Tìm hiểu về công cuộc cải cách của Trung Quốc và mô hình đi lên chủ nghĩa xã hội mang bản sắc Trung Quốc. Nguyên nhân, kinh nghiệm và bài học lịch sử | Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh

Tìm hiểu về công cuộc cải cách của Trung Quốc và mô hình đi lên chủ nghĩa xã hội mang bản sắc Trung Quốc. Nguyên nhân, kinh nghiệm và bài học lịch sử | Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

lOMoARcPSD| 23022540
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
---------------------------------------
TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: Tìm hiểu về công cuộc cải cách của Trung Quốc và mô
hình đi lên chủ nghĩa xã hội mang bản sắc Trung Quốc. Nguyên
nhân, kinh nghiệm và bài học lịch sử
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Lan Hương
Mã sinh viên: 11218267
Lớp học phần: LLTT1101(122)_35-Tư tưởng Hồ Chí Minh
Giảng viên hướng dẫn: TS.Lê Thị Hoa
Hà Nội, 2022
lOMoARcPSD| 23022540
MỤC LỤC
I. Công cuộc cải cách của Trung Quốc
1. Bối cảnh
1.1 Bối cảnh thế giới……………………………………………..2
1.2 Bối cảnh trong nước………………………………………….3
2. Qúa trình cải cách……………………………………………6
3. Thành tựu đạt được và những vấn đề đặt ra trong tiến trình cải cách
mở cửa
3.1 Thành tựu…………………………………………………….8
3.2 Những vấn đề đặt ra………………………………………....9
II. Mô hình đi lên chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa
xã hội……………………………………………………………9
2. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa……….10
3 Đặc điểm thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội……………...11
4. Giai đoạn 1959 – 1978……………………………………...12
5. Giai đoạn 1978 đến nay..……………………………………15
III. Nguyên nhân, kinh nghiệm và bài học lịch sử
1. Nguyên nhân thành công…………………………………....17
2. Kinh nghiệm và bài học lịch sử
2.1 Điểm tương đồng giữa Việt Nam với Trung Quốc………….18
2.2 Kinh nghiệm và bài học lịch sử……………………………..18
lOMoARcPSD| 23022540
1
LỜI NÓI ĐẦU
Trước khi thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Trung Quốc đã trải qua
hàng nghìn năm dưới chế độ phong kiến và thực dân. Vốn là quốc gia có diện tích lớn,
đông dân, tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng dưới sự thống trị của phong kiến
và thực dân làm cho nền kinh tế Trung Quốc lâm vào khủng hoảng, nghèo nàn, lạc
hậu. Sau khi thành lập Trung Quốc đã lựa chọn con đường xây dựng Chủ Nghĩa Xã
Hội, thành công nhiều nhưng thất bại cũng không ít, thậm chí có giai đoạn nền kinh tế
Trung Quốc đã rơi vào tình trạng hỗn loạn, cùng cực. Tuy nhiên, trong vòng ba thập
kỷ trở lại đây công cuộc cải cách và mở cửa đã khiến đất nước này đã có những bước
tiến kỳ diệu trên con đường phát triển kinh tế, tìm ra lối thoát cho một quốc gia xã hội
chủ nghĩa trì trệ trở thành năng động, phát triển. Nó còn đóng góp nhiều kinh nghiệm
cho các nước phát triển đi lên hiện đại.
Việt Nam là nước láng giềng với Trung Quốc, cũng phải trải qua nhiều năm dưới
ách thống trị của phong kiến và chủ nghĩa đế quốc thực dân cùng với các cuộc chiến
tranh liên miên đã làm cho đất nước bị tàn phá nặng nề. Giữa Việt Nam và Trung
Quốc có nhiều điểm tương đồng về lịch sử, văn hóa, kinh tế - xã hội cũng như định
hướng chính trị. Do vậy, việc nghiên cứu những thành công hay hạn chế trên đường
cải cách, mở cửa của Trung Quốc sẽ cho chúng ta những bài học sâu sắc và bổ ích.
Tiểu luận “Tìm hiểu về công cuộc cải cách của Trung Quốc và mô hình đi lên chủ
nghĩa xã hội mang bản sắc Trung Quốc. Nguyên nhân, kinh nghiệm và bài học lịch
sử” sẽ cho chúng ta cái nhìn cận cảnh hơn về công cuộc cải cách, mở cửa nền kinh tế
của Trung Quốc. Từ đó rút ra những bài học, cả về kinh nghiệm thành công, lẫn kinh
nghiệm thất bại cho quá trình phát triển kinh tế nước nhà.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến cô Nguễn Thị Hoa. Cảm ơn cô đã tận
tình chỉ bảo, dạy dỗ chúng em để chúng em thêm yêu và hiểu về tầm quan trọng của
môn học “ tư tưởng Hồ Chí Minh”. Một lần nữa cảm ơn cô rất nhiều!
I. Công cuộc cải cách của Trung Quốc
1. Bối cảnh
1.1 Bối cảnh thế giới
lOMoARcPSD| 23022540
2
Công cuộc cải cách – mở cửa ở Trung Quốc được tiến hành trong bối cảnh: xu
hướng cải cách đang diễn ra ở nhiều nước trên thế giới.
Từ cuối những năm 50 – đầu những năm 60 của thế kỉ XX, mô hình xã hội chủ
nghĩa theo kiểu tập trung, quan liêu, bao cấp, kế hoạch hóa cao độ đã bắt đầu bộc lộ
một số hạn chế. Trước tình hình đó, tại một số nước xã hội chủ nghĩa, tư tưởng cải
cách đã bắt đầu xuất hiện và bước đầu được triển khai. Ví dụ như: Ở Hungary, năm
1968, nhà nước cũng bãi bỏ kế hoạch pháp lệnh, tăng cường tác dụng của thị trường,
mở rộng quyền tự chủ của xí nghiệp nhưng vẫn đồng thời đảm bảo vai trò chỉ đạo của
nhà nước....
Cuộc khủng hoảng năng lượng 1973 bùng nổ, gây những ảnh hưởng nghiêm
trọng tới nền kinh tế, chính trị, xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới. Những cuộc
khủng hoảng này đặt nhân loại đứng trước những vấn đề bức thiết phải giải quyết như
tình trạng vơi cạn dần nguồn tài nguyên, bùng nổ dân sốĐể thích nghi với hoàn
cảnh, thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, suy yếu và trì trệ, các nước tư bản phát triển
như: Mĩ, Anh, Pháp... đã nhanh chóng thực hiện những điều chỉnh chiến lược về kinh
tế - chính trị - xã hội... Nhờ vậy, các nước này đã vượt qua khủng hoảng và tiếp tục
phát triển. Đến giữa những năm 70 của thế kỉ XX, hầu hết các nước trong khu vực Mĩ
Latinh như Chilê, Urugoay đã đề ra và tiến hành những chiến lược cải cách, học tập
theo mô hình Mĩ.
Yêu cầu cải cách về kinh tế, chính trị, xã hội để thích nghi với sự phát triển
nhanh chóng của cách mạng khoa học – kỹ thuật và sự giao lưu, hợp tác quốc tế ngày
càng phát triển mạnh mẽ theo xu thế quốc tế hoá.
Trong bối cảnh trên, yêu cầu lịch sử đặt ra đối với tất cả các nước là phải nhanh
chóng cải cách về kinh tế, chính trị- xã hội để thích ứng.
1.2 Bối cảnh trong nước
Đối nội: từ năm 1959 đến năm 1978 Trung Quốc trải qua 20 năm không ổn định
về kinh tế, chính trị, xã hội. Với việc thực hiện đường lối “Ba ngọn cờ hồng” nền kinh
tế Trung Quốc rơi vào tình trạng hỗn loạn, sản xuất giảm sút nghiêm trọng, đời sống
nhân dân gặp nhiều khó khăn…Trong nội bộ Đảng và Nhà nước Trung Quốc diễn ra
lOMoARcPSD| 23022540
3
những bất đồng gay gắt về đường lối, tranh chấp về quyền lực, đỉnh cao là cuộc “Đại
cách mạng văn hóa vô sản” (1966-1976)…
Đối ngoại: ủng hộ cuộc đấu tranh chống Mĩ của nhân dân Việt Nam…xảy ra
những cuộc xung đột biên giới giữa Trung Quốc với các nước Ấn Độ, Liên Xô
Tháng 2- 1972, Tổng thống Mĩ R.Nichxơn sang thăm Trung Quốc, mở đầu quan hệ
mới theo chiều hướng hoà dịu giữa hai nước. Bối cảnh lịch sử trên đòi hỏi Trung
Quốc tiến hành cải cách để phù hợp với xu thế chung của thế giới và đưa đất nước
thoát ra khỏi tình trạng không ổn định…
2. Quá trình cải cách của Trung Quốc từ 1978 đến nay Giai
đoạn đầu chuyển đổi thể chế kinh tế (1978 - 1991)
Đảng Cộng sản Trung Quốc với phương châm “giải phóng tư tưởng, thực sự cầu
thị”, chuyển trọng tâm công tác từ“lấy đấu tranh giai cấp làm cương lĩnh” sang “lấy
xây dựng kinh tế làm trung tâm” nhằm mục tiêu xây dựng hiện đại hóa xã hội chủ
nghĩa. Giai đoạn đầu tập trung vào chuyển đổi thể chế kinh tế với việc “khoán ruộng
đất”, “phát triển xí nghiệp hương trấn” ở nông thôn, sau đó tiến hành mở rộng t
điểm quyền tự chủ kinh doanh của xí nghiệp quốc hữu ở thành phố, tiến hành mở cửa,
xây dựng đặc khu kinh tế, xây dựng các loại thị trường. Việc xây dựng các đặc khu
kinh tế (SEZs) ở Trung Quốc tương đối thành công. SEZs đã phát huy được vai trò
“cửa sổ” và “cầu nối” có ảnh hưởng tích cực đối với trong và ngoài nước. SEZs của
Trung Quốc đã đạt được thành công bước đầu trong sự kết hợp giữa kế hoạch và thị
trường. Những năm 1984 - 1991, cải cách xí nghiệp quốc hữu là trọng tâm, cải cách
giá cả là then chốt trong toàn bộ cuộc cải cách. Trong giai đoạn chuyển đổi thể chế
kinh tế (1979 - 1991), Trung Quốc đã tìm tòi, tổ chức thí điểm, từng bước tiếp nhận cơ
chế thị trường, sửa chữa những khuyết điểm của thể chế kinh tế kế hoạch.
Giai đoạn xây dựng khung thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa (1992 -
2002)
Bước sang thập niên 90 của thế kỷ XX, tình hình thế giới diễn ra những biến đổi
to lớn và sâu sắc. Hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã, Liên Xô giải thể, đảng cộng sản ở
các nước Đông u mất địa vị cầm quyền. Chiến tranh lạnh kết thúc, nhiều nước tiến
hành điều chỉnh chính sách phát triển kinh tế - xã hội, đối ngoại.
lOMoARcPSD| 23022540
4
Tại Trung Quốc, sự nghiệp cải cách, mở cửa đối mặt với nhiều thách thức to lớn.
Vấn đề cải cách, mở cửa thành công hay thất bại, đi theo con đường xã hội chủ nghĩa
(họ Xã) hay tư bản chủ nghĩa (họ Tư) thổi bùng các cuộc tranh luận (đại luận chiến).
Trước tình hình đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc chủ trương gác lại các cuộc tranh
luận, tiến hành “Ba điều có lợi” (có lợi cho phát triển sức sản xuất xã hội chủ nghĩa,
có lợi cho đất nước, có lợi cho đời sống nhân dân), mạnh dạn xông pha vào thực tiễn
và lấy thực tiễn để kiểm nghiệm. Đại hội XIV Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm 1992)
nêu mục tiêu xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh mở cửa.
Đây được coi là cuộc giải phóng tư tưởng lần thứ hai, là mốc quan trọng trong tiến
trình cải cách, mở cửa ở Trung Quốc.
Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đặc biệt là Hội nghị Trung ương 3
khóa XIV (năm 1993) thông qua “Quyết định về một số vấn đề xây dựng thể chế kinh
tế thị trường xã hội chủ nghĩa”, trong đó chỉ rõ: “lấy chế độ công hữu làm chủ thể,
nhiều thành phần kinh tế khác cùng phát triển,... xây dựng chế độ phân phối thu nhập,
lấy phân phối theo lao động làm chính, ưu tiên hiệu quả, quan tâm tới công bằng,
khuyến khích một số vùng, một số người giàu có lên trước, đi con đường cùng giàu
có”(1). Đại hội XV Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm 1997) đã xác định mục tiêu xây
dựng Nhà nước pháp trị xã hội chủ nghĩa.
