



















Preview text:
a&b TIỂU LUẬN
MÔN CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM ĐỀ TÀI
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong gia đình người Việt - từ
truyền thống đến hiện đại Học viên : Mã sinh viên : Lớp : Lớp tín chỉ : Hà Nội - 2021 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 1
1. Lý do chọn đề tài. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 1
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 1
4. Phương pháp nghiên cứu:. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 2
5. Kết cấu của đề tài. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .2
NỘI DUNG. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 3
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong
gia đình người Việt. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .3
1.1 Tín ngưỡng. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .3
1.2 Tổ tiên. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 4
1.3 Thờ cúng tổ tiên. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 5
Chương 2: thực trạng về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong gia đình
người Việt. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 6
2.1 Nguồn gốc, bản chất, các hình thức của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên:
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 6
2.2 Những biểu hiện giá trị của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. . . . . . . 14
2.3 Thực trạng thờ cúng tổ tiên hiện nay. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .17
Chương 3 Một số giải pháp để phát huy giá trị truyền thống của tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt ngày nay:. . . . . . . . . . . . . . . 19
3.1 Một số giải pháp phát huy giá trị truyền thống của tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên:. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 19
3.2 Tinh thần trách nhiệm của mỗi thành viên trong gia đình:. . . . . . 20
KẾT LUẬN. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .23
TÀI LIỆU THAM KHẢO. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .25 MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một loại hình tín ngưỡng dân gian
được truyền qua nhiều thế hệ con cháu đã thấm đượm và ảnh hưởng đến
đời sống tinh thần của mọi người dân Việt Nam, tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên có sức sống trường tồn và mãnh liệt. Tín ngưỡng thờ cúng không chỉ
chứa đựng giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của dân tộc mà còn thể hiện
quan niệm của người Việt về thế giới, về nhân sinh. Do vậy, tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên có ảnh hưởng tích cực tới đời sống của mỗi cá nhân,
cộng đồng và xã hội. Sự ảnh hưởng này được thể hiện thông qua hệ thống
giá trị của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được chuyển tải vào hoạt động
giáo dục nhân cách con người Việt cũng như trong việc thoả mãn nhu cầu
tâm linh của mỗi cá nhân. Phần lớn người dân Việt Nam đều có niềm tin
vào linh hồn tổ tiên đã chết, vào thế giới bên kia, niềm tin này được thể
hiện ở nhận thức, xúc cảm - tình cảm và hành vi thực hành các lễ nghi thờ cúng.
Tuy nhiên, do nhiều yếu tố, gần đây, ở một số nơi, hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo có chiều hướng gây tác động tiêu cực làm sai lệch tư
duy của một bộ phận người dân Việt. Do đó, bài viết này đề cập đến vấn
đề tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong gia đình người Việt - từ truyền thống
đến hiện đại đồng thời phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
cùng với đó là giá trị tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
- Phạm vi nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên của người Việt từ xa xưa đến hiện đại
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Làm rõ cơ sở lý luận của đề tài tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong gia đình người Việt
Thực trạng về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong gia đình người Việt
Đưa ra một số giải pháp để phát huy giá trị truyền thống của tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt ngày nay
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình thực hiện đề tài, em đã sử dụng các phương pháp
như phân tích, tổng hợp, lôgic - lịch sử, so sánh, quy nạp, diễn dịch
5. Kết cấu của đề tài:
Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3 chương 8 tiết 2 NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong gia đình người Việt 1.1 Tín ngưỡng
Ngày nay, khái niệm tín ngưỡng được hiểu theo nhiều hướng nhưng
đều thống nhất rằng: tín ngưỡng là sự ngưỡng mộ, tin tưởng của con
người và các thế lực siêu nhiên, hư ảo, có tính chất thiêng liêng huyền bí
Dưới góc độ tâm lý học cho rằng tín ngưỡng là một hiện tượng tâm lý –
xã hội biểu hiện niềm tin của một cộng đồng người nhất định về thế giới
vô hình, lực lượng siêu nhiên cùng với năng lực chi phối của lực lượng
này đối với cuộc sống của con người thông qua hệ thống thờ cúng; quá
trình hình thành cũng như phát triển tín ngưỡng đã gắn liền với lịch sử
phát triển của một cộng đồng người nên nó phản ánh cuộc sống rất thực
tế của cộng đồng người đó.
Về mặt tâm linh, thông qua những nghi lễ thực hành tôn giáo, con
người bày tỏ niềm tin và tình cảm sâu sắc nhất của mình với lực lượng
siêu nhiên vô hình, qua đó con người được thoả mãn những nhu cầu và
khát vọng của họ về cuộc sống này.
Về mặt xã hội, những chuẩn mực đạo đức đã được quy định trong
giáo lý, giáo luật có tác dụng để điều chỉnh hành vi ứng xử của các tín đồ
trong cuộc sống của họ.
Như vậy tín ngưỡng là hệ thống những niềm tin và cách thức biểu lộ
đức tin của con người đối với những hiện tượng tự nhiên hay xã hội;
những nhân vật mang tính lịch sử hay những huyền thoại có liên quan
đến cuộc sống của họ nhằm để cầu mong có được sự che chở và giúp đỡ
từ những đối tượng siêu nhiên mà người ta thờ phụng.
