








Preview text:
lOMoAR cPSD| 61464806
TÌM HIỂU VỀ TRANH ĐÔNG HỒ Ở VIỆT NAM 1. Nguồn gốc
Tên đầy đủ: Tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ
Đây là một dòng tranh dân gian xuất xứ từ làng Đông Hồ thuộc xã Song Hồ,huyện
Thuận Thành,Tỉnh Bắc NinhLà một trong ba dòng tranh dân gian của Việt Nam xuất
xứ từ làng Đông Hồ (Thuận Thành, Bắc Ninh) có lịch sử trên 400 năm. Làng Đông
Hồ nằm sát ngay bờ sông Đuống, xưa còn gọi là làng Mái, các cụ vẫn truyền lại câu thơ rằng:
“Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về làng Mái với anh thì về
Làng Mái có lịch có lề
Có sông tắm mát có nghề làm tranh”
Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ là Di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia. Được
sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phối hợp
với Ủy ban Nhân dân tỉnh Bắc Ninh và các cơ quan chuyên môn tiến hành nghiên
cứu, lập hồ sơ khoa học cho Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ để đệ trình UNESCO
đề nghị công nhận Di sản văn hóa phi vật thể.
Với những nét tinh túy riêng và mang đậm những giá trị văn hóa to lớn, tranh tết
Đông Hồ bằng những hình ảnh biểu tượng dân dã, gần gũi nhưng lại chứa đựng
những thông điệp ẩn ngữ đầy tính nhân văn. Sự phong phú và đa dạng cả về mẫu
mã, thể loại, chủ đề, tranh dân gian Đông Hồ phản ánh hầu như tất cả những gì diễn
ra trong đời sống bình dị của người lao động. lOMoAR cPSD| 61464806
Về thể loại, dựa vào nội dung chủ đề, có thể chia tranh Đông Hồ thành bảy loại
chính, gồm tranh thờ, tranh chúc tụng, tranh lịch sử, tranh truyện, tranh phương
ngôn, tranh cảnh vật và tranh phản ánh sinh hoạt 2. Giá trị
Với sự phong phú, đa dạng cả về mẫu mã, thể loại, chủ đề, tranh dân gian Đông Hồ
phản ánh hầu hết những gì diễn ra trong đời sống bình dị của người lao động như:
Chăn trâu thổi sáo, Hứng dừa, Đấu vật, Đánh ghen… cho tới những ước mơ, khát
vọng cuộc sống tốt đẹp hơn như Lễ trí, Nhân nghĩa, Vinh hoa, Phú quý, Lợn đàn, Gà
đàn… Cái hấp dẫn của tranh dân gian Đông Hồ là không chỉ đề cập cuộc sống: Thóc
đầy bồ, gà đầy sân, ước mong vinh hoa phú quý mà còn đề cập đến cuộc sống lứa
đôi, vợ chồng với cái nhìn hóm hỉnh mà sâu sắc.
dòng tranh Đông Hồ có nội dung và hình thức biểu đạt rất phong phú, chủ yếu đi sâu
miêu tả tính chân thực cuộc sống sinh hoạt, lao động sản xuất đời thường trong mối
quan hệ giữa người với người và giữa người với thiên nhiên thể hiện tính nhân quả
cầu an, cầu phúc, cầu lộc, cầu tài. Tính triết lý của tranh Đông Hồ rất sâu sắc vừa
vui tươi dí dỏm, hóm hỉnh vừa sâu cay nửa hư nửa thực mang tính trừu tượng. Tranh
dân gian Đông Hồ càng xem càng cảm nhận thấy ý nghĩa văn hóa sâu sắc, chứa đựng
những ẩn ý, nhắc nhở, răn dạy chi tiết, đầy đủ về mọi sự đúng sai, phải trái ở đời,
mang đậm một cái nhìn lạc quan, trìu mến và tha thiết đối với cuộc sống.
Trước đây, một cái Tết cổ truyền đầy đủ, không thể nào thiếu vắng tranh Đông Hồ
với những nét vẽ giản dị nhưng lại mang những hàm ý sâu xa. Ngoài tô điểm cho
không gian gia đình, tranh dân gian Đông Hồ còn được chọn làm quà tặng cho người
thân, bạn bè vào dịp Tết. Người ta tặng quà cho nhau bằng tranh, theo nội dung mà
họ đã định từ trước phù hợp với hoàn cảnh tình cảm của người được trao tặng để
trang trí trong ngày Xuân, mong sao “mọi việc như ý” cho một năm mới tốt lành. lOMoAR cPSD| 61464806
Đó là nét đẹp văn hóa trong tranh dân gian Đông Hồ mà có lẽ người Việt Nam mới có.
Ngày nay, nhu cầu chơi tranh Đông Hồ ngày Tết không còn độc tôn như xưa. Nhưng
thú chơi tranh Đông Hồ vẫn còn đó, hiện diện trong ngày Tết của một số gia đình
người Việt. Với họ, tranh Đông Hồ vẫn còn nguyên giá trị và có sức hút đặc biệt bởi
những đề tài trên tranh phản ánh đậm chất cuộc sống mộc mạc, giản dị, gần gũi, gắn
liền với văn hóa người Việt.
3. Cách làm tranh đông hồ
a)Về Chất Liệu : Nét độc đáo đầu tiên thu hút cảm quan người xem của tranh chính
là ở màu sắc và chất liệu giấy in. Giấy dùng in tranh là giấy dó được làm từ vỏ cây
dó, với đặc tính xốp, mềm, mỏng, dai, dễ hút màu mà khi in không bị nhòe. Trên
giấy được quét lên một lớp hồ điệp có nét sáng óng ánh rất đặc thù bằng cách: người
ta nghiền nát vỏ con điệp (một loại sò vỏ mỏng ở biển) trộn với hồ (loại bột gạo tẻ,
hoặc gạo nếp, có khi là bột sắn), dùng chổi lá thông quét lên mặt giấy dó. Với chổi
lá thông sẽ tạo thành những đường ganh chạy theo đường quét và vỏ điệp tự nhiên
cho màu trắng có ánh lấp lánh của những mảnh điệp nhỏ dưới ánh sáng, trong quá
trình làm giấy điệp có thể pha thêm màu khác vào hồ. - Giấy in •
Giấy in tranh là giấy dó •
Được làm từ vỏ cây dó, có đặc tính xốp,mềm,mỏng,dai,dễ hút màu mà khi in không bị nhòe. •
Trên giấy được quét một lớp hồ điệp có nét sáng óng ánh lOMoAR cPSD| 61464806
(nghiền nát vỏ con điệp-một loại sò vỏ mỏng ở biển.Trộn với hồ.Sau đó dùng chổi
lá thông quét lên mặt giấy). •
Chổi lá sẽ tạo thành những đường ganh chạy theo đường quét và vỏ điệp tự
nhiên cho màu trắng có ánh lấp lánh. -Màu in •
Màu sắc sử dụng trong tranh là màu tự nhiên từ cây cỏ o Màu đen từ than
cây xoan hay lá than tre o Màu xanh từ gỉ đồng,lá chàm o Màu vàng từ hoa
hòe o Màu đỏ từ sỏi son,gỗ vang •
Màu sắc được dùng là màu cơ bản,không pha trộn.
b) Về Quy Trình Sản Xuất: gồm hai công đoạn chính
-Sáng tác mẫu: nghệ nhân sẽ sáng tác mẫu vẽ tranh bằng tay sau đó đem đi khắc ván
mẫu .Các nghệ nhân sáng tác thường là những nhà nho có học,am hiểu văn hóa,lịch
sử,xã hội,có tài quan sát,có khiếu thẩm mỹ.
-Công đoạn in : có hai loại in là in nét và in ván màu •
Ván in nét được làm từ gỗ thị hoặc gỗ thừng mực. •
Dụng cụ khắc ván là những mũi đục hay còn gọi là bộ ve làm bằng thép cứng
(khoảng 30-40 chiếc/bộ )
Tranh in nét •
Tranh này sẽ chỉ phải in một lần mực đen •
Khi tranh khô và nén phẳng sẽ được chia đều cho cả nhà cùng tô màu.Trẻ con
và các cụ bà sẽ tô màu vàng ( vì có bị khô lệch cũng sẽ sửa được). •
Những người khác sẽ tô màu còn lại lOMoAR cPSD| 61464806
Tranh điệp ( tranh in ván màu) •
Chuẩn bị một đống giấy đã quét nền,xếp ngay ngắn trước mặt là bìa,chậu
màu,thét,còn ván in xếp bên tay phải. •
Trước tiên dùng thét quét màu lên bìa •
Sau đó rập ván in lên bìa vài lần •
Đặt ván in lên giấy theo cữ,tay trái luồn xuống dưới tờ giấy lật cả giấy lẫn ván
lên rồi dùng xơ mướp xoa lên phía sau tờ giấy để màu bắt đều nét •
Cuối cùng bóc tờ tranh ra bỏ sang bên trái,các tờ in sau để so le với tờ trước. •
Cứ như vậy cho đến khi đủ các màu •
Màu đen là ván nét được in cuối cùng sẽ do người khéo tay nhất thực hiện.
4. Một số tác phẩm tiêu biểu •
Tranh đông hồ “Đám cưới chuột” thể hiện ngụ ý sâu xa, nhắc nhở con người
phải nên sống cho phải đạo, biết đối nhân xử thế, sống nhân hậu, nhân văn nhưng
vẫn kiên cường, bất khuất. •
Tranh đông hồ “Vinh hoa phú quý” mang nhiều ý nghĩa tốt lành, là sự cầu
mong gia đình được đầy đủ vinh hoa phú quý, con đàn cháu đống, hạnh phúc viên mãn •
Tranh đông hồ “Vinh quy bái tổ” thể hiện sự vinh danh những con người tài
giỏi đỗ đạt, vinh danh thầy cô đã có công dạy dỗ người tài. •
Tranh đông hồ “Đàn lợn âm dương” với hình ảnh con heo là biểu tượng của
sự sinh sôi, nảy nở và mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc lOMoAR cPSD| 61464806 •
Tranh đông hồ “Đu quay” mô tả một trò chơi truyền thống của người dân Việt
Nam ngày xưa vào các dịp Tết. •
Tranh đông hồ “Thầy đồ cóc” thể hiện ý nghĩa chúc tụng, mang thông điệp
cầu chúc cho các em nhỏ ngày càng siêng năng, chăm chỉ và sáng dạ trong học tập. •
Tranh đông hồ “Gà dạ xướng” là bức tranh nổi tiếng nhắc nhở con người về
chữ “Tín”, nói và làm phải đi đôi, không thất hứa, bội bạc. •
Tranh đông hồ “Chăn trâu thổi sáo” thể hiện sự bình yên, thanh lạc của cuộc
sống nơi làng quê mộc mạc, giản dị. •
Tranh đông hồ “Hứng dừa” thể hiện sự hòa hợp, hạnh phúc. Người đàn ông
hái dừa trong tranh là người dũng cảm trèo lên cao, là trụ cột của gia đình mang lại
sự vững chắc, bền chãi trong đời sống.
5. Bảo tồn nét đẹp dân tộc
Theo các nhà nghiên cứu, tranh Đông Hồ bắt đầu xuất hiện từ thế kỷ XV - XVI.
Nhưng thời kỳ hưng thịnh nhất của nghề bắt đầu từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1944.
Nghệ nhân Nguyễn Đăng Tâm, người kế nghiệp cha là nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế
nhớ lại: “Bố tôi kể rằng, khi ấy, trong làng có 17 dòng họ thì tất cả đều làm tranh.
Khắp làng rực rỡ sắc màu của giấy điệp. Làng tranh nhộn nhịp nhất với chợ tranh
giữa những ngày tháng Chạp. Bà con và du khách thập phương đổ về tấp nập mua
tranh treo Tết, thăm thú. Những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, nghề tranh
bắt đầu bị gián đoạn...”.
Năm 1967, trước nguy cơ dân làng bỏ nghề làm tranh ngày càng nhiều, chính quyền
địa phương khi ấy đã giao cho nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam đứng ra tập hợp 50 nghệ
nhân có tâm huyết và tay nghề cao, thành lập Hợp tác xã sản xuất tranh dân gian
Đông Hồ. Nhờ đó, tranh Đông Hồ được hồi sinh và xuất khẩu đi nhiều nước trên thế lOMoAR cPSD| 61464806
giới như: Nhật Bản, Pháp, Đức, Singapore, Mỹ. Tuy nhiên, đến năm 1990, do tác
động của nền kinh tế thị trường cũng như những thay đổi về thị hiếu của người dân,
tranh Đông Hồ không còn được ưa chuộng như trước. Hợp tác xã sản xuất tranh
Đông Hồ giải thể. Chỉ trong vòng chục năm, hơn 90% số hộ gia đình ở Đông Hồ bỏ
nghề làm tranh, chuyển sang các nghề khác cho thu nhập cao hơn.
Từ những năm 90, khi người dân làng tranh bán hết bản khắc gỗ để mưu sinh, hoặc
để mất, thất lạc thì Nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế đã thu mua bằng hết. Đến nay, ông
vẫn còn lưu giữ được gần 100 bản khắc cổ và phục chế được hàng trăm bản khắc
khác. Trước sự thay đổi về đời sống, cơ chế thị trường, ông lăn lộn, thử thách bản
thân rất nhiều để tìm đường phát triển cho tranh.
Tuy số nghệ nhân sống chết với nghề nay chỉ đếm trên đầu ngón tay, nhưng họ vẫn
miệt mài, cần mẫn, không ngừng nâng cao chất lượng, đảm bảo tiêu chuẩn nghệ
thuật. Giờ đây, tranh Đông Hồ không chỉ được thiết kế đơn giản trên mành như trước
mà còn được đóng trong khung hay thể hiện trên các vật dụng quen thuộc hằng ngày,
đa dạng về thể loại, kích thước.
Suốt từ năm 1990 đến nay, nghề làm tranh Đông Hồ tồn tại trong cảnh hiu hắt, cả
làng chỉ còn 2 - 3 hộ gia đình “bám” nghề. Từ hơn 50 nghệ nhân nay cả làng chỉ còn
vài ba nghệ nhân cùng với khoảng 20 người thợ. Trước nguy cơ nghề cũ thất truyền,
nhiều năm qua, gia đình cố nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam và nghệ nhân Nguyễn Đăng
Chế đã không ngại bỏ kinh phí để thu gom hàng nghìn ván khắc, khuôn tranh quý từ
các gia đình bỏ nghề. Các nghệ nhân tận tụy truyền nghề cho con cháu và những
người có nhu cầu làm nghề. Tuy số nghệ nhân sống chết với nghề nay chỉ đếm trên
đầu ngón tay, nhưng họ vẫn miệt mài, cần mẫn, không ngừng nâng cao chất lượng,
đảm bảo tiêu chuẩn nghệ thuật. lOMoAR cPSD| 61464806
Đến nay, thế hệ nghệ nhân kế cận đã tiếp tục sáng tạo, kế thừa di sản của ông cha,
giữ gìn các mẫu tranh dân gian truyền thống và sáng tác thêm nhiều mẫu tranh mới
phù hợp với nhu cầu thị trường. Giờ đây, tranh Đông Hồ không chỉ được thiết kế
đơn giản trên mành như trước mà còn được đóng trong khung hay thể hiện trên các
vật dụng quen thuộc hằng ngày, đa dạng về thể loại, kích thước.
Gia đình nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế đã đầu tư gần 3 tỷ đồng để xây dựng Trung
tâm lưu giữ, bảo tồn tranh Đông Hồ với khu nhà sản xuất giấy, khu in tranh, giã điệp
và khu trưng bày sản phẩm phục vụ du khách. Đây cũng là nơi thanh niên trong làng
đến học cách làm tranh và tìm hiểu nghề truyền thống của quê hương. Đến nay,
Trung tâm lưu giữ, bảo tồn tranh Đông Hồ của gia đình nghệ nhân Nguyễn Đăng
Chế là nơi bảo tồn, lưu giữ tranh Đông Hồ lớn nhất cả nước và là địa chỉ quen thuộc
của những người yêu quý dòng tranh dân gian này.
Bên cạnh những nỗ lực của các nghệ nhân, phải kể đến sự đồng hành, vào cuộc của
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh. Ông Nguyễn Văn Ảnh, Phó Giám
đốc Sở cho biết: “Những năm qua, UBND tỉnh Bắc Ninh đã nỗ lực bảo vệ, phát huy
giá trị văn hóa của tranh dân gian Đông Hồ. Tháng 6-2014, UBND tỉnh đã phê duyệt
Đề án “Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa tranh dân gian Đông Hồ, huyện
Thuận Thành, giai đoạn 2014 - 2020 và định hướng đến 2030” với tổng kinh phí gần
60 tỷ đồng. Đề án được xây dựng nhằm khẳng định giá trị nổi bật của tranh dân gian
Đông Hồ, xác định hiện trạng và nguy cơ mai một của dòng tranh này. Đến nay, việc
xây dựng hồ sơ “Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ” đã được hoàn thiện để đề nghị
UNESCO đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của
nhân loại. (TÌM THÔNG TIN, HÌNH ẢNH LÀ CHỦ YẾU VỀ
TRUNG TÂM BẢO TỒN TRANH DÂN GIAN ĐÔNG HỒ) lOMoAR cPSD| 61464806
Thời gian gần đây, nhiều dự án tâm huyết đưa tranh hoặc hình ảnh trong tranh Đông
Hồ vào đời sống hiện đại bằng cách vẽ lại tranh, thiết kế cho phù hợp rồi in trên
những sản phẩm như quà lưu niệm, áo dài, áo yếm, lịch để bàn, túi vải…
Do vậy, tranh Đông Hồ cũng đã bắt đầu thu hút sự quan tâm của người trẻ nhiều
hơn. Theo ông Nguyễn Văn Ảnh, những hướng đi bước đầu này đã "thổi" vào dòng
tranh dân gian một luồng sống mới. Bên cạnh việc đương đại hóa, tranh Đông Hồ
cũng được "hồi sinh" trong các thiết kế thời trang, thiết kế nội thất dưới bàn tay của người trẻ.
Không chỉ đơn giản dừng lại ở việc đưa tranh đông hồ vào các sản phẩm lưu niệm,
đồ dùng, mà hiện nay nghệ thuật tranh đông hồ còn được đưa vào biểu diễn múa
ballet. Đó cũng là một cách làm sống nghệ thuật dân gian thật mới lạ đặc biệt, dễ
dàng hơn trong việc tiếp cận với du khách nước ngoài, và cả khán giả trong nước.
Từ đó cho thấy, nét đẹp văn hóa dân tộc sẽ trường tồn với thời gian nếu chúng ta
cùng nhau chung tay gìn giữ và bảo vệ, cũng như làm mới một cách khéo léo để nó
tiếp tục tỏa sáng như chính giá trị của nó. Sẽ không có một nét đẹp dân tộc nào rơi
vào quên lãng khi từng thế hệ có đủ nhận thức, tình yêu cũng như trách nhiệm lưu
giữ và phát huy. Là người con Việt Nam, ta phải biết kế tục những gì cha ông đã để
lại, từ đó tự hào rằng người Việt chúng ta có một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân
tộc, trân trọng và phát huy những giá trị đang có, tiếp tục đưa văn hóa dân gian phát
triển theo thời đại nhưng vẫn giữ vừng bản chất của nét đẹp truyền thống. “