Giai đoạn đẩy mạnh xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa (2002
2012), cải cách theo chiều sâu
Năm 2001 Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Sự kiện
này đánh dấu tiến trình hội nhập quốc tế sâu rộng của Trung Quốc. Từ Đại hội XVI
(năm 2002) Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, đứng đầu là Tổng Bí thư Hồ
Cẩm Đào đã nêu ra quan điểm phát triển khoa học, xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ
nghĩa, thúc đẩy phát triển toàn diện hài hòa và bền vững kinh tế - xã hội. Đại hội XVII
Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm 2007) nêu chủ trương từ “tam vị nhất thể” - bao
gồm kinh tế, chính trị và văn hoá sang “tứ vị nhất thể” - bao gồm kinh tế, chính trị,
văn hoá và xã hội.
Bước sang thế kỷ XXI, Trung Quốc đã xây dựng được cục diện cải cách, mở cửa
toàn phương vị, đa tầng nấc; hình thành các cực tăng trưởng, Trước đó, Tiểu Chu
lOMoARcPSD| 23022540
5
Giang với nòng cốt là Quảng Châu, Thâm Quyến được coi là cực tăng trưởng thứ nhất
của Trung Quốc, hình thành trong giai đoạn đầu của cải cách, mở cửa với việc xây
dựng 4 đặc khu (Thâm Quyến, Chu Hải, Sán Đầu, Hạ Môn). Tiếp đó, từ năm 1984,
Trung Quốc tiến hành mở cửa 14 thành phố ven biển, ven sông, ven biên giới. Từ năm
1990, Trung Quốc đẩy mạnh xây dựng Phố Đông, coi đây là “đầu tàu” lôi kéo và kết
nối các điểm tăng trưởng hạ lưu sông Tờng Giang và ven biển Đông Hải. Sự ra đời
của Phố Đông (Thượng Hải) đánh dấu sự xuất hiện cực tăng trưởng thứ hai của Trung
Quốc. Ngày 6-6-2006, Chính phủ Trung Quốc đã công bố “Ý kiến về mấy vấn đề thúc
đẩy mở cửa phát triển Khu mới Tân Hải Thiên Tân”, đánh dấu việc chủ trương đưa
Thiên Tân vươn lên trở thành cực tăng trưởng thứ ba của Trung Quốc, gắn liền các
điểm tăng trưởng xoay quanh vịnh Bột Hải. Tiếp đó, vùng Thành Đô - Trùng Khánh
(Xuyên Du), Khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ (Quảng Tây), Khu kinh tế bờ Tây (Phúc Kiến)
cũng phấn đấu trở thành cực tăng trưởng tiếp theo ở Trung Quốc. Năm 2008, Quốc vụ
viện Trung Quốc đã phê chuẩn “Cương yếu quy hoạch Khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ”, thể
hiện quyết tâm của Trung Quốc trong xây dựng cực tăng trưởng mới - cực tăng trưởng
kết nối giữa Trung Quốc và ASEAN.
Giai đoạn cải cách toàn diện và sâu rộng (từ năm 2012 đến nay)
Từ Đại hội XVIII của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đặc biệt là Hội nghị Trung
ương 3 khóa XVIII thông qua Nghị quyết về cải cách toàn diện và sâu rộng, thực hiện
“giấc mộng Trung Quốc”, “phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa”. Tổng Bí thư Tập
Cận Bình với tư cách là “hạt nhân lãnh đạo” đã kế thừa, phát huy và hoàn thiện cương
lĩnh, đường lối phát triển của Trung Quốc, hình thành nên “Bố cục tổng thể”: phát
triển “5 trong 1” (kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, môi trường) và bố cục chiến lược
“Bốn toàn diện”. Kinh tế bước vào giai đoạn “trạng thái bình thường mới”, “Made in
China 2025”... tìm kiếm chuyển đổi phương thức tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế
và động lực phát triển mới. Sáng kiến “Vành đai, Con đường” được xem là giải pháp
chiến lược, vừa thúc đẩy cải cách trong nước, vừa phát huy vai trò đối ngoại.
Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới đã
được Đại hội XIX khẳng định, đưa vào Điều lệ Đảng, trở thành tư tưởng chỉ đạo đối
với Đảng và Nhà nước Trung Quốc sau khi Hiến pháp được bổ sung, sửa đổi năm
lOMoARcPSD| 23022540
6
2018. Trung Quốc đẩy mạnh cải cách, mở cửa toàn diện và sâu rộng hướng tới mục
tiêu trở thành cường quốc xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI.
3. Thành tựu đạt được và những vấn đề đặt ra trong tiến trình cải cách mở cửa
3.1 Thành tựu
Nền kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh chóng, đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất
thế giới. Từ khi bước sang thập niên thứ hai của thế kỷ XXI đến nay, kinh tế Trung
Quốc đạt được nhiều thành tựu. Năm 2017, GDP của Trung Quốc đạt 82.712,2 tỷ nhân
dân tệ (NDT), tăng 6,9% so với năm 2016. Tốc đô tăng trưởng bình quân GDP của 
Trung Quốc trong giai đoạn 2013 - 2017 là 7,1%, trong khi mức tăng trưởng trung
bình của toàn cầu là 2,6% và của các nền kinh tế đang phát triển là 4%. Mức đóng góp
trung bình của Trung Quốc vào tăng trưởng kinh tế thế giới trong giai đoạn 2013 -
2017 là khoảng 30%, lớn nhất trong tất cả các quốc gia và cao hơn cả tổng mức đóng
góp của Mỹ, các nước trong khu vực đồng ơ-rô và Nhật Bản. Một điểm đáng chú ý
nữa là GDP của Trung Quốc năm 2016 đã đạt 10.730 tỷ USD, hoàn thành sớm hơn 4
năm mục tiêu GDP năm 2020, tăng gấp 4 lần năm 2000. Tỷ trọng GDP của Trung
Quốc trong GDP toàn cầu từ 1,8% năm 1978 tăng lên 15% năm 2018. Sáng tạo trở
thành định hướng và giải pháp quan trọng trong chuyển đổi phương thức phát triển
kinh tế của Trung Quốc. Mức chi cho nghiên cứu và phát triển (R&D) đã tăng 52,2%
kể từ năm 2012, đạt 1.570 tỷ NDT vào năm 2016. Tỷ lệ chi tiêu cho R&D trong GDP
đã tăng từ 1,91% lên 2,11% (từ năm 2012 đến 2016). Số lượng các đơn xin cấp bằng
sáng chế mà Trung Quốc nhận được trong năm 2016 tăng 69% kể từ năm 2012, trong
khi số bằng sáng chế được cấp năm 2016 tăng 39,7% kể từ năm 2012. Năm 2017, chi
cho R&D là 1.750 tỷ NDT, tăng 11,6% so với năm 2016. Từ năm 2013, Trung Quốc
đã trở thành quốc gia hàng đầu trên toàn cầu về doanh số bán rô-bốt công nghiệp.
Cường quốc rô-bốt sẽ là một nhiệm vụ chiến lược để Trung Quốc thúc đẩy mạnh mẽ
Chiến lược “Made in China 2025”. Năm 2016, Trung Quốc đầu tư cho R&D là
1.567,67 tỷ NDT; nguồn tài chính dành cho khoa học công nghệ là 776,07 tỷ NDT.
Năm 2016, trong số 53 doanh nghiệp khoa học công nghệ tiến hành IPO trên thế giới
(phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu), Trung Quốc có 18 doanh nghiệp.
lOMoARcPSD| 23022540
7
Về kinh tế đối ngoại, giá trị của thương mại hàng hóa đạt 27,7 nghìn tỷ NDT vào
năm 2017, chiếm hơn 11% tổng khối lượng thương mại toàn cầu. Trung Quốc trở
thành đối tác thương mại lớn nhất của hơn 120 nước. Mức độ đô thị hóa từ 17,9% năm
1978 tăng lên 58,5% năm 2017. Số thành phố từ 193 tăng lên 657 thành phố.
Hiện nay, Trung Quốc có 136.000km đường cao tốc và 25.000km đường sắt cao tốc.
Năm 2017, đường sắt cao tốc chuyên chở hơn 3 tỷ lượt khách.
Thu nhập của người dân được nâng cao, với mức bình quân đầu người tăng từ
7.311 NDT năm 2012 lên 23.821 NDT năm 2016, tỷ lệ tăng hằng năm là 7,4%. Năm
2017, thu nhập bình quân cư dân đạt 25.974 NDT. Thu nhập bình quân đầu người của
người dân nông thôn ở khu vực nghèo tăng bình quân 10,7% trong giai đoạn 2013 -
2016, tăng nhanh hơn mức bình quân 8% đối với tất cả người dân nông thôn. Số người
nghèo ở nông thôn từ 97,5% năm 1978 giảm xuống 3,1% năm 2017, còn khoảng
30,46 triệu người nghèo. Mạng lưới an sinh xã hội đã được hình thành rộng khắp. Bảo
hiểm dưỡng lão xã hội đã bao phủ tới 900 triệu dân, bảo hiểm y tế cơ bản đã tới hơn
1,3 tỷ người dân.
Năm 2017, dân số Trung Quốc là 1,39 tỷ người, trong đó dân số đô thị khoảng
813,47 triệu người. Số nghiên cứu sinh là 2,63 triệu người, sinh viên đại học, cao
đẳng: 27,53 triệu, số học sinh trung học phổ thông: 23,74 triệu; trung học cơ sở: 44,42
triệu; tiểu học: 1.009 triệu. Từ năm 2011, số lượng nhân lực khoa học - công nghệ đã
vượt 63 triệu người, năm 2017 đạt 81 triệu người. Số sinh viên du học nước ngoài tr
về nước là hơn 1,1 triệu người. Năm 2016, số lượng đăng ký bản quyền tác giả là
1.257.439 (WIPO). Năm 2017, Trung Quốc đứng thứ 25 trong bảng xếp hạng “sức
mạnh mềm” thế giới.
Tổng giá trị xuất nhập khẩu năm 1997 lên tới 325,00 tỉ USD.
Năm 2016, Trung Quốc trở thành nước xuất khẩu các sản phẩm khoa học công
nghệ cao đứng đầu châu Á. Các hạng mục khoa học lớn được hoàn thành, như máy
tính Thiên Hà, tàu vũ trụ Thần Châu, trạm vũ trụ Thiên Cung, máy lặn Giao Long,
máy bay vận tải cỡ lớn..
lOMoARcPSD| 23022540
8
Đối ngoại: vai trò và địa vị kinh tế của nước này ngày càng nâng cao, Trung Quốc đã
thu hồi chủ quyền đối với Hồng Kông (7-1997) và Ma Cao (12-1999). Đài Loan
một bộ phận riêng mà Trung Quốc nhưng đến nay chưa kiểm soát được.
3.2 Những vấn đề đặt ra
Sau 40 năm tiến hành cải cách, mở cửa, Trung Quốc đã đạt được nhiều thành tựu
to lớn về mọi mặt, song cũng đang đứng trước nhiều vấn đề, thách thức lớn. Trung
Quốc đang tìm kiếm sự thay đổi về phương thức và mô hình phát triển thay thế
phương thức tăng trưởng chủ yếu dựa vào tài nguyên và nhân công rẻ, dựa vào đầu tư
lớn và xuất khẩu mạnh trước đây. Kinh tế Trung Quốc nằm trong xu thế suy giảm tăng
trưởng. Tốc độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc năm 2014 là 7,4%, mức thấp nhất
trong 24 năm kể từ năm 1990, năm 2015 là 6,9%; năm 2016: 6,7%; năm 2017: 6,9%.
Vấn đề đặt ra đối với kinh tế Trung Quốc hiện nay là chất lượng tăng trưởng kinh tế
vẫn còn thấp, mất cân bằng, không hợp lý và không bền vững. Vấn đề nợ công và vấn
đề sản xuất thừa vẫn chưa được giải quyết. Do tăng trưởng tốc độ cao trong một thời
gian dài, những hệ lụy để lại cho nền kinh tế Trung Quốc vẫn chưa được giải quyết
triệt để, chưa được khắc phục kịp thời, như cạn kiệt các nguồn tài nguyên và ô nhiễm
môi trường, mức độ chênh lệch giàu - nghèo cao, phát triển không cân đối... vượt qua
“bẫy thu nhập trung bình”, hướng tới thu nhập cao, chất lượng cao, phát triển xã hội
và quản trị xã hội vẫn là những thức thức lớn. Từ năm 2018, vận hành kinh tế Trung
Quốc là vượt qua ba trận chiến phòng ngừa hóa giải rủi ro lớn, xóa đói, giảm nghèo
chuẩn xác, phòng, chống ô nhiễm, phát triển từ “tốc độ cao” sang “chất lượng cao” đặt
ra nhiều thử thách lớn không dễ giải quyết nhanh chóng.
Trọng tâm của cải cách, xây dựng hiện đại hóa của Trung Quốc sẽ mở rộng từ
kinh tế sang chính trị, xã hội. Qua bốn thập niên cải cách, mở cửa, các tầng lớp xã hội
mới xuất hiện, sự di động xã hội giữa các tầng lớp và khu vực diễn ra mạnh mẽ. Sự
xuất hiện của các tầng lớp xã hội mới, đặc biệt là tầng lớp trung lưu gắn với xây dựng
xã hội khá giả sẽ là nhân tố không thể bỏ qua trong quá trình cải cách chính trị ở
Trung Quốc. Việc chuyển đổi mô hình phát triển, cải cách xã hội đòi hỏi Đảng Cộng
sản Trung Quốc phải chuyển đổi phương thức lãnh đạo và nâng cao năng lực cầm
quyền. Xây dựng và thúc đẩy pháp trị, dân chủ trở thành yêu cầu bức thiết.
lOMoARcPSD| 23022540
9
Cục diện thế giới có nhiều diễn biến mới với vai trò và vị thế của Trung Quốc
được nâng cao khi tổng lượng kinh tế đã đứng thứ hai thế giới. Mặt khác, Trung Quốc
cũng phải đối mặt với những thách thức về vấn đề nhân quyền, dân tộc, tôn giáo, giữa
cải cách trong nước và mở cửa đối ngoại, quan hệ giữa Trung Quốc với các nước láng
giềng, đặc biệt là cạnh tranh chiến lược với các nước lớn hiện nay.
II. Mô hình đi lên chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc 1. Quan điểm
của chủ nghĩa Mác- Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội tất yếu phải trải qua thời kỳ quá độ chính trị. C. Mác khẳng định: “Giữa xã hội tư
bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ
hội này sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và
nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng
của giai cấp vô sản”.
2. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa
Một là, bất kỳ quá trình chuyển biến từ một hội này lên một hội khác đều
nhất định phải trải qua một hời kỳ gọi thời kỳ quá độ. Đó thời kỹ còn sự đan
xen lẫn nhau giữa các yếu tố mới và cũ trong cuộc đấu tranh với nhau. Từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa hội một bước nhảy lớn căn bản về chất so với các quá trình
thay thế từ hội lên hội mới đã từng diễn ra trong lịch sử thì thời kỳ quá độ lại
càng là một tất yếu, thậm chí có thể kéo dài.
Hai là, sự ra đời của một hội mới bao giờ cũng những sự kế thừa nhất định
từ những nhân tố do hội cũ tạo ra. Sự ra đời của chủ nghĩa hội sự kế thừa đối
với chủ nghĩa bản, đặc biệt trên phương diện kế thừa sở vật chất kỹ thuật đã
được tạo ra bởi sự phát triển của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa.
Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh trong lòng
chủ nghĩa tư bản, chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công việc mới mẻ, khó khăn
và phức tạp. Với tư cách là người chủ của xã hội mới, giai cấp công nhân và nhân dân
lao động không thể ngay lập tức nó cần phải có thời gian nhất dịnh.
lOMoARcPSD| 23022540
10
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước có trình độ phát triển kinh tế - xã
hội khác nhau có thể diễn ra khoảng thời khác nhau. Đối với những nước đã trải qua
chủ nghĩa tư bản phát triển ở trình độ cao khi tiến lên chủ nghĩa xã hội thì thời kỳ quá
độ có thể tương đối ngắn. Những nước đã trải qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa
bản ở trình độ trung bình, đặc biệt là những nước còn ở trình độ phát triển tiền tư bản,
có nền kinh tế lạc hậu thì thời kỳ quá độ thường kéo dài với rất nhiều khó khăn, phức
tạp.
3. Đặc điểm thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá dộ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là
sự tồn tại những yếu tố của xã hội cũ bên cạnh những nhân tố mới của chủ nghĩa
hội trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống kinh tế - xã hội.
Trên lĩnh vực kinh tế:
Thời kỳ quá độ là thời kỳ tất yếu còn tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần
trong một hệ thống kinh tế quốc dân thông nhất. Đây là bước quá độ trung gian tất yếu
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, không thể dùng ý chí để xóa bỏ ngay kết
cấu nhiều thành phần của nền kinh tế, nhất là đối với những nước còn ở trình độ chưa
trải qua sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Trên lĩnh vực chính trị:
Do kết cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đa dạng, phức tạp,
nên kết cấu giai cấp của xã hội trong thời kỳ này cũng đa dạng phức tạp. Nói chung,
thời kỳ này thường bao gồm: giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức, những
người sản xuất nhỏ, tầng lớp tư sản và một số tầng lớp xã hội khác tuỳ theo từng điều
kiện cụ thể của mỗi nước. Các giai cấp, tầng lớp này vừa hợp tác, vừa đấu tranh với
nhau.
Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá:
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều yếu tố tư tưởng và
văn hoá khác nhau. Bên cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa còn tồn tại tư tưởng tư sản,
lOMoARcPSD| 23022540
11
tiểu tư sản, tâm lý tiểu nông,... Trên lĩnh vực văn hoá cũng tồn tại các yếu tố văn hoá
cũ và mới, chúng thường xuyên đấu tranh với nhau.
Thực chất của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ
diễn ra cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản đã bị đánh bại không còn là giai
cấp thống trị và những thế lực chống phá chủ nghĩa xã hội với giai cấp công nhân và
quần chúng nhân dân lao động. Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong điều kiện mới là
giai cấp công nhân đã nắm được chính quyền nhà nước, quản lý tất cả các lĩnh vực đời
sống xã hội. Cuộc đấu tranh giai cấp với những nội dung, hình thức mới, diễn ra trong
lĩnh vực chính trị, kinh tế, tư tưởng - văn hóa, bằng tuyên truyền vận động là chủ yếu,
bằng hành chính và luật pháp.
4. Giai đoạn 1959 - 1978
Giai đoạn bất ổn, khủng hoảng toàn diện
Về đối nội: lâm vào tình trạng không ổn định về mọi mặt
Kinh tế: Thực hiện đường lối “Ba ngọn cờ hồng” (bao gồm: Đường lối chung,
Đại nhảy vọt trong công nghiệp, Công xã nhân dân trong nông nghiệp) do Mao Trạch
Đông tiến hành không đạt hiệu quả. Trong thời kỳ Đại nhảy vọt, nông dân được tập
hợp vào các công xã và các hoạt động sản xuất riêng bị cấm. Điều này khiến động lực
sản xuất của nông dân sút giảm, dẫn tới việc canh tác bị thực hiện qua loa, sản lượng
lương thực sụt giảm. Những áp lực xã hội áp đặt lên người dân về mặt nông nghiệp
lẫn thương mại, mà chính phủ kiểm soát, dẫn tới tình trạng mất ổn định. Vì những
luật lệ được ban hành, các chính sách kinh tế, nông nghiệp sai lầm trong Đại nhảy vọt
như Chiến dịch diệt chim sẻ, xây dựng công xã nhân dân
Hậu quả:
“Đại nhảy vọt” là cuộc diệt chủng lớn nhất trong lịch sử loài người, khéo người
nông dân tham gia sản xuất thép, bỏ hoang ruộng vườn, từ đó gây ra nạn đói khủng
khiếp. Người dân chết đói như ngả rạ, những người còn sống thì vật vã ăn xin, nhiều
vùng ở TQ như sắp đến ngày tận thế. Năm 1988, chính phủ TQ chính thức thừa nhận
có khoảng 20tr chết đói trong giai đoạn này.
lOMoARcPSD| 23022540
12
Khiến kinh tế TQ tụt dốc không phanh, nông nghiệp trì trệ, công nghiệp lụi bại,
ô nhiễm không khí gia tăng, đời sống nhân dân k đc đảm bảo do phải hít quá nhiều bụi
bẩn từ môi trường. Đặc biệt chiến dịch “diệt chim sẻ” đã gây mất cân bằng ở hệ sinh
thái khiến nạn đói kinh hoàng nối tiếp suốt nhiều năm. Đất nước rơi váo tình trạng bất
ổn định.
Chính trị: Có biến động lớn, nội bộ lãnh đạo Trung Quốc bất đông gay gắt về
đường lối, tranh giành quyền lực, đỉnh cao là cuộc “Đại cách mạng văn hóa vô sản”
(1966 – 1976) để lại hậu quả nghiêm trọng đối với nhân dân Trung Quốc.
Hậu quả:
Cách mạng văn hóa ở Trung Quốc đã để lại những hậu quả nghiêm trọng không
chỉ về kinh tế, xã hội mà cả về văn hóa. Trước khi Mao Trạch Đông qua đời, người ta
có ước tính rằng có khoảng 12 đến 20 triệu người, gồm 5,4 triệu Hồng vệ binh, đã trải
qua lao động nặng nhọc ở nông thôn, trong đó là 1 triệu người dân Thượng Hải, tức là
18% dân số của thành phố lúc đó. Khoảng 3 triệu người (trong đó có nhiều Đảng viên
Đảng Cộng sản Trung Quốc) bị kỷ luật hoặc cầm tù, 60% đảng viên bị khai trừ, nhiều
người trong số họ bị trục xuất về nông thôn để lao động nặng nhọc trong thời gian
diễn ra Cách mạng văn hóa. Về mặt xã hội, trong thời Cách mạng văn hóa, nhiều
trường đại học ở Trung Quốc đã bị đóng cửa, dẫn đến hậu quả là cả một thế hệ người
Trung Quốc không được tiếp cận với giáo dục đại học.
Xã hội: Hỗn loạn, đời sống nhân dân khó khăn
Về đối ngoại
Xảy ra xung đột biên giới với Ấn Độ 1962, Liên Xô 1969, Ủng hộ Việt Nam
chống Mỹ và cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Á, Phi, Mỹ la tinh, từ
1972 quan hệ hòa dịu với Mỹ
5. Giai đoạn 1978 đến nay
Về kinh tế.
Bắt đầu từ cuối năm 1978 các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã tiến hành cải tổ nền
kinh tế từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung kiểu Xô viết sang nền kinh tế hướng
thị trường hơn nhưng vẫn trong khuôn khổ kiểm soát của Đảng. Theo mục tiêu này,
lOMoARcPSD| 23022540
13
chính quyền đã chuyển sang cơ chế khoán trong nông nghiệp thay cho hình thức hợp
tác xã, tăng quyền hành đối với cán bộ địa phương và lãnh đạo các nhà máy trong
công nghiệp, cho phép hoạt động đối với một loạt các doanh nghiệp cỡ nhỏ trong các
ngành dịch vụ và sản xuất nhỏ, và mở cửa nền kinh tế cho ngoại thương và đầu tư
nước ngoài. Các chính sách kiểm soát giá cả cũng được nới lỏng. Kết quả là nền kinh
tế Hoa Lục đã chuyển từ một nền kinh tế mệnh lệnh sang hình thức kinh tế hỗn hợp,
dung hòa giữa sở hữu tư nhân và nhà nước tạo nên một thứ chủ nghĩa tư bản nhà nước
mang đặc trưng của Trung Quốc.
Trong hai thập niên cuối thế kỷ XX, ở Trung Quốc đã diễn ra những thay đổi to
lớn. Trung Quốc đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội với bước chuyển biến lịch
sử là “lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm”. Thể chế kinh tế, xã hội có bước chuyển
biến mạnh mẽ theo hướng xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
Về lý luận chính trị
Sau Hội nghị Trung ương 3 khóa XI (năm 1978), Đảng Cộng sản Trung Quốc đã
hình thành lý luận "một trung tâm, hai điểm cơ bản", đến Đại hội XII (năm 1982),
Đảng Cộng sản Trung Quốc đưa ra khái niệm "Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc",
nhưng đến Đại hội XIV (năm 1992) mới đưa ra nội dung chủ yếu của "lý luận chủ
nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc", bao gồm 9 vấn đề: Con đường phát triển chủ nghĩa
xã hội (CNXH), Giai đoạn phát triển của CNXH: Trung Quốc đang ở giai đoạn đầu
của CNXH, đó là giai đoạn rất dài, ít nhất 100 năm, Nhiệm vụ cơ bản của xã hội
XHCN; Động lực phát triển của CNXH, Điều kiện bên ngoài của xây dựng kinh tế
XHCN, Bảo đảm chính trị cho công cuộc xây dựng CNXH; Bước đi chiến lược xây
dựng CNXH, Động lực lãnh đạo và chỗ dựa của CNXH, Vấn đề thống nhất đất nước.
Tại Đại hội XVII (năm 2007), lần đầu tiên Đảng Cộng sản Trung Quốc đưa ra
khái niệm về hệ thống lý luận "chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc", gồm lý luận
Đặng Tiểu Bình, tư tưởng quan trọng "ba đại diện" và quan điểm "phát triển khoa
học". Tư tưởng quan trọng "ba đại diện" là phương châm chỉ đạo quan trọng trong
phát triển kinh tế - xã hội Trung Quốc, là tư tưởng chiến lược quan trọng cần được
kiên trì và quán triệt trong phát triển chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc". "Phát
triển khoa học" được xác định là "yêu cầu cơ bản" của công cuộc phát triển chủ nghĩa
lOMoARcPSD| 23022540
14
xã hội đặc sắc Trung Quốc, là sự kế thừa và phát triển tư tưởng quan trọng của tập thể
lãnh đạo trung ương thế hệ thứ ba, là sự thể hiện tập trung thế giới quan và phương
pháp luận về phát triển của nghĩa Mác, là lý luận khoa học vừa tiếp nối vừa phát triển
tiến cùng thời đại của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng
Tiểu Bình. Hàm nghĩa quan trọng hàng đầu của quan điểm "phát triển khoa học" là
"phát triển". Hạt nhân của quan điểm "phát triển khoa học" là "lấy con người làm
gốc". Yêu cầu cơ bản của quan điểm phát triển một cách khoa học là "sự hài hòa bền
vững toàn diện". Phương pháp căn bản của quan điểm này là "bố trí đồng bộ".
