










Preview text:
lOMoAR cPSD| 61429799
1. Tổng quan về kinh tế xã hội Trung Quốc
Nền kinh tế của Trung Quốc là một nền kinh tế đang phát triển định hướng
thị trường kết hợp kinh tế kế hoạch thông qua các chính sách công nghiệp và chiến
lược kế hoạch 5 năm. Kinh tế Trung Quốc chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi các doanh
nghiệp nhà nước (DNNN) và các doanh nghiệp có vốn sở hữu hỗn hợp, mặc dù
vậy khu vực tư nhân và các doanh nghiệp nước ngoài vẫn có điều kiện thuận lợi
để phát triển trong hệ thống chủ nghĩa xã hội thị trường. Doanh nghiệp nhà nước
chiếm hơn 60% giá trị vốn hóa thị trường của Trung Quốc vào năm 2019, đóng
góp tới 100% GDP của Trung Quốc tương đương 15 nghìn tỷ USD vào năm 2021,
trong đó các doanh nghiệp tư nhân trong nước và nước ngoài đóng góp 60% còn
lại. Tính đến cuối năm 2019, tổng tài sản của tất cả các DNNN của Trung Quốc,
bao gồm cả những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính, đạt 8,08 nghìn
tỷ USD. 91 trong số các DNNN này thuộc top 50.000 công ty theo Fortune Global
50.000 năm 2020. Trung Quốc là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới tính theo GDP
danh nghĩa, và nền kinh tế lớn nhất thế giới tính theo PPP kể từ năm 2014, đây là
chỉ tiêu mà theo một số người là thước đo chính xác hơn về quy mô thực sự của
nền kinh tế. Trung Quốc đã vươn lên trở thành nền kinh tế lớn thứ hai theo GDP
danh nghĩa kể từ năm 2010 nhờ tận dụng tốt tỷ giá hối đoái biến động trên thị
trường. Thậm chí có một dự báo chính thức nói rằng Trung Quốc sẽ trở thành nền
kinh tế lớn nhất thế giới tính theo GDP danh nghĩa vào năm 2028. Trong lịch sử,
Trung Quốc từng là một trong những cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới trong
gần hai thiên niên kỷ từ thế kỷ I đến thế kỷ XIX.
Trung quốc bắt đầu cải cách nền kinh tế vào năm 1978 dưới sự lãnh đạo của
Đặng Tiểu Bình. Kết quả là Trung Quốc trở thành cường quốc có tốc độ phát triển
kinh tế nhanh nhất thế giới với tốc độ tăng trưởng trung bình đạt 10% trong vòng
30 năm. Bốn trong số mười trung tâm tài chính lớn nhất thế giới là của Trung
Quốc (gồm có Thượng Hải, Hồng Kông, Bắc Kinh và Thâm Quyến), nhiều hơn
bất kỳ quốc gia nào khác. Trung Quốc có 3 trong số 10 sở giao dịch chứng khoán
lớn nhất thế giới (Sở Giao dịch Chứng khoán Thượng Hải, Sở giao dịch Hồng
Kông và Sở Giao dịch Chứng khoán Thâm Quyến) theo cả vốn hóa thị trường và
khối lượng giao dịch. Tính đến ngày 12 tháng 10 năm 2020, tổng vốn hóa thị
trường của các thị trường chứng khoán tại Trung Quốc Đại lục, gồm có Sở giao
dịch chứng khoán Thượng Hải và Sở giao dịch chứng khoán Thâm Quyến, đứng lOMoAR cPSD| 61429799
đầu với 10 nghìn tỷ đô la Mỹ, không bao gồm Sở giao dịch Hồng Kông với khoảng
5,9 nghìn tỷ đô la Mỹ.[43] Tính đến cuối tháng 6 năm 2020, các nhà đầu tư nước
ngoài đã đổ tổng cộng 440 tỷ đô la Mỹ vào cổ phiếu của Trung Quốc, chiếm
khoảng 2,9% tổng giá trị, tổng cộng nhà đầu tư nước ngoài đã đổ 156,6 tỷ đô la
Mỹ vào các cổ phiếu của Trung Quốc chỉ trong nửa đầu năm 2020. Tổng giá trị
thị trường trái phiếu của Trung Quốc đạt 15,4 nghìn tỷ USD, xếp trên cả Nhật Bản
và Anh và chỉ đứng sau Mỹ với 40 nghìn tỷ USD tính đến đầu tháng 9 năm 2020.