Tín ngưỡng dân gian Việt Nam chủ yếu dựa trên lòng biết ơn và
ngưỡng mộ của các thế hệ sau đối với tiền thần, tiền nhân. Tín ngưỡng
dân gian cực kì là phong phú, nó chính là sự tôn sùng các lực lượng siêu nhiên như:
- Tôn sùng tự nhiên như là mặt trời, mặt trăng, nước, mưa, gió, sấm,
chớp…, các loại cây bầu bí, lúa, ngô, đậu…, vật nuôi như trâu, bò, lợn…
- Tôn sùng vật tổ như vật tổ chim, cá, cây, trâu…, tôn sùng tổ tiên
như là quốc tổ, thành hoàng, tổ tiên, ông bà.
- Tôn sùng sự sản sinh: sinh thực khí và các hoạt động tính giao
- Tôn sùng Mẫu: các nữ thần, tứ mẫu (thiên phủ, địa phủ, nhạc phủ
(thượng ngàn), thủy phủ (mẫu thoải), Bà chúa xứ và Thiên Yana
- Tôn sùng những anh hùng dân tộc, anh hùng địa phương, người có
công lớn với dân với nước: Thánh Gióng, Đức thánh Trần, Tản Viên Sơn
Thánh, Bà Trưng, Lý Ông Trọng…1 1.2 Tổ tiên
Theo quan điểm nhiều người, “Tổ tiên” là những người đã qua đời
của một dòng họ. Với em thì: “Tổ tiên là khái niệm để chỉ những người
có cùng huyết thống nhưng mà đã mất như cụ, kị, ông bà, cha mẹ…
những người đã có công sinh thành và nuôi dưỡng, có ảnh hưởng lớn đến
đời sống vật chất lẫn tinh thần tới các thế hệ con cháu”
Trong quá trình phát triển của lịch sử thì khái niệm tổ tiên cũng đã có
sự biến đổi và phát triển. Nó không chỉ còn là trong phạm vi huyết thống
gia đình, họ tộc… mà nó đã được mở rộng ra phạm vi khắp cộng đồng và
xã hội. Sự hình thành và phát triển của các quốc gia và dân tộc trên thế
giới thường được gắn liền với tên tuổi của những người đã có công tạo
dựng, giữ gìn cuộc sống. Họ là những anh hùng, danh nhân mà khi sống
được tôn sùng, khi mất thì được tưởng nhớ, thờ phụng trong các không
gian tôn giáo. Ở Việt Nam, họ là những tổ sư, tổ nghề, thành hoàng làng,
anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa… 1.3 Thờ cúng tổ tiên
1 Tủ sách xã, phường, thị trấn (2014), Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam xưa và nay, Nxb Chính trị quốc gia, tr.15 4
Thờ cúng tổ tiên là hình thức tín ngưỡng mà chúng ta phải thông qua
các nghi lễ thờ cúng nhằm để xác lập “mối liên hệ” giữa người sống với
người đã chết, giữa người ở thế giới trần gian và thế giới tâm linh.
Thờ cúng là những hoạt động có chủ đích, ý thức của con người, là
tổng thể phức hợp nhiều yếu tố như: ý thức về tổ tiên, biểu tượng về tổ
tiên và lễ nghi thờ cúng tổ tiên trong không gian thờ cúng.2
Thờ là yếu tố thuộc ý thức về tổ tiên, là tình cảm chân thành, tưởng
nhớ, biết ơn và luôn hướng về cội nguồn, quá khứ. Thờ tổ tiên là thể hiện
lòng thành kính, biết ơn, tưởng nhớ tổ tiên và cũng là thể hiện niềm tin
vào sự bảo vệ, giúp đỡ của tổ tiên. Cơ sở của sự hình thành ý thức về tổ
tiên là niềm tin về những linh hồn tổ tiên luôn sống để có thể bảo vệ và
phù hộ độ trì cho con cháu. Biểu tượng về tổ tiên là hình ảnh về những
người tài, giỏi, có công và có đức. Trên bàn thờ tổ tiên thường có bài vị,
tượng, ảnh được bày đặt rất đẹp, cầu kỳ và trang trọng.
“Cúng” là yếu tố mang tính lễ nghi, là dâng lễ vật cho tổ tiên, những
người đã khuất, là sự thực hành một loại động tác (cúng, vái, lạy…) của
người được quyền thờ cúng. Đó là hoạt động dưới dạng hành lễ và được
quy định bởi quan niệm, phong tục, tập quán của mỗi cộng đồng dân tộc.
“Thờ” và “cúng” là hai yếu tố có tác động qua lại và tạo nên chỉnh thể
riêng biệt – đó là sự phụng thờ tổ tiên.3
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt là quan niệm về sự tồn tại
của linh hồn và mối quan hệ giữa người sống và người chết (cùng huyết
thống), là một cách thức tâm linh để quở trách hoặc ban phước cho cuộc
sống cho con cháu bằng cách chứng kiến và theo dõi hành vi của thế hệ
mai sau. Tín ngưỡng, đạo lý này là nội dung quan trọng nhất, có thể nói
tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một tín ngưỡng dân gian của một dân tộc
2 Tủ sách xã, phường, thị trấn (2014), Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam xưa và nay, Nxb Chính trị quốc gia, tr.23
3 Tủ sách xã, phường, thị trấn (2014), Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam xưa và nay, Nxb Chính trị quốc gia, tr.24.
mang trong mình những huyết thống và giá trị đạo đức lâu đời. Được thể
chế hóa như một hệ tư tưởng tôn giáo: ông bà tổ tiên
Chương 2: thực trạng về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong gia đình người Việt
2.1 Nguồn gốc, bản chất, các hình thức của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên: 2.1.1 Nguồn gốc
Nguồn gốc của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trước hết phải đề cập đến
chế độ phụ quyền. Khi bước vào chế độ phụ quyền, vai trò của người đàn
ông trở nên quan trọng trong hoạt động kinh tế và sinh hoạt của gia đình.