Về xã hội
Khi vừa bắt đầu giai đoạn cải cách 1978 giai cấp công nhân và nông dân được
xem là những trụ cột chính của đất nước. Tuy nhiên hiện nay đã qua rồi thời kỳ mà
công nhân và nông dân được cả xã hội tôn vinh. Giờ đây hai giai cấp này lại trở thành
tầng lớp thấp trong xã hội Trung Quốc. Qua hai thập niên, kể từ khi Trung Quốc tiến
hành cải cách kinh tế, cấu trúc xã hội theo hình kim tự tháp của một nước có nền kinh
tế truyền thống chủ yếu dựa trên nông nghiệp đã bị thay thế bởi cấu trúc theo hình lá ô
liu với 10 nhánh tầng lớp rõ rệt.
Những vấn đề còn tồn tại
Sau hơn 40 năm tiến hành cải cách, mở cửa, Trung Quốc đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn về mọi mặt, song cũng đang đứng trước nhiều vấn đề, thách thức lớn.
Trung Quốc đang tìm kiếm sự thay đổi về phương thức và mô hình phát triển thay thế
phương thức tăng trưởng chủ yếu dựa vào tài nguyên và nhân công rẻ, dựa vào đầu tư
lớn và xuất khẩu mạnh trước đây. Kinh tế Trung Quốc nằm trong xu thế suy giảm tăng
trưởng. Tốc độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc năm 2014 là 7,4%, mức thấp nhất
trong 24 năm kể từ năm 1990,m 2015 là 6,9%; năm 2016: 6,7%; năm 2017: 6,9%.
Vấn đề đặt ra đối với kinh tế Trung Quốc hiện nay là chất lượng tăng trưởng kinh tế
vẫn còn thấp, mất cân bằng, không hợp lý và không bền vững. Vấn đề nợ công và vấn
đề sản xuất thừa vẫn chưa được giải quyết. Do tăng trưởng tốc độ cao trong một thời
gian dài, những hệ lụy để lại cho nền kinh tế Trung Quốc vẫn chưa được giải quyết
triệt để, chưa được khắc phục kịp thời, như cạn kiệt các nguồn tài nguyên và ô nhiễm
môi trường, mức độ chênh lệch giàu - nghèo cao, phát triển không cân đối... vượt qua
lOMoARcPSD| 23022540
15
“bẫy thu nhập trung bình”, hướng tới thu nhập cao, chất lượng cao, phát triển xã hội
và quản trị xã hội vẫn là những thức thức lớn. Từ năm 2018, vận hành kinh tế Trung
Quốc là vượt qua ba trận chiến phòng ngừa hóa giải rủi ro lớn, xóa đói, giảm nghèo
chuẩn xác, phòng, chống ô nhiễm, phát triển từ “tốc độ cao” sang “chất lượng cao” đặt
ra nhiều thử thách lớn không dễ giải quyết nhanh chóng.
Trọng tâm của cải cách, xây dựng hiện đại hóa của Trung Quốc sẽ mở rộng từ
kinh tế sang chính trị, xã hội. Qua bốn thập niên cải cách, mở cửa, các tầng lớp xã hội
mới xuất hiện, sự di động xã hội giữa các tầng lớp và khu vực diễn ra mạnh mẽ. Việc
chuyển đổi mô hình phát triển, cải cách xã hội đòi hỏi Đảng Cộng sản Trung Quốc
phải chuyển đổi phương thức lãnh đạo và nâng cao năng lực cầm quyền. Xây dựng
thúc đẩy pháp trị, dân chủ trở thành yêu cầu bức thiết. Cục diện thế giới có nhiều diễn
biến mới với vai trò và vị thế của Trung Quốc được nâng cao khi tổng lượng kinh tế
đã đứng thứ hai thế giới. Mặt khác, Trung Quốc cũng phải đối mặt với những thách
thức về vấn đề nhân quyền, dân tộc, tôn giáo, giữa cải cách trong nước và mở cửa đối
ngoại, quan hệ giữa Trung Quốc với các nước láng giềng, đặc biệt là cạnh tranh chiến
lược với các nước lớn hiện nay.
III.Nguyên nhân, kinh nghiệm và bài học lịch sử
1. Nguyên nhân thành công
Về kiến trúc thượng tầng
Giai đoạn 1949-1977, Trung Quốc là một trong những quốc gia nghèo và kém
phát triển nhất thế giới. Vào thời điểm này 90% Dân số sống tại nông thôn và phần
lớn là nghèo khó. Năm 1978 Hội nghị Trung ương khóa XII trung ương 3 khóa 11
Đảng Cộng sản Trung Quốc (12/1978) quyết định cải cách và mở cửa toàn diện nền
kinh tế. Đặng Tiểu Bình học thuyết mèo trắng mèo đen mèo trắng hay màu đen không
quan trọng những là bắt được chuột. Đặng Tiểu Bình đã dùng cách so sánh màu trắng
mèo đen để diễn tả ý nghĩa trong quan hệ sản xuất không thể hoàn toàn áp dụng một
hình thức cố định bất biến hình thức nào tại địa phương nào có thể khôi phục sản xuất
và phát triển thì áp dụng hình thức đó
lOMoARcPSD| 23022540
16
Kinh tế thị trường là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản không bị coi là xấu như
trước cho phép kinh tế tư nhân miễn sao phát triển được kinh tế xóa các hợp tác
nông nghiệp phân loại đất cho nông dân Tư hữu tăng sản lượng nông nghiệp
Trung Quốc giao dịch với bất cứ chế độ chính trị và thế lực cầm quyền nào miễn
là có lợi về kinh tế
Để thực hiện đường lối mở cửa động theo hình sử dụng mô hình các đặc khu
kinh tế được thành lập từ năm 1980 thu hút đầu tư nước ngoài, kích thích thương mại
quốc nội, tiếp thêm sức lực cho tăng trưởng kinh tế (Thâm Quyến, Chu Hải…)
Trước năm 1979 Thâm Quyến chỉ là một làng chài nhỏ. Đặc khu kinh tế Thâm
Quyến có diện tích 2050 km vuông, dân số năm 2007 là 8,6 triệu người, GDP 6 76,5
tỷ nhân dân tệ. Trong 30 năm qua Thâm Quyến đã thu hút trên 30 tỷ USD đầu tư nước
ngoài và doanh nghiệp bên ngoài.
Năm 1986, Trung Quốc triển khai chính sách cải cách mở cửa, các doanh nghiệp
nhà nước, khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế qua đó nâng cao hiệu quả
sản xuất và tăng năng lực cạnh tranh
Giai đoạn 1993-1997, đánh dấu những quyết sách quan trọng liên quan đến
chính sách tài chính ở Trung Quốc tập trung thanh lý các khoản nợ kéo dài trong khu
vực xí nghiệp nhà nước, phân cấp lại nguồn thu thuế, giảm giá đồng nhân dân tệ đ
đẩy mạnh xuất khẩu. Đặc biệt 9/1995, Trung Quốc đã quyết định chuyển đổi nền kinh
tế kế hoạch trong cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Giai đoạn 1998-2002, Trung Quốc thành công trong việc giữ đồng nhân dân tệ
không bị phá giá và kích cầu tiêu dùng trong nước. Cuối 2001, Trung Quốc gia nhập
WTO chính thức trở lại một thành viên trong hệ thống thương mại đa phương toàn cầu
tạo cho Trung Quốc nhiều cơ hội phát triển.
Năm 2005, Trung Quốc đã bỏ thuế nông nghiệp đồng thời đưa ra nhiệm vụ lịch
sử xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa. Hệ thống chính trị tương đối ổn định,
luật pháp được thi hành cứng rắn, nghiêm chỉnh. Nhiều công nghệ có trình độ kỹ thuật
khoa học cao được chuyển giao mua bán và sử dụng hợp lý. Ở đâu có cái gì thì Trung
Quốc bán cái đó.
lOMoARcPSD| 23022540
17
Về cơ sở hạ tầng
Thị trường hơn 1,3 tỷ dân của Trung Quốc và hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài
(thị trường rộng lớn nhân công lao động giá rẻ có trình độ tương đối cao có ý thức tự
giác tốt kỷ luật lao động cao và không có nhiều yêu cầu khác…)
Vốn thu hút đầu tư nước ngoài FDI và ODA tăng cao đều và liên tục đứng đầu ở
vị trí số 1 thế giới.
Cơ sở vật chất hạ tầng ở nông thôn hay thành thị đều được đầu tư, xây dựng, đáp
ứng nhu cầu phát triển.
Nhiều khu kinh tế, khu công nghiệp đặc biệt được quy hoạch nhanh chóng và
phát triển rầm rộ như (Thâm quyến, Quảng Đông, Nam Ninh, Phúc Kiến…)
Sự kiện “năm 1997– Rông đổi màu”: Hồng Kông được trao trả về cho Trung
Quốc và một thời gian sau là Ma Cao sau 100 năm dưới sựu cai quản của người Anh
và Bồ Đào Nha => Đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của nền kinh tế Trung Quốc.
2. Kinh nghiệm và bài học lịch sử
2.1 Điểm tương đồng giữa Việt Nam với Trung Quốc
Đều thực hiện cải cách và đổi mới nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền
kinh tế thị trường, hai nước đều tích cực mở rộng quan hệ đối ngoại, đều có nguồn lao
động dồi dào, đồng thời là thị trường tiêu thụ hàng hóa hấp dẫn và tiềm năng, là hai
quốc gia có đường bờ biển dài, có vị trí địa lý kinh tế và chính trị quan trọng trong khu
vực Châu Á Thái Bình Dương, tài nguyên khoáng sản của Việt Nam phong phú hơn
Trung Quốc rất nhiều, nhưng người Trung Quốc đâng đứng phía sau, điều hành gần
như toàn bộ hoạt động khai thác khoáng sản tại Việt Nam. Riêng miền bắc, ít nhất
cũng có 60% mỏ mang dấu vết của doanh nghiệp Trung Quốc.
2.2 Kinh nghiệm và bài học lịch sử:
Xây dựng các đặc khu kinh tế phù hợp với điều kiện của từng địa phương với các
chính sách mở cửa, minh bạch dựa trên thể chế kinh tếtheo hướng tự do hóa, để thu
hút đầu tư trong và ngoài nước nhiều hơn. Đầu tư xây dựng, hoàn thiện cơ sở hạ tầng,
đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài nhằm thu hút vốn.
lOMoARcPSD| 23022540
18
Cải cách theo chiều sâu: Cơ cấu lại nền kinh tế trong nước, khai thác thế mạnh
của các yếu tố nội lực, nâng cao hiệu quả sản xuất cạnh tranh của hàng hóa nội địa,
hội nhập kinh tế quốc tế.
Ưu thế nổi bật của Trung Quốc à tích lũy, tiết kiệm nội bộ đạt mức cao, tiền gửi
ngân hàng của dân chúng đã hỗ trợ sự thiếu hụt tài chính. Từ đây ta thấy được sự cần
thiết phải nhanh chóng khắc phục sự yếu kém của hệ thống tài chính – ngân hàng, kết
hợp tăng khả năng tự chủ tài chính của KVKT phi nhà nước, bù đắp sự thâm hụt các
nguồn tài chính bằng mức tiết kiệm, không gây ra lạm phát trầm trọng trong quá trình
cải cách .
Tăng cường cải tạo giáo dục, đồng thời bồi dưỡng, đào tạo công nhân, nâng cao
chất lượng lao động, không còn thu hút đầu tư bằng thị trường lao động giá rẻ.
Thúc đẩy sự quản lý, vai trò của nhà ớc đối với nền kinh tế (định hướng sự
phát triển, đảm bảo nền kinh tế hoạt động hiệu quả, khắc phục hạn chế của cơ chế thị
trường).
