 
làm chủ hành vi của mình. 
Bộ luật dân sự 2015 định nghĩa về năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự như  sau: 
Điều 14. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân 
1. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và  nghĩa vụ dân sự. 
Điều 17. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân 
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình 
xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. 
Chủ thể giao dịch Dân sự bao gồm nhiều loại cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia 
đình … Mặt khác, thuật ngữ “cá nhân” bao gồm cả công dân Việt Nam và người nước ngoài. 
Như vậy, có thể hiểu năng lực pháp luật Dân sự của cá nhân là phạm vi các quyền mà bằng 
pháp luật Nhà nước đã ghi nhận cho công dân mình. Theo quy định tại Điều 18 Bộ luật dân 
sự 2015 thì năng lực pháp luật Dân sự của cá nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp do pháp 
luật quy định. Vì thế, mọi cá nhân đều được coi là đủ năng lực pháp luật Dân sự khi tham gia     
giao dịch, ngoại trừ những trường hợp cá nhân đó đã bị pháp luật hạn chế một quyền nào đó 
vốn là mục đích của giao dịch mà cá nhân đó tham gia. 
Do vậy, chủ yếu chỉ cần xem xét đến năng lực hành vi của chủ thể là có thể xác định 
được năng lực chủ thể trong giao dịch dân sự. Có thể hiểu năng lực hành vi dân sự cụ thể 
như sau: “năng lực” là điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện hoạt động nào 
đó, “hành vi” là cách cư xử biểu hiện ra ngoài của một người trong một hoàn cảnh cụ thể 
nhất định. Vì thế, năng lực hành vi là khả năng thực hiện xử sự và kiểm soát làm chủ các xử 
sự đó của cá nhân. Đồng thời cũng có thể hiểu năng lực hành vi dân sự ở góc độ là sự tổng 
hợp giữa 2 yếu tố: lý trí, mong muốn và khả năng thực hiện, kiểm soát hành vi. 
Có thể nói rằng khi ban hành Bộ luật dân sự 2015, các nhà làm luật đã căn cứ vào các 
phương diện trên để xác định và ghi nhận các mức độ năng lực hành vi Dân sự cá nhân. Bộ 
luật dân sự 2015 căn cứ vào độ trưởng thành về thể chất và nhận thức của cá nhân để xác định 
cá nhân ở độ tuổi nào, nhận thức ra sao thì được thừa nhận là có năng lực hành vi ở mức độ 
tương ứng. Theo quy định tại các Điều 20, 21, 22, 23, 24, 25 của Bộ luật dân sự 2015 pháp 
luật đã thừa nhận năng lực hành vi Dân sự của cá nhân theo các mức độ khác nhau. Trong 
mỗi mức độ đó, các cá nhân có quyền tham gia giao dịch Dân sự trong một phạm vi tương  ứng. 
Vì thế luật chỉ thừa nhận họ có tư cách chủ thể để xác lập, thực hiện các giao dịch Dân 
sự nào nhằm phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của họ và có sự phù hợp giữa giao 
dịch đó với lứa tuổi của họ. Mặt khác, để đảm bảo nhu cầu chính đáng của các cá nhân ở mức 
độ năng lực hành vi này, luật còn cho phép họ xác lập các giao dịch khác nếu có sự đồng ý 
của người đại diện theo pháp luật hoặc tự mình xác lập, thực hiện các giao dịch Dân sự nếu 
họ có đủ tài sản riêng để đảm bảo việc thực hiện các giao dịch Dân sự nếu họ có đủ tài sản 
riêng để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ (Điều 22 Bộ luật dân sự 2015).  – 
Cá nhân chưa có năng lực hành vi dân sự: Bộ luật dân sự 2015 không quy 
địnhvề mức độ này mà chỉ quy định về người không có năng lực hành vi Dân sự ( Điều 23 
Bộ luật dân sự 2015). Tuy nhiên, những cá nhân ở độ tuổi này là người không thể bằng nhận     
thức suy luận để có thể điều khiển được hành vi nào của mình. Vì vậy, họ là người không có 
năng lực chủ thể để tham gia bất kì một giao dịch Dân sự nào. Các giao dịch nhằm phục vụ 
cho nhu cầu của những người này đều phải do người đại diện theo pháp luật của họ xác lập  và thực hiện  – 
Cá nhân bị hạn chế năng lực hành vi dân sự: Người bị hạn chế năng lực hành 
vidân sự trước hết là người đã thành niên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ nhưng lại rơi 
vào tình trạng như điều 2 của Bộ luật dân sự 2015 đã dự liệu. Nhằm đảm bảo quyền, lợi ích 
hợp pháp cho những người liên quan, pháp luật quy định tòa án được quyền tuyên bố hạn chế 
năng lực hành vi của những người rơi vào tình trạng “Nghiện ma túy hoặc các chất kích thích 
khác dẫn đến phá tài sản của gia đình” theo yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên quan. 