Tính đến cuối tháng 9 năm 2020, lượng trái phiếu Trung Quốc nắm giữ ở ngoài
lãnh thổ chỉ đạt 388 tỷ USD, tương đương 2,5% tổng giá trị, mặc dù tăng 44,66%
so với cùng kỳ năm ngoái.
Tính đến năm 2019, khu vực công của Trung Quốc đã tạo ra tổng cộng 63%
việc làm. Theo IMF, Trung Quốc xếp thứ 59 theo GDP bình quân đầu người (danh
nghĩa) và thứ 73 theo GDP bình quân đầu người (PPP) vào năm 2020. GDP của
Trung Quốc là 15,66 nghìn tỷ đô la (101,6 nghìn tỷ nhân dân tệ) vào năm 2020.
Đất nước này có tài nguyên thiên nhiên với giá trị ước tính là 23 nghìn tỷ đô la,
90% trong số đó là than đá và kim loại đất hiếm. Trung Quốc cũng có tổng tài sản
ngành ngân hàng lớn nhất thế giới với khoảng 45,838 nghìn tỷ USD (309,41 nghìn
tỷ CNY) với 42,063 nghìn tỷ USD là tiền gửi và các khoản nợ khác. Đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào Trung Quốc đạt tổng trị giá khoảng 1,6 nghìn tỷ đô la Mỹ tính
đến cuối tháng 10 năm 2016, các khoản đầu tư trực tiếp và gián tiếp đóng góp vào
khoảng một phần ba GDP và một phần tư việc làm của Trung Quốc. Tính đến cuối
tháng 6 năm 2020, nguồn vốn FDI vào Trung Quốc đạt 2,947 nghìn tỷ USD, và
nguồn vốn FDI đầu tư ra nước ngoài của Trung Quốc là 2,128 nghìn tỷ USD. Tổng
tài sản tài chính nước ngoài mà Trung Quốc sở hữu đạt 7,860 nghìn tỷ USD, và
các khoản nợ tài chính nước ngoài của nước này là 5,716 nghìn tỷ USD, đưa Trung
Quốc trở thành quốc gia chủ nợ lớn thứ hai trên thế giới chỉ sau Nhật Bản. Trung
Quốc là nước nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất trên thế giới tính đến năm
2020 với khoảng 163 tỷ đô la. Trung Quốc cũng xếp ở vị trí số hai về khoản đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài, với 136,91 tỷ đô la Mỹ cho riêng năm 2019, tiếp tục
đứng sau Nhật Bản với 226,65 tỷ đô la Mỹ trong cùng kỳ. Tính đến năm 2018,
Trung Quốc đứng đầu thế giới về tổng số tỷ phú và thứ hai về số triệu phú - có
658 tỷ phú và 3,5 triệu triệu phú là người Trung Quốc. Theo Báo cáo Tài sản Toàn
cầu năm 2019 của Credit Suisse Group, Trung Quốc đã vượt qua Mỹ về mức độ
giàu có tính theo mười phần trăm dân số hàng đầu thế giới. Tính đến năm 2020, lOMoAR cPSD| 61429799
Trung Quốc là nơi có nhiều công ty nhất nằm trong danh sách Fortune Global 500
với 129 công ty có trụ sở chính tại Trung Quốc. Trung Quốc cũng là quê hương
của hơn 200 công ty khởi nghiệp công nghệ được xếp vào Unicorn (kỳ lân công
nghệ), mỗi công ty được định giá trên 1 tỷ USD, con số cao nhất trên thế giới.
