-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Tình hình Việt Nam cách mạng tháng 8 - Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam| Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới.
Môn: Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam(LLLSD1101)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
I.
TÌNH HÌNH VIỆT NAM SAU CÁCH MẠNG THÁNG 8 1. Thuận lợi * Về quốc tế:
- Liên Xô trở thành thành thành trì của chủ nghĩa xã hội
- Nhiều nước ở Đông Trung Âu lựa chọn con đường phát triển theo chủ nghĩa
xã hội (được Liên Xô ủng hộ và giúp đỡ)
- Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa dâng cao (Châu Á, Châu Phi, Mỹ Latinh)
=> Tạo tiền đề cho sự phát triển của (...) xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam;
khuyến khích các nước thuộc địa đứng lên giải phóng dân tộc hướng tới
xây dựng một nhà nước (...) * Trong nước:
- Việt Nam trở thành quốc gia độc lập tự do; nhân dân thoát khỏi thân phận nô
lệ bị áp bức, trở thành chủ nhân của chế độ dân chủ mới.
- Đảng Cộng sản trở thành Đảng cầm quyền, lãnh đạo cách mạng trong nước
- Hình thành hệ thống chính quyền cách mạng với bộ máy thống nhất từ cấp Trung ương đến cơ sở
- Quân đội quốc gia, lực lượng công an, luật pháp của chính quyền cách mạng
được khẩn trương xây dựng
=> Tất cả là để ra sức phục vụ lợi ích của Tổ quốc, nhân dân. Phát huy vai trò
của Đảng đối với cuộc đấu tranh chống thù trong giặc ngoài, xây dựng chế độ mới. 2. Khó khăn * Thế giới:
- Phe đế quốc chủ nghĩa nuôi dưỡng âm mưu mới “chia lại hệ thống thuộc địa
thế giới” (bằng chứng: ra sức tấn công và đàn áp phong trào cách mạng thế
giới, trong đó có Việt Nam)
- Các nước lớn trên thế giới không ủng hộ lập trường độc lập và địa vị pháp lý
của VNDCCH (do lợi ích cục bộ)
- Việt Nam nằm trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc, bị bao vây cách biệt
hoàn toàn với thế giới bên ngoài
- Cách mạng 3 nước Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng phải
đương đầu với nhiều khó khăn thử thách. => * Trong nước:
- Hệ thống chính quyền cách mạng mới còn rất non trẻ, thiếu thống và yếu kém về nhiều mặt.
- Hậu quả của chế độ cũ để lại vô cùng nặng nề: Lũ lụt tàn phá (đê điều không
được chăm lo); nạn đói năm 1945 làm
2 triệu người dân chết đói; 50% ruộng
đất bị bỏ hoang (trong khi Việt Nam thời điểm đó là một nước sống nhờ vào
nông nghiệp); tài chính, ngân khố kiệt quệ, kho bạc trống rỗng; tệ nạn xã hội,
hủ tục lạc hậu, thói hư tật xấu chưa bị bài trừ và khắc phục;
=> Thúc đẩy Đảng phải nhanh chóng đưa ra những quyết định và hướng
giải quyết phù hợp nhất. II.
XÂY DỰNG CHẾ ĐỘ MỚI VÀ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG
- Ngày 3-9-1945 : Phiên họp đầu tiên của chính phủ lâm thời do chủ tịch Hồ Chí
Minh chủ trì xác định ngay nhiệm vụ lớn trước mắt: Diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm.
* Chống giặc đói, đẩy lùi nạn đói:
Chủ tịch HCM nói: “Một là, nhân dân đang đói - Ngoài những kho chứa thóc mà
Pháp, Nhật vơ vét của nhân dân, bọn Nhật, Pháp còn bắt đồng bào chúng ta giảm bớt
diện tích cấy lúa để trồng thầu dầu, đay và những thứ cây khác cần thiết cho cuộc
chiến tranh của chúng. Hơn nữa, chúng ta còn tìm thấy hai kế hoạch của bọn cầm
quyền Pháp với mục đích gây nạn đói, để ngăn trở phong trào yêu nước và bắt buộc
đồng bào chúng ta phải làm việc như nô lệ.
Hơn hai triệu đồng bào chúng ta đã chết đói vì chính sách độc ác này. Vừa rồi nạn
lụt đã phá hoại tám tỉnh sản xuất lúa gạo. Điều đó càng làm cho tình hình trầm trọng
hơn. Những người thoát chết đói nay cũng bị đói. Chúng ta phải làm thế nào cho họ sống.”
Bác đã đề ra 2 giải pháp:
Một là: Giải pháp cấp cứu: nhường cơm sẻ áo
“Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn ba bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo” -
Cụ Ngô Tử Hạ, người cao tuổi nhất trong Quốc hội, là chủ tịch buổi lễ - cầm càng
một chiếc xe bò tượng trưng để đi các phố phường, nhân dân ai có chút gạo chút ngô
đều mang ra đóng góp vào phong trào cứu đói. Cụ kéo đến đâu, nhà nào cũng có
người chờ sẵn bên hè phố, người thì bơ gạo, người thì đấu ngô, người thì góp tiền.
Chưa đầy một vòng đã đầy xe gạo.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người dân trong cả nước đã tích
cực góp gạo cứu đói cho đồng bào. (Ảnh tư liệu) -
Thêm nữa,Chính phủ còn phái một ủy ban vào Nam bộ điều tra và cấp tốc tổ chức
việc vận chuyển gạo ra Bắc. Việc vận chuyển gạo từ Nam ra Bắc chỉ thực hiện được
trong tháng 9-1945, với tổng số không quá 30.000 tấn.
Hai là, Giải quyết vấn đề từ gốc: tăng gia sản xuất -
Tăng gia sản xuất không chỉ là cơ sở để giải quyết triệt để nạn đói, mà còn là cơ sở
cho toàn bộ chính sách kinh tế của Chính phủ Cách mạng VN. -
Củng cố đê điều, hàn khẩu đê vỡ, đắp thêm đê mới => Cho đến đầu năm 1946, tức là
chỉ bốn tháng sau cách mạng, công tác đê điều đã hoàn thành. Đó là một bằng chứng
về trách nhiệm, năng lực và sức sống của chính quyền mới.
Bác Hồ và Đoàn công tác Chính phủ thăm nhân dân tỉnh Hưng Yên đắp đê ngày 10/01/1946 -
Đồng thời với việc đắp đê, phải gấp rút tiến hành trồng trọt, thực hiện khẩu hiệu “tấc đất tấc vàng”.
+ Mỗi địa phương lập ra một tiểu ban để huy động nhân lực và tổ chức sản xuất.
Sử dụng cả đất công cộng còn trống như sân bãi, vỉa hè, bờ đê để trồng trọt.
+ Lúa không kịp thời vụ thì ta trồng hai vụ mùa bù cho lúa. Trồng màu từ tháng
11 - 1945 để tháng giêng thu khoai lang, tháng hai thu hoạch ngô đậu…
=> Kết quả sản lượng màu đã tăng gấp bốn lần so với thời kỳ Pháp thuộc. Chỉ
trong năm tháng từ tháng 11-1945 đến tháng 5-1946 đã đạt 614.000 tấn, qui ra
thóc là 506.000 tấn, hoàn toàn có thể bù đắp được số thiếu hụt của vụ mùa năm 1945
=> Bằng chứng rõ nhất là dân không đói, giá thóc gạo không tăng mà lại giảm. Giặc đói đã bị đánh lui.
* Chống giặc dốt, xóa nạn mù chữ
“Vấn đề thứ hai, nạn dốt - Là một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực
dân dùng để cai trị chúng ta. Hơn chín mươi phần trăm đồng bào chúng ta mù chữ.
Nhưng chỉ cần ba tháng là đủ để học đọc, học viết tiếng nước ta theo vần quốc ngữ.
Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy tôi đề nghị mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ.”
Cứ trong 100 người dân thì có 3 trẻ em từ 8 đến 16 tuổi được đi học và 2 người lớn
biết chữ, còn 95 người không được đi học. Nếu đi sâu vào các làng mạc, các thôn xóm
xa thành thị và nhất là vùng núi thì có nơi không một người biết chữ. -
Ngày 8/9/1945, Nha Bình dân học vụ ra đời, nằm trong Bộ Quốc gia giáo dục.
(Video Nha Bình dân học vụ)
Nhân dân khu phố Hà Trung (Hà Nội) cổ động phong trào diệt giặc dốt ngày
6/12/1945. Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. -
Với phương châm: người biết chữ dạy người chưa biết chữ, phong trào diệt
giặc dôt được phát động rộng rãi thu hút đông đảo nhân dân tham gia -
Người người đi học, cả nhà đi học. Con biết chữ dạy cha mẹ, anh biết chữ dạy
cho các em. Học ban ngày, học buổi trưa, buổi tói, khắp thôn xóm ở đâu cũng
tập đọc, tập viết. Ban ngày lao động sản xuất, buổi tối, buổi trưa tranh thủ học tập. -
Công nhân học trong xưởng thợ, thương binh học ở an dưỡng đường, ngư dân
học ngay trên thuyền chài, nông dân học trên cánh đồng, sân đình chùa, gốc
đa, bến nước, trẻ nhỏ học trên lưng trâu. Người dân ban ngày đi làm, ban đêm
thắp đèn dầu, đốt đuốc đến lớp.
Hình ảnh người dân thắp đèn dầu học chữ -
Dụng cụ học tập thiếu thốn, người học dùng chõng tre, cánh cửa làm bàn;
bảng viết là bức tường, cánh cửa, tấm phản dựng lên; phấn là gạch non, đất
sét, than củi; lá chuối khô, mo cau thay giấy; còn mực thì dùng bất cứ hoa, cây có thể làm màu. -
"Bàn không có, người ta còn úp ngược thúng lên làm bàn học. Vở ghi không
có, người dân rải cát ra sân, cầm que tập viết chữ, viết xong rồi xóa lại học
viết chữ khác", ông Nguyễn Thìn Xuân (90 tuổi), Chủ nhiệm Câu lạc bộ Chiến
sĩ diệt dốt, cán bộ của Nha Bình dân học vụ kể lại kỷ niệm những ngày toàn dân đi học.
Ông Nguyễn Thìn Xuân, nguyên cán bộ Nha Bình dân học vụ. Ảnh: H.P.
=> Chỉ trong một năm, từ tháng 8/1945 đến tháng 8/1946, Bình dân học vụ đã
dạy cho hơn 2,5 triệu người biết chữ, phát triển được gần 96.000 giáo viên, mở
được gần 75.000 lớp học.
Người dân đứng ngay tại bến đò, bến sông để học chữ. Ảnh tư liệu.
* Khẩn trương xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng:
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Vấn đề thứ ba - Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên
chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến
pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp
dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc TỔNG TUYỂN CỬ với chế
độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu
cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống, v.v..”
Về chính quyền địa phương: -
Ngày 11/9/1945, với bút danh Chiến Thắng, Hồ Chí Minh nêu “cách tổ chức các ủy
ban nhân dân” (làng, huyện, tỉnh, thành phố), đăng trên báo Cứu quốc. -
Theo đó, mỗi ủy ban có từ 5 - 7 người, gồm một chủ tịch, một phó chủ tịch, một thư
ký, một ủy viên phụ trách chính trị, một ủy viên phụ trách kinh tế - tài chính, một ủy
viên phụ trách quân sự, một ủy viên phụ trách xã hội. Người nhấn mạnh: “Ủy ban
nhân dân tổ chức và làm việc theo một tinh thần mới, một chế độ dân chủ mới, khác
hẳn các cơ quan do bọn thống trị cũ đặt ra”.
Nhân dân Hà Nội đón Chủ tịch Hồ Chí Minh và các vị ứng cử đại biểu Quốc hội khóa
I tại Hà Nội. (Ảnh tư liệu)
Về Quốc hội -
Ngày 6/1/1946, cuộc bầu cử Quốc hội khóa I đã diễn ra tại 71 tỉnh thành trong cả
nước theo lối phổ thông đầu phiếu. Cuộc bầu cử đã được toàn dân nô nức tham gia;
dù diễn ra trong điều kiện chiến sự, có sự cản trở, phá hoại của bọn phản động và sự
hạn chế đi lại nhưng có đến 89% cử tri đi bầu; thậm chí ở Trung bộ và Nam bộ, cuộc
bầu cử đã có đổ máu, với ít nhất 42 cán bộ của ta hy sinh. -
Cả nước bầu ra 333 đại biểu. Chủ tịch Hồ Chí Minh trúng cử với số phiếu cao nhất (98,4%).
+ Hai Đảng đối lập trong Chính phủ là Việt Nam Quốc dân Ðảng [Việt
Quốc] và Việt Nam Cách mệnh Ðồng minh Hội [Việt Cách] không tham gia bầu cử; -
Tuy nhiên, trong kỳ họp thứ nhất, Quốc hội đã đồng ý công nhận thêm 70 ghế thuộc
các đảng này (20 Việt Cách, 50 Việt Quốc), nâng tổng số đại biểu Quốc hội là 403.
Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa I-Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
sau Tổng tuyển cử ngày 6-1-1946, tại Nhà hát lớn Hà Nội. Ảnh: TL -
Tại kỳ họp đầu tiên, Quốc hội đã công nhận Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Chủ
tịch Hồ Chí Minh đứng đầu; với hai đảng đối lập
+ Việt Quốc nắm một số bộ gồm Kinh tế, Ngoại giao,
+ Việt Cách nắm chức Phó Chủ tịch Chính phủ, Bộ Xã hội, Y tế, Cứu tế - Lao động, Canh nông. -
Sau đó, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp năm 1946 tại kỳ họp thứ hai.
- Ngày 25-11-1945: BCH Trung ương Đảng ra chỉ thị Kháng chiến kiến quốc. Chỉ thị phân
tích tình hình thế giới và trong nước, tình hình Nam Bộ và xác định rõ: củng cố chính quyền
-> chống thực dân Pháp, bài trừ nội phản -> cải thiện đời sống nhân dân Biện pháp cụ thể:
- Trong nước: Nhanh chóng xúc tiến bầu cử Quốc hội -> thành lập Chính phủ chính thức, lập
ra Hiến pháp -> động viên lực lượng toàn dân kiên trì kháng chiến lâu dài; kiên định nguyên
tắc độc lập về chính trị; về ngoại giao: làm cho đất nước ít thù và nhiều bạn đồng minh hơn
- Đối với Tàu-Tưởng: Hoa - Việt thân thiện
- Đối với Pháp: Độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế
- Về tuyên truyền: Hết sức kêu gọi đoàn kết chống thực dân Pháp; chống mọi mưu mô phá
hoại chia rẻ của bọn phản động Troostxkit, Đại Việt Quốc dân Đảng, Việt Nam Quốc dân
Đản“kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập chung ngọn lửa đấu tranh vào chúng.” g,...
=> Những quan điểm, chủ trương, biện pháp lớn được Đảng nêu ra trong bản Chỉ thị
kháng chiến, kiến quốc đã giải đáp trúng, đáp ứng đúng yêu cầu cấp bách của cách
mạng VN bấy giờ; định hướng tư tưởng, trực tiếp chỉ đạo cuộc kháng chiến chống
Pháp ở Nam Bộ, xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng trong giai đoạn đầy khó khăn, phức tạp này.
=> - Có thể thấy, việc giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám dưới sự lãnh đạo của
Đảng là hết sức ngoạn mục, vừa chớp được thời cơ, vừa giành thắng lợi trọn vẹn, vừa hạn
chế tối đa đổ máu. -
Các diễn biến tiếp theo đó trong việc giữ vững thành quả cách mạng cũng ngoạn mục
không kém, khi chính quyền non trẻ đã phải cùng lúc đương đầu với rất nhiều kẻ thù,
rất nhiều thử thách khốc liệt. -
Nhưng dưới sự sáng suốt của Đảng, của Chính phủ, đứng đầu là Chính phủ Hồ Chí
Minh, chính quyền cách mạng không những được giữ vững mà còn không ngừng
được củng cố và phát triển. Link tham khảo
1. Phân tích tình hình nước ta sau cách mạng tháng 8
2. Tình hình nước ta sau cm t8 lớp 9 3. TÌNH HÌNH NƯỚC
TA SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM: 4. Cách mạng T
háng Tám năm 1945: Thời cơ và những quyết sách lịch sử
5. CHƯƠNG 2: ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN GIÀNH ĐỘC LẬP
HOÀN TOÀN, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC
I. Đảng lãnh đạo xây dựng, bảo vệ chính quyền cách mạng và kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược (1945-1954)
1. Xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ (1945-1946)
a. Tình hình Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám Việt Nam bước sang một chặng
đường mới với nhiều thuận lợi căn bản và khó khăn chồng chất: - Thuận lợi căn bản: + Về quốc tế:
● Liên Xô trở thành thành trì của CNXH
● Nhiều nước ở Đông Âu đi theo con đường phát triển của CNXH
● Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh dâng cao. + Trong nước:
● Việt Nam trở thành quốc gia độc lập, tự do; nhân dân từ thân phận nô lệ, bị áp bức
trở thành chủ nhân chế độ dân chủ mới.
● Đảng Cộng sản trở thành Đảng cầm quyền lãnh đạo cách mạng trong cả nước.
-Hình thành hệ thống chính quyền cách mạng với bộ máy thống nhất từ cấp Trung ương đến cơ sở - Khó khăn chồng chất: + Về quốc tế:
● Phe đế quốc chủ nghĩa nuôi dưỡng âm mưu mới “chia lại thuộc địa thế giới”
● Nền độc lập của nước ta chưa được quốc gia nào công
● VN nằm trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc, bị bao vây cách biệt hoàn toàn với thế giới.
● Cách mạng ba nước Đông Dương phải đương đầu với nhiều khó khăn, thử thách
Tại sao nói ở năm 1945-1946 tình thế cách mạng như ngàn cân treo sợi tóc?
Video tình thế "Ngàn cân treo sợi tóc" của nước ta sau cách mạng tháng tám 1945 b.
Xây dựng chế độ mới và chính quyền cách mạng Ngày 3-9-1945, Chính phủ lâm thời
họp phiên đầu tiên dưới sự chủ trì của Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã thông qua 6 việc cấp
bách, đó là những việc cấp bách nào? 6. V
iệc xây dựng và củng cố chính quyền sau Cách mạng tháng Tám dưới sự lãnh đạo của Đảng 7. 1) Thuận lợi: a) Trong nước :
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt
Nam: Kỷ nguyên đất nước được độc lập, tự do, nhân dân lao động được giải phóng khỏi cuộc
đời nô lệ trở thành người làm chủ đất nước.
Hệ thống chính quyền cách mạng được xây dựng từ Trung ương tới cơ sở trên cả nước. Từ
hoạt động bí mật, Đảng ta trở thành Đảng lãnh đạo. Mặt trận Việt Minh và chủ tịch Hồ Chí
Minh có uy tín lớn trong dân tộc, chính quyền cách mạng được toàn dân ủng hộ.
Phong trào cách mạng, tinh thần yêu nước của nhân dân dấy lên từ cao trào giải phóng dân
tộc và tổng khởi nghĩa tiếp tục phát triển với những hình thức và nội dung mới nhằm xây
dựng, bảo vệ, giữ vững thành quả cách mạng. b) Thế giới
Các nước tư bản suy yếu, phong trào giải phóng dân tộc vì hòa bình dân chủ phát triển mạnh,
hệ thống các nước XHCN được hình thành và nhân rộng
Đây là những nhân tố quan trọng có tác dụng cổ vũ, động viên nhân dân ta trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ thành quả cách mạng. 2) Khó khăn: a) Quốc phòng An ninh:
Ngay từ những ngày đầu của chính quyền cách mạng, các thế lực đế quốc phản động quốc tế
đã cấu kết, bao vây, chống phá nhằm thủ tiêu mọi thành quả cách mạng của nhân dân ta, đặt
lại ách thống trị của chúng, xóa bỏ nền đ ộc lập mà dân tộc ta vừa giành được. Cụ thể: Ở phía Bắc :
-Gần 20 vạn quân của chính quyền Tưởng Giới Thạch( Trung Quốc) – Đồng minh của đế
quốc Mỹ, kéo vào miền Bắc. Dưới danh nghĩa quân đội Đồng minh vào tước vũ khí quân
Nhật, nhưng âm mưu của Quốc dân đảng Trung Hoa là: “ Tiêu diệt Đảng ta, phá tan Việt
Minh, giúp bọn phản động Việt Nam đánh đổ chính quyền nhân dân, để lập một chính phủ
phản động làm tay sai cho chúng”
-Cuối tháng 8 đầu tháng 9 năm 1945, quân đội Tưởng do tướng Lư Hán làm tổng chỉ huy đã
đóng quân tại Hà Nội và hầu hết các thành phố, thị xã từ biên giới Việt-Trung đến vĩ 16.
-Ngày 11-09-1945, tướng Lư Hán tuyên bố thời gian quân Tưởng ở Việt Nam là không hạn
định, tự cho mình quyền kiểm soát trật tự, an ninh trong thành phố. Tiêu Văn, nhân vật được
chính quyền Tưởng giao trách nhiệm xếp đặt chế độ chính trị ở Việt Nam, mà thực chất là
thực hiện âm mưu lật đổ đã sớm có mặt ở Hà Nội.
-Ngoài ra còn nhiều tổ chức phản cách mạng khác hoạt động như Đại Việt quốc dân đảng,
Đại Việt quốc gia xã hội đảng... đã bị chính quyền cách mạng ra sắc lệnh giải tán nhưng vẫn
tìm mọi cách hoạt động phá hoại... Ở phiá Nam:
-Từ vĩ tuyến 16 ( từ Đã Nẵng trở vào ) cũng với danh nghĩa lực lượng Đồng minh, quân đội
Anh vào tước vũ khí quân Nhật, nhưng trên thực tế đế quốc Anh đã giúp cho thực dân Pháp
trở lại chiếm Việt Nam và cả Đông dương
-Anh và Pháp cấu kết đàn áp cách mạng Đông Dương vì “ sợ rằng phong trào ấy “ làm
gương” cho các thuộc địa của Anh “. Mặt khác, cũng để ngăn chặn âm mưu của Mỹ muốn
tranh giành quyền lợi với Anh, Pháp ở Đông Dương và Đông Nam Á
-Ngày 6-9-1945, quân đội Anh vào Sài Gòn, Gờ-ra-xây – tổng chỉ huy quân đội Anh ở Nam
Đông Dương- đòi giải giáp quân đội Việt Nam
-Ngày 12-9-1945, quân Anh chiếm trụ sở Ủy ban nhân dân Nam bộ, che chở cho lực lượng
của Pháp biểu tình khiêu khích ở Sài Gòn.
-Ngày 23-9-1945, được quân Anh cà quân Nhật giúp sức, quân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài
Gòn, mở đầu cuộc xâm lược tân thứ hai của thực dân Pháp hòng đặt lại ách thống trị ở Việt Nam và Đông Dương
Chưa bao giờ trên đất nước ta lại có nhiều kẻ thù xâm lược hung bạo và xảo quyệt như vậy.
Các thế lực xâm lược tuy có những ý đồ riêng và hành động cụ thể khác nhau. Song, mục tiêu
chung của chúng là tiêu diệt chính quyền nhà nước Việt Nam non trẻ. Gần 30 vạn quân đội
của các thế lực đế quốc, thực dân, phản động nước ngoài chiếm đóng trên đất nước ta, cách
mạng nước ta không chỉ “ bị hăm trong vòng vây của đế quốc chủ nghĩa” mà còn bị phản
kích quyết liệt. Sự chống phá cách mạng của các thế lực phản động ở trong nước cũng là một
thách thức lớn . Chưa thời kì nào cách mạng nước ta phải đối đầu với nhiều thế lực, nhiều
đảng phái phản động như trong năm 1945-1946. b) Kinh tế:
Nhân dân ta và chính quyền cách mạng còn phải vượt qua những khó khăn lớn về kinh tế, đời
sống xã hội. Nền kinh tế nước ta vốn đã nghèo nàn, lạc hậu lại bị thực dân Pháp và Đức vơ
vét, bị chiến tranh và thiên tai tàn phá nên lại càng nghèo hơn. Nông nghiệp:
+ Năng suất lúa rất thấp
+ Nông dân lao động chiếm hơn 95% số hộ nhưng chỉ được sử dụng không quá 40% ruộng đất
+ Hậu quả nạn đói cuối năm 1944 đầu năm 1045 chưa kịp khắc phục, thì nạn lụt lớn xảy ra,
tàn phá 9 tỉnh đồng bằng Bắc Bộ
+ 50% ruộng đất bỏ hoang Công nghiệp:
+ Công nghiệp chỉ có không quá 200 nhà máy nhỏ bé, trang bị cũ kỹ đang lâm vào đình đốn + Hàng hóa khan hiếm. c) Tài chính:
Tài chính quốc gia gần như trống rỗng
Ngân hàng Đông dương vẫn nằm trong tay tư bản nước ngoài
Chính quyền cách mạng chỉ tiếp quản được kho bạn với 1.230.720 đồng, trong đó có 586.000 đồng tiền rách. d) Văn hóa- xã hội:
Hậu quả về mặt xã hội cũng rất nặng nề, trên 90% số dân không biết chữ. Hầu hết số người
được đi học chỉ ở bậc tiểu học và vỡ lòng, trên 3 vạn dân mới có một học sinh cao đẳng hoặc
đại học và chủ yếu học ở ngành luật và ngành thuốc
Suốt thời kỳ 1930-1945, số công chức có trình độ cao đẳng và đại học chỉ gồm vài trăm
người. Thực tế đó làm cho việc tổ chức, hoạt động của chính quyền mới gặp không ít khó khăn, lúng túng. e) Chính trị:
Chính quyền Cách Mạng còn non yếu
Nhân dân lao động lần đầu tiên lên nắm quyền chưa có kinh nghiệm.Những khó khăn , thử
thách to lớn cả về quân sự, chính trị, kinh tế và xã hội trên đây, đặt chính quyền cách mạng và
vận mệnh đất nước ta trong thế “ ngàn cân treo sợi tóc”. Tình hình trên đòi hỏi Đảng và chính
quyền cách mạng có đường lối bảo vệ và phát triển thành quả cách mạng.
2)Yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra cho cách mạng Việt Nam
Ngay sau khi tuyên bố độc lập, ngày 03-9-1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nêu 6 nhiệm vụ cấp bách: Phát động ngay chiến dịch
tăng gia sản xuất để chống đói; Mở ngay chiến dịch chống nạn mù chữ; Tổ chức càng sớm
càng tốt cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu, thực hiện quyền tự do, dân chủ
của nhân dân; Mở chiến dịch giáo dục cần, kiệm, liêm, chính để bài trừ thói hư, tật xấu do
chế độ thực dân để lại; Bỏ ngay ba thứ thuế: thuế thân, thuế chợ, thuế đò, tuyệt đối cấm hút
thuốc phiện. Tuyên bố tự do tín ngưỡng và lương giáo đoàn kết. Tiếp đó, từ ngày 10 đến ngày
11-9-1945, Hội nghị cán bộ Bắc Kỳ của Đảng đề ra các nhiệm vụ về chính trị, quân sự, kinh
tế, tài chính, văn hóa, xã hội, trong đó “nhiệm vụ chính, trọng tâm trong lúc này là củng cố
chính quyền, dùng chính trị, ngoại giao, quân sự để giữ vững nền độc lập”(1) .
Trước tình hình hoạt động ráo riết của các loại kẻ thù, Đảng và Nhà nước Việt Nam mới thực
hiện sách lược vừa nguyên tắc, vừa mềm dẻo. Đối với các tổ chức, đảng phái phản động, Nhà
nước ban hành một loạt sắc lệnh: giải tán Đại Việt Quốc gia xã hội Đảng và Đại Việt Quốc
dân Đảng, giải tán “Việt Nam Hưng quốc thanh niên” và “Việt Nam Ái quốc thanh niên”,
thiết lập các tòa án quân sự, giải thể các cơ quan thuộc Phủ Toàn quyền Đông Dương. Đối với
Pháp và Tưởng, lúc tạm hòa với Tưởng để rảnh tay đối phó với Pháp, lúc tạm hòa với Pháp
để đẩy nhanh Tưởng ra khỏi đất nước. Thực hiện sách lược trên đã đặt các đảng phái, tổ chức
phản động ra ngoài vòng pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho việc trấn áp bọn phản cách mạng,
tranh thủ thời gian củng cố lực lượng, bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, chuẩn bị cho
cuộc kháng chiến lâu dài.
Trong điều kiện vô cùng khó khăn và trong thời gian rất ngắn, Đảng, Nhà nước, đứng đầu là
Chủ tịch Hồ Chí Minh với chủ trương sáng suốt, vừa vững vàng về nguyên tắc, vừa mềm dẻo
về sách lược, đã tăng cường được thực lực cách mạng, xây dựng, củng cố và giữ vững chính
quyền cách mạng, bảo vệ thành quả của cuộc Cách mạng Tháng Tám, đưa con thuyền cách
mạng Việt Nam vượt qua thác ghềnh hiểm trở trong những năm 1945-1946, chuẩn bị điều
kiện và lực lượng bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. “Những biện pháp cực
kỳ sáng suốt đó đã được ghi vào lịch sử cách mạng nước ta như một mẫu mực tuyệt vời của sách lược
* Khẩn trương xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng:
* Tổ chức kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ, đấu tranh bảo vệ chính
quyền cách mạng non trẻ
Đảng, Nhà nước ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những đối sách vô cùng sáng suốt,
linh hoạt, mềm dẻo nhưng cũng rất kiên quyết. Riêng trong việc xây dựng và củng cố
chính quyền, vấn đề được coi là cơ bản, cốt yếu của mọi cuộc cách mạng xã hội, đã
được thực hiện rất quyết liệt và đạt được những kết quả rất quan trọng, góp phần giữ
vững thành quả cách mạng.
Ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nêu 6 nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: chống
giặc đói; chống giặc dốt; tổ chức tổng tuyển cử; giáo dục lại tinh thần của nhân dân
bằng cách thực hiện cần, kiệm, liêm, chính; bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế đò và cấm
thuốc phiện; thực hiện tự do tín ngưỡng.
Đối với thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân cảnh giác và sẵn sàng
chiến đấu. Ngày 5/9/1945, Người kêu gọi: “(Nhân dân Việt Nam) cương quyết phản
đối quân Pháp kéo vào Việt Nam, vì mục đích của họ chỉ là hãm dân tộc Việt Nam
vào vòng nô lệ một lần nữa… Hiện một số quân Pháp đã lọt vào nước ta. Đồng bào
hãy sẵn sàng đợi lệnh Chính phủ để chiến đấu!”.
Ngày 10 và 11/9/1945, Hội nghị cán bộ Bắc kỳ của Đảng đã ra nghị quyết, trong đó
về vấn đề chính quyền, nghị quyết nêu rõ: huy động các hạng nhân tài và chính trị
phạm ra giúp việc; cấp tốc tổ chức các ủy ban nhân dân các làng, các phố; thi hành
thống nhất các chương trình của Việt Minh và do Chính phủ quyết định…
Ngày 11/9/1945, với bút danh Chiến Thắng, Hồ Chí Minh nêu “cách tổ chức các ủy
ban nhân dân” (làng, huyện, tỉnh, thành phố), đăng trên báo Cứu quốc. Theo đó, mỗi
ủy ban có từ 5 - 7 người, gồm một chủ tịch, một phó chủ tịch, một thư ký, một ủy viên
phụ trách chính trị, một ủy viên phụ trách kinh tế - tài chính, một ủy viên phụ trách
quân sự, một ủy viên phụ trách xã hội. Người nhấn mạnh: “Ủy ban nhân dân tổ chức
và làm việc theo một tinh thần mới, một chế độ dân chủ mới, khác hẳn các cơ quan do
bọn thống trị cũ đặt ra”.
Từ ngày 17 đến 24/9/1945, Chính phủ tổ chức “Tuần lễ vàng” để có nguồn tài chính
phục vụ việc xây dựng đất nước và chuẩn bị chiến tranh chống xâm lược. Trong một
tuần, nhân dân quyên góp tổng cộng 60 triệu đồng Đông Dương và 370 ký vàng. Khi
Cách mạng thành công, chúng ta chiếm được Ngân hàng Đông Dương nhưng chỉ thu
được 1,25 triệu đồng Đông Dương mà trong đó phần lớn là tiền rách nát! Điều đó cho
thấy ý nghĩa lớn lao của “Tuần lễ vàng” như thế nào.
Để đối phó với sự công kích trực diện của kẻ thù, ngày 11/11/1945, Đảng Cộng sản
Đông Dương tuyên bố tự giải tán và rút vào hoạt động bí mật, đồng thời thành lập Hội
Nghiên cứu chủ nghĩa Mác, hoạt động công khai.
Bấy giờ, để tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia các hoạt động cách
mạng, Đảng ta đã chỉ đạo phát triển rộng khắp các tổ chức quần chúng, mở rộng mặt
trận đoàn kết toàn dân. Chẳng hạn, trong các xí nghiệp thì có ủy ban công nhân (sau
đổi thành ủy ban xí nghiệp); tổ chức lực lượng Thanh niên cứu quốc, Tự vệ chiến đấu
(kể cả trong học sinh, thanh niên Công giáo và hướng đạo); tổ chức Phụ nữ cứu quốc;
tiếp tục phát triển Hội Văn hóa cứu quốc; đồng thời hình thành nhiều tổ chức quần
chúng khác như Công thương cứu quốc đoàn, Cựu binh sĩ cứu quốc đoàn, Liên đoàn
Công giáo cứu quốc, Hội Phật giáo cứu quốc…
Ngày 25/11/1945, Trung ương Đảng ban hành chỉ thị về kháng chiến kiến quốc (mật),
nêu rõ “kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược” nên “chiến thuật của
ta lúc này là lập Mặt trận Dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược”, đồng
thời “phải củng cố chính quyền chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải
thiện đời sống cho nhân dân”, “xúc tiến việc đi đến Quốc hội để quy định Hiến pháp,
bầu Chính phủ chính thức”.
Nhân dân Hà Nội đón Chủ tịch Hồ Chí Minh và các vị ứng cử đại biểu Quốc hội khóa
I tại Hà Nội. (Ảnh tư liệu)