Kể từ thời điểm quyết định tuyên bố người bị hạn chế năng lực hành vi Dân sự của tòa 
án có hiệu lực pháp luật cho đến khi quyết định đó bị hủy bỏ thì cá nhân không được tự mình 
xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự. Họ chỉ được coi là có đủ năng lực để tự xác lập, thực 
hiện những giao dịch nhỏ nhằm khắc phục cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của bản thân họ. 
Họ muốn tham gia các giao dịch khác phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật  của họ.  – 
Cá nhân không có năng lực hành vi dân sự: Là người tham gia không thể 
nhậnthức suy luận để có thể làm chủ, kiểm soát bất kì hành vi nào của mình. Rơi vào tình 
trạng này bao gồm những người không có người không có khả năng nhận thức từ khi chưa 
thành niên và những người đã thành niên nhưng bị tòa án ra quyết định mất năng lực hành vi 
dân sự theo điều 25 của Bộ luật dân sự 2015. Những người này bị coi là hoàn toàn không có 
năng lực chủ thể nên họ không tự mình xác lập, thực hiện bất kì giao dịch Dân sự nào. Mọi 
giao dịch dân sự nhằm đáp ứng cho nhu cầu của họ đều phải do người đại diện theo pháp luật 
của họ xác lập và thực hiện. 
Tóm lại, năng lực chủ thể là quy định bắt buộc để các cá nhân có thể tham gia vào các 
giao dịch dân sự trong đời sống xã hội, chủ yếu pháp luật đưa ra các trường hợp hạn chế đối 
với hành vi dân sự của cá nhân, theo đó, những người có năng lực hành vi hạn chế hoặc người     
không có năng lực hành vi dân sự sẽ không được tham gia các giao dịch dân sự mà pháp luật 
quy định. Điều đó cũng góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người tham 
gia giao dịch dân sự. 6. Ví dụ về quan hệ chủ thể pháp luật dân sự 
A ký hợp đồng với B, nội dung hợp đồng là A sẽ cho B thuê nhà với giá 10.000.000 
đồng/tháng. Mỗi tháng đến ngày 5 A sẽ đến và thu tiền nhà từ B. Thời hạn hợp đồng thuê nhà 
là 3 năm tính từ ngày 1/5/2020. 
Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự: A (bên cho thuê), B (bên thuê); 
Khách thể của quan hệ pháp luật dân sự: ngôi nhà cho thuê; Nội 
dung quan hệ pháp luật dân sự: 
Quyền của bên cho thuê nhà (A): A có quyền yêu cầu B trả tiền thuê nhà; A có quyền 
yêu cầu B trả lại nhà đã thuê (khi hết hạn hợp đồng); 
Nghĩa vụ của bên cho thuê nhà (A): A có nghĩa vụ phải giao nhà; A phải bảo đảm giá 
trị sử dụng của ngôi nhà cho thuê; và A phải bảo đảm quyền sử dụng tài sản cho bên thuê là  B; 
Quyền của bên thuê nhà (B): có quyền cho thuê lại nhà nếu được bên cho thuê đồng ý; 
Nghĩa vụ của bên thuê nhà (B): B có nghĩa vụ trả tiền thuê nhà; phải bảo quản tài sản 
cho thuê là ngôi nhà; sử dụng tài sản thuê đúng với mục đích, công dụng; trả lại ngôi nhà khi  hết hạn hợp đồng;  KẾT LUẬN 
Tóm lại quan hệ pháp luật dân sự: Là những quan hệ xã hội phát sinh từ những lợi ích vật 
chất, lợi ích nhân thân được các quy phạm pháp luật dân sự điều chỉnh (quan hệ xã hội được 
phát sinh trong lĩnh vực dân sự, liên quan đến các yếu tố như thừa kế, hợp đồng, hôn nhân và 
gia đình…). Trong đó, các bên tham gia vào quan hệ này sẽ bình đẳng về mặt pháp lý. Đồng 
thời, quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên cũng sẽ được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng 
các biện pháp cưỡng chế Nhà nước. Quan hệ pháp luật dân sự có thể tồn tại ngay cả khi không 
có quy phạm pháp luật nào trực tiếp điều chỉnh. Đây cũng là một đặc điểm riêng biệt giúp 
phân biệt quan hệ pháp luật dân sự với các quan hệ pháp luật khác. Bình đẳng thể hiện trong     
việc được hưởng các quyền và nghĩa vụ dân sự. Các quyền và nghĩa vụ này được phát sinh từ 
các quan hệ dân sự mà các chủ thể tham gia vào. Bản thân em là một sinh viên trường đại học 
kinh doanh và công nghệ Hà Nội nắm rõ về quan hệ chủ thể của pháp luật Dân sự Việt Nam 
hiện hành. Vì con nguời tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự là cá nhân - một chủ thể trong 
quan hệ pháp luật dân sự.        DANH MỤC THAM KHẢO  1. 
Giáo trình luật kinh tế 1 - trường đại học Kinh Doanh và Công Nghệ Hà Nội  2.  Các trang mạng Internet  3. 
Luật dân sự 2015 số: 91/2015/QH13