Con cái mang họ cha và con trai kế tiếp ý thức về uy quyền trong gia đình
của mình. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên bắt nguồn từ đấy.
Không chỉ chịu ảnh hưởng từ chế độ phụ quyền, tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên còn chịu ảnh hưởng từ ba dòng tôn giáo chính ở Việt Nam :
- Nho giáo: Theo như Khổng Tử, sự sống của con người không phải
do tạo hóa sinh ra càng không phải do bản thân tự tạo ra mà nhờ cha mẹ,
sự sống của cha mẹ lại gắn với ông bà và cứ như vậy thế hệ sau kế tiếp
thế hệ trước, vì thế mà thế hệ sau phải biết ơn thế hệ trước. Cùng với tư
tưởng tôn quân, quyền huynh thế phụ đã củng cố thêm tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên ở nước ta ngày một thể chế hóa.
- Đạo giáo: Nếu như Khổng giáo đặt nền tảng lý luận về đạo đức, về
trật tự kỷ cương xã hội cho tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt thì
Đạo giáo góp phần củng cố niềm tin vào sự tồn tại và năng lực siêu nhiên
của linh hồn những người đã chết thông qua một số nghi lễ thờ cúng như:
gọi hồn, bùa chú, ma chay, tang lễ, mồ mả và đốt vàng mã.
- Phật giáo: Phật giáo có ảnh hưởng rất lớn đến sự giữ gìn và phát
triển tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam trước hết là quan niệm của
Phật giáo về cái chết, kiếp luân hồi và nghiệp báo. Những tư tưởng cơ
bản của Phật giáo có ảnh hưởng lớn lao đến sự phát triển của tín ngưỡng 6
thờ cúng tổ tiên người Việt nhưng không vì thế mà có sự sao chép y
nguyên. Người Việt Nam quan niệm rằng cha mẹ tổ tiên luôn lo lắng,
quan tâm cho con cái ngay cả khi họ đã chết. Người sống chăm lo đến
linh hồn người chết, vong hồn người chết sẽ quan tâm đến sự sống của người đang sống. 2.1.2 Bản chất
Cũng giống như các hình thức tín ngưỡng, tôn giáo khác, tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên cũng là sự phản ánh hiện thực, trong nhận thức của con
người luôn có những ngoại lực điều khiển cuộc sống hàng ngày của họ.
Ngoại lực ở đây chính là tổ tiên của họ trong thế giới vô hình. Tổ tiên đã
mất là đối tượng phản ánh nhằm thỏa mãn những khiếm khuyết về tinh
thần của con người đang sống. Tổ tiên “khôn” khi còn sống, “thiêng” khi
chết vẫn để trên bàn thờ, dù là họ hàng nội ngoại hay ngoại tộc đều rất
linh thiêng. Các thế hệ mai sau kính trọng, thờ cúng tổ tiên để tỏ lòng biết
ơn đối với tổ tiên. Ý thức tổ tiên là ý thức về nguồn gốc. Thờ cúng tổ tiên
là sự phản ánh thường xuyên của thời gian và là cầu nối giữa quá khứ,
hiện tại và tương lai. Cuộc sống là vĩnh cửu, và cái chết không phải là
dấu chấm hết. Được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, cái chết chỉ là
sự khởi đầu của một chu kỳ sinh mới.
Tôcarev đã khẳng định tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên như sau: “Sự thờ
cúng tổ tiên là một hình thức tôn giáo, từ lâu đã được thừa nhận trong
giới khoa học… là sự thờ cúng ông bà cha mẹ và những người đồng tộc
đã chết và trước hết là hình thức gia đình thị tộc của sự thờ cúng đó, từ đó
tức là lòng tin rằng, tổ tiên đã chết che chở cho con cháu đang sống và
những lễ nghi cầu xin do các thành viên thị tộc hay gia đình tiến hành để
nhằm thờ phụng tổ tiên”.
Đặc điểm chung nhất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một hình thái
ý thức xã hội đặc biệt, một hiện tượng lịch sử, xã hội và văn hóa trong
lĩnh vực đời sống tâm linh. Tuân theo những quy luật tồn tại xã hội tương
đối độc lập, được hình thành từ rất sớm và tồn tại lâu dài trong xã hội.
Nguồn gốc và bản chất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên gắn liền với nhau,
hình thành nên những đặc điểm riêng của tín ngưỡng này.
Vì vậy, có thể nói tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một loại hình tín
ngưỡng dân gian, liên quan đến văn hóa, đạo đức thực hành trên cơ sở tín
ngưỡng, người đã khuất sẽ che chở, bảo vệ tổ tiên. Đây là sự phản ánh
thần thoại về quyền lực của tổ tiên, được thể hiện qua nghi lễ thờ cúng tổ
tiên trên cơ sở quan niệm, phong tục tập quán của mỗi người, gia đình và cộng đồng xã hội.
2.1.3 Các hình thức của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Trong những năm gần đây, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được khôi
phục và phát triển mang tính kế thừa, thông qua dòng họ - dòng tộc - làng
xã, dòng họ. Hệ thống đất nước đã phát huy những giá trị văn hóa được
chia sẻ từ hàng nghìn năm.
Trên thực tế, có nhiều cách phân loại khác nhau về tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên. Ví dụ, theo chủng tộc, chúng ta có Kinh, Mường, Tày,
Thái . .; theo tầng lớp xã hội, theo đặc điểm của tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên. Cách phân loại chung dựa trên cấu trúc của tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên theo nghĩa rộng, chia tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên thành tín ngưỡng
thờ cúng gia tiên, dòng tộc, chủ làng và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trên phạm vi cả nước.
2.1.3.1 Thờ cúng tổ tiên trong gia đình
Thờ cúng tổ tiên là tấm lòng thành kính, thể hiện đạo lý uống nước
nhớ nguồn, công ơn tổ tiên, ông bà, cha mẹ đã sinh thành ra con cháu.
Thờ cúng tổ tiên là nhiều hình thức nghi lễ khác nhau, Thờ gia tiên, ông
bà hoặc cha mẹ đã khuất để tỏ lòng thành kính với thế hệ mai sau. Thờ
cúng tổ tiên là một tín ngưỡng dẫn đến niềm tin thiêng liêng vào linh hồn
của tổ tiên là người bảo vệ. Bảo vệ, che chở cho con cháu trong quá trình
hoạt động kinh doanh, làm ăn. Việc chôn cất dựa trên đồ tùy táng tìm 8
thấy trong các lăng mộ thời nguyên thủy là tục đốt giấy, vàng mã, tiền ở
cõi âm ngày nay, là minh chứng cho tín ngưỡng ông bà, tổ tiên vẫn còn sống ở cõi dương.
Phong tục thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam ra đời từ rất lâu đời,
họ tin rằng linh hồn sẽ sống mãi sau khi chết. Tin người chết sẽ về phù hộ,
chỉ bảo cho con cháu. Mâm cỗ không nhất thiết phải đầy đủ vào những
ngày lễ, Tết, giỗ Tổ, chỉ cần thắp một nén hương lên bàn thờ tổ tiên là
con cháu trong gia đình đã thể hiện tấm lòng thành kính của mình, sự biết
ơn và hướng về ông bà, tổ tiên và những người đã khuất. Từ lâu, thờ cúng
tổ tiên đã trở thành phong tục, chuẩn mực đạo đức, nguyên tắc làm người
của người Việt, là một bộ phận quan trọng trong đời sống tinh thần của
người Việt Nam, đặc biệt là đời sống nông thôn Việt Nam. Cầu mong tổ
tiên cầu mong cả nhà bình an, đây là suy nghĩ của tất cả người dân Việt
Nam. Trên thực tế, thờ cúng tổ tiên là một phong tục dân tộc, tuy không
bắt buộc nhưng là “phép tắc” đã tồn tại trong đời sống tâm linh của người Việt từ bao đời nay.
Có nhiều hình thức và mức độ thờ cúng tổ tiên cùng một dòng họ
khác nhau. Trước tiên là mỗi gia đình đều có tục thờ cúng tổ tiên (thờ cúng gia tiên).
Ngoài thờ cúng tổ tiên, thờ Phật, người ta còn thờ bà Cô Tổ, Ông
Mãnh Tổ là những người thân mất khi còn trẻ hoặc lúc mất vào giờ linh
thiêng. Ở một số gia đình, vị trí đặt bàn thờ theo quy định, chẳng hạn thờ
thánh ở góc nhà, thờ tiền nhân ở gian ngoài sân, thờ bà Cô, ông Mãnh ở
cạnh thấp hơn bàn thờ tổ tiên. Thờ ở nhà, thường không có vị thần nào
ngang hàng với tổ tiên. Bàn thờ gia tiên là không gian linh thiêng, nơi các
thành viên trong gia đình bày tỏ lòng biết ơn đối với tổ tiên. Bàn thờ là
nơi tổ tiên "đi", "về" và “ngự” trên đó. Thông thường, bàn thờ gia tiên
thường được đặt cố định ở nơi trang trọng nhất là gian giữa của nhà trên.
Cách bài trí bàn thờ gia tiên thường khác nhau, tùy thuộc vào quan
niệm tâm linh và hoàn cảnh kinh tế của gia chủ. Nói chung, mỗi bàn thờ
gia tiên đều có những đồ thờ chính sau: bài vị, lư hương, đĩa đèn, bình
hoa, ly rượu, đĩa hoa quả, v.v. gia đình bình thường đồ thờ thường được
làm bằng gỗ hoặc gốm, và những người giàu có cũng có đồ bằng đồng.
Đồ thờ cúng được coi là vật linh thiêng. Ngày nay, do ảnh hưởng của nếp
sống mới, không còn nhiều gia đình có bàn thờ cổ. Người ta dựng bàn thờ
trên ban trên tường, có khi trên nóc tủ… Bàn thờ chỉ gồm một lư hương
nhỏ, khung ảnh của người đã khuất và một số đồ trang trí khác.
Thông thường, bàn thờ gia tiên thường được chia làm hai lớp, ngăn
cách nhau bằng vách vải. Ở lớp trong đặt ngôi vị của tổ tiên, hộp trầu, đĩa
đựng nước, trái cây đặt trong bộ đồ thờ. Lớp ngoài cùng là hương án, trên
đó đặt bình hương, đèn, bát hương, khay…
Ngoài ra, bàn thờ của những gia đình giàu có hay đại gia còn có bức
hoành phi treo trên, sơn son thếp vàng treo hai bên. Nếu hoành phi, câu
đối trong nhà thờ họ, bàn thờ tổ tiên thường được viết tóm tắt, thể hiện sự
tôn nghiêm của dòng họ, nhằm làm gương cho thế hệ mai sau, thể hiện
lòng thành kính, biết ơn hay hứa hẹn với thế hệ mai sau.
