TÍNH ĐỘC LẬP TƯƠNG ĐỐI CỦA Ý THỨC HỘI
I. Tính độc lập ơng đối của ý thức hội biểu hiện những điểm cụ thể sau đây:
1) Ý thức hội thường lạc hậu so với tồn tại hội:
Lịch sử hội đã cho chúng ta thấy được rằng, trong nhiều trường hợp khi tồn tại
hội đã mất đi, nhưng ý thức hội ơng ứng thì lại vẫn còn tồn tại. Cụ thể
thì điều đó biểu hiện rằng ý thức hội muốn thoát ly ra khỏi sự ràng buộc của tồn tại
hội, ý thức hội trong trường hợp y đã biểu hiện tính độc lập tương đối.
Những nguyên nhân làm cho ý thức hội thường lạc hậu hơn tồn tại hội, 3
nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, do tác động mạnh mẽ nhiều mặt trong hoạt động thực tiễn của con
người nên tồn tại hội diễn ra với tốc độ nhanh hơn kh năng phản ảnh của ý thức
hội.
Thứ hai, do sức mạnh của thói quen, tập quán truyền thống do tính bảo thủ
của hình thái ý thức hội. Hơn nữa, những điều kiện tồn tại hội mới cũng chưa đủ để
làm cho những thói quen, tập quán truyền thống cũ hoàn toàn mất đi.
Thứ ba, ý thức hội gắn liền với lợi ích của những tập đoàn người, của các giai
cấp nàp đó trong hội. Các tập đoàn hay giai cấp lạc hậu thường níu kéo, bám chặt vào
những tư ơngr lạc hậu để bảo v duy t quyền lợi ích k của họ, để chống lại các lực
lượng tiến bộ trong hội.
Ta nhận thấy, ý thức lạc hậu, tiêu cực không mất đi một cách dễ dàng. Cho nên
trong sự nghiệp xây dựng hội mới chúng ta sẽ cần phải thường xuyên tăng cường công
tác tưởng, đấu tranh chống lại âm mưu hành động phá hoại những lực lượng thù
địch về mặt ởng, kiên trì xoá bỏ những tàn dư ý thức song song với việc bồi đắp,
xây dựng phát triển ý thức hội mới.
dụ: như ý thức tưởng phong kiến, phản ánh hội phong kiến, nhưng khi
hội phong kiến đã thay đổi thì ý thức vẫn chưa thay đổi kịp về các tưởng như: trọng
nam khinh nữ, ép duyên, gia trưởng. Cho đến tận giai đoạn ngày nay thì các tưởng này
vẫn còn xuất hiện trong nhận thức của nhiều người.
2) Ý thức xã hội thể vượt trước tồn tại hội:
Triết học Mác Lênin đã thừa nhận rằng, trong những điều kiện nhất định
tưởng của con người, đặc biệt những tưởng khoa học tiên tiến sẽ thể vượt trước sự
phát triển của tồn tại hội, các tư ởng này xuất hiện sẽ dự báo được tương lai
tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người.
do ý thức hội thể ợt trước tồn tại hội do phản ánh đúng
được những mối liên hệ logic, khách quan, tất yếu, bản chát của tồn tại hội.Tư tưởng
khoa học thường khái quát tồn tại hội đã và hiện để rút ra những quy luật phát
triển chung của hội, quy luật đó không những phản ánh đúng quá khứ, hiện tại mà còn
dự báo đúng tồn tại hội trong tương lai.
dụ: như ngay từ khi phương thức sản xuất bản chủ nghĩa vẫn còn đang
trong thời kỳ phát triển tự do cạnh tranh thì c Mác đã đưa ra dự báo rằng phương thức
sản xuất đó nhất định sẽ bị một quan hệ sản xuất tiến bộ hơn thay thế trong thời gian tới-
phương thức sản xuất hội ch nghĩa.
3) Ý thức xã hội tính kế thừa trong sự phát triển:
Trong lịch sử phát triển của đời sống tinh thần hội, những quan điểm luận,
các tưởng lớn của thời đại sau sẽ được tạo ra trên sở kế thừa những tài liệu luận
của các thời đại trước.