Trung Quốc là quốc gia có dự trữ ngoại hối lớn nhất thế giới trị giá 3,1 nghìn tỷ
USD, thậm chí nếu tính cả số lượng tài sản nước ngoài sở hữu bởi các ngân hàng
thương mại quốc doanh của Trung Quốc thì giá trị dự trữ của Trung Quốc còn
tăng lên đạt gần 4 nghìn tỷ đô la.
Trung Quốc là nền kinh tế sản xuất và xuất khẩu hàng hóa lớn nhất thế giới.
Trung Quốc cũng là thị trường tiêu thụ hàng hóa có tốc độ phát triển nhanh nhất
và quốc gia nhập khẩu lớn thứ hai thế giới. Trung Quốc là nước nhập khẩu ròng
các sản phẩm dịch vụ và là quốc gia thương mại lớn nhất trên thế giới, đóng một
vai trò quan trọng trong thương mại quốc tế. Trung Quốc trở thành thành viên của
Tổ chức Thương mại Thế giới vào năm 2001và có các hiệp định thương mại tự do
với một số quốc gia, bao gồm với ASEAN, Australia, New Zealand, Pakistan, Hàn
Quốc và Thụy Sỹ. Các đối tác thương mại lớn nhất của
Trung Quốc là Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Hồng Kông, Hàn Quốc, Ấn Độ, Đài Loan,
Úc, Việt Nam, Malaysia và Brazil. Với 778 triệu công nhân, the Chinese lực lượng
lao động của Trung Quốc là lớn nhất thế giới tính đến năm 2020. Trung Quốc xếp
thứ 31 về chỉ số thuận lợi kinh doanh và 28 về năng lực cạnh tranh toàn cầu. Trung
Quốc đứng thứ 14 về Chỉ số đổi mới toàn cầu và là nền kinh tế có thu mức thu
nhậo trung bình, nước công nghiệp mới và quốc gia có nền kinh tế mới nổi duy
nhất nằm trong top 30 về chỉ số này. Trung Quốc đứng số 1 trên toàn cầu về bằng
sáng chế, mô hình tiện ích, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp và xuất khẩu hàng
hóa sáng tạo và cũng có hai (khu vực vịnh lớn Thâm Quyến-Hồng Kông-Quảng
Châu và Bắc Kinh lần lượt xếp ở vị trí thứ 2 và thứ 4) trong số top 5 cụm khoa
học và công nghệ hàng đầu thế giới, nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác. Đến cuối
tháng 4 năm 2021, số lượng người dùng 5G của Trung Quốc đã vượt mốc 300 triệu.
2. Chính sách thương mại của Trung Quốc
Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã tiếp tục thúc đẩy chính sách
thương mại có ảnh hưởng to lớn đến cả nội địa và quốc tế. lOMoAR cPSD| 61429799
Một trong những điểm nổi bật là cuộc chiến thương mại với Hoa Kỳ. Mặc
dù, cuộc chiến này bắt đầu từ năm 2018 khi Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump
áp đặt các biện pháp bảo vệ thương mại nhằm giảm lỗ thương mại với Trung Quốc
và đòi hỏi Trung Quốc thay đổi các chính sách thương mại dưới sự kiểm soát của
Chính phủ Trung ương. Điều này đã dẫn đến việc tăng thuế quan lên hàng loạt
hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc và làm suy giảm quan hệ thương mại giữa hai quốc gia.
Ngay sau đó, Trung Quốc đã đáp trả bằng việc tăng thuế quan đối với
hàng hóa nhập khẩu từ Hoa Kỳ. Cuộc chiến thương mại gây ra tác động đa chiều,
gây bất an cho người tiêu dung và doanh nghiệp 2 bên, điển hình như: - Sản lượng
công nghiệp, doanh thu bán lẻ và đầu tư ở Trung Quốc trong tháng 4 đều giảm
tốc mạnh hơn dự báo. Tại Mỹ, doanh thu bán lẻ bất ngờ giảm trong tháng 4, sản
lượng của các nhà máy cũng giảm lần thứ 3 trong vòng 4 tháng. - Thị trường
chứng khoán cả hai nước năm 2018 đã chứng kiến mức giảm mạnh nhất trong gần một thập kỷ.
- Trên các mạng xã hội Trung Quốc xuất hiện dày đặc các thông điệp kêu gọi
người dân nước này tẩy chay các sản phẩm của Mỹ như Apple, McDonald's...(2)
Cuộc chiến này không chỉ ảnh hưởng đến thị trường hàng hoá và dịch vụ
của cả hai quốc gia mà còn có tác động lớn đến thị trường thương mại quốc tế và
tạo ra rủi ro không chắc chắn cho nền kinh tế toàn cầu.
Tuy nhiên, vào năm 2020, hai quốc gia đã đạt đồng ý ký kết “Thỏa thuận
thương mại Mỹ-Trung giai đoạn 1” nhằm giảm bớt căng thẳng thương mại và tạm
ngừng áp đặt thêm các biện pháp trừng phạt nhau. Mặc dù thỏa thuận giai đoạn 1
là bước tiến quan trọng trong quan hệ Mỹ-Trung, có vẻ tạm thời và không đi sâu
vào một số chi tiết về các dòng thuế hiện có giữa Mỹ và Trung Quốc. Tuy nhiên,
thỏa thuận giai đoạn một là cam kết của Trung Quốc về việc mua thêm hàng hóa
trị giá 200 tỷ USD của Mỹ trong hai năm tới. Thỏa thuận này được coi là một cách
quản lý thương mại Mỹ-Trung hơn là đối phó với thuế quan cụ thể của Trung Quốc.
Lịch sử của cuộc chiến thương mại này vẫn đang phản ánh vào tình trạng
thương mại toàn cầu, mối quan hệ giữa hai quốc gia, cũng như tác động của cuộc
chiến lên thị trường thế giới tiếp tục được giám sát chặt chẽ.
Ngoài ra, Trung Quốc cũng thúc đẩy việc ký kết các hiệp định thương mại
mới và mở rộng quan hệ thương mại với nhiều quốc gia và khu vực khác trên thế
giới, bao gồm việc tham gia vào Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện và Tiến bộ lOMoAR cPSD| 61429799
(CPTPP). Việc tham gia và mở rộng các thỏa thuận thương mại này có thể tạo ra
cơ hội lớn cho doanh nghiệp Trung Quốc và có thể có tác động lớn đến tình hình thương mại quốc tế.
Một xu hướng quan trọng khác là sự tập trung của Trung Quốc tập trung
mạnh mẽ vào việc xây dựng các chuỗi cung ứng toàn cầu và mạng lưới thương
mại điện tử , phản ánh sự chuyển đổi của nền kinh tế Trung Quốc từ việc dựa vào
xuất khẩu lao động và sản xuất hạch toán sang tập trung vào lĩnh vực công nghệ
cao và dữ liệu. Mục tiêu của việc xây dựng chuỗi cung ứng toàn cầu là để nâng
cao hiệu quả sản xuất và tối ưu hóa quy trình vận chuyển hàng hóa trên phạm vi quốc tế.
Trung Quốc đang thúc đẩy việc tích hợp các công nghệ mới, như trí tuệ
nhân tạo, blockchain và Internet of Things (IoT), để cải thiện quản lý chuỗi cung
ứng và tạo ra các mô hình kinh doanh linh hoạt và có thể tùy chỉnh theo nhu cầu
thị trường. Mạng lưới thương mại điện tử cũng đóng một vai trò quan trọng trong
việc kết nối các doanh nghiệp với người tiêu dùng và đối tác quốc tế thông qua
các nền tảng thương mại điện tử và ứng dụng di động.
Trong giai đoạn này, Trung Quốc đang chuyển đổi từ một quốc gia dựa
vào sản xuất hàng hoá giá rẻ sang một quốc gia tập trung vào việc xây dựng
các chuỗi cung ứng toàn cầu và mạng lưới thương mại điện tử (3). Mục tiêu
của việc này là tối ưu hóa quy trình sản xuất và vận chuyển hàng hóa trên phạm
vi toàn cầu, cũng như tăng cường kết nối với người tiêu dùng và đối tác quốc tế
thông qua môi trường thương mại điện tử.
Điều này cung cấp cơ hội lớn cho doanh nghiệp trong nước để tận dụng các
công nghệ mới và mở rộng quy mô kinh doanh quốc tế. Ngoài ra, mạng lưới
thương mại điện tử cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc kết nối và giao tiếp với
người tiêu dùng toàn cầu, giúp thúc đẩy thương mại quốc tế và tạo ra cơ hội mới
cho doanh nghiệp Trung Quốc.
Tuy nhiên, việc xây dựng chuỗi cung ứng toàn cầu và mạng lưới thương
mại điện tử đồng thời đặt ra những thách thức, như quản lý dữ liệu, bảo vệ quyền
sở hữu trí tuệ, và tuân thủ các quy định và luật lệ quốc tế. Sự tập trung của Trung
Quốc vào việc này cũng có thể tạo ra sự lo ngại về sự cạnh tranh không lành mạnh,
cũng như tác động đến quy trình kinh doanh quốc tế.
Trung Quốc đang chuyển đổi từ mô hình kinh tế dựa vào xuất khẩu lao
động và sản xuất hạch toán sang tập trung vào các lĩnh vực công nghệ cao và lOMoAR cPSD| 61429799
dữ liệu. Điều này được thể hiện qua việc quốc gia này chú trọng vào việc phát
triển các lĩnh vực công nghệ mới, đầu tư mạnh mẽ vào nghiên cứu và phát triển,
cũng như thúc đẩy sự chuyển đổi kỹ thuật số trong nền kinh tế.
Trung Quốc đã đưa ra các chiến lược và kế hoạch quốc gia để phát triển
công nghệ cao và choáng các ngành công nghiệp chủ chốt như trí tuệ nhân tạo, sự
mở và hợp tác trong lĩnh vưc khoa học và công nghệ. Ngoài ra, việc chuyển đổi
sang tập trung vào dữ liệu cũng đánh dấu một xu hướng quan trọng khi Trung
Quốc nhìn nhận giá trị của dữ liệu và ứng dụng của nó trong nền kinh tế hiện đại.
Việc chuyển đổi này không chỉ tạo ra cơ hội phát triển mới cho các doanh nghiệp
và ngành công nghiệp Trung Quốc mà còn có tác động đến quy trình sản xuất và
cạnh tranh quốc tế. Nó cũng phản ánh cam kết của Trung Quốc đối với sự đổi mới
và sáng tạo trong kinh tế toàn cầu. Điều này phản ánh sự chuyển đổi của nền kinh
tế Trung Quốc từ "Made in China" sang "Innovated in China" (3)
Mặt khác, cũng có những tranh cãi và lo ngại về cách tiếp cận thương mại
của Trung Quốc, bao gồm các vấn đề về quyền sở hữu trí tuệ, thương mại công
bằng và bảo vệ môi trường. Những lo ngại này đôi khi dẫn đến căng thẳng thương
mại và tranh cãi về chính sách với các đối tác quốc tế.
3. Quan hệ thương mại Việt Nam – Trung Quốc
Trung Quốc là đối tác hàng đầu về đầu tư, thương mại, du lịch của Việt Nam
trong nhiều năm qua và hiện nay. Kỳ vọng quan hệ này sẽ có bước phát triển mới trong thời gian tới...
Quan hệ kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc thời gian qua
luôn phát triển theo hướng tích cực, đạt nhiều tiến triển mới. Ngoài tổng kim ngạch
thương mại hai chiều giữa hai nước liên tục tăng, Việt Nam đang tiếp tục là điểm
đến đầu tư hấp dẫn với các doanh nghiệp của Trung Quốc.
Tuy bức tranh kinh tế toàn cầu ảm đạm, thương mại song phương Việt Nam
- Trung Quốc vẫn duy trì đà tăng trưởng tốt. Năm 2018, kim ngạch thương mại lOMoAR cPSD| 61429799
song phương Việt Nam - Trung Quốc vượt 100 tỷ USD. Kể từ đó, trao đổi thương
mại giữa hai nước không ngừng tăng trưởng, năm sau cao hơn năm trước.
3.1. Kim ngạch xuất, nhập khẩu tăng liên tiếp
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê và Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất,
nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc trong mấy năm gần đây liên tục tăng lên
(hình 1), chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu của Việt Nam
(năm 2020 chiếm 24,4%, năm 2021: 24,8%) và là tỷ trọng lớn nhất trong các nước
và vùng lãnh thổ. Tỷ trọng này chỉ bị giảm nhẹ vào năm 2022 (còn 24%), nhưng
đã tăng trở lại với mức cao hơn trong 10 tháng 2023 (đạt 25,1%), khi Trung Quốc
thay đổi chiến lược phòng, chống đại dịch Covid-19 và 2 nước chuyển mạnh sang chính ngạch.
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc trong mấy
năm gần đây tăng lên liên tiếp. Trong đó, xuất khẩu sang Trung Quốc lớn thứ 2
trong các thị trường xuất khẩu của Việt Nam. Trong điều kiện tổng kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam trong 10 tháng năm 2023 giảm 7% so với cùng kỳ năm trước,
thì xuất khẩu sang Trung Quốc là thị trường duy nhất có mức tăng trên 1 tỷ USD
(49,6 tỷ USD so với 47,2 tỷ USD).
Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc
trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 2020 đạt 17,3%; năm 2021 và lOMoAR cPSD| 61429799
2022 do ảnh hưởng của đại dịch, tỷ trọng này giảm xuống còn 16,6% và 15%,
nhưng 10 tháng năm 2023 đã tăng lên (đạt 17%).
Trung Quốc là thị trường lớn thứ 2 sau Mỹ, kỳ vọng xuất khẩu của Việt
Nam sang thị trường này sẽ tiếp tục tăng. Những mặt hàng xuất khẩu của Việt
Nam sang Trung Quốc có trên 42 mặt hàng, nhóm hàng. Trong 10 tháng năm 2023
có 28 mặt hàng đạt trên 100 triệu USD, trong đó có 10 mặt hàng đạt trên 1
tỷ USD (điện thoại và linh kiện: 13,155 tỷ USD; máy vi tính, sản phẩm điện
tử và linh kiện: 11,009 tỷ USD; máy ảnh, máy quay phim và linh kiện: 3,312 tỷ
USD; rau quả: 3,185 tỷ USD; máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác: 2,518
tỷ USD; xơ sợi dệt: 1,932 tỷ USD; cao su: 1,682 tỷ USD; giày dép: 1,517 tỷ USD;
gỗ và sản phẩm gỗ: 1,410 tỷ USD; thủy sản: 1,345 tỷ USD).
Chỉ 10 mặt này đã đạt 41,1 tỷ USD, chiếm 82,8% tổng kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam sang Trung Quốc. Trong 42 mặt hàng chủ yếu, có 29 mặt hàng tăng,
9 mặt hàng tăng khá (trên 100 triệu USD), đặc biệt có 2 mặt hàng tăng trên 1 tỷ
USD là rau quả; điện thoại và linh kiện.