Với trách nhiệm thờ phụng nhiều đời: cao, tằng, tổ, khảo, bàn thờ các
gia đình chi trưởng, ngành trưởng có đặt các tấm thần chủ được làm bằng
gỗ táo (với ý nghĩa cây táo sống nghìn năm) ghi rõ tên tuổi các vị tổ.
Theo thuyết âm dương ngũ hành thì bát hương thể hiện hành thổ, nên ở
giữa (trung tâm). Hai cây đèn nến thể hiện hành hỏa. Nén hương đốt lên
là có cả ba yếu tố: hỏa (phần đang cháy), mộc (phần thân hương) và thổ
(phần chân hương cắm trong bát hương). Mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ, sự
chuyển hóa thể hiện ước vọng sinh sôi, phát triển.
Việc thờ cúng của một gia đình bình thường thường rất đơn giản,
thường là bộ tam sự, gồm một bát hương ở giữa và hai ngọn nến ở hai
bên. Trong những gia đình giàu có, đối tượng thờ cúng là những là bộ 10
ngũ sự hay thất sự. Bộ ngũ sự này bao gồm một bát hương, hai chân nến,
một lọ độc bình, một mâm ngũ quả, một giá để đồ (còn gọi là tải), ba
chiếc đài ở giữa và một ly rượu ở giữa đĩa trầu và bát nước để một bên.
Rượu và nước là yếu tố của tính âm, hành thuỷ. Sau khi đặt đồ tế lên bàn
thờ, gia trưởng (có thể là trưởng họ, con trai trưởng hoặc con trai
trưởng . .) quàng khăn ngay ngắn, thắp hương, đứng trước bàn thờ, lạy ba
lạy. và thề sẽ thắp hương trên bàn thờ Điểm bằng số lẻ: một, ba, năm nén.
Sau khi gia trường cúng lễ, lần lượt mọi người trong gia đình vái trước
bàn thờ. Ngày nay, việc khấn lễ đã giản đơn, người ta chỉ vái thay lễ.
Trước khi khấn, vái ba vái ngắn, khấn xong vái thêm bốn vái dài và ba
vái ngắn. Khi mọi người đã lễ vái xong, chờ cho tàn một tuần nhang, gia
trưởng tới trước bàn thờ lễ tạ và thắp thêm tuần nhang nữa. Sau đó, gia
trưởng hạ vàng mã trên bàn thờ đem hoá (đốt). Lúc hoá vàng người ta
thường lấy chén rượu cúng vẩy lên đống tàn vàng. Các cụ giải thích, có
như vậy người dưới âm mới nhận được số vàng người sống cúng. Lúc
này có thể hạ đồ lễ xuống.
Đồ lễ trên bàn thờ cũng không quy định chặt chẽ lắm, tùy tâm nhưng
điều cơ bản phải là những thứ thanh khiết và được dành riêng. Cỗ bàn
nấu xong, cúng gia tiên trước con cháu mới được ăn sau. Khách tới ăn giỗ
có mang đồ lễ để cúng, thường là vàng hương, trầu rượu, trà nến, hoa quả.
Việc thờ cúng tổ tiên tại nhà thường được tiến hành quanh năm, xuất phát
từ quan niệm rằng linh hồn luôn ở bên thế hệ mai sau. Không chỉ thờ
cúng trong những dịp trọng đại như ma chay, giỗ chạp, cưới hỏi . . mà
không chỉ thờ cúng trong các dịp Tết Nguyên đán, Thanh minh, Hãn
Thục, Đoan ngọ v.v. mà con cháu tổ tiên cũng được thành kính chiếu cố
mọi buồn vui: sinh, bệnh, thi, đỗ, kiện tụng, bất hòa… Tóm lại, tùy theo
gia cảnh và nội dung của ngày lễ mà phải đảm bảo mọi đồ cúng luôn phải
sạch, thanh khiết và được để riêng. Trong những ngày lễ tết thì chuẩn bị
long trọng hơn ngày thường, lễ vật cũng nhiều hơn, nhưng cũng không
thể thiếu một số thứ: hương, đèn, ly nước, hoa ban. Theo quan niệm dân
gian, cây nhang là cầu nối giữa tổ tiên và con cháu, có khả năng truyền tải
những mong muốn của người sống, hương thơm cao quý của hương và
hoa tạo nên hai cõi giao hòa giữa con người và ông bà tổ tiên. Người Việt
Nam rất coi trọng việc thờ cúng tổ tiên, bởi việc thờ cúng giỗ chạp là biểu
hiện của lòng hiếu thảo. Thờ cúng tổ tiên là phong tục truyền thống của
dân tộc, tuy không bắt buộc nhưng đây là “quy luật bất di bất dịch” trong
đời sống tâm linh của người Việt được truyền từ đời này sang đời khác.
Bất cứ gia đình Việt Nam nào cũng lập bàn thờ cúng tổ tiên và đặt ở vị trí
trang trọng nhất, trở thành nơi để con cháu khấn vái trong tuần, giỗ chạp,
ngày Tết hay báo hiếu. Mong muốn được hưởng phúc lành của tổ tiên.
Mọi sự việc trong gia đình đều được gia chủ báo cáo với tổ tiên.