Ý thức hội tính kế thừa, n không thể giải thích một tưởng nào đó nếu
chỉ dựa vào trình độ, hiện trạng phát triển kinh tế các quan hệ kinh tế hội.
dụ: C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đã thừa nhận rằng: “ngay cả chủ nghĩa cộng
sản phát triển cũng trực tiếp bắt nguồn từ chủ nghĩa duy vật Pháp”
4) Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức hội
Ta nhận thấy rằng, ý thức hội bao gồm nhiều bộ phận, nhiều hình thái khác
nhau, theo nguyên mối liên hệ thì giữa các bộ phận hay các hình thái này sẽ không tách
rời nhau, mà nhiều bộ phận, nhiều hình thái này sẽ thường xuyên tác động qua lại lẫn
nhau. Sự tác động giữa nhiều bộ phận, nhiều hình thái đó làm cho mỗi hình thái ý thức
những mặt, những tính chất không phải kết quả phản ánh một cách trực tiếp của tồn
tại hội.
Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy, thông thường mỗi thời đại khác
nhau tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể những hình thái ý thức nào đó nổi lên hàng
đầu sẽ tác động mạnh đến các hình thái khác nhau.
dụ : như Lạp cổ đại, triết học ᴠà ngh thuật đóng ᴠai trò đặc biệt to lớn;
còn у Âu trung cổ thì tôn giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi mặt tinh thần хã hội như
triết học, đạo đức, ngh thuật, chính trị, pháp quуền. giai đoạn lịch ѕử ѕau nàу thì ý
thức chính trị lại đóng ᴠai trò to lớn tác động đến các hình thái ý thức хã hội khác.
Pháp nửa ѕau thế kỷ XVIII ᴠà Đức cuối thế kỷ XIX, triết học ᴠà ᴠăn học công cụ
quan trọng nhất để nhằm mục đích thể tuуên truуền những tưởng chính trị, ᴠũ đài
của cuộc đấu tranh chính trị của các lực lượng хã hội tiên tiến.
Ta nhận thấy rằng, trong ѕự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức, ý thức
chính trị ᴠai t đặc biệt quan trọng. Ý thức chính trị của giai cấp cách mạng cũng đã
đưa ra những định hướng cho ѕự phát triển theo chiều hướng tiến bộ của các hình thái ý
thức khác.
Trong điều kiện của nước ta hiện naу, những hoạt động tưởng như triết học, ᴠăn
học ngh thuật hay nhiều hoạt động tưởng khác tách rời đường lối chính trị đúng
đắn của Đảng ѕẽ không tránh khỏi rơi ᴠào những quan điểm ѕai lầm, không thể đóng góp
tích cực ᴠào ѕự nghiệp cách mạng của nhân dân.
5) Ý thức hội tác động trở lại tồn tại hội:
Chủ nghĩa duy vật lịch s không những chống lại quan điểm duy tâm tuyệt đối hoá
vai trò của ý thức hội mà chủ nghĩa duy vật lịch s còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm
thường khi phủ nhận tác động tích cực của ý thức hội đối với tồn tại hội.
Ph.Ăng ghen từng viết như sau: Sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triết học,
tôn giáo, văn học, ngh thuật v.v đều dựa vào sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng
cũng ảnh hưởng lẫn nhau ảnh hưởng đến sở kinh tế”.
Mức độ ảnh hưởng của tưởng đối với sự phát triển hội ph thuộc vào điều
kiện lịch sử cụ thể, vào cấc quan hệ kinh tế vốn sở hình thành các hình thái ý thức
hội; vào vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tưởng vào mức độ mở rộng
của tưởng trong quần chúng.
Ta nhận thấy rằng, nguyên của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương
đối của ý thức hội đã chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển ý thức hội,
nguyên của ch nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập ơng đối của ý thức xã hội cũng
đã bác bỏ quan điểm siêu hình, máy c, tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại hội
ý thức hội.
d : như hệ tưởng sản đã c động mạnh m đến hội của các nước Tây
Âu vào thế kỷ XVII, XVIII. Hệ tưởng sản đã trở thành vũ khí về mặt tư tưởng cho
giai cấp sản đứng lên đấu tranh để xoá bỏ hội tư bản.
Sự c động của ý thức hội tới tồn tại hội được biểu hiện qua hai chiều
hướng. Khi ý thức hội tiến bộ thì sẽ tác động thúc đẩy tồn tại hội phát triển, còn
ý thức hội lạc hậu sẽ gây cản trở cho sự phát triển của tồn tại hội.
II. Vận dụng tính độc lập tương đối của ý thức hội:
Trên thực tế thì giai đoạn hiện nay, việc nhận thức các hiện ợng của đời sống
tinh thần hội sẽ cần phải căn cứ vào tồn tại hội đã làm nảy sinh ra nó. Bên cạnh đó
thì cũng cần phải giải thích các hiện tượng đó từ những phương diện khác nhau thuộc nội
dung tính độc lập tương đối của chúng.