Cải cách kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường. Tăng chi ngân sách cho sự nghiệp
bảo vệ môi trường. Tuyên truyền về bảo vệ môi trường, ban hành quyết định xử lý các
cơ sở gây ô nhiễm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Một số đánh giá về 40 năm cải cách mở cửa ở Trung Quốc
https://vass.gov.vn/nghien-cuu-khoa-hoc-xa-hoi-va-nhan-van/mot-so-danh-gia-
ve-40-nam-cai-cach-mo-cua-o-trung-quoc-70
2. Đặc điểm, nguyên nhân thành công của Trung Quốc
https://prezi.com/5mgd1o7gbc1n/ac-iem-nguyen-nhan-thanh-cong-cua-trung-
quoc/
3. Trung Quốc: nhìn lại 40 năm cải cách mở cửa
https://tcnn.vn/news/detail/41652/Trung-Quoc-Nhin-lai-qua-trinh40-nam-cai-
cachmo-cua.html
4. Lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc
| 1/22

Preview text:

lOMoAR cPSD| 23022540
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
--------------------------------------- TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: Tìm hiểu về công cuộc cải cách của Trung Quốc và mô
hình đi lên chủ nghĩa xã hội mang bản sắc Trung Quốc. Nguyên
nhân, kinh nghiệm và bài học lịch sử
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Lan Hương Mã sinh viên: 11218267
Lớp học phần: LLTT1101(122)_35-Tư tưởng Hồ Chí Minh
Giảng viên hướng dẫn: TS.Lê Thị Hoa Hà Nội, 2022 lOMoAR cPSD| 23022540 MỤC LỤC
I. Công cuộc cải cách của Trung Quốc 1. Bối cảnh
1.1 Bối cảnh thế giới……………………………………………..2
1.2 Bối cảnh trong nước………………………………………….3
2. Qúa trình cải cách……………………………………………6
3. Thành tựu đạt được và những vấn đề đặt ra trong tiến trình cải cách mở cửa
3.1 Thành tựu…………………………………………………….8
3.2 Những vấn đề đặt ra………………………………………....9
II. Mô hình đi lên chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc 1.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội……………………………………………………………9 2.
Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa……….10 3
Đặc điểm thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội……………...11 4.
Giai đoạn 1959 – 1978……………………………………...12 5.
Giai đoạn 1978 đến nay..……………………………………15
III. Nguyên nhân, kinh nghiệm và bài học lịch sử
1. Nguyên nhân thành công…………………………………....17
2. Kinh nghiệm và bài học lịch sử
2.1 Điểm tương đồng giữa Việt Nam với Trung Quốc………….18
2.2 Kinh nghiệm và bài học lịch sử……………………………..18 lOMoAR cPSD| 23022540 LỜI NÓI ĐẦU
Trước khi thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Trung Quốc đã trải qua
hàng nghìn năm dưới chế độ phong kiến và thực dân. Vốn là quốc gia có diện tích lớn,
đông dân, tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng dưới sự thống trị của phong kiến
và thực dân làm cho nền kinh tế Trung Quốc lâm vào khủng hoảng, nghèo nàn, lạc
hậu. Sau khi thành lập Trung Quốc đã lựa chọn con đường xây dựng Chủ Nghĩa Xã
Hội, thành công nhiều nhưng thất bại cũng không ít, thậm chí có giai đoạn nền kinh tế
Trung Quốc đã rơi vào tình trạng hỗn loạn, cùng cực. Tuy nhiên, trong vòng ba thập
kỷ trở lại đây công cuộc cải cách và mở cửa đã khiến đất nước này đã có những bước
tiến kỳ diệu trên con đường phát triển kinh tế, tìm ra lối thoát cho một quốc gia xã hội
chủ nghĩa trì trệ trở thành năng động, phát triển. Nó còn đóng góp nhiều kinh nghiệm
cho các nước phát triển đi lên hiện đại.
Việt Nam là nước láng giềng với Trung Quốc, cũng phải trải qua nhiều năm dưới
ách thống trị của phong kiến và chủ nghĩa đế quốc thực dân cùng với các cuộc chiến
tranh liên miên đã làm cho đất nước bị tàn phá nặng nề. Giữa Việt Nam và Trung
Quốc có nhiều điểm tương đồng về lịch sử, văn hóa, kinh tế - xã hội cũng như định
hướng chính trị. Do vậy, việc nghiên cứu những thành công hay hạn chế trên đường
cải cách, mở cửa của Trung Quốc sẽ cho chúng ta những bài học sâu sắc và bổ ích.
Tiểu luận “Tìm hiểu về công cuộc cải cách của Trung Quốc và mô hình đi lên chủ
nghĩa xã hội mang bản sắc Trung Quốc. Nguyên nhân, kinh nghiệm và bài học lịch
sử” sẽ cho chúng ta cái nhìn cận cảnh hơn về công cuộc cải cách, mở cửa nền kinh tế
của Trung Quốc. Từ đó rút ra những bài học, cả về kinh nghiệm thành công, lẫn kinh
nghiệm thất bại cho quá trình phát triển kinh tế nước nhà.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến cô Nguễn Thị Hoa. Cảm ơn cô đã tận
tình chỉ bảo, dạy dỗ chúng em để chúng em thêm yêu và hiểu về tầm quan trọng của
môn học “ tư tưởng Hồ Chí Minh”. Một lần nữa cảm ơn cô rất nhiều!
I. Công cuộc cải cách của Trung Quốc 1. Bối cảnh 1.1 Bối cảnh thế giới 1 lOMoAR cPSD| 23022540
Công cuộc cải cách – mở cửa ở Trung Quốc được tiến hành trong bối cảnh: xu
hướng cải cách đang diễn ra ở nhiều nước trên thế giới.
Từ cuối những năm 50 – đầu những năm 60 của thế kỉ XX, mô hình xã hội chủ
nghĩa theo kiểu tập trung, quan liêu, bao cấp, kế hoạch hóa cao độ đã bắt đầu bộc lộ
một số hạn chế. Trước tình hình đó, tại một số nước xã hội chủ nghĩa, tư tưởng cải
cách đã bắt đầu xuất hiện và bước đầu được triển khai. Ví dụ như: Ở Hungary, năm
1968, nhà nước cũng bãi bỏ kế hoạch pháp lệnh, tăng cường tác dụng của thị trường,
mở rộng quyền tự chủ của xí nghiệp nhưng vẫn đồng thời đảm bảo vai trò chỉ đạo của nhà nước....
Cuộc khủng hoảng năng lượng 1973 bùng nổ, gây những ảnh hưởng nghiêm
trọng tới nền kinh tế, chính trị, xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới. Những cuộc
khủng hoảng này đặt nhân loại đứng trước những vấn đề bức thiết phải giải quyết như
tình trạng vơi cạn dần nguồn tài nguyên, bùng nổ dân số… Để thích nghi với hoàn
cảnh, thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, suy yếu và trì trệ, các nước tư bản phát triển
như: Mĩ, Anh, Pháp... đã nhanh chóng thực hiện những điều chỉnh chiến lược về kinh
tế - chính trị - xã hội... Nhờ vậy, các nước này đã vượt qua khủng hoảng và tiếp tục
phát triển. Đến giữa những năm 70 của thế kỉ XX, hầu hết các nước trong khu vực Mĩ
Latinh như Chilê, Urugoay đã đề ra và tiến hành những chiến lược cải cách, học tập theo mô hình Mĩ.
Yêu cầu cải cách về kinh tế, chính trị, xã hội để thích nghi với sự phát triển
nhanh chóng của cách mạng khoa học – kỹ thuật và sự giao lưu, hợp tác quốc tế ngày
càng phát triển mạnh mẽ theo xu thế quốc tế hoá.
Trong bối cảnh trên, yêu cầu lịch sử đặt ra đối với tất cả các nước là phải nhanh
chóng cải cách về kinh tế, chính trị- xã hội để thích ứng.
1.2 Bối cảnh trong nước
Đối nội: từ năm 1959 đến năm 1978 Trung Quốc trải qua 20 năm không ổn định
về kinh tế, chính trị, xã hội. Với việc thực hiện đường lối “Ba ngọn cờ hồng” nền kinh
tế Trung Quốc rơi vào tình trạng hỗn loạn, sản xuất giảm sút nghiêm trọng, đời sống
nhân dân gặp nhiều khó khăn…Trong nội bộ Đảng và Nhà nước Trung Quốc diễn ra 2 lOMoAR cPSD| 23022540
những bất đồng gay gắt về đường lối, tranh chấp về quyền lực, đỉnh cao là cuộc “Đại
cách mạng văn hóa vô sản” (1966-1976)…
Đối ngoại: ủng hộ cuộc đấu tranh chống Mĩ của nhân dân Việt Nam…xảy ra
những cuộc xung đột biên giới giữa Trung Quốc với các nước Ấn Độ, Liên Xô…
Tháng 2- 1972, Tổng thống Mĩ R.Nichxơn sang thăm Trung Quốc, mở đầu quan hệ
mới theo chiều hướng hoà dịu giữa hai nước. Bối cảnh lịch sử trên đòi hỏi Trung
Quốc tiến hành cải cách để phù hợp với xu thế chung của thế giới và đưa đất nước
thoát ra khỏi tình trạng không ổn định…
2. Quá trình cải cách của Trung Quốc từ 1978 đến nay Giai
đoạn đầu chuyển đổi thể chế kinh tế (1978 - 1991)
Đảng Cộng sản Trung Quốc với phương châm “giải phóng tư tưởng, thực sự cầu
thị”, chuyển trọng tâm công tác từ“lấy đấu tranh giai cấp làm cương lĩnh” sang “lấy
xây dựng kinh tế làm trung tâm” nhằm mục tiêu xây dựng hiện đại hóa xã hội chủ
nghĩa. Giai đoạn đầu tập trung vào chuyển đổi thể chế kinh tế với việc “khoán ruộng
đất”, “phát triển xí nghiệp hương trấn” ở nông thôn, sau đó tiến hành mở rộng thí
điểm quyền tự chủ kinh doanh của xí nghiệp quốc hữu ở thành phố, tiến hành mở cửa,
xây dựng đặc khu kinh tế, xây dựng các loại thị trường. Việc xây dựng các đặc khu
kinh tế (SEZs) ở Trung Quốc tương đối thành công. SEZs đã phát huy được vai trò
“cửa sổ” và “cầu nối” có ảnh hưởng tích cực đối với trong và ngoài nước. SEZs của
Trung Quốc đã đạt được thành công bước đầu trong sự kết hợp giữa kế hoạch và thị
trường. Những năm 1984 - 1991, cải cách xí nghiệp quốc hữu là trọng tâm, cải cách
giá cả là then chốt trong toàn bộ cuộc cải cách. Trong giai đoạn chuyển đổi thể chế
kinh tế (1979 - 1991), Trung Quốc đã tìm tòi, tổ chức thí điểm, từng bước tiếp nhận cơ
chế thị trường, sửa chữa những khuyết điểm của thể chế kinh tế kế hoạch.
Giai đoạn xây dựng khung thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa (1992 - 2002)
Bước sang thập niên 90 của thế kỷ XX, tình hình thế giới diễn ra những biến đổi
to lớn và sâu sắc. Hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã, Liên Xô giải thể, đảng cộng sản ở
các nước Đông u mất địa vị cầm quyền. Chiến tranh lạnh kết thúc, nhiều nước tiến
hành điều chỉnh chính sách phát triển kinh tế - xã hội, đối ngoại. 3 lOMoAR cPSD| 23022540
Tại Trung Quốc, sự nghiệp cải cách, mở cửa đối mặt với nhiều thách thức to lớn.
Vấn đề cải cách, mở cửa thành công hay thất bại, đi theo con đường xã hội chủ nghĩa
(họ Xã) hay tư bản chủ nghĩa (họ Tư) thổi bùng các cuộc tranh luận (đại luận chiến).
Trước tình hình đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc chủ trương gác lại các cuộc tranh
luận, tiến hành “Ba điều có lợi” (có lợi cho phát triển sức sản xuất xã hội chủ nghĩa,
có lợi cho đất nước, có lợi cho đời sống nhân dân), mạnh dạn xông pha vào thực tiễn
và lấy thực tiễn để kiểm nghiệm. Đại hội XIV Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm 1992)
nêu mục tiêu xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh mở cửa.
Đây được coi là cuộc giải phóng tư tưởng lần thứ hai, là mốc quan trọng trong tiến
trình cải cách, mở cửa ở Trung Quốc.
Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đặc biệt là Hội nghị Trung ương 3
khóa XIV (năm 1993) thông qua “Quyết định về một số vấn đề xây dựng thể chế kinh
tế thị trường xã hội chủ nghĩa”, trong đó chỉ rõ: “lấy chế độ công hữu làm chủ thể,
nhiều thành phần kinh tế khác cùng phát triển,... xây dựng chế độ phân phối thu nhập,
lấy phân phối theo lao động làm chính, ưu tiên hiệu quả, quan tâm tới công bằng,
khuyến khích một số vùng, một số người giàu có lên trước, đi con đường cùng giàu
có”(1). Đại hội XV Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm 1997) đã xác định mục tiêu xây
dựng Nhà nước pháp trị xã hội chủ nghĩa.
Giai đoạn đẩy mạnh xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa (2002
2012), cải cách theo chiều sâu
Năm 2001 Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Sự kiện
này đánh dấu tiến trình hội nhập quốc tế sâu rộng của Trung Quốc. Từ Đại hội XVI
(năm 2002) Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, đứng đầu là Tổng Bí thư Hồ
Cẩm Đào đã nêu ra quan điểm phát triển khoa học, xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ
nghĩa, thúc đẩy phát triển toàn diện hài hòa và bền vững kinh tế - xã hội. Đại hội XVII
Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm 2007) nêu chủ trương từ “tam vị nhất thể” - bao
gồm kinh tế, chính trị và văn hoá sang “tứ vị nhất thể” - bao gồm kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội.
Bước sang thế kỷ XXI, Trung Quốc đã xây dựng được cục diện cải cách, mở cửa
toàn phương vị, đa tầng nấc; hình thành các cực tăng trưởng, Trước đó, Tiểu Chu 4 lOMoAR cPSD| 23022540
Giang với nòng cốt là Quảng Châu, Thâm Quyến được coi là cực tăng trưởng thứ nhất
của Trung Quốc, hình thành trong giai đoạn đầu của cải cách, mở cửa với việc xây
dựng 4 đặc khu (Thâm Quyến, Chu Hải, Sán Đầu, Hạ Môn). Tiếp đó, từ năm 1984,
Trung Quốc tiến hành mở cửa 14 thành phố ven biển, ven sông, ven biên giới. Từ năm
1990, Trung Quốc đẩy mạnh xây dựng Phố Đông, coi đây là “đầu tàu” lôi kéo và kết
nối các điểm tăng trưởng hạ lưu sông Trường Giang và ven biển Đông Hải. Sự ra đời
của Phố Đông (Thượng Hải) đánh dấu sự xuất hiện cực tăng trưởng thứ hai của Trung
Quốc. Ngày 6-6-2006, Chính phủ Trung Quốc đã công bố “Ý kiến về mấy vấn đề thúc
đẩy mở cửa phát triển Khu mới Tân Hải Thiên Tân”, đánh dấu việc chủ trương đưa
Thiên Tân vươn lên trở thành cực tăng trưởng thứ ba của Trung Quốc, gắn liền các
điểm tăng trưởng xoay quanh vịnh Bột Hải. Tiếp đó, vùng Thành Đô - Trùng Khánh
(Xuyên Du), Khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ (Quảng Tây), Khu kinh tế bờ Tây (Phúc Kiến)
cũng phấn đấu trở thành cực tăng trưởng tiếp theo ở Trung Quốc. Năm 2008, Quốc vụ
viện Trung Quốc đã phê chuẩn “Cương yếu quy hoạch Khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ”, thể
hiện quyết tâm của Trung Quốc trong xây dựng cực tăng trưởng mới - cực tăng trưởng
kết nối giữa Trung Quốc và ASEAN.
Giai đoạn cải cách toàn diện và sâu rộng (từ năm 2012 đến nay)
Từ Đại hội XVIII của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đặc biệt là Hội nghị Trung
ương 3 khóa XVIII thông qua Nghị quyết về cải cách toàn diện và sâu rộng, thực hiện
“giấc mộng Trung Quốc”, “phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa”. Tổng Bí thư Tập
Cận Bình với tư cách là “hạt nhân lãnh đạo” đã kế thừa, phát huy và hoàn thiện cương
lĩnh, đường lối phát triển của Trung Quốc, hình thành nên “Bố cục tổng thể”: phát
triển “5 trong 1” (kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, môi trường) và bố cục chiến lược
“Bốn toàn diện”. Kinh tế bước vào giai đoạn “trạng thái bình thường mới”, “Made in
China 2025”... tìm kiếm chuyển đổi phương thức tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế
và động lực phát triển mới. Sáng kiến “Vành đai, Con đường” được xem là giải pháp
chiến lược, vừa thúc đẩy cải cách trong nước, vừa phát huy vai trò đối ngoại.
Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới đã
được Đại hội XIX khẳng định, đưa vào Điều lệ Đảng, trở thành tư tưởng chỉ đạo đối
với Đảng và Nhà nước Trung Quốc sau khi Hiến pháp được bổ sung, sửa đổi năm 5 lOMoAR cPSD| 23022540
2018. Trung Quốc đẩy mạnh cải cách, mở cửa toàn diện và sâu rộng hướng tới mục
tiêu trở thành cường quốc xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI.
3. Thành tựu đạt được và những vấn đề đặt ra trong tiến trình cải cách mở cửa 3.1 Thành tựu
Nền kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh chóng, đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất
thế giới. Từ khi bước sang thập niên thứ hai của thế kỷ XXI đến nay, kinh tế Trung
Quốc đạt được nhiều thành tựu. Năm 2017, GDP của Trung Quốc đạt 82.712,2 tỷ nhân
dân tệ (NDT), tăng 6,9% so với năm 2016. Tốc đô tăng trưởng bình quân GDP của ̣
Trung Quốc trong giai đoạn 2013 - 2017 là 7,1%, trong khi mức tăng trưởng trung
bình của toàn cầu là 2,6% và của các nền kinh tế đang phát triển là 4%. Mức đóng góp
trung bình của Trung Quốc vào tăng trưởng kinh tế thế giới trong giai đoạn 2013 -
2017 là khoảng 30%, lớn nhất trong tất cả các quốc gia và cao hơn cả tổng mức đóng
góp của Mỹ, các nước trong khu vực đồng ơ-rô và Nhật Bản. Một điểm đáng chú ý
nữa là GDP của Trung Quốc năm 2016 đã đạt 10.730 tỷ USD, hoàn thành sớm hơn 4
năm mục tiêu GDP năm 2020, tăng gấp 4 lần năm 2000. Tỷ trọng GDP của Trung
Quốc trong GDP toàn cầu từ 1,8% năm 1978 tăng lên 15% năm 2018. Sáng tạo trở
thành định hướng và giải pháp quan trọng trong chuyển đổi phương thức phát triển
kinh tế của Trung Quốc. Mức chi cho nghiên cứu và phát triển (R&D) đã tăng 52,2%
kể từ năm 2012, đạt 1.570 tỷ NDT vào năm 2016. Tỷ lệ chi tiêu cho R&D trong GDP
đã tăng từ 1,91% lên 2,11% (từ năm 2012 đến 2016). Số lượng các đơn xin cấp bằng
sáng chế mà Trung Quốc nhận được trong năm 2016 tăng 69% kể từ năm 2012, trong
khi số bằng sáng chế được cấp năm 2016 tăng 39,7% kể từ năm 2012. Năm 2017, chi
cho R&D là 1.750 tỷ NDT, tăng 11,6% so với năm 2016. Từ năm 2013, Trung Quốc
đã trở thành quốc gia hàng đầu trên toàn cầu về doanh số bán rô-bốt công nghiệp.
Cường quốc rô-bốt sẽ là một nhiệm vụ chiến lược để Trung Quốc thúc đẩy mạnh mẽ
Chiến lược “Made in China 2025”. Năm 2016, Trung Quốc đầu tư cho R&D là
1.567,67 tỷ NDT; nguồn tài chính dành cho khoa học công nghệ là 776,07 tỷ NDT.
Năm 2016, trong số 53 doanh nghiệp khoa học công nghệ tiến hành IPO trên thế giới
(phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu), Trung Quốc có 18 doanh nghiệp. 6 lOMoAR cPSD| 23022540
Về kinh tế đối ngoại, giá trị của thương mại hàng hóa đạt 27,7 nghìn tỷ NDT vào
năm 2017, chiếm hơn 11% tổng khối lượng thương mại toàn cầu. Trung Quốc trở
thành đối tác thương mại lớn nhất của hơn 120 nước. Mức độ đô thị hóa từ 17,9% năm
1978 tăng lên 58,5% năm 2017. Số thành phố từ 193 tăng lên 657 thành phố.
Hiện nay, Trung Quốc có 136.000km đường cao tốc và 25.000km đường sắt cao tốc.
Năm 2017, đường sắt cao tốc chuyên chở hơn 3 tỷ lượt khách.
Thu nhập của người dân được nâng cao, với mức bình quân đầu người tăng từ
7.311 NDT năm 2012 lên 23.821 NDT năm 2016, tỷ lệ tăng hằng năm là 7,4%. Năm
2017, thu nhập bình quân cư dân đạt 25.974 NDT. Thu nhập bình quân đầu người của
người dân nông thôn ở khu vực nghèo tăng bình quân 10,7% trong giai đoạn 2013 -
2016, tăng nhanh hơn mức bình quân 8% đối với tất cả người dân nông thôn. Số người
nghèo ở nông thôn từ 97,5% năm 1978 giảm xuống 3,1% năm 2017, còn khoảng
30,46 triệu người nghèo. Mạng lưới an sinh xã hội đã được hình thành rộng khắp. Bảo
hiểm dưỡng lão xã hội đã bao phủ tới 900 triệu dân, bảo hiểm y tế cơ bản đã tới hơn 1,3 tỷ người dân.
Năm 2017, dân số Trung Quốc là 1,39 tỷ người, trong đó dân số đô thị khoảng
813,47 triệu người. Số nghiên cứu sinh là 2,63 triệu người, sinh viên đại học, cao
đẳng: 27,53 triệu, số học sinh trung học phổ thông: 23,74 triệu; trung học cơ sở: 44,42
triệu; tiểu học: 1.009 triệu. Từ năm 2011, số lượng nhân lực khoa học - công nghệ đã
vượt 63 triệu người, năm 2017 đạt 81 triệu người. Số sinh viên du học nước ngoài trở
về nước là hơn 1,1 triệu người. Năm 2016, số lượng đăng ký bản quyền tác giả là
1.257.439 (WIPO). Năm 2017, Trung Quốc đứng thứ 25 trong bảng xếp hạng “sức mạnh mềm” thế giới.
Tổng giá trị xuất nhập khẩu năm 1997 lên tới 325,00 tỉ USD.
Năm 2016, Trung Quốc trở thành nước xuất khẩu các sản phẩm khoa học công
nghệ cao đứng đầu châu Á. Các hạng mục khoa học lớn được hoàn thành, như máy
tính Thiên Hà, tàu vũ trụ Thần Châu, trạm vũ trụ Thiên Cung, máy lặn Giao Long,
máy bay vận tải cỡ lớn.. 7 lOMoAR cPSD| 23022540
Đối ngoại: vai trò và địa vị kinh tế của nước này ngày càng nâng cao, Trung Quốc đã
thu hồi chủ quyền đối với Hồng Kông (7-1997) và Ma Cao (12-1999). Đài Loan là
một bộ phận riêng mà Trung Quốc nhưng đến nay chưa kiểm soát được.
3.2 Những vấn đề đặt ra
Sau 40 năm tiến hành cải cách, mở cửa, Trung Quốc đã đạt được nhiều thành tựu
to lớn về mọi mặt, song cũng đang đứng trước nhiều vấn đề, thách thức lớn. Trung
Quốc đang tìm kiếm sự thay đổi về phương thức và mô hình phát triển thay thế
phương thức tăng trưởng chủ yếu dựa vào tài nguyên và nhân công rẻ, dựa vào đầu tư
lớn và xuất khẩu mạnh trước đây. Kinh tế Trung Quốc nằm trong xu thế suy giảm tăng
trưởng. Tốc độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc năm 2014 là 7,4%, mức thấp nhất
trong 24 năm kể từ năm 1990, năm 2015 là 6,9%; năm 2016: 6,7%; năm 2017: 6,9%.
Vấn đề đặt ra đối với kinh tế Trung Quốc hiện nay là chất lượng tăng trưởng kinh tế
vẫn còn thấp, mất cân bằng, không hợp lý và không bền vững. Vấn đề nợ công và vấn
đề sản xuất thừa vẫn chưa được giải quyết. Do tăng trưởng tốc độ cao trong một thời
gian dài, những hệ lụy để lại cho nền kinh tế Trung Quốc vẫn chưa được giải quyết
triệt để, chưa được khắc phục kịp thời, như cạn kiệt các nguồn tài nguyên và ô nhiễm
môi trường, mức độ chênh lệch giàu - nghèo cao, phát triển không cân đối... vượt qua
“bẫy thu nhập trung bình”, hướng tới thu nhập cao, chất lượng cao, phát triển xã hội
và quản trị xã hội vẫn là những thức thức lớn. Từ năm 2018, vận hành kinh tế Trung
Quốc là vượt qua ba trận chiến phòng ngừa hóa giải rủi ro lớn, xóa đói, giảm nghèo
chuẩn xác, phòng, chống ô nhiễm, phát triển từ “tốc độ cao” sang “chất lượng cao” đặt
ra nhiều thử thách lớn không dễ giải quyết nhanh chóng.