2.1.3.2 Thờ cúng tổ tiên trong dòng họ
Để tưởng nhớ về nguồn gốc của dòng tộc mình, mỗi dòng họ đều xây
nhà thờ thuỷ tổ của dòng họ (người sáng lập ra dòng họ) vì vậy ngoài
ngày giỗ tổ tiên tại gia, người Việt còn có ngày giỗ họ do trưởng tộc có
trách nhiệm chủ trì, trong ngày giỗ họ, con cháu đều phải góp giỗ, mỗi
dòng họ đều có một cuốn tộc phả ghi chép họ tên, chức tước, ngày tháng
sinh của tổ tông và thành viên trong dòng họ theo thứ tự gọi là gia phả.
Phạm vi thờ cúng tổ tiên thì thờ cúng tổ họ có phạm vi rộng nhất bởi
đó là ông tổ của một dòng họ, là cái “gốc “, là “cội nguồn “của cả một
dòng họ . Do vậy tất cả những thành viên trong dòng họ ngoài việc thờ
cúng tổ tiên trong gia đình thì có cả nghĩa vụ thờ cúng tổ họ
2.1.3.3 Thờ cúng tổ tiên ở làng xã (thành hoàng làng)
Tục lệ thờ cúng thành hoàng làng nhìn chung rất phong phú và đa
dạng, tuỳ từng địa phương mà có những quan niệm và cách thờ cúng khác
nhau. Nhưng đặc trưng của người Việt là gắn bó với việc làm nông
nghiệp trồng cấy lúa nước, hoạt động sản xuất luôn gắn với yếu tố thiên
nhiên: đất, nước, thời tiết…nên các thành hoàng được thờ phụng trước 12
hết là các thần thiên nhiên, thần núi, sông cũng được nhân dân thờ phụng
nhưng về cơ bản những nhân vật được tôn vinh làm thành hoàng là những
người có công đánh giặc giữ nước, khai làng lập ấp. Thành hoàng làng
còn là những nhân vật lịch sử hay các nhân vật huyền thoại
Tín ngưỡng thờ thành làng là niềm tin của một cộng đồng người vào
sự che chở của một vị thần linh được Nhà nước phong kiến sắc phong để
trở thành quan lại thiêng của triều đình trấn giữ một khu vực nào đó,
thường là một làng. Và niềm tin đó được thực hiện thông qua các lễ thức
nhất định và hội làng hàng năm.
2.1.3.4 Thờ cúng tổ tiên của cả nước (Giỗ Tổ Hùng Vương)
Việt Nam cũng như các quốc gia khác trong khu vực đều có truyền
thống, huyền thoại về nguồn gốc của dân tộc mình, những người được coi
là thuỷ tổ của cả dân tộc, khai sinh ra quốc gia, dân tộc được coi là tổ tiên
của cả nước và ở Việt Nam đó là vua Hùng – người có công dựng nước là
một biểu hiện sâu sắc, một ví dụ điển hình cho tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của đất nước ta.
Tín ngưỡng thờ Vua Hùng ngày càng ăn sâu vào tâm thức dân gian,
hình thành nên truyền thống văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam,
sẵn sàng vượt qua bao gian khổ, khó khăn, thử thách tự nhiên thiên tai và
bao “thăng trầm” là chí hướng mà đất nước ta hướng tới trong suốt lịch
sử dựng nước và giữ nước của Việt Nam từ bao đời nay. Truyền thống
quý báu ấy đã thấm sâu vào lòng mỗi “người dân đất Việt” và trở thành
biểu tượng tinh thần của mọi trái tim, khối óc, làm sáng hơn đạo lý “uống
nước nhớ nguồn”; “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” của dân tộc ta bao đời nay.
Tín ngưỡng ấy đã trở thành nhu cầu tinh thần, tình cảm không thể thiếu,
vừa thể hiện phẩm chất đạo đức, vừa là ý chí đoàn kết, gắn bó cộng đồng
thành một quốc gia - dân tộc Việt Nam ngày nay. Tín ngưỡng ấy còn
được Bác Hồ một lần nữa khẳng định thành chân lý của dân tộc: “Các
Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Đối với người Việt Nam, lễ hội thờ Vua Hùng- người có công dựng
nước hàng năm là một biểu hiện sâu sắc, là tấm gương tiêu biểu cho tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên của đất nước. Hàng năm cứ vào ngày 10 tháng 3
âm lịch là tục cúng tế vua Hùng, đây là ngày quốc lễ của cả nước và là
ngày con cháu cả nước tề tựu về tổ tiên. Vào ngày mồng mười, từ sáng
sớm, người dân đã đổ xô đến chứng kiến lễ tế thần của vua Hùng. Từ đại
diện cấp cao của đất nước đến những người dân bình thường, ai nấy đều
thành kính thắp nén hương để bày tỏ lòng biết ơn cao cả và nhân hậu đối
với đất nước. Đó là một truyền thống văn hóa đặc biệt của Việt Nam, thể
hiện lòng biết ơn sâu sắc, có tinh thần thành kính, tôn vinh công đức của
vua Hùng, tổ tiên đối với dân tộc Việt Nam từ đời này sang đời khác.
2.2 Những biểu hiện giá trị của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Thờ cúng tổ tiên là một loại hình tín ngưỡng truyền thống của người
Việt Nam. Đã là người Việt Nam thì “mọi người đều thờ ông bà, mọi
người đều thờ cúng tổ tiên”. Thờ cúng tổ tiên đã trở thành một tập tục
truyền thống, có vị trí hết sức đặc biệt trong đời sống tinh thần của dân tộc ta.
Thờ cúng tổ tiên có những đặc điểm rất đặc biệt, vì tổ tiên dòng họ và
tổ tiên dân tộc gắn bó mật thiết với nhau trong việc tưởng nhớ và thờ
cúng. Vua Hùng được coi là thủy tổ của dân tộc Việt Nam. Cả nước thờ
cúng tổ tiên dân tộc, đây là một truyền thống độc đáo, một lối sống đầy
bản sắc. Việc thờ cúng tổ tiên đã được thấm nhuần từ hàng trăm năm nay,
song song với việc thờ cúng tổ tiên dòng tộc, của từng gia đình, cái này
nương tựa vào cái kia không thể tách rời nhau được. Như đã nói ở trên,
tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên không chỉ thể hiện ở hai cấp độ quốc gia và tư
gia, mà còn thể hiện tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của cộng đồng làng xã là
người khai khẩn đất đai (Thành Hoàng làng) . . Thờ tổ tiên là cũng rất 14
quan trọng đối với việc tăng cường củng cố sự đoàn kết cộng đồng làng
xã. Sự gắn bó cá nhân - gia đình - dòng tộc - làng xã, nhà nước - xã hội là
đặc điểm cố hữu của đời sống tinh thần.
Như vậy, thờ cúng tổ tiên rõ ràng là một tín ngưỡng truyền thống sâu
sắc, một nét đẹp của dân tộc ta được củng cố và duy trì khá bền vững.
Thông qua việc thờ cúng tổ tiên, ai cũng tin rằng tổ tiên gia đình khi mất
đi nhưng họ vẫn luôn hiện hữu bên cạnh con cháu, phù hộ và răn dạy con
cháu. Chính niềm tin đó đã tạo nên nền tảng cho việc thờ cúng tổ tiên trở
thành một nét đẹp văn hoá trong đời sống tâm linh của con người Việt Nam.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt trong quá trình hình thành
và tồn tại của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã góp phần hình thành các giá
trị đạo đức truyền thống như đạo hiếu, nhân nghĩa, cộng đồng, cần cù,
sáng tạo, ham học hỏi, yêu nước. Trong đó, yêu nước là giá trị đạo đức
chủ đạo trong hệ thống đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam. Đây
là những giá trị rất quý báu, chúng ta cần nghiên cứu và sử dụng những
giá trị này để phục vụ cho sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Thờ cúng tổ
tiên đã trở thành một phong tục tập quán truyền thống và chiếm một vị trí
vô cùng đặc biệt trong đời sống tâm linh của dân tộc Việt Nam. Đó là
một trong những yếu tố tạo nên đặc trưng văn hóa Việt Nam. Với lịch sử
dân tộc, đây là sự lắng đọng và tích tụ những giá trị đạo đức quý báu của
dân tộc Việt Nam. Thờ cúng tổ tiên thể hiện lòng hiếu thảo: Trong gia
đình, người Việt Nam rất coi trọng việc lập gia đình, dòng tộc là đơn vị
cơ bản của xã hội. Đối với người Việt Nam, hiếu kính cha mẹ, ông bà, tổ
tiên là tâm thức trong mỗi nghi lễ thờ cúng tổ tiên đã có từ xa xưa. Báo
hiếu với cha mẹ không chỉ là sự chăm sóc, báo ân cha mẹ mà còn là trách
nhiệm, nghĩa vụ của đạo làm con. Trước hết, hiếu thảo với ông bà, cha
mẹ là cách ứng xử của con người trong cuộc sống. Đạo hiếu của gia đình
Việt Nam không chỉ nhắc nhở con cái về đạo hiếu mà cha mẹ cũng phải
chăm lo cho con cái. Để dạy dỗ và giáo dục con cái nên người, cha mẹ
phải luôn là tấm gương sáng về lời ăn tiếng nói và hành vi của con cái.
Đối với người sống là sự thật, nhưng đối với người chết, người Việt Nam
thể hiện lòng hiếu thảo sâu sắc. Thờ cúng tổ tiên là trách nhiệm đạo đức
của người Việt, thể hiện nhu cầu huyết thống và tín ngưỡng trong môi trường gia đình.
Người dân Việt Nam thể hiện lòng biết ơn đối với tổ tiên thông qua
các nghi lễ tế tự. Trong mỗi gia đình, việc thờ cúng tổ tiên đã dần trở
thành đạo lý “uống nước nhớ nguồn” và trở thành “đạo hiếu”. Đạo hiếu là
gốc của mọi người. Trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt,
đạo hiếu là một giá trị đạo đức đáng quý. Ngoài lòng hiếu thảo với tổ tiên,
thờ cúng tổ tiên còn là sợi dây gắn kết con người thời hiện đại. “Anh em
như thể tay chân”, tình làng nghĩa xóm “tối lửa tắt đèn có nhau”, tình
làng nghĩa xóm, tương thân tương ái, giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Từ
đó, lòng nhân ái và tính cộng đồng được hình thành và củng cố, đó cũng
là những giá trị đạo đức đáng trân trọng, không thể thiếu trong đời sống
xã hội của mọi người.
Vì vậy, có thể thấy rằng qua nghi lễ thờ cúng tổ tiên của người Việt
đã đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc giáo dục con người,
điều này thể hiện ở đạo đức của con người, có thứ bậc giữa các thành
viên trong gia đình, dòng họ, dòng tộc. Đây là nét đẹp của gia đình, dòng
tộc và văn hóa dân tộc. Mặt khác, nó đáp ứng nhu cầu tinh thần của con
người, từ đó nâng cao đạo hiếu vốn có của người Việt Nam và tạo nên
một truyền thống tốt đẹp được truyền từ đời này sang đời khác. Ngày nay,
đất nước đang hướng tới một xã hội văn minh hiện đại nhưng vẫn phải
giữ được những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trong truyền thống mỗi
gia đình vì mỗi gia đình là một đơn vị của xã hội thì việc thờ cúng tổ tiên
vẫn có vai trò sống còn trong cộng đồng người Việt.