Cũng chính bởi thế, trong thực tiễn cải tạo hội cũ, xây dựng hội mới cần
phải được tiến hành song song trên c hai mặt tồn tại hội ý thức xã hội, trong đó
việc thay đổi tồn tại hội điều kiện bản nhất để nhằm mục đích thể thay đổi
ý thức hội cũ.
Bên cạnh đó, cũng cần thấy rằng không chỉ những biến đổi trong tồn tại hội
mới tất yếu dẫn đến những thay đổi to lớn trong đời sống tinh thần của xã hội ngược
lại, những tác động của đời sống tinh thần hội, với những điều kiện xác định ng
thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại hội.
Từ những phân tích trên, ta thấy rằng, nguyên lý của triết học c Lênin về tính
độc lập tương đối của ý thức hội chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển của ý
thức hội của đời sống tinh thần hội nói chung. Thực tiễn khi vận dụng tính độc
lập tương đối của ý thức hội vào đời sống có những ý nghĩa đem lại hiệu quả to lớn.
Nắm vững quan điểm kế thừa của ý thức hội ý nghĩa quan trọng đối với
công cuộc đổi mới của ớc ta hiện nay trên lĩnh vực văn hoá, tưởng. Đảng ta cũng đã
khẳng định, trong điều kiện mở rộng giao u quốc tế phải đặc biệt quan m giữ gìn
nâng cao bản sắc n tộc, tiếp thu tinh hoa các dân tộc khác trên thế giới, m giàu đẹp
hơn nền văn hoá của Việt Nam.
Ngày nay thì hệ tư tưởng chính trị khoa học đang tác động đến các lĩnh vực của
đời sống tinh thần hội. Việc kế thừa sự tác động qua lại giữa c hình thái ý thức
hội giúp hệ ởng chính trị khoa học tại đất ớc ta trở nên tiên tiến phát triển
nhanh chóng n.
Đây ng là cơ sở luận để quán triệt quan điểm của Đảng ta trong việc kết hợp
phát triển kinh tế với xây dựng nền văn hóa mới, con người mới trong thời kỳ quá độ
đi lên chủ nghĩa xã hội.

Preview text:

TÍNH ĐỘC LẬP TƯƠNG ĐỐI CỦA Ý THỨC XÃ HỘI
I. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội biểu hiện ở những điểm cụ thể sau đây:
1) Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội:
Lịch sử xã hội đã cho chúng ta thấy được rằng, trong nhiều trường hợp khi tồn tại
xã hội cũ đã mất đi, nhưng ý thức xã hội cũ tương ứng thì nó lại vẫn còn tồn tại. Cụ thể
thì điều đó biểu hiện rằng ý thức xã hội muốn thoát ly ra khỏi sự ràng buộc của tồn tại xã
hội, ý thức xã hội trong trường hợp này đã biểu hiện tính độc lập tương đối.
Những nguyên nhân làm cho ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội, có 3 nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, do tác động mạnh mẽ và nhiều mặt trong hoạt động thực tiễn của con
người nên tồn tại xã hội diễn ra với tốc độ nhanh hơn khả năng phản ảnh của ý thức xã hội.
Thứ hai, do sức mạnh của thói quen, tập quán truyền thống và do cá tính bảo thủ
của hình thái ý thức xã hội. Hơn nữa, những điều kiện tồn tại xã hội mới cũng chưa đủ để
làm cho những thói quen, tập quán và truyền thống cũ hoàn toàn mất đi.
Thứ ba, ý thức xã hội gắn liền với lợi ích của những tập đoàn người, của các giai
cấp nàp đó trong xã hội. Các tập đoàn hay giai cấp lạc hậu thường níu kéo, bám chặt vào
những tư tươngr lạc hậu để bảo vệ và duy trí quyền lợi ích kỉ của họ, để chống lại các lực
lượng tiến bộ trong xã hội.
Ta nhận thấy, ý thức lạc hậu, tiêu cực không mất đi một cách dễ dàng. Cho nên
trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới chúng ta sẽ cần phải thường xuyên tăng cường công
tác tư tưởng, đấu tranh chống lại âm mưu và hành động phá hoại những lực lượng thù
địch về mặt tư tưởng, kiên trì xoá bỏ những tàn dư ý thức cũ song song với việc bồi đắp,
xây dựng và phát triển ý thức xã hội mới.