Một số mặt hàng chiếm tỷ trọng khá trong kim ngạch xuất khẩu của cả
nước: 21 mặt hàng chiếm trên 10%, 15 mặt hàng chiếm trên 15%, 12 mặt hàng
chiếm trên 20% (hình 3). Tỷ trọng các mặt hàng này cao hơn tỷ trọng kim ngạch
xuất khẩu sang Trung Quốc trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. lOMoAR cPSD| 61429799
Kim ngạch mà Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc trong mấy năm qua
cũng có xu hướng tăng lên. Nhập khẩu từ Trung Quốc chiếm tỷ trọng lớn nhất
trong các thị trường và ngày một tăng lên. Tỷ trọng nhập khẩu từ Trung Quốc năm
2018 chiếm 27,6%, đến năm 2020 và 2021 đã tăng lên mức 32% và 33,1%, năm
2022 giảm nhẹ về mức 32,8% nhưng 10 tháng năm 2023 đã tăng lên, đạt 33,5%.
Những mặt hàng nhập khẩu từ Trung Quốc có trên 44, trong đó có 14 mặt
hàng đạt trên 1 tỷ USD (cao nhất là máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện:
18,8 tỷ USD; thứ hai là máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác: 18,1 tỷ USD;
thứ ba là vải: 6,8 tỷ USD...). Chỉ 14 mặt hàng này đã đạt 73,915 tỷ USD, chiếm
82,7% tổng kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc.
Nhiều mặt hàng nhập khẩu từ Trung Quốc chiếm tỷ trọng lớn trong các mặt
hàng nhập khẩu tương ứng của cả nước, trong đó có 20 mặt hàng chiếm trên
34%, cao nhất là điện thoại điện thoại và linh kiện (87,4%), thứ hai là thủy tinh
(67,4%) và thứ ba là nguyên phụ liệu dược phẩm (67,3%)…
Nhập khẩu lớn hơn xuất khẩu, nên Trung Quốc ở vị thế xuất siêu lớn với
Việt Nam. Trung Quốc xuất siêu sang Việt Nam năm 2021 là 54,1 tỷ USD, năm
2022 là tỷ USD, 10 tháng năm 2023 là tỷ USD.
3.2. Đầu tư và du lịch tăng trở lại lOMoAR cPSD| 61429799
Việt Nam sẵn sàng tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp Trung Quốc
đầu tư kinh doanh tại Việt Nam, nhất là đối với các dự án quy mô lớn, chất lượng
cao, công nghệ hiện đại, tiêu biểu cho trình độ phát triển của Trung Quốc, mang
lại lợi ích kinh tế và dân sinh.
Số liệu từ Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho thấy đầu tư
trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam đến cuối tháng 11/2023 có 4.203 dự án
còn hiệu lực, với 27.224 triệu USD, đứng thứ 3 về số dự án và thứ 6 về số vốn
đăng ký. Riêng từ đầu năm nay đến cuối tháng 11 có 632 dự án, với lượng vốn
3.806,5 triệu USD, đứng thứ nhất về số dự án, thứ 2 về lượng vốn đăng ký. Lượng
vốn đăng ký bình quân 1 dự án chỉ đạt khoảng 6,5 triệu USD, thấp chỉ bằng một
nửa mức bình quân chung về vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (khoảng 12,5 triệu USD).
Về hợp tác du lịch, hai bên đều nỗ lực thúc đẩy hợp tác du lịch sớm phục
hồi như trước dịch Covid-19. Khách từ Trung Quốc đến Việt Nam qua mấy năm
qua thể hiện ở hình 5. Lượng khách du lịch này chỉ bị giảm sút trong 3 năm đại
dịch và hiện đã tăng trở lại trong 11 tháng 2023. Con số này được kỳ vọng sẽ tăng
cao, lấy lại vị trí đứng đầu trong năm tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. https://vi.wikipedia.org/wiki/KinhteTrungQuoc lOMoAR cPSD| 61429799
2. https://vietnamnet.vn/interactive/toan-canh-thuong-chien-khoc-liet-my-trung/ index.html
3. https://thesaigontimes.vn/trung-quoc-dich-chuyen-san-xuat-vao-vung-noi- diaco-chi-phi-nhan-cong-re/
4. https://www.jstor.org/stable/44133950?seq=2
5. Đỗ Văn Huân. Tạp chí kinh tế Việt Nam số 50 năm 2023.