Trọng tâm của cải cách, xây dựng hiện đại hóa của Trung Quốc sẽ mở rộng từ
kinh tế sang chính trị, xã hội. Qua bốn thập niên cải cách, mở cửa, các tầng lớp xã hội
mới xuất hiện, sự di động xã hội giữa các tầng lớp và khu vực diễn ra mạnh mẽ. Sự
xuất hiện của các tầng lớp xã hội mới, đặc biệt là tầng lớp trung lưu gắn với xây dựng
xã hội khá giả sẽ là nhân tố không thể bỏ qua trong quá trình cải cách chính trị ở
Trung Quốc. Việc chuyển đổi mô hình phát triển, cải cách xã hội đòi hỏi Đảng Cộng
sản Trung Quốc phải chuyển đổi phương thức lãnh đạo và nâng cao năng lực cầm
quyền. Xây dựng và thúc đẩy pháp trị, dân chủ trở thành yêu cầu bức thiết. 8 lOMoAR cPSD| 23022540
Cục diện thế giới có nhiều diễn biến mới với vai trò và vị thế của Trung Quốc
được nâng cao khi tổng lượng kinh tế đã đứng thứ hai thế giới. Mặt khác, Trung Quốc
cũng phải đối mặt với những thách thức về vấn đề nhân quyền, dân tộc, tôn giáo, giữa
cải cách trong nước và mở cửa đối ngoại, quan hệ giữa Trung Quốc với các nước láng
giềng, đặc biệt là cạnh tranh chiến lược với các nước lớn hiện nay.
II. Mô hình đi lên chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc 1. Quan điểm
của chủ nghĩa Mác- Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội tất yếu phải trải qua thời kỳ quá độ chính trị. C. Mác khẳng định: “Giữa xã hội tư
bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã
hội này sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và
nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng
của giai cấp vô sản”.
2. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa
Một là, bất kỳ quá trình chuyển biến từ một xã hội này lên một xã hội khác đều
nhất định phải trải qua một hời kỳ gọi là thời kỳ quá độ. Đó là thời kỹ còn có sự đan
xen lẫn nhau giữa các yếu tố mới và cũ trong cuộc đấu tranh với nhau. Từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội là một bước nhảy lớn và căn bản về chất so với các quá trình
thay thế từ xã hội cũ lên xã hội mới đã từng diễn ra trong lịch sử thì thời kỳ quá độ lại
càng là một tất yếu, thậm chí có thể kéo dài.
Hai là, sự ra đời của một xã hội mới bao giờ cũng có những sự kế thừa nhất định
từ những nhân tố do xã hội cũ tạo ra. Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội là sự kế thừa đối
với chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là trên phương diện kế thừa cơ sở vật chất kỹ thuật đã
được tạo ra bởi sự phát triển của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa.
Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh trong lòng
chủ nghĩa tư bản, chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công việc mới mẻ, khó khăn
và phức tạp. Với tư cách là người chủ của xã hội mới, giai cấp công nhân và nhân dân
lao động không thể ngay lập tức nó cần phải có thời gian nhất dịnh. 9 lOMoAR cPSD| 23022540
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước có trình độ phát triển kinh tế - xã
hội khác nhau có thể diễn ra khoảng thời khác nhau. Đối với những nước đã trải qua
chủ nghĩa tư bản phát triển ở trình độ cao khi tiến lên chủ nghĩa xã hội thì thời kỳ quá
độ có thể tương đối ngắn. Những nước đã trải qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư
bản ở trình độ trung bình, đặc biệt là những nước còn ở trình độ phát triển tiền tư bản,
có nền kinh tế lạc hậu thì thời kỳ quá độ thường kéo dài với rất nhiều khó khăn, phức tạp.
3. Đặc điểm thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá dộ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là
sự tồn tại những yếu tố của xã hội cũ bên cạnh những nhân tố mới của chủ nghĩa xã
hội trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống kinh tế - xã hội. Trên lĩnh vực kinh tế:
Thời kỳ quá độ là thời kỳ tất yếu còn tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần
trong một hệ thống kinh tế quốc dân thông nhất. Đây là bước quá độ trung gian tất yếu
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, không thể dùng ý chí để xóa bỏ ngay kết
cấu nhiều thành phần của nền kinh tế, nhất là đối với những nước còn ở trình độ chưa
trải qua sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Trên lĩnh vực chính trị:
Do kết cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đa dạng, phức tạp,
nên kết cấu giai cấp của xã hội trong thời kỳ này cũng đa dạng phức tạp. Nói chung,
thời kỳ này thường bao gồm: giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức, những
người sản xuất nhỏ, tầng lớp tư sản và một số tầng lớp xã hội khác tuỳ theo từng điều
kiện cụ thể của mỗi nước. Các giai cấp, tầng lớp này vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau.
Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá:
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều yếu tố tư tưởng và
văn hoá khác nhau. Bên cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa còn tồn tại tư tưởng tư sản, 10 lOMoAR cPSD| 23022540
tiểu tư sản, tâm lý tiểu nông,... Trên lĩnh vực văn hoá cũng tồn tại các yếu tố văn hoá
cũ và mới, chúng thường xuyên đấu tranh với nhau.
Thực chất của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ
diễn ra cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản đã bị đánh bại không còn là giai
cấp thống trị và những thế lực chống phá chủ nghĩa xã hội với giai cấp công nhân và
quần chúng nhân dân lao động. Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong điều kiện mới là
giai cấp công nhân đã nắm được chính quyền nhà nước, quản lý tất cả các lĩnh vực đời
sống xã hội. Cuộc đấu tranh giai cấp với những nội dung, hình thức mới, diễn ra trong
lĩnh vực chính trị, kinh tế, tư tưởng - văn hóa, bằng tuyên truyền vận động là chủ yếu,
bằng hành chính và luật pháp. 4. Giai đoạn 1959 - 1978
Giai đoạn bất ổn, khủng hoảng toàn diện
Về đối nội: lâm vào tình trạng không ổn định về mọi mặt
Kinh tế: Thực hiện đường lối “Ba ngọn cờ hồng” (bao gồm: Đường lối chung,
Đại nhảy vọt trong công nghiệp, Công xã nhân dân trong nông nghiệp) do Mao Trạch
Đông tiến hành không đạt hiệu quả. Trong thời kỳ Đại nhảy vọt, nông dân được tập
hợp vào các công xã và các hoạt động sản xuất riêng bị cấm. Điều này khiến động lực
sản xuất của nông dân sút giảm, dẫn tới việc canh tác bị thực hiện qua loa, sản lượng
lương thực sụt giảm. Những áp lực xã hội áp đặt lên người dân về mặt nông nghiệp
lẫn thương mại, mà chính phủ kiểm soát, dẫn tới tình trạng mất ổn định. Vì những
luật lệ được ban hành, các chính sách kinh tế, nông nghiệp sai lầm trong Đại nhảy vọt
như Chiến dịch diệt chim sẻ, xây dựng công xã nhân dân… Hậu quả:
“Đại nhảy vọt” là cuộc diệt chủng lớn nhất trong lịch sử loài người, khéo người
nông dân tham gia sản xuất thép, bỏ hoang ruộng vườn, từ đó gây ra nạn đói khủng
khiếp. Người dân chết đói như ngả rạ, những người còn sống thì vật vã ăn xin, nhiều
vùng ở TQ như sắp đến ngày tận thế. Năm 1988, chính phủ TQ chính thức thừa nhận
có khoảng 20tr chết đói trong giai đoạn này. 11 lOMoAR cPSD| 23022540
Khiến kinh tế TQ tụt dốc không phanh, nông nghiệp trì trệ, công nghiệp lụi bại,
ô nhiễm không khí gia tăng, đời sống nhân dân k đc đảm bảo do phải hít quá nhiều bụi
bẩn từ môi trường. Đặc biệt chiến dịch “diệt chim sẻ” đã gây mất cân bằng ở hệ sinh
thái khiến nạn đói kinh hoàng nối tiếp suốt nhiều năm. Đất nước rơi váo tình trạng bất ổn định.
Chính trị: Có biến động lớn, nội bộ lãnh đạo Trung Quốc bất đông gay gắt về
đường lối, tranh giành quyền lực, đỉnh cao là cuộc “Đại cách mạng văn hóa vô sản”
(1966 – 1976) để lại hậu quả nghiêm trọng đối với nhân dân Trung Quốc. Hậu quả:
Cách mạng văn hóa ở Trung Quốc đã để lại những hậu quả nghiêm trọng không
chỉ về kinh tế, xã hội mà cả về văn hóa. Trước khi Mao Trạch Đông qua đời, người ta
có ước tính rằng có khoảng 12 đến 20 triệu người, gồm 5,4 triệu Hồng vệ binh, đã trải
qua lao động nặng nhọc ở nông thôn, trong đó là 1 triệu người dân Thượng Hải, tức là
18% dân số của thành phố lúc đó. Khoảng 3 triệu người (trong đó có nhiều Đảng viên
Đảng Cộng sản Trung Quốc) bị kỷ luật hoặc cầm tù, 60% đảng viên bị khai trừ, nhiều
người trong số họ bị trục xuất về nông thôn để lao động nặng nhọc trong thời gian
diễn ra Cách mạng văn hóa. Về mặt xã hội, trong thời Cách mạng văn hóa, nhiều
trường đại học ở Trung Quốc đã bị đóng cửa, dẫn đến hậu quả là cả một thế hệ người
Trung Quốc không được tiếp cận với giáo dục đại học.
Xã hội: Hỗn loạn, đời sống nhân dân khó khăn Về đối ngoại
Xảy ra xung đột biên giới với Ấn Độ 1962, Liên Xô 1969, Ủng hộ Việt Nam
chống Mỹ và cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Á, Phi, Mỹ la tinh, từ
1972 quan hệ hòa dịu với Mỹ
5. Giai đoạn 1978 đến nay Về kinh tế.
Bắt đầu từ cuối năm 1978 các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã tiến hành cải tổ nền
kinh tế từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung kiểu Xô viết sang nền kinh tế hướng
thị trường hơn nhưng vẫn trong khuôn khổ kiểm soát của Đảng. Theo mục tiêu này, 12 lOMoAR cPSD| 23022540
chính quyền đã chuyển sang cơ chế khoán trong nông nghiệp thay cho hình thức hợp
tác xã, tăng quyền hành đối với cán bộ địa phương và lãnh đạo các nhà máy trong
công nghiệp, cho phép hoạt động đối với một loạt các doanh nghiệp cỡ nhỏ trong các
ngành dịch vụ và sản xuất nhỏ, và mở cửa nền kinh tế cho ngoại thương và đầu tư
nước ngoài. Các chính sách kiểm soát giá cả cũng được nới lỏng. Kết quả là nền kinh
tế Hoa Lục đã chuyển từ một nền kinh tế mệnh lệnh sang hình thức kinh tế hỗn hợp,
dung hòa giữa sở hữu tư nhân và nhà nước tạo nên một thứ chủ nghĩa tư bản nhà nước
mang đặc trưng của Trung Quốc.
Trong hai thập niên cuối thế kỷ XX, ở Trung Quốc đã diễn ra những thay đổi to
lớn. Trung Quốc đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội với bước chuyển biến lịch
sử là “lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm”. Thể chế kinh tế, xã hội có bước chuyển
biến mạnh mẽ theo hướng xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Về lý luận chính trị
Sau Hội nghị Trung ương 3 khóa XI (năm 1978), Đảng Cộng sản Trung Quốc đã
hình thành lý luận "một trung tâm, hai điểm cơ bản", đến Đại hội XII (năm 1982),
Đảng Cộng sản Trung Quốc đưa ra khái niệm "Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc",
nhưng đến Đại hội XIV (năm 1992) mới đưa ra nội dung chủ yếu của "lý luận chủ
nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc", bao gồm 9 vấn đề: Con đường phát triển chủ nghĩa
xã hội (CNXH), Giai đoạn phát triển của CNXH: Trung Quốc đang ở giai đoạn đầu
của CNXH, đó là giai đoạn rất dài, ít nhất 100 năm, Nhiệm vụ cơ bản của xã hội
XHCN; Động lực phát triển của CNXH, Điều kiện bên ngoài của xây dựng kinh tế
XHCN, Bảo đảm chính trị cho công cuộc xây dựng CNXH; Bước đi chiến lược xây
dựng CNXH, Động lực lãnh đạo và chỗ dựa của CNXH, Vấn đề thống nhất đất nước.
Tại Đại hội XVII (năm 2007), lần đầu tiên Đảng Cộng sản Trung Quốc đưa ra
khái niệm về hệ thống lý luận "chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc", gồm lý luận
Đặng Tiểu Bình, tư tưởng quan trọng "ba đại diện" và quan điểm "phát triển khoa
học". Tư tưởng quan trọng "ba đại diện" là phương châm chỉ đạo quan trọng trong
phát triển kinh tế - xã hội Trung Quốc, là tư tưởng chiến lược quan trọng cần được
kiên trì và quán triệt trong phát triển chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc". "Phát
triển khoa học" được xác định là "yêu cầu cơ bản" của công cuộc phát triển chủ nghĩa 13 lOMoAR cPSD| 23022540
xã hội đặc sắc Trung Quốc, là sự kế thừa và phát triển tư tưởng quan trọng của tập thể
lãnh đạo trung ương thế hệ thứ ba, là sự thể hiện tập trung thế giới quan và phương
pháp luận về phát triển của nghĩa Mác, là lý luận khoa học vừa tiếp nối vừa phát triển
tiến cùng thời đại của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng
Tiểu Bình. Hàm nghĩa quan trọng hàng đầu của quan điểm "phát triển khoa học" là
"phát triển". Hạt nhân của quan điểm "phát triển khoa học" là "lấy con người làm
gốc". Yêu cầu cơ bản của quan điểm phát triển một cách khoa học là "sự hài hòa bền
vững toàn diện". Phương pháp căn bản của quan điểm này là "bố trí đồng bộ". Về xã hội
Khi vừa bắt đầu giai đoạn cải cách 1978 giai cấp công nhân và nông dân được
xem là những trụ cột chính của đất nước. Tuy nhiên hiện nay đã qua rồi thời kỳ mà
công nhân và nông dân được cả xã hội tôn vinh. Giờ đây hai giai cấp này lại trở thành
tầng lớp thấp trong xã hội Trung Quốc. Qua hai thập niên, kể từ khi Trung Quốc tiến
hành cải cách kinh tế, cấu trúc xã hội theo hình kim tự tháp của một nước có nền kinh
tế truyền thống chủ yếu dựa trên nông nghiệp đã bị thay thế bởi cấu trúc theo hình lá ô
liu với 10 nhánh tầng lớp rõ rệt.