Ví dụ: như ý thức tư tưởng phong kiến, phản ánh xã hội phong kiến, nhưng khi
xã hội phong kiến đã thay đổi thì ý thức vẫn chưa thay đổi kịp về các tư tưởng như: trọng
nam khinh nữ, ép duyên, gia trưởng. Cho đến tận giai đoạn ngày nay thì các tư tưởng này
vẫn còn xuất hiện trong nhận thức của nhiều người.
2) Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội:
Triết học Mác – Lênin đã thừa nhận rằng, trong những điều kiện nhất định tư
tưởng của con người, đặc biệt những tư tưởng khoa học tiên tiến sẽ có thể vượt trước sự
phát triển của tồn tại xã hội, các tư tưởng này xuất hiện sẽ dự báo được tương lai và có
tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người.
Lý do mà ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội là do nó phản ánh đúng
được những mối liên hệ logic, khách quan, tất yếu, bản chát của tồn tại xã hội.Tư tưởng
khoa học thường khái quát tồn tại xã hội đã có và hiện có để rút ra những quy luật phát
triển chung của xã hội, quy luật đó không những phản ánh đúng quá khứ, hiện tại mà còn
dự báo đúng tồn tại xã hội trong tương lai.
Ví dụ: như ngay từ khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa vẫn còn đang ở
trong thời kỳ phát triển tự do cạnh tranh thì Các Mác đã đưa ra dự báo rằng phương thức
sản xuất đó nhất định sẽ bị một quan hệ sản xuất tiến bộ hơn thay thế trong thời gian tới-
phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa.
3) Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển:
Trong lịch sử phát triển của đời sống tinh thần xã hội, những quan điểm lý luận,
các tư tưởng lớn của thời đại sau sẽ được tạo ra trên cơ sở kế thừa những tài liệu lý luận
của các thời đại trước.
Ý thức xã hội có tính kế thừa, nên không thể giải thích một tư tưởng nào đó nếu
chỉ dựa vào trình độ, hiện trạng phát triển kinh tế và các quan hệ kinh tế xã hội.
Ví dụ: C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đã thừa nhận rằng: “ngay cả chủ nghĩa cộng
sản phát triển cũng trực tiếp bắt nguồn từ chủ nghĩa duy vật Pháp”
4) Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội
Ta nhận thấy rằng, ý thức xã hội bao gồm nhiều bộ phận, nhiều hình thái khác
nhau, theo nguyên lý mối liên hệ thì giữa các bộ phận hay các hình thái này sẽ không tách
rời nhau, mà nhiều bộ phận, nhiều hình thái này sẽ thường xuyên tác động qua lại lẫn
nhau. Sự tác động giữa nhiều bộ phận, nhiều hình thái đó làm cho ở mỗi hình thái ý thức
có những mặt, những tính chất không phải là kết quả phản ánh một cách trực tiếp của tồn tại xã hội.
Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy, thông thường ở mỗi thời đại khác
nhau và tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể có những hình thái ý thức nào đó nổi lên hàng
đầu sẽ tác động mạnh đến các hình thái khác nhau.
Ví dụ : như ở Hу Lạp cổ đại, triết học ᴠà nghệ thuật đóng ᴠai trò đặc biệt to lớn;
còn ở Tâу Âu trung cổ thì tôn giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi mặt tinh thần хã hội như
triết học, đạo đức, nghệ thuật, chính trị, pháp quуền. Ở giai đoạn lịch ѕử ѕau nàу thì ý
thức chính trị lại đóng ᴠai trò to lớn tác động đến các hình thái ý thức хã hội khác. Ở
Pháp nửa ѕau thế kỷ XVIII ᴠà ở Đức cuối thế kỷ XIX, triết học ᴠà ᴠăn học là công cụ
quan trọng nhất để nhằm mục đích có thể tuуên truуền những tư tưởng chính trị, là ᴠũ đài
của cuộc đấu tranh chính trị của các lực lượng хã hội tiên tiến.
Ta nhận thấy rằng, trong ѕự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức, ý thức
chính trị có ᴠai trò đặc biệt quan trọng. Ý thức chính trị của giai cấp cách mạng cũng đã
đưa ra những định hướng cho ѕự phát triển theo chiều hướng tiến bộ của các hình thái ý thức khác.