2.3 Thực trạng thờ cúng tổ tiên hiện nay 16
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt gắn với đời thường, gắn
với sinh hoạt văn hóa cộng đồng, được chú trọng nhiều hơn.
Xuất phát từ quan niệm “trần sao, âm vậy”, việc thắp hương tưởng
nhớ ông bà tổ tiên đã trở nên quen thuộc và phổ biến trong mỗi gia đình
Việt. Ngoài trách nhiệm đạo đức, thực hiện nghi lễ thờ cúng tổ tiên là
hình thức đơn giản, không tốn nhiều thời gian, có thể thực hiện được việc
thờ cúng tổ tiên trước thì thế hệ mai sau mới hưởng phúc và ghi nhớ.
Đồng thời bày tỏ lòng hiếu thảo với tổ tiên. Vì vậy, truyền thống này dễ
dàng được chuẩn hóa trong mọi gia đình, dù là nông dân hay trí thức, dù
là con cả hay con thứ, giàu hay nghèo, trai hay gái. Vì vậy, khi làm bất cứ
việc gì, người ta thường thắp hương để cầu xin tổ tiên phù hộ như: ốm
đau, bệnh tật, sinh nở, làm ăn, học hành, thi cử, nề nếp gia phong, con cái ngoan ngoãn.
Cuộc sống không chỉ được chuẩn hóa trong mỗi gia đình, mà còn
được chuẩn hóa trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Nhiều nơi có việc
làm thiết thực, nhiều phong trào quần chúng, như: phát đạo lý “Uống
nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa, xây dựng gia đình, làng, xã văn
hóa, khu dân cư kiểu mẫu”. để tưởng nhớ các anh hùng dân tộc Ví dụ: Lễ
hội Đền Hùng, lễ hội Đền Gióng. . Đã nêu rõ truyền thống đánh giặc giữ
làng, bảo vệ thuần phong mỹ tục, ban đầu hình thành nhiều nghi lễ mới
trong việc cưới, việc tang. Sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân
cũng như cải thiện các hủ tục lạc hậu. đất nước, lòng trung thành với cách
mạng, và lòng trung thành với quê hương.
Giá trị văn hóa của nghi lễ thờ cúng tổ tiên còn thể hiện ở tư tưởng
coi trọng đạo đức gia đình, trọng tình cảm trên dưới của con người. Vì thế,
mọi người Việt Nam bất kỳ ở đâu cũng thân ái, tin cậy, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau.
Bên cạnh những nét đẹp truyền thống được bảo tồn và phát huy, thì
thờ cúng tổ tiên của người Việt trong những năm gần đây còn có những
quan niệm sai lệch, hiểu hiện theo hướng mê tín dị đoan.
Xuất phát từ nhu cầu văn hoá, đạo đức, tín ngưỡng tâm linh mà các
hoạt động bái lễ ngày càng phát triển mạnh đi cùng với đó là vô số vấn đề
tiêu cực nảy sinh vì ranh giới giữa sự thành tâm và mê tín là hết sức
mong manh. Đã có nhiều trường hợp quá tin vào thần thánh, tâm linh nên
việc gì cũng cúng bái thần linh, cúng lễ một mình là chưa đủ họ còn nhờ
“thầy” về cúng lễ vừa tốn kém về tiền bạc, thời gian mà tệ hơn nữa là dễ
rơi vào nhiều “thầy” lừa đảo sử dụng chiêu trò mua thần bán thánh để trục lợi cho bản thân.
Còn có những người nhân cách đạo đức thấp kém, làm nhiều việc trái
với lương tâm, đạo đức, đi ngược với chuẩn mực xã hội mà chỉ chăm
chăm cúng bái thần linh, tổ tiên với mưu cầu tiền tài, danh vọng. Đó là đi
trái với bản chất của việc thờ cúng tổ tiên.
Ở một số nơi hiện tượng mê tín dị đoan được thể hiện khá rõ rệt.
Đó là những hoạt động tâm linh như bói toán, gọi hồn, trừ tà ma, tuy
thực hư của một số số hoạt động tâm linh này vẫn còn là một bí ẩn nhưng
có một số người quá tin vào chúng gây ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân
như bạc nhược, thiếu chủ động về mặt tinh thần và biến chúng thành
những hủ tục, mê tín và làm giảm đi những giá trị truyền thống tốt đẹp
của việc thờ cúng tổ tiên
Thờ cúng tổ tiên một cách phô trương, lãng phí, thực dụng.
Với tư tưởng “trần sao, âm vậy” nên việc đốt vàng mã xuống cho ông
bà tổ tiên đã không còn xa lạ với người dân Việt Nam. Vào dịp tháng bảy
(âm lịch) hàng năm người ta sẵn sàng mua nhiều đồ vàng mã thậm chí
còn là những thiết bị hiện đại: ô tô, xe máy, nhà lầu …. Với tư tưởng
mình đốt thứ gì cho ông bà tổ tiên thì ông bà sẽ nhận được thứ đó và
mong tổ tiên phù hộ cho họ được nhiều hơn thế mà họ không hề biết rằng 18