Những vấn đề còn tồn tại
Sau hơn 40 năm tiến hành cải cách, mở cửa, Trung Quốc đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn về mọi mặt, song cũng đang đứng trước nhiều vấn đề, thách thức lớn.
Trung Quốc đang tìm kiếm sự thay đổi về phương thức và mô hình phát triển thay thế
phương thức tăng trưởng chủ yếu dựa vào tài nguyên và nhân công rẻ, dựa vào đầu tư
lớn và xuất khẩu mạnh trước đây. Kinh tế Trung Quốc nằm trong xu thế suy giảm tăng
trưởng. Tốc độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc năm 2014 là 7,4%, mức thấp nhất
trong 24 năm kể từ năm 1990, năm 2015 là 6,9%; năm 2016: 6,7%; năm 2017: 6,9%.
Vấn đề đặt ra đối với kinh tế Trung Quốc hiện nay là chất lượng tăng trưởng kinh tế
vẫn còn thấp, mất cân bằng, không hợp lý và không bền vững. Vấn đề nợ công và vấn
đề sản xuất thừa vẫn chưa được giải quyết. Do tăng trưởng tốc độ cao trong một thời
gian dài, những hệ lụy để lại cho nền kinh tế Trung Quốc vẫn chưa được giải quyết
triệt để, chưa được khắc phục kịp thời, như cạn kiệt các nguồn tài nguyên và ô nhiễm
môi trường, mức độ chênh lệch giàu - nghèo cao, phát triển không cân đối... vượt qua 14 lOMoAR cPSD| 23022540
“bẫy thu nhập trung bình”, hướng tới thu nhập cao, chất lượng cao, phát triển xã hội
và quản trị xã hội vẫn là những thức thức lớn. Từ năm 2018, vận hành kinh tế Trung
Quốc là vượt qua ba trận chiến phòng ngừa hóa giải rủi ro lớn, xóa đói, giảm nghèo
chuẩn xác, phòng, chống ô nhiễm, phát triển từ “tốc độ cao” sang “chất lượng cao” đặt
ra nhiều thử thách lớn không dễ giải quyết nhanh chóng.
Trọng tâm của cải cách, xây dựng hiện đại hóa của Trung Quốc sẽ mở rộng từ
kinh tế sang chính trị, xã hội. Qua bốn thập niên cải cách, mở cửa, các tầng lớp xã hội
mới xuất hiện, sự di động xã hội giữa các tầng lớp và khu vực diễn ra mạnh mẽ. Việc
chuyển đổi mô hình phát triển, cải cách xã hội đòi hỏi Đảng Cộng sản Trung Quốc
phải chuyển đổi phương thức lãnh đạo và nâng cao năng lực cầm quyền. Xây dựng và
thúc đẩy pháp trị, dân chủ trở thành yêu cầu bức thiết. Cục diện thế giới có nhiều diễn
biến mới với vai trò và vị thế của Trung Quốc được nâng cao khi tổng lượng kinh tế
đã đứng thứ hai thế giới. Mặt khác, Trung Quốc cũng phải đối mặt với những thách
thức về vấn đề nhân quyền, dân tộc, tôn giáo, giữa cải cách trong nước và mở cửa đối
ngoại, quan hệ giữa Trung Quốc với các nước láng giềng, đặc biệt là cạnh tranh chiến
lược với các nước lớn hiện nay.
III.Nguyên nhân, kinh nghiệm và bài học lịch sử 1. Nguyên nhân thành công
Về kiến trúc thượng tầng
Giai đoạn 1949-1977, Trung Quốc là một trong những quốc gia nghèo và kém
phát triển nhất thế giới. Vào thời điểm này 90% Dân số sống tại nông thôn và phần
lớn là nghèo khó. Năm 1978 Hội nghị Trung ương khóa XII trung ương 3 khóa 11
Đảng Cộng sản Trung Quốc (12/1978) quyết định cải cách và mở cửa toàn diện nền
kinh tế. Đặng Tiểu Bình học thuyết mèo trắng mèo đen mèo trắng hay màu đen không
quan trọng những là bắt được chuột. Đặng Tiểu Bình đã dùng cách so sánh màu trắng
mèo đen để diễn tả ý nghĩa trong quan hệ sản xuất không thể hoàn toàn áp dụng một
hình thức cố định bất biến hình thức nào tại địa phương nào có thể khôi phục sản xuất
và phát triển thì áp dụng hình thức đó 15 lOMoAR cPSD| 23022540
Kinh tế thị trường là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản không bị coi là xấu như
trước cho phép kinh tế tư nhân miễn sao phát triển được kinh tế xóa các hợp tác xã
nông nghiệp phân loại đất cho nông dân Tư hữu tăng sản lượng nông nghiệp
Trung Quốc giao dịch với bất cứ chế độ chính trị và thế lực cầm quyền nào miễn là có lợi về kinh tế
Để thực hiện đường lối mở cửa động theo hình sử dụng mô hình các đặc khu
kinh tế được thành lập từ năm 1980 thu hút đầu tư nước ngoài, kích thích thương mại
quốc nội, tiếp thêm sức lực cho tăng trưởng kinh tế (Thâm Quyến, Chu Hải…)
Trước năm 1979 Thâm Quyến chỉ là một làng chài nhỏ. Đặc khu kinh tế Thâm
Quyến có diện tích 2050 km vuông, dân số năm 2007 là 8,6 triệu người, GDP 6 76,5
tỷ nhân dân tệ. Trong 30 năm qua Thâm Quyến đã thu hút trên 30 tỷ USD đầu tư nước
ngoài và doanh nghiệp bên ngoài.
Năm 1986, Trung Quốc triển khai chính sách cải cách mở cửa, các doanh nghiệp
nhà nước, khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế qua đó nâng cao hiệu quả
sản xuất và tăng năng lực cạnh tranh
Giai đoạn 1993-1997, đánh dấu những quyết sách quan trọng liên quan đến
chính sách tài chính ở Trung Quốc tập trung thanh lý các khoản nợ kéo dài trong khu
vực xí nghiệp nhà nước, phân cấp lại nguồn thu thuế, giảm giá đồng nhân dân tệ để
đẩy mạnh xuất khẩu. Đặc biệt 9/1995, Trung Quốc đã quyết định chuyển đổi nền kinh
tế kế hoạch trong cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Giai đoạn 1998-2002, Trung Quốc thành công trong việc giữ đồng nhân dân tệ
không bị phá giá và kích cầu tiêu dùng trong nước. Cuối 2001, Trung Quốc gia nhập
WTO chính thức trở lại một thành viên trong hệ thống thương mại đa phương toàn cầu
tạo cho Trung Quốc nhiều cơ hội phát triển.
Năm 2005, Trung Quốc đã bỏ thuế nông nghiệp đồng thời đưa ra nhiệm vụ lịch
sử xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa. Hệ thống chính trị tương đối ổn định,
luật pháp được thi hành cứng rắn, nghiêm chỉnh. Nhiều công nghệ có trình độ kỹ thuật
khoa học cao được chuyển giao mua bán và sử dụng hợp lý. Ở đâu có cái gì thì Trung Quốc bán cái đó. 16 lOMoAR cPSD| 23022540 Về cơ sở hạ tầng
Thị trường hơn 1,3 tỷ dân của Trung Quốc và hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài
(thị trường rộng lớn nhân công lao động giá rẻ có trình độ tương đối cao có ý thức tự
giác tốt kỷ luật lao động cao và không có nhiều yêu cầu khác…)
Vốn thu hút đầu tư nước ngoài FDI và ODA tăng cao đều và liên tục đứng đầu ở
vị trí số 1 thế giới.
Cơ sở vật chất hạ tầng ở nông thôn hay thành thị đều được đầu tư, xây dựng, đáp
ứng nhu cầu phát triển.
Nhiều khu kinh tế, khu công nghiệp đặc biệt được quy hoạch nhanh chóng và
phát triển rầm rộ như (Thâm quyến, Quảng Đông, Nam Ninh, Phúc Kiến…)
Sự kiện “năm 1997– Rông đổi màu”: Hồng Kông được trao trả về cho Trung
Quốc và một thời gian sau là Ma Cao sau 100 năm dưới sựu cai quản của người Anh
và Bồ Đào Nha => Đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của nền kinh tế Trung Quốc.
2. Kinh nghiệm và bài học lịch sử
2.1 Điểm tương đồng giữa Việt Nam với Trung Quốc
Đều thực hiện cải cách và đổi mới nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền
kinh tế thị trường, hai nước đều tích cực mở rộng quan hệ đối ngoại, đều có nguồn lao
động dồi dào, đồng thời là thị trường tiêu thụ hàng hóa hấp dẫn và tiềm năng, là hai
quốc gia có đường bờ biển dài, có vị trí địa lý kinh tế và chính trị quan trọng trong khu
vực Châu Á Thái Bình Dương, tài nguyên khoáng sản của Việt Nam phong phú hơn
Trung Quốc rất nhiều, nhưng người Trung Quốc đâng đứng phía sau, điều hành gần
như toàn bộ hoạt động khai thác khoáng sản tại Việt Nam. Riêng miền bắc, ít nhất
cũng có 60% mỏ mang dấu vết của doanh nghiệp Trung Quốc.
2.2 Kinh nghiệm và bài học lịch sử:
Xây dựng các đặc khu kinh tế phù hợp với điều kiện của từng địa phương với các
chính sách mở cửa, minh bạch dựa trên thể chế kinh tếtheo hướng tự do hóa, để thu
hút đầu tư trong và ngoài nước nhiều hơn. Đầu tư xây dựng, hoàn thiện cơ sở hạ tầng,
đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài nhằm thu hút vốn. 17 lOMoAR cPSD| 23022540
Cải cách theo chiều sâu: Cơ cấu lại nền kinh tế trong nước, khai thác thế mạnh
của các yếu tố nội lực, nâng cao hiệu quả sản xuất cạnh tranh của hàng hóa nội địa,
hội nhập kinh tế quốc tế.
Ưu thế nổi bật của Trung Quốc à tích lũy, tiết kiệm nội bộ đạt mức cao, tiền gửi
ngân hàng của dân chúng đã hỗ trợ sự thiếu hụt tài chính. Từ đây ta thấy được sự cần
thiết phải nhanh chóng khắc phục sự yếu kém của hệ thống tài chính – ngân hàng, kết
hợp tăng khả năng tự chủ tài chính của KVKT phi nhà nước, bù đắp sự thâm hụt các
nguồn tài chính bằng mức tiết kiệm, không gây ra lạm phát trầm trọng trong quá trình cải cách .
Tăng cường cải tạo giáo dục, đồng thời bồi dưỡng, đào tạo công nhân, nâng cao
chất lượng lao động, không còn thu hút đầu tư bằng thị trường lao động giá rẻ.
Thúc đẩy sự quản lý, vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế (định hướng sự
phát triển, đảm bảo nền kinh tế hoạt động hiệu quả, khắc phục hạn chế của cơ chế thị trường).
Cải cách kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường. Tăng chi ngân sách cho sự nghiệp
bảo vệ môi trường. Tuyên truyền về bảo vệ môi trường, ban hành quyết định xử lý các cơ sở gây ô nhiễm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Một số đánh giá về 40 năm cải cách mở cửa ở Trung Quốc
https://vass.gov.vn/nghien-cuu-khoa-hoc-xa-hoi-va-nhan-van/mot-so-danh-gia-
ve-40-nam-cai-cach-mo-cua-o-trung-quoc-70
2. Đặc điểm, nguyên nhân thành công của Trung Quốc
https://prezi.com/5mgd1o7gbc1n/ac-iem-nguyen-nhan-thanh-cong-cua-trung- quoc/
3. Trung Quốc: nhìn lại 40 năm cải cách mở cửa
https://tcnn.vn/news/detail/41652/Trung-Quoc-Nhin-lai-qua-trinh40-nam-cai- cachmo-cua.html
4. Lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc 18