Trong điều kiện của nước ta hiện naу, những hoạt động tư tưởng như triết học, ᴠăn
học nghệ thuật hay nhiều hoạt động tư tưởng khác mà tách rời đường lối chính trị đúng
đắn của Đảng ѕẽ không tránh khỏi rơi ᴠào những quan điểm ѕai lầm, không thể đóng góp
tích cực ᴠào ѕự nghiệp cách mạng của nhân dân.
5) Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội:
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm tuyệt đối hoá
vai trò của ý thức xã hội mà chủ nghĩa duy vật lịch sử còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm
thường khi phủ nhận tác động tích cực của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội.
Ph.Ăng ghen từng viết như sau: “Sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triết học,
tôn giáo, văn học, nghệ thuật v.v đều dựa vào sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng
cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế”.
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào điều
kiện lịch sử cụ thể, vào cấc quan hệ kinh tế vốn là cơ sở hình thành các hình thái ý thức
xã hội; vào vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng và vào mức độ mở rộng
của tư tưởng trong quần chúng.
Ta nhận thấy rằng, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương
đối của ý thức xã hội đã chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển ý thức xã hội,
nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội cũng
đã bác bỏ quan điểm siêu hình, máy móc, tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Ví dụ : như hệ tư tưởng tư sản đã tác động mạnh mẽ đến xã hội của các nước Tây
Âu vào thế kỷ XVII, XVIII. Hệ tư tưởng vô sản đã trở thành vũ khí về mặt tư tưởng cho
giai cấp vô sản đứng lên đấu tranh để xoá bỏ xã hội tư bản.
Sự tác động của ý thức xã hội tới tồn tại xã hội được biểu hiện qua hai chiều
hướng. Khi ý thức xã hội tiến bộ thì sẽ có tác động thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển, còn
ý thức xã hội lạc hậu sẽ gây cản trở cho sự phát triển của tồn tại xã hội.
II. Vận dụng tính độc lập tương đối của ý thức xã hội:
Trên thực tế thì ở giai đoạn hiện nay, việc nhận thức các hiện tượng của đời sống
tinh thần xã hội sẽ cần phải căn cứ vào tồn tại xã hội đã làm nảy sinh ra nó. Bên cạnh đó
thì cũng cần phải giải thích các hiện tượng đó từ những phương diện khác nhau thuộc nội
dung tính độc lập tương đối của chúng.
Cũng chính bởi vì thế, trong thực tiễn cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới cần
phải được tiến hành song song trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó
việc thay đổi tồn tại xã hội cũ là điều kiện cơ bản nhất để nhằm mục đích có thể thay đổi ý thức xã hội cũ.
Bên cạnh đó, cũng cần thấy rằng không chỉ những biến đổi trong tồn tại xã hội
mới tất yếu dẫn đến những thay đổi to lớn trong đời sống tinh thần của xã hội mà ngược
lại, những tác động của đời sống tinh thần xã hội, với những điều kiện xác định cũng có
thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội.
Từ những phân tích trên, ta thấy rằng, nguyên lý của triết học Mác Lênin về tính
độc lập tương đối của ý thức xã hội chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển của ý
thức xã hội và của đời sống tinh thần xã hội nói chung. Thực tiễn khi vận dụng tính độc
lập tương đối của ý thức xã hội vào đời sống có những ý nghĩa và đem lại hiệu quả to lớn.
Nắm vững quan điểm kế thừa của ý thức xã hội có ý nghĩa quan trọng đối với
công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay trên lĩnh vực văn hoá, tư tưởng. Đảng ta cũng đã
khẳng định, trong điều kiện mở rộng giao lưu quốc tế phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và
nâng cao bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa các dân tộc khác trên thế giới, làm giàu đẹp
hơn nền văn hoá của Việt Nam.
Ngày nay thì hệ tư tưởng chính trị và khoa học đang tác động đến các lĩnh vực của
đời sống tinh thần xã hội. Việc kế thừa và sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã
hội giúp hệ tư tưởng chính trị và khoa học tại đất nước ta trở nên tiên tiến và phát triển nhanh chóng hơn.
Đây cũng là cơ sở lý luận để quán triệt quan điểm của Đảng ta trong việc kết hợp
phát triển kinh tế với xây dựng nền văn hóa mới, và con người mới trong thời kỳ quá độ
đi lên chủ nghĩa xã hội.
Document Outline

  • I.Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội biểu hiện
  • 2)Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội:
  • 3)Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển:
  • 4)Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã h
  • 5)Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội:
  • II.Vận dụng tính độc lập tương đối của ý thức xã hội: