Tìm hiểu về nguồn gốc của pháp luật và bản chất của pháp luật

Để xã hội trật tự cần có sự điều chỉnh nhất định đối với các quan hệ của con người. Việc điều chỉnh các quan hệ xã hội trong bất kỳ xã hội nào cũng được thực hiện bằng một hệ thống các quy phạm xã hội. Các quy phạm xã hội là những quy tắc về hành vi của con người. Khi chưa có Nhà nước, các quy tắc xã hội gồm: các quy tắc, tập quán, đạo đức, các tín điều tôn giáo . . .Tài liệu giúp bạn tham khảo, Mời bạn đọc đón xem!

Môn:

Tài liệu Tổng hợp 1.3 K tài liệu

Trường:

Tài liệu khác 1.4 K tài liệu

Thông tin:
5 trang 1 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Tìm hiểu về nguồn gốc của pháp luật và bản chất của pháp luật

Để xã hội trật tự cần có sự điều chỉnh nhất định đối với các quan hệ của con người. Việc điều chỉnh các quan hệ xã hội trong bất kỳ xã hội nào cũng được thực hiện bằng một hệ thống các quy phạm xã hội. Các quy phạm xã hội là những quy tắc về hành vi của con người. Khi chưa có Nhà nước, các quy tắc xã hội gồm: các quy tắc, tập quán, đạo đức, các tín điều tôn giáo . . .Tài liệu giúp bạn tham khảo, Mời bạn đọc đón xem!

10 5 lượt tải Tải xuống
Tìm hiểu về nguồn gốc của pháp luật và bản chất của pháp luật
Tương ứng với mỗi hình thái kt- xh có giai cấp là mỗi kiểu pháp luật khác nhau, Mỗi kiểu nhà nước
đồng hành với 1 kiểu pháp luật khác nhau và mang những đặc điểm của kiểu nhà nước đó. Khi các
hình thái kinh tế – xã hội thay đổi thì cũng dẫn đến s thay đổi tương ứng trong nhà nước và pháp
lut.
Mục lục bài viết
1. Nguồn gốc của pháp luật
Để xã hội trật tự cần có sự điều chỉnh nhất định đối với các quan hệ của con người. Việc điều chỉnh
các quan hệ xã hội trong bất kỳ xã hội nào cũng được thực hiện bằng một hthống các quy phạm xã
hội. Các quy phạm xã hội là những quy tắc về hành vi của con người. Khi chưa có Nhà nước, các quy
tắc xã hội gồm: các quy tắc, tập quán, đạo đức, các n điều tôn giáo . . . Sự hình thành giai cấp và đấu
tranh giai cấp tới mức không thể điều hoà được dẫn tới sự ra đời của Nhà nước, cùng lúc với sự ra
đời của Nhà ớc đã xuất hiện một loại quy tắc của Nhà nước, đó là quy tắc pháp luật. Pháp luật
được hình thành bằng hai con đường:
Thnhất, giai cấp thống trị thông qua Bộ máy Nhà nước cải tạo, sửa chữa các quy tắc phong tục, tập
quán đạo đức sẵn có cho phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị và các quy tắc đó trở thành pháp
lut.
Thhai, bằng bộ máy nhà nước của mình, giai cấp thống trị đặt ra thêm các quy phạm mới, dùng
quyền lực buộc mọi thành viên trong xã hội phải tuân theo nhằm duy trì một trật tự xã hội trong vòng
trt tự của giai cấp thống trị, đồng thời bảo vệ lợi ích, củng cố sự thng trị của giai cấp thống trị đối
với xã hội .
2. Bản chất của pháp luật
Bản chất của pháp luật thể hiện thông qua nh giai cấp và nh xã hội (hay giá trị hội) của nó. Pháp
luật thhiện ý chí của giai cấp thống trị. Ý chí của giai cấp thống trị được nhà nước thể chế hoá thành
pháp luật và bảo đảm thực hiện. Nói cách khác, pháp luật xuất phát t nhà nước, được bảo đảm thực
hiện bằng sức mạnh của nhà nước. Nhà nước luôn mong muốn hành vi của mọi người phù hợp với ý
chí của giai cấp thống trị. Do đó, pháp luật mang nh giai cấp. Bản chất của pháp luật không chỉ phn
ánh qua nh giai cấp của nó, mà còn thể hiện thông qua nh xã hội của pháp luật. Tính xã hội nhim
dần vào pháp luật, đặc biệt khi lợi ích của giai cấp thống trị về cơ bản phù hợp với lợi ích của dân tộc,
của các giai cấp khác. Vì vậy, trong những thời điểm nhất định trong pháp luật có nhiều quy định phn
ánh lợi ích chung, lợi ích phổ biến nhất định của xã hội, của cộng đồng. Mặt khác, giá trị xã hội của
pháp luật còn thể hin chỗ quy phạm pháp luật vừa là thước đo hành vi của con người, vừa là công
cụ để kiểm nghiệm các quá trình, hiện tượng xã hội, vừa là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội, trật
tự hoá các quan hệ xã hội hướng chúng vận động, phát triển phù hợp với quy luật khách quan, các
quy luật vận động nội tại của đời sống xã hội. Tnhng luận điểm trên có thể định nghĩa pháp luật
như sau: pháp luật là hệ thống các quy tắc x sự do nhà nước ban hành (hoặc thừa nhận) và bảo đảm
thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội; là nhân t
điều chỉnh các quan hệ xã hội.
3. Thuộc nh của pháp luật
Các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành có những đặc điểm, đặc thù riêng để phân biệt với các
loại quy phạm xã hội khác. Những đặc điểm, đặc thù riêng này thể hin ở các thuộc nh của pháp luật.
Pháp luật có các thuộc nh sau:
Thnht, pháp luật mang nh quy phạm phổ biến Cũng giống như các quy phạm đạo đức, tập quán,
các quy phm của các tổ chức chính trị, tchc chính trị - xã hội, pháp luật là những quy tắc xử sự, là
khuôn mẫu của hành vi. Nhưng khác với các quy tắc đó, pháp luật có nh quy phạm phổ biến. Quy
phạm pháp luật có nh phổ quát hơn, rộng khắp hơn. Về nguyên tắc, nhà nước có thể can thiệp vào
bất kỳ lĩnh vực đời sống xã hội nào khi có nhu cầu cần can thiệp, do đó pháp luật có thể điều chỉnh bất
kỳ quan hệ xã hội nào khi nhà nước nhận thấy có yêu cầu, điều này thể hiện ưu thế của pháp luật so
với các quy phạm xã hội khác.
Thứ hai, pháp luật có nh cưỡng chế ỡng chế là một nh chất cơ bản của pháp luật nói chung. Nhờ
có nh cưỡng chế bắt buộc làm cho pháp luật của nhà nước trở nên có sức mạnh, và đây cũng là điểm
khác cơ bản với đạo đức và phong tục tập quán. Cưỡng chế của pháp luật là cần thiết khách quan của
đời sống cộng đồng. Bởi vì, trong xã hội các dân tộc, giai cấp, tầng lớp và các công dân đều có những
lợi ích khác nhau, thậm chí có khi đối lập nhau, pháp luật có thể phù hợp với lợi ích của đối tượng
này, nhưng không phù hợp với lợi ích của những đối tượng khác. Vì vậy, trong xã hội luôn có những
người không chấp hành nghiêm chỉnh, thậm chí chống lại sự thi hành pháp luật. Do đó, việc cưỡng
chế buộc mọi người phải thi hành nghiêm chỉnh pháp luật là điều cần thiết.
Thba, pháp luật có nh khách quan Tính khách quan bắt nguồn từ nh xã hội của pháp luật. Các đạo
luật, các quy định khác ra đời và tác động vào cuộc sống xã hội không phải phụ thuộc vào ý chí chủ
quan của giai cấp cầm quyền, mà bởi các mối quan hệ khách quan đã tạo nên các quan niệm, quan
đim của giai cấp thống trị. Ví dụ, khi lịch sử xã hội đã hình thành các quan hệ nhân thân, quan hệ dân
sự, quan hệ tư hữu thì nhu cầu về bình đẳng, bình quyền trở nên bức xúc, đòi hỏi phải có những hình
thức pháp luật tương ứng để duy trì những quan hệ văn minh đó. Trên thực tế đã có nhiều quy định
đã được ban hành rồi mà vẫn không thể thực thi, thậm chí không ai biết đến, bởi vì nhu cầu khách
quan của xã hội chưa đòi hỏi việc hình thành pháp luật. Kinh nghiệm thực ễn xây dựng pháp luật
ớc ta và nhiều nước trên thế gii cho thấy rằng: khi một văn bản quy phạm pháp luật thể hiện nh
khách quan, nh hợp pháp thì văn bản đó sẽ điều chỉnh một cách có hiệu quả sự phát triển của các
quan hệ xã hội. Ngược lại, sự chủ quan, duy ý chí hoặc chậm trễ trong việc thể chế hoá sẽ làm cho
pháp luật kém hiệu quả, thậm chí làm cản trở sự phát triển của xã hội.
Thứ tư, pháp luật được thhiện dưới hình thức xác định. Pháp luật phải được thể hiện dưới hình
thức xác định2 . Ở ớc ta, pháp luật được thể hiện chủ yếu dưới hình thức các văn bản quy phạm
pháp luật.
Ngoài các thuộc nh cơ bản nói trên, pháp luật còn thể hiện nh sáng tạo, nh truyền thống, nh thời
đại, và nh hệ thống.
4. Chức năng của pháp luật
Pháp luật có ba chức năng chủ yếu: chức năng điều chỉnh, chức năng bảo vệ, và chức năng giáo dục. -
Chức năng điều chnh của pháp luật đối với các quan hệ xã hội được thể hiện qua hai hướng chính:
một mặt pháp luật ghi nhận các quan hệ cơ bản, quan trọng và phổ biến trong xã hội; mặt khác pháp
luật bảo đảm cho các quan hệ xã hội đó phát triển phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị, của
hội. Chức năng điều chnh các quan hệ xã hội của pháp luật được thực hiện thông qua các hình thức:
quy định, cho phép, ngăn cấm, gợi ý. Nhờ có pháp luật mà các quan hệ xã hội được trật tự hoá, đi vào
nề nếp. - Chức năng bảo vệ các quan hệ xã hội đã được pháp luật điều chỉnh. Khi có hành vi vi phạm
pháp luật xâm phạm tới các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh thì người có hành vi vi phạm đó
sẽ bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế được quy định trong phần chế
tài của quy phạm pháp luật, nhằm phục hồi lại quan hệ xã hội đã bị xâm phạm. - Chức năng giáo dục
của pháp luật được thực hiện thông qua sự tác động của pháp luật vào ý thức con người, làm cho con
người hình thành ý thức pháp luật và hành động phù hợp với cách xử sự ghi trong quy phạm pháp
lut.
5. Các kiểu pháp luật
Kiểu pháp luật là tổng thể những dấu hiệu cơ bản, đặc thù của pháp luật, thể hiện bản chất giai cấp và
những điều kiện tồn tại, phát triển của pháp luật trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Pháp
luật là một bộ phận quan trọng của kiến trúc thượng tầng. Bản chất, nội dung của pháp luật do cơ sở
kinh tế xã hội quyết định. Vì vậy, để phân loại các kiểu pháp luật trong lịch sử cần dựa vào hai êu
chuẩn: thứ nhất, pháp luật ấy ra đời, tồn tại trên cơ sở kinh tế nào, do quan hệ sản xuất nào quyết
định; thứ hai, pháp luật y thể hiện ý chí của giai cấp nào và để bảo vệ, củng cố lợi ích của giai cấp
nào. Vì vậy, tương ứng với các hình thái kinh tế - xã hội có giai cấp và có nhà nước thì có các kiểu pháp
luật; - Kiểu pháp luật chủ nô. - Kiểu pháp luật phong kiến. - Kiểu pháp luật tư sản. - Kiểu pháp luật xã
hội chủ nghĩa. Kiểu pháp luật chủ nô, phong kiến, tư sản tuy có những đặc điểm riêng, song vẫn có
những đặc điểm chung là: đều nhằm củng cố và bảo vệ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, bảo đảm sự
áp bức của thiểu số thống trị đối với đa số quần chúng nhân dân lao động, duy trì nh trạng bất bình
đẳng trong xã hội. Kiểu pháp luật XHCH đang hình thành, phát triển từng bước có mục đích xây dựng
một chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Cơ sở của sự thay thế các kiểu pháp luật là do sự vận động, phát triển
khách quan của các quy luật kinh tế xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với nh chất
và trình độ của lực ợng sản xuất có nh quyết định. Sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội dẫn đến sự
thay thế các kiểu nhà nước và pháp luật tương ứng
Kiểu pháp luật là hình thái pháp luật được xác định bởi tập hợp các dấu hiệu, đặc trưng cơ bản của
pháp luật thể hiện bản chất giai cấp nhà nước, điều kiện tồn tại và phát triển của pháp luật trong một
hình thái kinh tế – xã hội nhất định. Chủ nghĩa Mác – Lênin đã xem xét lịch sử xã hội như là một quá
trình lịch sử tự nhiên của sự thay thế một hình thái kinh tế – xã hội khác. Mỗi một hình thái kinh tế
xã hội là một kiểu lịch sử của xã hội được thiết lập trên cơ sở của một phương thức sản xuất. Pháp
luật là một yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng. Bản chất, nội dung của pháp luật suy cho cùng là do cơ
sở kinh tế quyết định, vì vậy để phân loại các kiểu pháp luật đã tồn tại trong lịch sử cần dựa vào hai
êu chuẩn: một là, dựa trên cơ sở kinh tế nào và quan hệ sản xuất; hai là, sự thhiện ý chí của giai
cấp và củng cố quyền lợi của giai cấp nào trong xã hội.
6. Câu hỏi thường gặp về nguồn gốc của pháp luật
6.1 Thuốc nh của luật pháp là gì?
Về mặt nội dung, luật pháp cónh quy phạm phổ biến. Luật pháp là do Nhà nước đặt ra, nên đối
ợng điều chỉnh của nó phbiến hơn các quy phạm xã hội khác.
Về mặt hình thức, luật pháp có nh chặt chẽ. Để dân chúng biết được và phải biết ý chí của Nhà nước,
thì ý chí này phải được thể hiện dưới các hình thức chặt chẽ. Có 3 hình thức luật pháp cơ bản, đó
tập quán pháp, ền lệ pháp, và văn bản quy phạm pháp luật.
Luật pháp được đảm bảo bằng Nhà nước. Sau khi đặt ra luật pháp, Nhà nước đưa luật pháp vào đời
sống thông qua các cơ quan Nhà nước, các thiết chế chính trị, các cán bộ, nguồn lực tài chính, các
phương pháp quản lý đặc biệt là phương pháp cưỡng chế.
6.2 Lịch sử của luật pháp là gì?
Luật pháp dưới góc độ lut học được hiểu như là tổng thể các quy tắc xử sự có nh bắt buộc chung,
do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, được Nhà nước đảm bo
thực hiện bằng các biện pháp giáo dục, thuyết phục, và cưỡng chế.
Luật pháp thông thường được thực thi thông qua một hệ thống các cơ quan thực thi, bao gồm các cơ
quan như Công an (cảnh sát), tòa án, Việc kiểm sát, thi hành án.....Tuy nhiên, cũng cần hiểu rằng, chỉ
những hành vi vi phạm pháp luật gây hậu quả xấu cho xã hội và đến một mức độ cần thiết mới có thể
bị đưa ra Toà án. Hiện nay, hầu hết các nước trên thế giới đều có hai "nhánh" là thực thi luật pháp
theo con đường hành chính và thực thi theo con đường hình sự. Hành chính và hình sự là hai cấp độ
khác nhau và không thể đồng thời áp dụng lên một hành vi vi phạm. (Cụ thể xin vui lòng xem thêm
quy định tại các văn bản pháp luật hiện hành để biết quy định nào sẽ cấu thành tội phạm hình sự và
hành vi nào sẽ bị xphạt hành chính).
Về cơ bản, luật pháp được thực thi thông qua các biện pháp hành chính là nhiều hơn cả, ví dụ như:
cảnh sát giao thông xphạt người vi phạm, thanh tra xây dựng thanh tra và xphạt vi phạm.....
Trong xã hội dân sự, mặc dù Tòa án vừa đóng vai trò là cơ quan thực thi nhưng cũng vừa là một người
trọng tài để đưa ra các phán xét của mình về nh hợp pháp của hành vi. Tuy vậy, Việt Nam và đại đa
số các nước châu Á nói chung, việc đưa vụ việc đến Tòa án chưa trở thành một thói quen và văn hóa
pháp luật.
Phần lớn các quốc gia dựa vào cảnh sát pháp lý để thi hành luật pháp. Cảnh sát pháp lý nói chung phải
được đào tạo chuyên nghiệp về các kiến thức, kỹ năng thực thi luật pháp trước khi được cho phép có
các hành vi nhân danh pháp luật, chẳng hạn như đưa ra các cảnh báo và trát đòi hầu tòa, thực thi việc
m kiếm hay ra các lệnh khác cũng như thực hiện việc tạm giam, tạm giữ.
Những người hành nghề pháp lý nói chung phải được đào tạo chuyên nghiệp về các kiến thức pháp lý
trước khi được phép biện hộ cho các bên tại tòa án, dự thảo các văn bản pháp lý hay đưa ra các tư
vấn pháp lý.
6.3 Tập quán pháp của luật pháp là gì?
Tập quán pháp là những tập quán có ích sẵn có đối với một nhà nước mới được thành lập và được
nhà nước này thừa nhận làm pháp luật. Lưu ý là luật tập quán cũng có thể thích hợp trong các phán
quyết tại các hệ thống pháp lý khác trong những lĩnh vực hay vụ việc mà các quy định pháp lý điều
chỉnh lại không (hoặc chưa) tồn tại. Ví dụ, tại Áo, các học giả luật tư thông thường cho rằng luật tập
quán vẫn còn tồn tại, trong khi các học giả luật công lại không công nhận điều này. Trong bất kỳ trường
hợp nào, rất khó để m các ví dụ thích hợp trong thực tế.
| 1/5

Preview text:

Tìm hiểu về nguồn gốc của pháp luật và bản chất của pháp luật
Tương ứng với mỗi hình thái kt- xh có giai cấp là mỗi kiểu pháp luật khác nhau, Mỗi kiểu nhà nước
đồng hành với 1 kiểu pháp luật khác nhau và mang những đặc điểm của kiểu nhà nước đó. Khi các
hình thái kinh tế – xã hội thay đổi thì cũng dẫn đến sự thay đổi tương ứng trong nhà nước và pháp luật.

Mục lục bài viết
1. Nguồn gốc của pháp luật
Để xã hội trật tự cần có sự điều chỉnh nhất định đối với các quan hệ của con người. Việc điều chỉnh
các quan hệ xã hội trong bất kỳ xã hội nào cũng được thực hiện bằng một hệ thống các quy phạm xã
hội. Các quy phạm xã hội là những quy tắc về hành vi của con người. Khi chưa có Nhà nước, các quy
tắc xã hội gồm: các quy tắc, tập quán, đạo đức, các tín điều tôn giáo . . . Sự hình thành giai cấp và đấu
tranh giai cấp tới mức không thể điều hoà được dẫn tới sự ra đời của Nhà nước, cùng lúc với sự ra
đời của Nhà nước đã xuất hiện một loại quy tắc của Nhà nước, đó là quy tắc pháp luật. Pháp luật
được hình thành bằng hai con đường:

Thứ nhất, giai cấp thống trị thông qua Bộ máy Nhà nước cải tạo, sửa chữa các quy tắc phong tục, tập
quán đạo đức sẵn có cho phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị và các quy tắc đó trở thành pháp luật.

Thứ hai, bằng bộ máy nhà nước của mình, giai cấp thống trị đặt ra thêm các quy phạm mới, dùng
quyền lực buộc mọi thành viên trong xã hội phải tuân theo nhằm duy trì một trật tự xã hội trong vòng
trật tự của giai cấp thống trị, đồng thời bảo vệ lợi ích, củng cố sự thống trị của giai cấp thống trị đối với xã hội .

2. Bản chất của pháp luật
Bản chất của pháp luật thể hiện thông qua tính giai cấp và tính xã hội (hay giá trị xã hội) của nó. Pháp
luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị. Ý chí của giai cấp thống trị được nhà nước thể chế hoá thành
pháp luật và bảo đảm thực hiện. Nói cách khác, pháp luật xuất phát từ nhà nước, được bảo đảm thực
hiện bằng sức mạnh của nhà nước. Nhà nước luôn mong muốn hành vi của mọi người phù hợp với ý
chí của giai cấp thống trị. Do đó, pháp luật mang tính giai cấp. Bản chất của pháp luật không chỉ phản
ánh qua tính giai cấp của nó, mà còn thể hiện thông qua tính xã hội của pháp luật. Tính xã hội nhiễm
dần vào pháp luật, đặc biệt khi lợi ích của giai cấp thống trị về cơ bản phù hợp với lợi ích của dân tộc,
của các giai cấp khác. Vì vậy, trong những thời điểm nhất định trong pháp luật có nhiều quy định phản
ánh lợi ích chung, lợi ích phổ biến nhất định của xã hội, của cộng đồng. Mặt khác, giá trị xã hội của
pháp luật còn thể hiện ở chỗ quy phạm pháp luật vừa là thước đo hành vi của con người, vừa là công
cụ để kiểm nghiệm các quá trình, hiện tượng xã hội, vừa là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội, trật
tự hoá các quan hệ xã hội hướng chúng vận động, phát triển phù hợp với quy luật khách quan, các
quy luật vận động nội tại của đời sống xã hội. Từ những luận điểm trên có thể định nghĩa pháp luật
như sau: pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành (hoặc thừa nhận) và bảo đảm

thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội; là nhân tố
điều chỉnh các quan hệ xã hội.

3. Thuộc tính của pháp luật
Các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành có những đặc điểm, đặc thù riêng để phân biệt với các
loại quy phạm xã hội khác. Những đặc điểm, đặc thù riêng này thể hiện ở các thuộc tính của pháp luật.
Pháp luật có các thuộc tính sau:

Thứ nhất, pháp luật mang tính quy phạm phổ biến Cũng giống như các quy phạm đạo đức, tập quán,
các quy phạm của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, pháp luật là những quy tắc xử sự, là
khuôn mẫu của hành vi. Nhưng khác với các quy tắc đó, pháp luật có tính quy phạm phổ biến. Quy
phạm pháp luật có tính phổ quát hơn, rộng khắp hơn. Về nguyên tắc, nhà nước có thể can thiệp vào
bất kỳ lĩnh vực đời sống xã hội nào khi có nhu cầu cần can thiệp, do đó pháp luật có thể điều chỉnh bất
kỳ quan hệ xã hội nào khi nhà nước nhận thấy có yêu cầu, điều này thể hiện ưu thế của pháp luật so
với các quy phạm xã hội khác.

Thứ hai, pháp luật có tính cưỡng chế Cưỡng chế là một tính chất cơ bản của pháp luật nói chung. Nhờ
có tính cưỡng chế bắt buộc làm cho pháp luật của nhà nước trở nên có sức mạnh, và đây cũng là điểm
khác cơ bản với đạo đức và phong tục tập quán. Cưỡng chế của pháp luật là cần thiết khách quan của
đời sống cộng đồng. Bởi vì, trong xã hội các dân tộc, giai cấp, tầng lớp và các công dân đều có những
lợi ích khác nhau, thậm chí có khi đối lập nhau, pháp luật có thể phù hợp với lợi ích của đối tượng
này, nhưng không phù hợp với lợi ích của những đối tượng khác. Vì vậy, trong xã hội luôn có những
người không chấp hành nghiêm chỉnh, thậm chí chống lại sự thi hành pháp luật. Do đó, việc cưỡng
chế buộc mọi người phải thi hành nghiêm chỉnh pháp luật là điều cần thiết.

Thứ ba, pháp luật có tính khách quan Tính khách quan bắt nguồn từ tính xã hội của pháp luật. Các đạo
luật, các quy định khác ra đời và tác động vào cuộc sống xã hội không phải phụ thuộc vào ý chí chủ
quan của giai cấp cầm quyền, mà bởi các mối quan hệ khách quan đã tạo nên các quan niệm, quan
điểm của giai cấp thống trị. Ví dụ, khi lịch sử xã hội đã hình thành các quan hệ nhân thân, quan hệ dân
sự, quan hệ tư hữu thì nhu cầu về bình đẳng, bình quyền trở nên bức xúc, đòi hỏi phải có những hình
thức pháp luật tương ứng để duy trì những quan hệ văn minh đó. Trên thực tế đã có nhiều quy định
đã được ban hành rồi mà vẫn không thể thực thi, thậm chí không ai biết đến, bởi vì nhu cầu khách
quan của xã hội chưa đòi hỏi việc hình thành pháp luật. Kinh nghiệm thực tiễn xây dựng pháp luật ở
nước ta và nhiều nước trên thế giới cho thấy rằng: khi một văn bản quy phạm pháp luật thể hiện tính
khách quan, tính hợp pháp thì văn bản đó sẽ điều chỉnh một cách có hiệu quả sự phát triển của các
quan hệ xã hội. Ngược lại, sự chủ quan, duy ý chí hoặc chậm trễ trong việc thể chế hoá sẽ làm cho
pháp luật kém hiệu quả, thậm chí làm cản trở sự phát triển của xã hội.

Thứ tư, pháp luật được thể hiện dưới hình thức xác định. Pháp luật phải được thể hiện dưới hình
thức xác định2 . Ở nước ta, pháp luật được thể hiện chủ yếu dưới hình thức các văn bản quy phạm pháp luật.

Ngoài các thuộc tính cơ bản nói trên, pháp luật còn thể hiện tính sáng tạo, tính truyền thống, tính thời
đại, và tính hệ thống.

4. Chức năng của pháp luật
Pháp luật có ba chức năng chủ yếu: chức năng điều chỉnh, chức năng bảo vệ, và chức năng giáo dục. -
Chức năng điều chỉnh của pháp luật đối với các quan hệ xã hội được thể hiện qua hai hướng chính:
một mặt pháp luật ghi nhận các quan hệ cơ bản, quan trọng và phổ biến trong xã hội; mặt khác pháp
luật bảo đảm cho các quan hệ xã hội đó phát triển phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị, của xã
hội. Chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội của pháp luật được thực hiện thông qua các hình thức:
quy định, cho phép, ngăn cấm, gợi ý. Nhờ có pháp luật mà các quan hệ xã hội được trật tự hoá, đi vào
nề nếp. - Chức năng bảo vệ các quan hệ xã hội đã được pháp luật điều chỉnh. Khi có hành vi vi phạm
pháp luật xâm phạm tới các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh thì người có hành vi vi phạm đó
sẽ bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế được quy định trong phần chế
tài của quy phạm pháp luật, nhằm phục hồi lại quan hệ xã hội đã bị xâm phạm. - Chức năng giáo dục
của pháp luật được thực hiện thông qua sự tác động của pháp luật vào ý thức con người, làm cho con
người hình thành ý thức pháp luật và hành động phù hợp với cách xử sự ghi trong quy phạm pháp luật.

5. Các kiểu pháp luật
Kiểu pháp luật là tổng thể những dấu hiệu cơ bản, đặc thù của pháp luật, thể hiện bản chất giai cấp và
những điều kiện tồn tại, phát triển của pháp luật trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Pháp
luật là một bộ phận quan trọng của kiến trúc thượng tầng. Bản chất, nội dung của pháp luật do cơ sở
kinh tế xã hội quyết định. Vì vậy, để phân loại các kiểu pháp luật trong lịch sử cần dựa vào hai tiêu
chuẩn: thứ nhất, pháp luật ấy ra đời, tồn tại trên cơ sở kinh tế nào, do quan hệ sản xuất nào quyết
định; thứ hai, pháp luật ấy thể hiện ý chí của giai cấp nào và để bảo vệ, củng cố lợi ích của giai cấp
nào. Vì vậy, tương ứng với các hình thái kinh tế - xã hội có giai cấp và có nhà nước thì có các kiểu pháp
luật; - Kiểu pháp luật chủ nô. - Kiểu pháp luật phong kiến. - Kiểu pháp luật tư sản. - Kiểu pháp luật xã
hội chủ nghĩa. Kiểu pháp luật chủ nô, phong kiến, tư sản tuy có những đặc điểm riêng, song vẫn có
những đặc điểm chung là: đều nhằm củng cố và bảo vệ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, bảo đảm sự
áp bức của thiểu số thống trị đối với đa số quần chúng nhân dân lao động, duy trì tình trạng bất bình
đẳng trong xã hội. Kiểu pháp luật XHCH đang hình thành, phát triển từng bước có mục đích xây dựng
một chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Cơ sở của sự thay thế các kiểu pháp luật là do sự vận động, phát triển
khách quan của các quy luật kinh tế xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất
và trình độ của lực lượng sản xuất có tính quyết định. Sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội dẫn đến sự
thay thế các kiểu nhà nước và pháp luật tương ứng

Kiểu pháp luật là hình thái pháp luật được xác định bởi tập hợp các dấu hiệu, đặc trưng cơ bản của
pháp luật thể hiện bản chất giai cấp nhà nước, điều kiện tồn tại và phát triển của pháp luật trong một
hình thái kinh tế – xã hội nhất định. Chủ nghĩa Mác – Lênin đã xem xét lịch sử xã hội như là một quá
trình lịch sử tự nhiên của sự thay thế một hình thái kinh tế – xã hội khác. Mỗi một hình thái kinh tế –
xã hội là một kiểu lịch sử của xã hội được thiết lập trên cơ sở của một phương thức sản xuất. Pháp
luật là một yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng. Bản chất, nội dung của pháp luật suy cho cùng là do cơ
sở kinh tế quyết định, vì vậy để phân loại các kiểu pháp luật đã tồn tại trong lịch sử cần dựa vào hai
tiêu chuẩn: một là, dựa trên cơ sở kinh tế nào và quan hệ sản xuất; hai là, sự thể hiện ý chí của giai
cấp và củng cố quyền lợi của giai cấp nào trong xã hội.

6. Câu hỏi thường gặp về nguồn gốc của pháp luật
6.1 Thuốc tính của luật pháp là gì?
Về mặt nội dung, luật pháp có tính quy phạm phổ biến. Luật pháp là do Nhà nước đặt ra, nên đối
tượng điều chỉnh của nó phổ biến hơn các quy phạm xã hội khác.

Về mặt hình thức, luật pháp có tính chặt chẽ. Để dân chúng biết được và phải biết ý chí của Nhà nước,
thì ý chí này phải được thể hiện dưới các hình thức chặt chẽ. Có 3 hình thức luật pháp cơ bản, đó
là tập quán pháp, tiền lệ pháp, và văn bản quy phạm pháp luật.

Luật pháp được đảm bảo bằng Nhà nước. Sau khi đặt ra luật pháp, Nhà nước đưa luật pháp vào đời
sống thông qua các cơ quan Nhà nước, các thiết chế chính trị, các cán bộ, nguồn lực tài chính, các
phương pháp quản lý đặc biệt là phương pháp cưỡng chế.

6.2 Lịch sử của luật pháp là gì?
Luật pháp dưới góc độ luật học được hiểu như là tổng thể các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung,
do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, được Nhà nước đảm bảo
thực hiện bằng các biện pháp giáo dục, thuyết phục, và cưỡng chế.

Luật pháp thông thường được thực thi thông qua một hệ thống các cơ quan thực thi, bao gồm các cơ
quan như Công an (cảnh sát), tòa án, Việc kiểm sát, thi hành án.....Tuy nhiên, cũng cần hiểu rằng, chỉ
những hành vi vi phạm pháp luật gây hậu quả xấu cho xã hội và đến một mức độ cần thiết mới có thể
bị đưa ra Toà án. Hiện nay, hầu hết các nước trên thế giới đều có hai "nhánh" là thực thi luật pháp
theo con đường hành chính và thực thi theo con đường hình sự. Hành chính và hình sự là hai cấp độ
khác nhau và không thể đồng thời áp dụng lên một hành vi vi phạm. (Cụ thể xin vui lòng xem thêm
quy định tại các văn bản pháp luật hiện hành để biết quy định nào sẽ cấu thành tội phạm hình sự và
hành vi nào sẽ bị xử phạt hành chính).

Về cơ bản, luật pháp được thực thi thông qua các biện pháp hành chính là nhiều hơn cả, ví dụ như:
cảnh sát giao thông xử phạt người vi phạm, thanh tra xây dựng thanh tra và xử phạt vi phạm.....

Trong xã hội dân sự, mặc dù Tòa án vừa đóng vai trò là cơ quan thực thi nhưng cũng vừa là một người
trọng tài để đưa ra các phán xét của mình về tính hợp pháp của hành vi. Tuy vậy, ở Việt Nam và đại đa
số các nước châu Á nói chung, việc đưa vụ việc đến Tòa án chưa trở thành một thói quen và văn hóa pháp luật.

Phần lớn các quốc gia dựa vào cảnh sát pháp lý để thi hành luật pháp. Cảnh sát pháp lý nói chung phải
được đào tạo chuyên nghiệp về các kiến thức, kỹ năng thực thi luật pháp trước khi được cho phép có
các hành vi nhân danh pháp luật, chẳng hạn như đưa ra các cảnh báo và trát đòi hầu tòa, thực thi việc
tìm kiếm hay ra các lệnh khác cũng như thực hiện việc tạm giam, tạm giữ.

Những người hành nghề pháp lý nói chung phải được đào tạo chuyên nghiệp về các kiến thức pháp lý
trước khi được phép biện hộ cho các bên tại tòa án, dự thảo các văn bản pháp lý hay đưa ra các tư vấn pháp lý.

6.3 Tập quán pháp của luật pháp là gì?
Tập quán pháp là những tập quán có ích sẵn có đối với một nhà nước mới được thành lập và được
nhà nước này thừa nhận làm pháp luật. Lưu ý là luật tập quán cũng có thể thích hợp trong các phán
quyết tại các hệ thống pháp lý khác trong những lĩnh vực hay vụ việc mà các quy định pháp lý điều
chỉnh lại không (hoặc chưa) tồn tại. Ví dụ, tại Áo, các học giả luật tư thông thường cho rằng luật tập
quán vẫn còn tồn tại, trong khi các học giả luật công lại không công nhận điều này. Trong bất kỳ trường
hợp nào, rất khó để tìm các ví dụ thích hợp trong thực tế.